1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MjnhTuan

    MjnhTuan Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/07/2014
    Bài viết:
    612
    Đã được thích:
    813
    ra nghị quyết hình như là ở mức cao hơn ra thông cáo đúng ko nhỉ, Quốc Hội nước ta hồi tháng trước các đại biểu cũng muốn ra nghị quyết mà ko đc
  2. hungnd79

    hungnd79 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2014
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    31
    Mừng gì:
    Congress.gov :
    S.Res.412 - A resolution reaffirming the strong support of the United States Government for freedom of navigation and other internationally lawful uses of sea and airspace in the Asia-Pacific region, and for the peaceful diplomatic resolution of outstanding territorial and maritime claims and disputes.
    113th Congress (2013-2014)


    Sponsor: Sen. Menendez, Robert [D-NJ] (Introduced 04/07/2014)
    Committees: Senate - Foreign Relations
    Latest Action: 05/20/2014 Placed on Senate Legislative Calendar under General Orders. Calendar No. 380.
    Tracker: Introduced > Passed Senate
  3. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Một Trung Quốc “xấu xí” - Cơ hội cho Việt Nam

    “Cơ sở pháp lý của Việt Nam chống lại Trung Quốc rất mạnh mẽ, hay nói cách khác, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông vừa không có cơ sở vừa mang tính ngụy biện”. Đó là nhận xét của GS. Zachary Abuza trong bài viết đăng trên tờ Indo – Pac
    Bất chấp sự kiềm chế từ phía Việt Nam, Trung Quốc vẫn tiến hành những hành động nguy hiểm trên Biển Đông, trong đó phải kể đến việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Kể từ tháng 5/2014, vấn đề này đã chi phối nội dung truyền thông cũng như quan hệ ngoại giao Việt - Trung. Thế nhưng, cuộc xung đột trên Biển Đông cũng đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội về mặt ngoại giao, quân sự và kinh tế.

    Lợi thế ngoại giao

    Trên mặt trận ngoại giao, Thủ tướng *************** tuyên bố rằng Việt Nam sẽ phản đối yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc lên Tòa trọng tài Luật biển quốc tế tại La Hay. Việc này sẽ mang lại nhiều lợi thế về ngoại giao. Thứ nhất, Việt Nam thể hiện mình là quốc gia theo đuổi những biện pháp hòa bình dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế. Phản ứng này của Việt Nam giống với của Philippines. Khi Bắc Kinh nói rằng họ sẽ không bị ràng buộc bởi các phán quyết của Tòa trọng tài sẽ khiến cộng đồng quốc tế đặt câu hỏi về “sự trỗi dậy hòa bình” cũng như cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Bắc Kinh nói rằng họ chỉ hành động mang tính phòng vệ nhưng những thước phim đã ghi lại bằng chứng tàu Trung Quốc chủ ý đâm vào tàu của Việt Nam. Trung Quốc còn thể hiện “sự gian trá” khi vu khống Việt Nam tại Liên hợp quốc, trong khi phớt lờ phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế.

    Bắc Kinh nên biết rằng những hành động của họ đang khiến các quốc gia láng giềng xa lánh và làm ảnh hưởng lợi ích dài hạn của Trung Quốc. Việc khai thác ở đảo Gạc Ma và các hành động khiêu khích khác của Trung Quốc là minh chứng rõ ràng cho việc vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC). Mặc dù không có tính ràng buộc, nhưng tuyên bố này cũng yêu cầu các quốc gia không được “thay đổi hiện trạng”.

    Nếu các quốc gia đưa ra tuyên bố hợp pháp chống lại Bắc Kinh, xung đột trên Biển Đông sẽ trở thành vấn đề đa phương, điều mà Bắc Kinh không hề mong muốn. Chiến lược của Trung Quốc là tiến hành đàm phán song phương với từng quốc gia. Hành động của Trung Quốc khiến các nước ASEAN nóng lòng thiết lập Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Malaysia, Indonesia, Singapore, Philippines và Việt Nam đều ủng hộ vòng đàm phán COC mới.

    Mối quan hệ thân thiết giữa Hà Nội và Jakarta đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập COC. Tuy Indonesia thúc đẩy giải pháp hòa bình nhưng đồng thời tăng cường quốc phòng đối với khu vực Biển Đông, khi “đường lưỡi bò” của Trung Quốc lấn sang vùng biển thuộc quần đảo Natuna giàu tài nguyên dầu khí của quốc đảo này. Hải quân Indonesia và Việt Nam đã tiến hành tập trận chung trên biển. Indonesia cũng chi tiêu nhiều hơn cho ngân sách quốc phòng, và điều thêm quân đội đến quần đảo Natuna. Indonesia tỏ ra quan ngại với hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông và với vị thế là quốc gia hàng đầu trong ASEAN, vai trò của Indonesia trong tranh chấp Biển Đông là rất quan trọng.

    Cơ sở pháp lý của Việt Nam chống lại Trung Quốc rất mạnh mẽ, hay nói cách khác, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông vừa không có cơ sở vừa mang tính ngụy biện. Chẳng hạn, Trung Quốc bác bỏ quyền ở thềm lục địa của các bên ở Biển Đông trong khi đây lại là lập luận cơ bản trong tranh chấp của họ với Nhật Bản về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Giống như vậy, Trung Quốc xây dựng công trình trên các đảo san hô, thiết lập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý, trong khi lại bác bỏ EEZ của Nhật Bản xung quanh đảo Senkaku/Điếu Ngư. Và với việc tuyên bố “đường lưỡi bò” trên Biển Đông, Trung Quốc đã hoàn toàn vi phạm Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS). Bắc Kinh đang cố gắng “chiếm hữu trên thực địa”, đe dọa các nước khác trong tranh chấp Biển Đông.

    Nhưng Việt Nam cũng có thể thu về thành tích ngoại giao nhất định: Thiện chí giải quyết xung đột thông qua các biện pháp hòa bình của Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của Mỹ và Nhật Bản. Thực chất, hai cường quốc này cũng rất quan ngại với động thái hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng rõ ràng, Việt Nam đã thực hiện công tác đấu tranh ngoại giao rất tốt.

    Hiện đại hóa quân sự

    Trên mặt trận quân sự, mối đe dọa trên Biển Đông là động lực để Việt Nam đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân sự. Kể từ giữa những năm 1990, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển lực lượng hải quân và không quân một cách ấn tượng. Chi tiêu quốc phòng của Việt Nam đã tăng từ 1,4 tỷ USD năm 2003 lên 3,4 tỷ USD năm 2012. Trong những năm qua, Việt Nam đã mua hàng loạt máy bay chiến đấu hiện đại, tàu hải quân mới, tàu ngầm lớp Kilo cũng như tên lửa diệt hạm.

    Môi trường an ninh trong khu vực đã buộc Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia các cuộc tập trận quân sự song phương và đa phương, như với Ấn Độ, ASEAN hay với Mỹ. Việt Nam sẽ không trở thành một đồng minh với Mỹ, nhưng hai nước đang đẩy mạnh hợp tác quân sự. Sử dụng cảng biển, tập trận chung hay chia sẻ thông tin tình báo là những nội dung chính trong hiệp định quốc phòng Việt – Mỹ 2011. Gần đây, Việt Nam còn tham gia vào “Sáng kiến An ninh chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” (PSI), được cho là sẽ giúp nâng cao hợp tác an ninh giữa hai nước.

    Bên cạnh hiện đại hóa quân đội, Việt Nam còn chú trọng vấn đề phát triển lực lượng cảnh sát biển. Việt Nam đang trang bị đáng kể cho lực lượng Cảnh sát biển cũng như lực lượng Kiểm ngư. Quốc hội Việt Nam quyết định chi 16.000 tỷ đồng (200 triệu USD) để đóng mới tàu cảnh sát biển. Nhật Bản thông báo là sẽ chuyển giao hạm đội tàu tuần tra cho Việt Nam vào năm 2015. Hơn nữa, việc sử dụng tàu dân sự cũng là một phần trong chiến lược hòa bình giải quyết tranh chấp của Việt Nam.

    Đa dạng hóa đối tác thương mại

    Tình hình căng thẳng trên Biển Đông đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cũng có một số cơ hội kinh tế cho Việt Nam.

    Đầu tiên, Việt Nam buộc phải giảm nhẹ sự lệ thuộc kinh tế đối với Trung Quốc. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch thương mại song phương lên tới 50 tỷ USD. Tuy vậy, Việt Nam phải chịu thâm hụt thương mại với Trung Quốc, tính riêng trong năm 2013 là 23,7 tỷ USD. Khoảng 11% hàng hóa Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc, chủ yếu là tài nguyên thiên nhiên. Việt Nam cần đa dạng hóa đối tác thương mại.

    Thứ hai, Việt Nam cần hoàn thành vòng đàm phán Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), mặc dù chắc chắn phải có những điều chỉnh về vai trò của các doanh nghiệp nhà nước và sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường. TPP là một cơ hội cho Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thực thụ. Trong những năm tới, 400 doanh nghiệp nhà nước dự kiến sẽ cổ phần hóa, trong đó cổ đông có thể là những nhà đầu tư nước ngoài. Những chuyển đổi này trước mắt có thể sẽ khó khăn, nhưng về lâu dài, sẽ đưa Việt Nam đi vào con đường phát triển kinh tế bền vững và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

    Sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chìa khóa cho an ninh quốc gia của Việt Nam. Rõ ràng, chi tiêu quốc phòng có mối liên hệ chặt chẽ với sự gia tăng GDP. Một quốc gia nghèo không bao giờ là một quốc gia mạnh. Với những quyết định đúng đắn, Việt Nam có thể “cất cánh” từ cuộc khủng hoảng trong hiện tại.

    Zachary Abuza*

    Quang Chinh (lược dịch)

    * Zachary Abuza là giáo sư người Mỹ, chuyên nghiên cứu về chính trị và an ninh Đông Nam Á. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả

    Hé hé cụ GS Mỹ này viết "lề phải" quá một số cụ nhà tôi không like đâu nhá...:) :) :)
    Hectorviet, Huy_Ngoyetkieu thích bài này.
  4. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Báo khựa đang tung chiêu hỏa mù nè:
    Mịa cũng có phần đúng đấy nhưng đừng có mà vờ vĩnh với nhà tớ nhé, khựa mà biết được thế thì may mắn cho nhân loại quá đi.
    Báo Trung Quốc: Không được phép đánh giá thấp Việt Nam
    Ngày 9/7, tờ Hexun đã có bài viết nhắc nhở giới lãnh đạo Trung Quốc không được phép đánh giá thấp khả năng huy động sức mạnh tổng lực của Việt Nam nếu chủ quyền quốc gia bị đe dọa.

    [​IMG]
    Giàn khoan Hải Dương 981 và một số lượng lớn tàu của Trung Quốc đang hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. (Ảnh do Bộ Ngoại giao cung cấp)
    Ngày 2 tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đã kéo và hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Không dừng lại ở đó vào cuối tháng Năm đầu tháng Sáu Trung Quốc lại kéo thêm bốn giàn khoan nữa ra Biển Đông. Rất nhiều các phương tiện truyền thông Trung Quốc không chỉ bưng bít sự thật về những chứng cứ của Việt Nam về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà phương tiện truyền thông Trung Quốc còn đưa lên những lời lẽ hô hào cổ vũ một cách mù quáng cho những hành động hung hăng, hiếu chiến, gây hấn với các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông. Họ quên đi rằng hành động đó, nhất là hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam chính là hành động tự thắt cái thòng lọng cho sự phát triển của Trung Quốc.

    Ngày 9/7, tờ Hexun đã có bài viết nhắc nhở giới lãnh đạo Trung Quốc không được phép đánh giá thấp khả năng huy động sức mạnh tổng lực của Việt Nam nếu chủ quyền quốc gia bị đe dọa và bài báo đã khẳng định rằng việc gây sự trên Biển Đông của Trung Quốc là nước cờ sai lầm chiến lược.

    [​IMG]
    Bài báo đăng trên Hexun.com
    Mở đầu bài báo, tờ Hexun đã điểm qua những phát ngôn và hành động mạnh mẽ của các nhà lãnh đạo Việt Nam như Thủ tướng ***************, ************* Trương Tấn Sang và còn “cẩn thận” trích dẫn những phát ngôn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc tiếp xúc cử tri hôm 1/7 vừa qua.

    “Điều này cho thấy lập trường của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong vấn đề chủ quyền đối với Biển Đông và đặc biệt là với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là rất cứng rắn”, tờ Hexun viết.

    Để tiếp tục bài viết của mình, Hexun nếu ý kiến cho rằng, hành động cố tình tạo ra căng thẳng và gây rối ở Biển Đông hoàn toàn không có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc. Bên cạnh các “đối thủ của Trung Quốc” như Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác thì các nước Đông Nam Á cũng đã có nhiều hành động biểu thị sự đoàn kết và ủng hộ Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 2/5 (Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam). Thậm chí, ngay cả Campuchia – quốc gia thường thể hiện lập trường “trung lập” gần đây cũng đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam.

    Cùng với đó, bài báo đã nêu ra 7 luận điểm để chứng minh rằng hành động gây sự trên Biển Đông sẽ chỉ mang lại sự thiệt hại to lớn đối với Trung Quốc.

    Thứ nhất, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tuyên bố rằng, chủ quyền của Việt Nam không có chỗ cho sự thỏa hiệp với Trung Quốc. Cho đến nay Trung Quốc là nước có tuyên bố chủ quyền (bất hợp pháp) đối với gần như toàn bộ vùng Biển Đông, các nước như Phiippines, Brunei, Malaysia, Indonesia tuyên bố chủ quyền đối với một số phần trên Biển Đông, còn Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    [​IMG]
    Các chiến sỹ Cảnh sát biển Việt Nam đang theo dõi mọi hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
    Thứ hai, Việt Nam thông qua việc hợp tác khai thác dầu khí với Nga và các nước phương Tây để nỗ lực thăm dò và khai thác dầu khí trên Biển Đông. Sản lượng khai thác dầu khí trên Biển Đông của Việt Nam khoảng 18 triệu tấn mỗi năm, một số lượng lớn khí đốt cũng như việc phát triển và sử dụng các sản phẩm từ dầu khí cùng với việc trong những thập kỷ gần đây Việt Nam có sự phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, điều đó đã cho phép Việt Nam có khả năng mua một số lượng lớn các loại trang thiết bị vũ khí tiên tiến từ Nga và Pháp, liệu Trung Quốc có thể còn coi thường Việt Nam?

    Thứ ba, trong ba hoặc bốn thập kỷ qua, thông qua việc hợp tác khai thác đầu khí với các nước khác, Việt Nam đã biến tình hình Biển Đông thành một khối vững chắc cùng chung lợi ích - "cộng đồng kinh tế". Các cường quốc thế giới như Nga, Mỹ, khối các nước châu Âu, Nhật Bản, Úc, và thậm chí cả Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, cùng với Việt Nam đã hình thành nên một cộng đồng cùng chung lợi lợi ích và khi có bất ổn sẽ cũng mất đi lợi ích. Trong thời bình, tùy theo mực độ tham gia các cổ phần kinh tế, nhưng khi đến thời điểm quan trọng, khối sẽ liên kết chặt chẽ, tiếp sau đó sẽ tùy theo sự phản ứng của mỗi bên ở cấp độ chính trị hay quân sự. Trên Biển Đông, Việt Nam đã tạo nên một luật chơi, do đó đối với tình hình Biển Đông, Việt Nam không có gì phải lo sợ cả.

    Thứ tư, Hoa Kỳ đang thực hiện những nỗ lực một cách mạnh mẽ của chính sách tái cân bằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đây cũng là lúc mà vai trò và vị trí của Việt Nam được coi là hết sức quan trọng, và Việt Nam sẽ hết sức khéo léo vận dụng thời cơ này.

    Thứ năm, trên Biển Đông, Việt Nam là nước có sự kiểm soát quần đảo Trường Sa một cách lâu đời và gần như đầy đủ nhất, Việt Nam đã tích cực khẳng định chủ quyền đối với không chỉ quần đảo Hoàng Sa mà ở Trường Sa Việt Nam đã đề phòng sự tấn công của Trung Quốc và gia cố các hệ thống phòng thủ đảo, nhằm củng cố một cách vững chắc chủ quyền và an ninh quốc gia Việt Nam. Thậm chí trong tương lai Việt Nam sẽ yêu cầu Trung Quốc từ bỏ những tuyên bố của họ tại đây.

    [​IMG]
    Tàu hải cảnh Trung Quốc đang hung hăng tấn công tàu cảnh sát biển của Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa.
    Thứ sáu, trong nhiều năm qua Việt Nam còn nhập khẩu từ Nga và Pháp một số lượng lớn các trang thiết bị vũ khí tiên tiến, như việc đặt mua của Nga sáu tàu ngầm lớp Kilo - 636, nhờ Ấn Độ đào tạo các kíp thủy thủ vận hành tàu ngầm. Ngay sau khi có tàu ngầm, Việt Nam có thể hình thành ngay một lực lượng chiến đấu. Đây là một quyết định sáng suốt của các lãnh đạo Việt Nam vì họ đã nhận định được điểm yếu hiện này của hải quân Trung Quốc là khả năng chống ngầm yếu. Khả năng chuẩn đoán chính xác giúp Hà Nội đưa ra được những kế hoạch chiến lược phù hợp.

    Thứ bảy, Việt Nam là một quốc gia có khả năng huy động được một cách triệt để nguồn lực sức mạnh của toàn Đảng, toàn Quân và toàn Dân một khi đất nước có chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa Việt Nam là đất nước có một lịch sử hùng tráng trong các cuộc đấu tranh chống xâm lược, gần đây nhất là đánh Pháp, Nhật, Mỹ và Trung Quốc. Đó là một trong những yếu tố mà Trung Quốc không thể đánh giá thấp.

    Điều đáng chú ý, trong tranh chấp Biển Đông hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam, thì Trung Quốc không có được "thiên thời" khi tình hình quốc tế không có lợi cho các hành động của Trung Quốc. Ngoài Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác phản đối, có một số báo nước ngoài đã cho rằng Nga đang đứng cạnh Việt Nam và điều đó là không thể nhầm lẫn. Không những thế, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước châu Á khác đang chuẩn bị có những phản ứng cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, không chỉ Myanmar và ngay cả Campuchia một đồng minh lâu đời của Trung Quốc cũng đã lên tiếng thể hiện lập trường phản đối Trung Quốc và hỗ trợ Việt Nam.

    Tóm lại, nếu Trung Quốc tập trung cuộc chơi chiến lược trên Biển Đông với Việt Nam thì sẽ không chỉ không được gì mà còn thiệt hai nặng nề.

    Hexun.com (được thành lập năm 1996) là một trong những cổng thông tin tài chính điện tử lớn nhất của Trung Quốc thuộc hãng ChinaWeb. Tháng 3/2008, hãng tin Reuters (Anh) đã mua lại một lượng cổ phần nhỏ của Hexun.
    VHN.net - Hồ Trung Nghĩa lược dịch
    luvcb125t, Huy_Ngo, Connuocviet2 người khác thích bài này.
  5. uman

    uman Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/05/2004
    Bài viết:
    955
    Đã được thích:
    826
    Một bài nghiên cứu khá sâu sắc về Trung Quốc được viết trên tờ National Interests ngày 25/6/2014. Bài thể hiện quan điểm của tác giả David Sambaugh (tuy nhiên theo tôi thì ảnh hưởng của văn hóa tq không phải là không có, thậm chí khá mạnh - hãy nhớ từ trẻ con đều biết và thuộc các tình tiết, dã sử tq qua phim ảnh, trong khi phim lịch sử của ta thì quá ít và kém chất lượng). Thêm nữa, khi nói tới việc sử dụng tất cả các loại vũ khí trong xung đột thì các nước châu Âu, Nga, Nhật và ngay cả Mỹ cũng chùn tay - liệu tq có như vậy không?
    Với các mod: post trước của tôi có thể hơi thẳng thắn quá, nhưng việc đưa bài báo nghiên cứu này lên KHÔNG vi phạm thông báo mới nhất với diễn đàn đâu nhé.
    Vâng, xin mời mọi người tham khảo.
    ------------------
    ẢO TƯỞNG VỀ SỨC MẠNH TRUNG QUỐC
    (The illusion of Chinese power)

    David Sambaugh
    The National Interest
    25-6-2014

    Sự thông thái qui ước cho rằng cỗ xe khổng lồ Trung Quốc không thể bị chặn lại, và thế giới phải điều chỉnh theo thực tế của người khổng lồ Á châu này, với tư cách là một cường quốc thế giới. Những nhà tiên tri về sự nổi lên của Trung Quốc đã xuất hiện từ nhiều thập kỷ vừa qua. Họ đều tô vẽ hình ảnh của thế giới vào thế kỷ thứ 21 với Trung Quốc là một tác nhân thống soái. Sự tin tưởng này là một điều có thể hiểu được, và rất phổ biến; nhưng thực ra, đó là một sai lầm.

    Chúng ta hãy nhớ lại cách đây không lâu lắm, vào những năm 1980, người ta cũng tiên đoán là Nhật Bản sẽ là “số một” và tham gia vào Câu lạc bộ các đại cường, trước khi Nhật Bản chìm vào ba thập kỷ suy thoái, và cho thấy rằng họ chỉ là một cường quốc có một chiều không gian (kinh tế), và không có một nền tảng rộng lớn mang đặc tính quốc gia để dựa vào. Trước đó, Liên Xô cũng được gọi là một siêu cường thế giới (một giả định đã gây ra cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài nửa thế kỷ). Để rồi siêu cường này sụp đổ nhanh chóng vào năm 1991. Nghiên cứu sau này cũng cho thấy Liên Xô chỉ là cường quốc có một chiều không gian (quân sự), đã bị ngạt thở từ nhiều thập kỷ. Sau Chiến tranh Lạnh, một số học giả cho rằng Liên minh Châu Âu, sau khi được mở rộng và củng cố, sẽ nổi lên như một đại cường mới, và là một cực của hệ thống quốc tế. Nhưng Châu Âu chỉ cho thấy họ bất lực và không có khả năng trước nhiều thách thức toàn cầu. Châu Âu cũng tự phơi mình như cường quốc một chiều không gian (kinh tế). Do đó khi bàn tới Trung Quốc hiện nay, người ta nên điềm tĩnh và bi quan hơn một chút.

    Chắc chắn Trung Quốc là một cường quốc đang nổi lên quan trọng nhất của thế giới, vượt xa các quốc gia khác như Ấn Độ, Brazil hay Nam Phi. Và trong một số phương diện, Trung Quốc đã vượt qua một số cường quốc hạng trung như Nga, Nhật, Anh, Pháp, Đức. Theo nhiều thước đo, Trung Quốc đã trở thành cường quốc lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ, và về một số phương diện, họ đã vượt qua người Mỹ. Trung Quốc có nhiều nhân tố để trở thành cường quốc thế giới: Một dân số đông nhất thế giới, một diện tích lục địa lớn, một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, một quĩ dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, một ngân sách quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới, một chương trình không gian, một mẫu hạm, một viện bảo tàng lớn nhất thế giới, một đập thủy điện lớn nhất thế giới, một hệ thống xa lộ lớn nhất thế giới, và một hệ thống đường xe lửa cao tốc tốt nhất thế giới. Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu về mậu dịch quốc tế, là người tiêu thụ năng lượng nhiều nhất thế giới, là người phát sinh ra nhiều nhất các loại khí thải gây ảnh hưởng nhà kính, là quốc đứng hàng thứ hai về nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)và là quốc gia đứng hàng thứ ba về đầu tư ra nước ngoài (ODI- Oversea Direct Investment). Và là sản xuất nhiều nhất thế giới về nhiều loại hàng hóa.

    Tuy thế, khả năng sản xuất chỉ là một chỉ số về sức mạnh của một quốc gia, và trên trường quốc tế; và không phải là chỉ số quan trọng nhất. Nhiều thế hệ các học giả xã hội học đã xác định được chĩ số quan trọng nhất của sức mạnh quốc gia là ảnh hưởng đối với nước khác. Đó là khả năng định hình các sự kiện và hành động của các quốc gia khác. Như học giả nổi tiếng Robert Dahl đã nhận xét : “ A có quyền lực trên B khi có khả năng xui khiến B làm chuyện gì đó mà B không thể làm khác được”. Các khả năng không được chuyển đổi thành hành động để đạt một số mục đích nào đó, thì không có giá trị gì nhiều. Sự hiện diện của các khả năng này có thể tạo ra ảnh hưởng đe dọa hay choáng ngợp lên người khác.Nhưng chỉ có khả năng ảnh hưởng lên hành động của người khác , hay lên kết quả của một sự kiện mới là điều đáng kể. Dỉ nhiên có nhiều cách thức mà các quốc gia có thể sử dụng để ảnh hưởng tới hành động của nước khác, hay tới diễn biến của một sự kiện: lôi kéo, chinh phục bằng ngôn từ, hợp tác, ép buộc, chi tiền, lôi cuốn hay đe dọa dùng vũ lực . Sức mạnh và sự thực hiện nó có quan hệ nội tại tự có. Sự sử dụng những phương tiện này nọ đối với kẻ khác để có thể ảnh hưởng lên tình hình có lợi cho bản thân họ.

    Khi chúng ta khảo sát sự hiện diện của Trung Quốc và cách hành sử của họ trên thế giới ngày nay, chúng ta cần bỏ qua những nét gây ấn tượng bề ngoài và tự hỏi : “ Liệu ngày nay Trung quốc có được ảnh hưởng lên các quốc gia và lên quĩ đạo các sự kiện quốc tế trong các lãnh vực khác nhau ? Câu trả lời ngắn gọn là : “Không nhiều lắm, nếu không nói là chẳng có gì cả”.

    Có rất ít các lãnh vực mà người ta có thể nói Trung quốc thực sự có ảnh hưởng lên các quốc gia khác, tạo ra tiêu chuẩn toàn cầu hay định hình khuynh hướng toàn cầu. Họ cũng không cố gắng giải quyết các vấn đề quốc tế. Trung Quốc là một cường quốc thụ động , phản ứng của họ là né tránh những thách thức, và lẩn trốn khi có cuộc khủng hoảng quốc tế xảy ra. Các cuộc khủng hoảng hiện nay ờ Syria và Ukraina là những ví dụ điển hình vế tính thụ động của Bắc Kinh.

    Hơn thế nữa, nếu khảo sát kỹ hơn về các khả năng của Trung Quốc, người ta thấy chúng không mạnh lắm. Nhiều chỉ số cho thấy đầy ấn tượng về mặt số lượng, nhưng không ấn tượng vế chất lượng. Chính vì thiếu sức mạnh chất lượng mà Trung quốc thiếu ảnh hưởng thực sự . Người Trung quốc có câu thành ngữ “wai ying, nei ruain” (cứng ngoài, mềm trong). Đó chính là tính chất của Trung quốc ngày nay. Nếu lục lọi các con số thống kê đầy ấn tượng về Trung quốc, bạn sẽ thấy những yếu kém tràn lan, những khó khăn quan trọng, và nền tảng yếu kém để trở thành đại cường thế giới. Trung quốc có thể là con hổ giấy của thế kỷ thứ 21.

    Điều này co thể được cảm nhận trong 5 lãnh vực: Chính sách ngoại giao quốc tế của Trung quốc, khả năng quân sự, hiện diện văn hóa, sức mạnh kinh tế và các yếu tố nội địa làm giảm vị trí của Trung quốc trên trường thế giới. Chúng ta sẽ xem xét từng khía cạnh.

    1-CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO:

    Về nhiều khía cạnh, chính sách ngoại giao của TQ đã mang tính chất toàn cầu. Trong 40 năm qua, TQ đã đi từ tình trạng bị cô lập đối với cộng đồng quốc tế , và trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế. Ngày nay, Bắc Kinh có quan hệ ngoại giao với 175 nước; TQ trở thành thành viên của hơn 150 tổ chức quốc tế, và tham gia hơn 300 hiệp ước đa phương. Mỗi năm, Bắc Kinh tiếp đón nhiều chính khách nước ngoài hơn hẳn các quốc gia khác, và các nhà lãnh đạo TQ đi ra nước ngoài đều đặn.

    Mặc dù hội nhập vào cộng đồng quốc tế, và chính sách ngoại giao tích cực của Bắc Kinh, lãnh vực ngoại giao chính là chỗ cho thấy Bắc Kinh chỉ giữ vai trò cường quốc bán phần một cách rõ nhất. Một mặt, Trung quốc được coi là biểu hiệu của một đại cường thế giới; Họ là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, thành viên của nhóm G-20, và là người tham gia vào các hội nghị quốc tế thượng đỉnh quan trọng. Mặt khác, các viên chức Trung quốc vẫn còn rụt rè và thụ động trong các hoạt động này, và trước những thách thức mang tính toàn cầu. Trung quốc không lãnh đạo, họ cũng không định hình nền ngoại giao quốc tế, không hướng dẫn chính sách ngoại giao của nước khác, không thành lập được những đồng thuận toàn cầu, không thành lập được liên minh để giải quyết vấn đề.. Bắc kinh không chủ động tham gia giải quyết những vấn đề lớn của thế giới, mà ngược lại, họ tỏ ra thụ động và hay phân vân khi tham gia vào những nỗ lực đa phương do nước khác tổ chức (thường là do Hoa Kỳ tổ chức).

    Là cường quốc thế giới, bạn phải tham gia giải quyết các vụ tranh chấp, mang mọi phe phái ngồi lại với nhau, thành lập liên minh và đưa ra đồng thuận; và khi cần tới, cũng phải dùng áp lực. Bắc Kinh thích ngồi bên lề và chỉ giản dị kêu gọi các nước khác giải quyết tranh chấp bằng các “biện pháp hòa bình”, và tìm ra giải pháp “cùng thắng”. Những ngôn từ trống rỗng đó không giúp giải quyết được gì cả. Bắc Kinh cũng dị ứng với những biện pháp áp đặt , và chỉ đi theo những biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an LHQ, khi tình hình cho thấy rõ rệt là nếu không làm như vậy, Bắc Kinh sẽ bị cô lập, và hình ảnh quốc tế của Bắc Kinh sẽ bị hoen ố. Đó không phải là cách hành xử của một quốc gia lãnh đạo thế giới.

    Thực thế, chính sách ngoại giao của Bắc Kinh thực sự là màn tuồng trình diễn, chỉ mang tính tượng trưng hơn là có nội dung. Chúng có mục đích hàng đầu là củng cố tính hợp pháp của Đảng Cong sản Trung Quốc đối với quần chúng trong nước; bằng cách cho thấy các nhà lãnh đạo Trung quốc vai kề vai với các nhà lãnh đạo thế giới. Cùng lúc báo hiệu cho cộng đồng thế giới là đất nước đã trở lại vị trí đại cường sau nhiều thế kỷ bất lực. Vì thế, chính phủ Trung quốc đã cố dàn xếp, kéo dài mang đầy kịch tính những cuộc gặp gỡ quan khách quốc tế. Mặc dù vậy, nền ngoại giao Trung quốc cố tránh rủi ro, và nằm dưới sự dẫn dắt của quyền lợi quốc gia thiển cận. Bắc Kinh bình thường chọn những giải pháp có mẫu số chung thấp nhất, chọn lựa những vị trí an toàn nhất, ít gây tranh cãi nhất, và họ thường chờ đợi thái độ của các quốc gia khác trước khi bộc lộ quan điểm của mình.

    Tính chất thụ động này có những ngoại lệ, nằm trong các vấn đề được coi là quyền lợi cốt lõi và hạn hẹp của họ: Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương, nhân quyền và tranh chấp lãnh thổ. Trong những vấn đề này, Bắc Kinh tỏ ra siêu cứng rắn, và có chính sách ngoại giao áp chế. Nhưng những nỗ lực để bảo vệ quyền lợi của họ thường tỏ ra vụng về và phản tác dụng cho hình ảnh và mục đích của họ. Ngoài việc bảo vệ các quyền lợi quốc gia thiển cận , chính sách ngoại giao của họ tỏ ra thụ động cùng cực, đối với một đất nước to lớn và quan trọng như vậy.

    Khi bàn tới việc quản trị thế giới, việc này đòi hỏi phân phối ngân sách tùy theo khả năng tổng thể của mỗi quốc gia, cách hành xử của Bắc Kinh bình thường mang tình tiêu cực , và đầu óc thiển cận trong ngoại giao. Trung Quốc có đóng góp trên nhiều vấn đề quản trị thế giới: Các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, hoạt động chống cướp biển vùng vịnh Eden, các biện pháp chống khủng bố ở Trung Á, viện trợ phát triển cho nước ngoài, chống sự phổ biến vũ khí hạt nhân, y tế công, cứu trợ thiên tai, và chống tội phạm quốc tế. Trong những lãnh vực này, Bắc Kinh có đóng góp xứng đáng. Tuy nhiên, Trung quốc nên làm và có thể làm nhiều hơn thế nữa. Nhưng họ “đấm boxe” dưới trọng lượng của họ, vì không đóng góp tỷ lệ với tầm vóc của sự giàu có , hay ảnh hưởng tiềm ẩn của họ. Thế giới nên trông đợi và đòi hỏi Trung quốc đóng góp nhiều hơn nữa.

    Tại sao chính sách ngoại giao quản trị thế giới của Trung quốc lại bị gò bó như vậy ? Có ba lý do chính:

    Thứ nhất, có sự bi quan sâu sa ở trong nội bộ Trung quốc về những ý tưởng tự do và về quan điểm cơ bản trong quản trị thế giới. Họ nghĩ đó là những cái “bẫy” cuối cùng do Phương Tây lập ra (nhất là Hoa Kỳ) để làm chảy máu Trung quốc khi đề nghị Trung quốc can thiệp vào những cuộc khủng hoảng và những nơi mà Trung quốc không có quyền lợi trực tiếp. Như thế sẽ làm phân tán nguồn lực, và ngăn cản “sự nổi lên” của Trung quốc.

    Thứ hai, người dân Trung quốc sẽ phê phán chính phủ Trung quốc phân tán của cải ra nước ngoài, trong khi ở trong nước vẫn còn nhiều nhu cầu khẩn cấp.

    Thứ ba, Trung quốc có một phương án tiếp cận mang tính “đổi chác”, để mở rộng nỗ lực , nhất là khi liên quan tới tiền bạc. Điều này bắt nguồn từ văn hóa thương mại, nhưng được nới rộng ra cho nhiều lãnh vực trong cách hành xử của Trung quốc. Người Trung quốc muốn biết chính xác họ sẽ được lợi cái gì, và khi nào, từ những dịch vụ đầu tư nào đó. Như thế, quan niệm toàn bộ về hoạt động từ thiện, và đóng góp bất vụ lợi cho phúc lợi quần chúng rất xa lạ đối với lối suy nghĩ của Trung quốc.

    Kết quả là trong lãnh vực ngoại giao – quản trị song phương, đa phương và toàn cầu- Bắc Kinh đã cho thây sự thụ động rõ rệt và ngập ngừng tham gia. Họ còn lâu mới trở thành người “stakeholder” ( người nắm cổ phần) có trách nhiệm như Robert Zoellick kêu gọi vào năm 2005. Ngoại giao của Bắc Kinh giữ nguyên tính chất ích kỷ, thiển cận, và sự tham gia của họ vào chính sách quản trị toàn cầu là tối thiểu và mang tính chất chiến thuật, chứ không phải là mang tính cách tiêu chuẩn và chiến lược. Tính chất thực sự của ngoại giao Trung quốc là kinh doanh. Hãy coi kỹ những phái đoàn tháp tùng ************* hay Thủ tướng của Trung quốc đi ra nước ngoài, người ta thấy có rất nhiều CEO của các công ty, đi tìm nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, cơ hội mậu dịch hay đầu tư. Chính sách ngoại giao trọng thương như vậy không giúp cho Bắc Kinh được sự kính nể của thế giới, và thực ra thì đã có sự phê phán và thầm thì khắp thế giới. (Nhất là ở châu Phi và châu Mỹ La tinh).

    2-SỨC MẠNH QUÂN SỰ-

    Khả năng quân sự của Trung quốc là một lãnh vực khác cho thấy tính chất đại cường bán phần của nước này. Họ ngày càng trở thành cường quốc khu vực, nhưng không bao giờ là cường quốc mang tính toàn cầu. Trung Quốc không có khả năng viễn phóng sức mạnh quân sự của họ ra khỏi vùng phụ cận ở châu Á. ( hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa, chương trình không gian, và khả năng chiến tranh mạng). Và ngay cả với châu Á, khả năng viễn phóng sức mạnh (mang quân ra nước ngoài) cũng bị giới hạn, mặc dù có tăng lên). Không ai chắc chắn là Trung Quốc có khả năng triển khai sức mạnh 500 dặm (800 km) xa hơn biên giới của họ (Ví dụ tại Biển Hoa Đông và Hoa Nam).và có thể chịu đựng đủ lâu dài để chiến thắng trong tranh chấp. Lực lượng quân sự của họ không có kinh nghiệm chiến trường , họ không có chiến tranh từ năm 1979 (Chiến tranh biên giới Việt Nam).

    Chắc chắn là Trung Quốc đã hiện đại hóa quân đội từ 25 năm qua. Hiện nay ngân sách quốc phòng của họ đứng thứ hai trên thế giới (131.6 tỉ USD cho năm 2014). Họ có đạo quân thường trực lớn nhất thế giới, chế tạo nhiều vũ khí tối tân, một hải quân ngày càng du hành xa bờ hơn nữa ở miền Tây Thái Bình Dương, đôi khi qua tới Ấn Độ Dương, và một tầu sân bay hiện đại. Do đó, quân đội Trung quốc không dễ bị đánh bại. Chắc chắn nó có đủ sức để bảo vệ Tổ quốc, và có thể gây chiến thành công với Đài Loan (Nếu không có sự can thiệp nhanh chóng của Hoa Kỳ). Trung quốc được nhìn nhận như một đại cường quân sự khu vực ở châu Á, và như vậy, làm thay đổi cán cân sức mạnh trong khu vực.Nhưng lực lượng quân sự Trung quốc vẫn còn chưa có sức mạnh viễn phóng ra toàn thế giới: Trung quốc không có căn cứ quân sự ở nước ngoài, không có mạng lưới viễn thông và hậu cần dài tay , hệ thống vệ tinh bao phủ thế giới còn thô sơ; hải quân chủ yếu vẫn là lực lượng ven bờ; Không quân không có khả năng tấn công tầm xa, hay khả năng tàng hình được chứng thực; và bộ binh không có khả năng triển khai nhanh chóng.

    Hơn thế, về chiến lược mà nói, Trung quốc là một “đại cường cô đơn”, thiếu bạn bè thân thiết và không có đồng minh. Ngay cả đối với người bạn thân cận nhất (Nga) , có nhiều yếu tố bất tín nhiệm, và nghi ngờ mang tính lịch sử, nằm sâu dưới cái vỏ quan hệ hài hòa giữa hai nhà nước. Không một quốc gia nào trông vào Bắc Kinh để tìm kiếm an ninh và bảo vệ (Ngoại trừ có lẽ Pakistan). Điều này chứng tỏ Trung quốc thiếu một ảnh hưởng chiến lược, với tư cách là một đại cường. Ngược lại, các quốc gia khác ở châu Á lại tìm cách tăng cường liên kết quân sự với Hoa Kỳ, và tìm cách cải thiện quan hệ giữa họ với nhau. Nguyên nhân chính vì sự bât chắc và mối đe dọa họ nhìn thấy từ Trung Quốc.

    3-QUYỀN LỰC MỀM-

    Chuyển từ quyền lực cứng qua quyền lực mềm, Trung quốc đã xây dựng sức mạnh văn hóa toàn cầu của họ ra sao ? Không tốt lắm! Không một xã hội nào tìm cách bắt chước nền văn hòa Trung quốc. Không một xã hội nào tìm cách sao chụp hệ thống chính trị Trung quốc. Và hệ thống kinh tế Trung quốc không được bắt chước ở nước khác. Mặc dù chính phủ Trung quốc đã có nhiều chi phí và nỗ lực để xây dựng quyền lực mềm , và để cải thiện hình ảnh trên khắp thế giới kể từ năm 2008. Trung quốc tiếp tục có uy tín toàn cầu từ mức trung bình tới xấu. Các cuộc thăm dò dư luận tại các quốc gia trên thế giới , người ta nhìn Trung quốc một cách trung bình hay tiêu cực, và ngày càng có thêm những vấn đề.

    Trung Quốc không phải là cục nam châm cho mọi người bị cuốn hút. – Cả về văn hóa, xã hội, kinh tế hay chính trị- Vấn đề của Trung Quốc là cả trong bốn lãnh vực này, chúng đều mang tính riêng biệt (sui generis). Trung Quốc thiếu sự hấp dẫn phổ quát ngoài biên giới và ngoài các cộng đồng người Hoa. Lý do chính chỉ vì tính quá riêng biệt trong các lãnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị. Tính hấp dẫn của quyền lực mềm của Trung Quốc đi từ yếu tới không hiện hữu.

    Các sản phẩm văn hóa Trung quốc – nghệ thật, phim ảnh, văn chương, âm nhạc, giáo dục- vẫn còn tương đối được ít người biết đến ở bên ngoài Trung Quốc. Và những sản phẩm này không tạo được chiều hướng văn hóa toàn cầu. Ngay cả nền kinh tế phát triển đáng ngưỡng mộ của Trung quốc, chỉ là sản phẩm của một tập hợp riêng biệt các nhân tố (features), không thể đem áp dụng cho các quốc gia khác.- Kinh tế cạnh tranh tầm vóc lớn, kế hoạch hóa nhà nước theo kiểu Liên Xô, kinh doanh cá thể, một lực lượng lao động lớn có kỷ luật, một định chế lớn cho Nghiên cứu và Phát triển (R&D) , và một FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) khổng lồ. – Ngay cả nếu có một “mô hình Trung Quốc”, (Điều này còn phải bàn cãi), nó cũng không thể xuất khẩu được, bởi vì các nhân tố trong tập hợp này không hiện hữu ở những nước khác. Hệ thống chính trị Trung quốc giống như một hỗn hợp điện tử, gồm có Chủ nghĩa Mac-Lê nin, chủ nghĩa chuyên chế Á châu, chũ nghĩa Khổng giáo truyền thống, và một nhà nước có guồng máy an ninh nội bộ mạnh mẽ. Sự đặc thù của Trung quốc không thể được nhân rộng ra- Không có một quốc gia nào khác muốn thử nghiệm làm như vậy; và người ta cũng không thấy một người nước ngoài nào muốn xin tị nạn chính trị hay quốc tịch của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.

    4-SỨC MẠNH KINH TẾ.

    Sức mạnh kinh tế Trung quốc có gì lạ ? Đây là lãnh vực mà người ta hy vọng Trung quốc sẽ là một đại cường mang tính toàn cầu, và là người định hướng cho thế giới. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Trung quốc lên thế giới quá nông cạn so với kỳ vọng. Giống như mọi lãnh vực khác, số lượng của Trung quốc gây ấn tượng, nhưng chất lượng quá kém. Trung quốc là quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng hàng hóa xuất khẩu thường là hàng tiêu dùng cấp hạng thấp; hàng của họ cũng có ít thương hiệu nổi tiếng quốc tế. Chỉ có một số nhỏ công ty đa quốc gia của họ thành công ở nước ngoài. Toàn bộ số vốn Trung quốc mang đầu tư hải ngoại (ODI- Oversea direct investment) chỉ đứng hàng thứ 17 trên thế giới; và các chương trình viện trợ nước ngoài chỉ là một phần nhỏ của quĩ viện trợ của Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản hay Ngân hàng Thế giới.

    Khi khảo sát về chất lượng thay vì số lượng, dung mạo kinh tế mang tính toàn cầu của Trung quốc không có gì ấn tượng. Nó còn là một nền kinh tế chế biến và lắp ráp, chứ không phải là nền kinh tế sáng tạo và sáng chế. Hầu hết hàng hóa sản xuất ở Trung quốc để xuất khẩu ra nước ngoài, đã được sáng tạo ra ở nước khác. Tình trạng ăn cắp phổ biến quyền sở hữu trí tuệ, và chính sách nhà nước “sáng tạo bản địa” (Đã đổ hàng tỷ USD cho R&D mỗi năm), là chỉ dấu cho thấy rõ rệt họ đã thất bại trong việc sáng tạo ra các mặt hàng. Điều này có lẽ sẽ thay đổi với thời gian, nhưng cho tới nay, Trung quốc đã không tạo được tiêu chuẩn quốc tế trong công nghệ hay dây chuyền sản xuất. ( Cũng giống như trong khoa học tự nhiên, khoa học y tế, xã hội và nhân văn). Tương tự, Trung quốc chỉ có hai trường đại học nằm trong danh sách 100 đại học tốt nhất thế giới, (Theo báo cáo của Times Higher Ranking- World University Ranking for 2013-2014).

    Nếu Trung quốc muốn đẩy mạnh sáng tạo, dĩ nhiên họ phải đầu tư thêm cho R&D.Theo National Science Foundation (Quĩ quốc gia về Khoa học) vào năm 2009, Trung quốc chỉ dành có 1.7% GDP cho R&D; so với Mỹ 2.9%, Đức 2.8%, và Nhật Bản 3.3%. Chi phí cho R&D của Trung quốc cũng không nằm trong danh sách 20 quốc gia chi phí nhiều nhất cho R&D của thế giới. 80% quĩ này ở Trung quốc được dùng cho phát triển hàng hóa, và chỉ có 5% dùng cho nghiên cứu cơ bản. Một chỉ dấu cho hiện tượng này là Trung quốc không có nhiều giải Nobel. Từ 1949-2010, có 584 giải Nobel được phát ra, người gốc Hoa chỉ được có 10 giải. Nhưng 8 trong số 10 người này lại sống ở nước ngoài. Chỉ có 2 ngoại lệ là Lưu Hiểu Ba được Giải Hòa bình 2010, và Mặc Ngôn, giải Văn chương 2011. Một chỉ dấu khác là những bài viết có trích dẫn sách Trung quốc. Số bài viết (trong mọi ngành khoa học) của Trung quốc được trích dẫn là 4%, so với Mỹ 49%.

    Kết quả là trung quốc bị thâm hụt sáng chế triền miên. Quốc gia này đang tiến tới “cái bẫy thu nhập trung bình”. Con đường duy nhất để tránh cái bẫy này là sáng chế, giống như Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan, Singapore đã làm trước đây. Và điều này đòi hỏi nhiều thứ hơn là quĩ đâu tư cho R&D của chính phủ. Nó đòi hỏi hệ thống giáo dục dựa trên tư duy phê phán, và tự do khám phá. Điều này lại đòi hỏi một hệ thống chính trị tương đối cởi mở và dân chủ , và không cho phép chính sách kiểm duyệt hay “vùng cấm” trong nghiên cứu. Sinh viên và trí thức phải được tưởng thưởng, chứ không phải bị đàn áp hay trừng phạt khi họ dám thách thức sự khôn ngoan qui ước và phạm phải lỗi lầm. Chờ tới lúc đó, Trung quốc sẽ rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình”.- Lắp ráp và sản xuất, chứ không sáng tạo và phát minh-.

    Nhìn theo cách này, cỗ xe khổng lồ Trung quốc rất yếu, so với cái vỏ bề ngoài. Các điểm yếu tương tự của Trung quốc cũng nằm trong ODI (Đầu tư trực tiếp hải ngoại). Mặc dù chính phủ dành đặc quyền cho các công ty đi ra ngoài, nhưng tới giờ đầu tư hải ngoại của Trung quốc còn quá nhỏ. Như đã nói ở trên, vốn ODI của Trung quốc chỉ nằm trong danh sách 20 quốc gia hàng đầu thế giới, mặc dù tiền vốn chảy ra ngoài tăng rất nhanh, và đứng hàng thứ ba trên thế giới. (88.2 tỷ USD vào năm 2012). Tuy vậy, số tiền này chỉ bằng ¼ số tiền ODI của Mỹ, cùng vào thời điểm đó.

    Điều đáng nói hơn,như mọi lãnh vực hoạt động khác của Trung quốc, người ta cần nhìn vào thống kê số lượng để đặt ra câu hỏi về chất lượng: Những số vốn này đi đâu? Và có phải là đầu tư thực thụ không ? Điểm đến và cơ cấu của ODI Trung quốc thay đổi nhanh chóng từ năm 2011. Nhưng một số lớn là quĩ porfolio ( đầu tư vào chứng khoán hay gửi ngân hàng) chảy qua các vùng như Virgin Islands thuộc Anh, hay đảo Grand Cayman . Chúng là điểm đến thứ 2 và thứ 3 của vốn Trung quốc. Như thế, một số không phải là đầu tư hải ngoại. Chúng là những số tiền mang ra nước ngoài để trốn thuế. Điều này không chỉ đúng với chính phủ Trung quốc, mà còn đúng cho vốn của các cá nhân nữa. Trong Sách Xanh về Di dân Trung quốc trên thế giới do Center for Chinese Globalization ấn hành, người ta báo cáo là từ năm 1990, đã có 9.3 triệu người Trung quốc di cư ra nước ngoài, mang theo với họ 2.800 tỷ Nhân dân tệ ( 46 tỷ USD). Đây không phải là điều mới mẻ, nhưng khuynh hướng này ngày càng tăng trong thập kỷ vừa qua. Khi giới tinh hoa kinh tế rời bỏ đất nước với số lượng lớn như vậy, và quá lo lắng bảo đảm an toàn cho số tiết kiệm cá nhân của họ, điều đó nói lên sự thiếu tin tưởng vào hệ thống chinh trị, kinh tế của chính phủ họ.

    Tuy nhiên, gần đây, cách thức đầu tư hải ngoại của Trung quốc có thay đổi: Trung quốc tăng cường đầu tư và mua sắm khắp châu Á, Mỹ la tinh, châu Âu và Hoa Kỳ. Người mua Trung quốc mua hết các loại tài sản – Bất động sản thương mại hay gia cư, xí nghiệp, khu công nghiệp, cơ sở nghiên cứu, nông trại, rừng, mỏ, mỏ dầu khí, và các tài nguyên khác. Các công ty Trung quốc tích cực mua hoặc hòa nhập với công ty nước ngoài. Các tư nhân Trung quốc cũng mua nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị trên thị trường đấu giá. Như thế, cách thức đầu tư hải ngoại của Trung quốc đã thay đổi, nhưng hậu quả thế nào chưa ai biết rõ.

    Còn các công ty đa quốc gia Trung quốc đang làm gì ? Ở nước ngoài, họ có sức cạnh tranh không ? Cũng như các loại hình hoạt động khác, họ có nhiều yếu kém hơn sức mạnh. Về mặt bề ngoài, theo số liệu của Fortune Global 500, các công ty Trung quốc xếp hàng thứ hai, chỉ thua các công ty đa quốc gia của Mỹ. Nhưng việc xếp loại này chỉ dựa trên tổng thu nhập và lợi nhuận, chứ không dựa vào nơi chốn công ty làm ra tiền. Khi quan sát danh sách công ty Trung quốc trong năm 2013, người ta thấy ngay rất ít công ty này hoạt động ở nước ngoài, và chỉ có một số nhỏ kiếm được hơn nửa số thu nhập ở hải ngoại. Như thế, chúng không phải là những công ty đa quốc gia thực thụ, mà đúng hơn, chỉ là những công ty hoạt động nội địa.

    Nhiều công ty có lẽ kỳ vọng vươn ra thế giới. Nhưng tới nay, nhiều công ty đã thử sức nhưng không thành công. Có nhiều câu chuyện thất bại hơn là thành công cho những công ty đa quốc gia Trung quốc. Những vụ mua bán, sáp nhập công ty bình thường đổ vỡ, bởi vì lãnh đạo công ty Trung quôc không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ, hoặc vì va chạm văn hóa. Về nhiều mặt, điểm yếu kém của các công ty đa quốc gia Trung quốc là nguồn nhân lực, nhất là trong quản lý.

    Có một số ít quản trị gia quí hiếm, biết nhiều ngôn ngữ và nhiều văn hóa, và các công ty Trung quốc bình thường không thuê người nước ngoài có chuyên môn làm quản trị cao cấp (Hai trường hợp ngoại lệ là Huawei và Haier). Công ty Trung quốc và ban quản trị của họ thường xuyên cho thấy họ không thoát khỏi văn hóa công ty và cách hành xử kinh doanh mang tính quốc gia. Vì họ chú trọng tới thứ bậc, và vị trí nhân viên rõ ràng, người Trung quốc không thích hợp với cách quản trị ngang hàng, nguồn gốc của phân quyền và sáng kiến cá nhân. Khuynh hướng này đã mang lại hậu quả là sự va chạm văn hóa trong các vụ sáp nhập công ty Trung quốc với công ty Tây phương. Các công ty Trung quốc còn cho thấy họ có khó khăn thích ứng với môi trường luật lệ, thuế má, chính trị của nước ngoài. Sự minh bạch trong quản trị công ty bình thường không được thực hiện. Qui trình lấy quyết định của họ bình thường bị mờ đục, cách hành xử trong kinh doanh bình thường tham nhũng , qui trình kế toán bị gian dối. Người ta đã khám phá ra nhiều công ty Trung quôc đã khai man với các cơ quan kiểm tra chứng khoán ở Mỹ, trước khi phát hành IPO (Bán cô phiếu lần đầu tiên cho công chúng).

    Sự yếu kém của công ty Trung quốc trong cạnh tranh nổi rõ trong nhãn hiệu quốc tế về hàng hóa. Chỉ có một số ít công ty có khả năng hoạt động ở nước ngoài: Bia Tsingtao, sản phẩm trắng của Haier, viễn thông của Huawei, Hàng không Trung quốc, ô tô Geely, và một số ít nhãn hiệu khác.


    5- MỘT SỐ THƯỚC ĐO KHÁC-

    Một số thước đo khác về sản xuất nội địa cũng cho thấy không có cấp hạng tốt. Năm 2014, Freedom House xếp hạng Trung quốc thứ 183 trên tổng số 197 quốc gia về tự do báo chí. Từ năm 2002, Chỉ số Quản trị Thế giới Tổng hợp (Worldwide Governance Indicators) của Ngân Hàng Thế giới luôn luôn xếp hạng Trung quốc trong nhóm thứ 30 phần trăm về ổn định chính trị và kiểm soát tham nhũng.; nhóm thứ 40 phần trăm cho chất lượng kiểm tra và pháp trị, và dưới 10 phần trăm cho kế toán. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) trong bảng chỉ số cạnh tranh thế giới năm 2013, đã xếp Trung quốc hạng thứ 29, về tham nhũng, hạng thứ 68; và đạo đức làm việc, hạng thứ 54. Tổ chức Minh Bạch quốc tế còn xếp hạng Trung quốc thấp hơn nữa về chỉ số tham nhũng (hạng thứ 80) trong bảng xếp hạng chỉ số tham nhũng năm 2013. Trong hầu hết các phạm trù này, thứ hạng của Trung quốc đã xấu đi nhiều trong thập kỷ vừa qua. Qua những thước đo như vậy, rõ rệt là uy tín trên trường quốc tế chỉ ở mức trung bình là cao nhất. Trong nhiều khía cạnh, Trung quốc đứng ngang hàng với các quốc gia có thành tựu thấp, và ít được kính trọng trên thế giới.

    Bảng báo cáo về Sự Phát triển Con người của Liên Hiệp Quốc năm 2013 cho thấy rõ: mặc dù những tiến bộ kinh tế, xã hội, đáng khâm phục của Trung quốc từ thập kỷ 1980, quốc gia này vẫn mang tình chất của một nước đang phát triển. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đứng hàng thứ 101 trên tổng số 187 quôc gia về chỉ số tổng hợp. Thu nhập bình quân đầu người (Tính theo mãi lực tương đương -ppp) khoảng 8000 USD/năm, tuy thế 13.1% dân số vẫn sống dưới mức 1.25USD/ngày. Về tuổi thọ , tử vong trẻ sơ sinh, bảo hiểm y tế, chất lượng giáo dục, và bất bình đẳng xã hội…Trung quốc còn thua xa các quốc gia công nghiệp. Sự hủy hoại môi trường và ô nhiễm đứng vào hạng xấu nhất trên thế giới, và là nguyên nhân của sự phát triển mạnh mẽ của bệnh ung thư. Mặc dù những nỗ lực gần đây của chính phủ: Mở rộng hoạt động y tế, bảo hiểm sức khỏe, hầu hết người dân Trung quốc phải đối mặt với những bất trắc lớn khi bị bệnh tật. Chỉ số Gini (Để đo độ bất bình đẳng xã hội, với 0 là bình đẳng hoàn toàn, 1 là bất bình đẳng hoàn toàn) nằm gần mức 0.5 là mức cao nhất thế giới. Các trường học sơ cấp và trung cấp đã có thành tựu ngang tầm quốc tế, nhưng hệ thống đại học còn chậm lụi rất nhiều so với các trường tốt trên thế giới.

    KẾT LUẬN-

    Những nhận xét này không phải để làm giảm bớt những thành tựu phát triển thần kỳ của Trung quốc trong ba thập kỷ vừa qua, nhưng chúng chỉ giúp ta nhận thức rõ là Trung quốc không đứng đầu thế giới trong các thể loại phát triển.

    Đó là cái nhìn về Trung quoc ngày nay, 10 hay 20 năm nữa, vị trí Trung quốc trên thế giới có thể cải thiện trong các thể loại này, và Trung quốc có thể hoạt động trên cơ sở toàn cầu cũng như Hoa Kỳ. Nhưng vào lúc này, cùng lắm, Trung quốc chỉ là một đại cường thế giới bán phần. Tuy thế, người ta không nên giả định là quĩ đạo phát triển của Trung quốc sẽ tiếp tục mãi mãi như vậy. Còn có hai khả năng có thể xảy ra: Tù đọng và suy thoái.

    Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng quốc gia này đã đi tới điểm ngoặc về nhiều phương diện: Tăng trưởng tổng thể đang nằm ngang (lý do vì chi phí sản xuất tăng cao, và lợi thế so sánh giảm) , và chính phủ đang cố duy trì mức tăng trưởng 7%, rất quan trọng để tạo đủ công ăn việc làm cho người dân, thâu nhận nhân công mới vào thị trường lao động, và duy trì ổn định xã hội. Có lẽ họ đã thử làm, nhưng chính phủ không thể chuyển đổi nền kinh tế từ phụ thuộc vào xuất khẩu, đầu tư qua một nền kinh tế dựa trên tiêu thụ nội địa, và một nền kinh tế dựa trên trí thức sáng tạo. Nền sản xuất không leo lên được bậc thang cao hơn về giá trị và công nghệ, và “cái bẫy thu nhập trung bình” đã xuất hiện, và có thể tồn tại lâu dài. Nợ của nhiều địa phương tăng cao, và nhiều địa phương nằm bên bờ vực phá sản. Bất bình đẳng xã hội trở nên gay gắt, và tham nhũng tràn lan ở cả trong nhà nước và ngoài xã hội, mọi lãnh vực xã hội đều bất mãn. Số người giầu có chạy trốn khỏi đất nước ngày càng tăng, giới trung lưu bị tù hãm, hệ thống chính trị bị hóa thạch và trở nên đàn áp. Cùng lúc đất nước không chấp nhận cải tổ chính trị và luật pháp.(Những cải tổ này rất cần cho giai đoạn tăng trưởng sắp tới), bởi vì chúng va chạm trực tiếp tới tính độc quyền của Đảng Cộng sản Trung quốc.



    Nhưng người ta không nhận thấy tiến triển về cải tổ từ khi Tập Cận Bình được chuyển giao quyền lực. Ngược lại, đàn áp chính trị lại được tăng cao từ khi Tập nắm quyền. Ngay cả cuộc họp thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-2013 , được loan báo là sẽ có cải tổ chính trị, cuối cùng chỉ là một mơ ước chứ không phải là sự thật.

    Đó là những vấn đề cháy bỏng rất nguy hiểm mà các chuyên gia về Trung quốc nghĩ rằng quốc gia này đang đối mặt. Đó là một loạt thách thức cho người dân và chính phủ Trung quốc phải giải quyết. Như thế, người quan sát không thể mù quáng nghĩ rằng tương lai Trung quốc sẽ có được động lực như 30 năm qua , hay đó là con đường đi tới qui chế đại cường thế giới sẽ tiếp tục.

    David Sambaugh
    Giáo sư về chính trị và chính sách đối ngoại
    Đai học George Washington
    Giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc
    Thành viên của Viện nghiên cứu Brookings
    Tác giả sách: China goes global: The Partial Power
    Oxford University Press 2013.
    Minhtue, karate_hn, hasinhat5 người khác thích bài này.
  6. beobi189

    beobi189 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/05/2014
    Bài viết:
    74
    Đã được thích:
    36
    IQ cao của mình toàn mấy kẻ chăm lo cho cái quyền lực + đống tài sản kết sù của mình chứ lo *** gì cho dân.

    Mình người Đà Nẵng đây nhưng rất bực 2 vấn đề. 1 là cho thằng TQ thuê 1 đường bờ biển dài 2-300m để làm Resort và tòa TTHC TP ĐN kính mặt ngoài toàn hàng của TQ. Cái cốt lõi nước mình gặp mình đó chính là thiếu tiền, thiếu tiền đâm ra dù biết là sai, đem lại hệ lụy không tốt về sau nhưng không thể không làm. Lúc làm tòa nhà TTHC TP ĐN, dân TQ qua đông lắm, làm xong không chịu về,ơở lỳ đó làm kinh doanh luôn. Đợt vừa rồi Chủ Tịch TP ĐN đích thân đi thị sát, giờ bớt người TQ rồi, mấy quán nhậu cũng bị bỏ tiếng Tàu trên mấy tâm banner.

    ĐN còn như thế thì chả trách gì mấy tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình-Trị-Thiên(mấy tỉnh nghèo) và đặc biệt là những người dân nghèo bị lái buôn nó lừa.
    usadok, bluesaigon, karate_hn1 người khác thích bài này.
  7. yetkieu

    yetkieu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/01/2013
    Bài viết:
    2.058
    Đã được thích:
    630
    Sau khi hai thằng lớn gặp nhau, đi cùng thằng ngoại giao có thằng tài chính đi theo...mình sợ chúng nó tạo ra những 'biến cố' ngoài ý muốn .... nhưng nghị quyết 412 của thằng thượng viện Mỹ nó bảo thằng khựa cuốn quần áo ra khỏi biển đông thì điều mình lo sợ đã tan biến
    karate_hn, Huy_Ngo, Connuocviet3 người khác thích bài này.
  8. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    3.915
    Đã được thích:
    2.097
    ăn thua gì khi vào TTP mới có nhiều trò vui nữa :D
    usadok, karate_hn, Connuocviet1 người khác thích bài này.
  9. kienquoc

    kienquoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/10/2013
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    115
    Thương mại tự do, mình không cấm nhập khẩu được. Tư thương thì hám lợi, cứ rẻ là họ chơi.
  10. kienquoc

    kienquoc Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/10/2013
    Bài viết:
    35
    Đã được thích:
    115
    Ngoại giao thôi mà. Ngày xưa Lê Lợi, Quang Trung chưa chôn hết xác giặc cũng phải cho sứ sang TQ du hí đấy. Chuẩn bị cứ chuẩn bị, ngoại giao cứ ngoại giao, đánh là đánh, lấy nhu chế cương.
    102dk, hanhgl, onamiowada6 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này