1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

B? d? van ôn thi kh?i D

Chủ đề trong 'Đề thi - Đáp án' bởi TuanLong, 27/03/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TuanLong

    TuanLong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/01/2001
    Bài viết:
    362
    Đã được thích:
    0
    B? d? van ôn thi kh?i D

    Đề thi tuyển sinh môn Văn năm học
    (Thời gian làm bài: 180 phút)
    A. Phần dành cho tất c thí sinh
    Câu I: Phân tích nhân vật Chí Phèo (trong truyện ngắn cùng tên) để làm nổi bật giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của ngòi bút Nam Cao.
    B. Phần dành cho từng loại đối tợng thí sinh
    Câu IIa. Dành cho thí sinh theo chng trình cha phân ban.
    Nêu những nét chính về sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh.
    Câu IIb. Dành cho thí sinh theo chng trình phân ban Khoa học xã hội (ban C).
    Bình ging hai câu th viết về quê hng đau thng trong chiến tranh của Nguyễn Đình Thi sau đây:
    Ôi những cánh đồng quê chy máu
    Dây thép gai đâm nát trời chiều
    (Đất nớc)
    Hớng dẫn gii
    Câu I
    1. Chí Phèo (1941) thật sự là một kiệt tác trong nền văn xuôi đng thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao.
    Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuất hiện trong văn học nh là ngời tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945, thời kỳ mới đầy thử thách đối với dòng văn học đó. Cũng nh các cây bút lớp trớc, Nam Cao đặc biệt quan tâm đi sâu thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những ngời nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ đng thời. Có điều, trong cm hứng "vạch khổ" chung của mọi nhà văn hiện thực đó, ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận ngời lao động bị chà đạp. Hình tợng nhân vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam - đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới mẻ, độc đáo, có chiều sâu trong việc thể hiện nỗi khổ con ngời đó của Nam Cao.
    2. Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi, c đời không hề đợc biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở... Hắn ra đời trong một "cái lò gạch cũ" bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi th của hắn "b v, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ", đến hai mi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu...
    Đó là cuộc đời khốn khổ của một kẻ thuộc hạng "cùng hn c dân cùng" ở nông thôn trớc Cách mạng. Nhng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo đợc ngòi bút Nam Cao tập trung thể hiện không phi ở những cái gì đó mà ở chỗ khác: ngời nông dân "cùng hn c dân cùng" ấy không đợc sống ngay c một cuộc đời nghèo khổ nhng lng thiện của mình, mà anh đã bị xã hội cớp đi c bộ mặt ngời cùng linh hồn ngời để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài ngời.
    Mở đầu truyện là hình nh hết sức sống động, rất buồn cời, đầy ấn tợng của Chí Phèo say rợu, vừa đi vừa chửi, Nhng phi chăng đằng sau những tiếng chửi lm nhm của Chí Phèo, có một cái gì giống nh sự vật vã tuyệt vọng của một con ngời thèm khát đợc giao tiếp với đồng loại mà không thể đợc. Trong cn say đến mất c lý trí, con ngời khốn khổ ấy vẫn cm nhận đợc thấm thía "nông nỗi" của thân phận mình: đó là "nông nỗi" cô đn khủng khiếp của một con ngời bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không đợc coi là ngời. Hắn thèm khát dợc ngời ta chửi; vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại; chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là ngời. Nhng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là "sự im lặng đáng sợ". Và Chí Phèo vẫn có một mình trong thế giới lạc lõng, cô đn: hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rợu!"...
    - Thực ra đâu phi Chí Phèo vốn là kẻ lu manh, nát rợu. Khi còn trai trẻ, anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã "ao ớc có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mớn, cày thuê, vợ dệt vi, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá gi thì mua dăm ba sào ruộng làm" - tức là m ớc một cuộc sống hạnh phúc hết sức bình dị bằng lao động. Khi ấy, tuy còn rất trẻ trung, anh cũng phân biệt đợc tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa: bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba "quỷ quái", anh "chỉ thấy nhục chứ yêu đng gì"!. Nhng bn chất lng thiện, trong trắng ấy của anh đã bị xã hội ra sức huỷ diệt. Lão cờng hào cáo già Bá Kiến vì ghen tuông vu v, đã cho gii Chí lên huyện rồi sau đó phi ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cờng hào bắt giam anh Chí lng thiện, vô tội để th ra một Chí Phèo hung ác, lu manh, tức là đã biến một ngời lao động lng thiện thành một con thú dữ. Trở về làng Vũ Đại có bọn cờng hào độc ác "ăn thịt ngời không tanh" đó, Chí Phèo không thể hiền lành nhịn nhục thì càng bị đạp giúi xuống không ngóc đầu lên đợc. Hắn muốn sống thì phi gây gổ, cớp giật, ăn vạ. Muốn thế phi gan, phi mạnh. Những thứ ấy, Chí Phèo tìm ở rợu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say, và "hắn say thì hắn làm bất cứ điều gì ngời ta sai hắn làm". Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt ngời, cớp đi linh hồn ngời của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi ngời, "là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng"... Và thế là hắn không còn đợc mọi ngời coi là ngời nữa, ai cũng "tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua".
    - Với hình tợng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tợng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xa: Nhiều ngời lao động lng thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cùng đã quay lại chống tr bằng con đờng lu manh để tồn tại. Trớc Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện Năm Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tợng ấy chắc gì đã chấm dứt. Cái chi tiết kết thúc truyện (nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở "nhìn nhanh xuống bụng" và bỗng "thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng ngời qua lại...") có nhiều ý nghĩa: rất có thể, từ "cái lò gạch cũ" bỏ không, lại có một"Chí Phèo con" ra đời để "nối nghiệp " bố... Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cờng hào ức hiếp dân lành, không cho họ đợc sống, thì chừng đó còn có những ngời lao động lng thiện phi ri vào con đờng lu manh giành lấy miếng ăn, tức là bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt làm ngời. Chí Phèo đã làm nổi bật cái quy luật tàn bạo đó trong xã hội cũ.
    Tình trạng lu manh hoá mà Chí Phèo là một biểu hiện của nỗi đau khổ khôn cùng của con ngời sinh ra là ngời mà không đợc làm ngời. Có điều, khi Chí Phèo hầu nh tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật thì hắn không thể cm nhận rõ rệt nỗi đau thân phận bi đát đó của mình. Nhng đến khi, bn chất ngời lao động lng thiện trong Chí Phèo đã trở về với hắn, hắn bỗng thèm vô hạn đợc sống "hoà với mọi ngời", vậy mà vẫn bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt, thì khi đó, Chí Phèo mới thật sự lâmvào một bi kịch đau đớn trong tâm hồn và dẫn đến những kành động dữ dội sau này.
    - Trong một cn say rợu, cm thấy bứt rứt, ngứa ngáy da thịt. Chí Phèo đã gặp Thị Nở và đã xông tới ngời đàn bà xấu xí đó một cách rất ... Chí Phèo. Nhng điều kì diệu là, nếu nh lúc đầu, Thị Nở chỉ khi dậy bn năng sinh vật ở gã đàn ông say rợu Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc gin dị đầy ân tình và tình yêu thng mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã làm thức dậy bn chất lng thiện của ngời nông dân lao động trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo sau lần gặp gỡ với Thị Nở là một đoan tuyệt bút, đầy chất th. Sáng hôm ấy, sau khi tỉnh dậy, Chí Phèo thấy lòng "bâng khuâng m hồ buồn". Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cời nói của những ngời đàn bà đi chợ về ... Những âm thanh bình thờng quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng nh một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của anh. Anh bỗng nhận ra tất c tình trạng bi đát của số phận mình. Tình yêu thng đã thức tỉnh hắn, và linh hồn của hắn lâu nay phi bán mình cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ đây đã trở về. Anh bỗng thấy "thèm lng thiện, muốn làm hoà với mọi ngời biết bao!". Tức là hắn vô cùng khao khát đợc mọi ngời nhận hắn trở lại "vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những ngời lng thiện". Tình yêu của Thị Nở đã mở đờng cho Chí Phèo trở lại làm ngời. Câu tr lời của Thị Nở đã quyết định số phận của hắn.
    - Nhng con đờng trở lại làm ngời của Chí Phèo vừa đợc hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô Thị Nở không cho phép cháu bà "đi lấy một thằng (...) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Nhng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi ngời làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất c quen gọi anh là "quỷ dữ" mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự ri vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiểu ra rằng xã hội dứt khoát cự tuyệt mình. Chì Phèo vật vã quằn quại trong cn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống ...nhng "càng uống càng tỉnh ra". Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Rồi "hắn ôm mặt khóc rng rức" cho đến khi uống đến say mềm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi ... nh mọi lần. Nhng lại khác hẳn mọi lần: trong cn quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vô phng cứu chữa của đời mình, đã đến trớc mặt Bá Kiến, đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó, hắn tự sát. Hắn không muốn sống nữa vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về, hắn không thể sống kiểu lu manh, sống nh thú vật đợc nữa. Nhng xã hội lại không cho hắn cuộc sống con ngời! Vậy thì hắn phi chết ! Hắn đã chết trên ngỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trớc anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu ti của mình, chết trong niềm đau thng lớn lao vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của hắn là đợc sống làm ngời không đợc thực hiện. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: "Ai cho tao lng thiện?" là câu hỏi chất chứa phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt ngời đọc đến tận hôm nay.
    3. Câu hỏi ấy đã cô đúc c giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm một cách sâu sắc và thấm thía. Làm thế nào để con ngời đợc sống cuộc sống con ngời trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tợng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy? Đó là một vấn đề có ý nghĩa triết học có tầm vóc lớn lao. và đặt ra bằng một tài năng nghệ thuật xuất sắc bậc thầy, khiến cho Chí Phèo thuộc vào những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất của văn học dân tộc thế kỷ này.
    Câu IIb:
    1. Bài th Đất nớc (1948-1955) đợc Nguyễn Đình Thi thai nghén trong 8 năm, gần nh suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp. Cm hứng về "đất nớc" đợc ấp ủ, tích luỹ và đã "chín" trong hồn th ông. Đó là một cm hứng th tổng hợp - khái quát để có thể dựng lên một tợng đài Đất nớc khái quát - tổng hợp. Ngay c hình nh đất nớc đau thng trong chiến tranh cũng đợc nhà th cô đúc lại trong hai câu th hàm chứa nhiều ý nghĩa:
    Ôi những cánh đồng quê chy máu
    Dây thép gai đâm nát trời chiều.
    2. Chỉ hai câu th 14 chữ mà thi sĩ đã dựng lên đầy đủ, sâu sắc và gợi cm hình nh đất nớc đau thng trong chiến tranh huỷ diệt tàn bạo của quân thù. Câu trên nói về đất, câu dới nói về trời. Đất: chy máu. Trời: bị đâm nát. C đất trời quê ta đều bị huỷ diệt bởi chiến tranh tàn bạo của quân giặc nớc. "Những cánh đồng quê chy máu" là hình nh của nỗi đau vật chất, còn "dây thép gai đâm nát trời chiều" là cuộc sống tinh thần, tình cm đã bị chà đạp thm thng. Vậy là, c đất trời Tổ quốc ta, c cuộc sống vật chất và tinh thần của dân ta đều bị chiến tranh huỷ diệt tan tành. Nỗi đau xót nh đúc lại trong từng hình nh th, nén lại trong từng chữ. Một nỗi đau toàn diện, chứa chất căm hờn.
    - Nguyễn Đình Thi không nói đến những cánh đồng quê cụ thể mà ở đây là những cánh đồng quê - đất nớc đã chy máu. Cánh đồng quê đã đợc khái quát mang ý nghĩa biểu trng cho đất nớc. Cần chú ý cách nói của thi sĩ: cánh đồng quê chy máu. Trong đất chỉ có nớc, không có máu thì sao cánh đồng quê lại có thể chy máu đợc? Đó chính là c thể Tổ quốc đang chy máu dới bom đạn huỷ diệt của quân thù. Hình nh th giàu sức gợi và sức liên tởng, cánh đồng quê và chy máu thì đó là hình nh khái quát sâu sắc về nỗi đau lớn trong chiến tranh. Và nỗi đau càng lớn thì tội ác quân thù càng chồng chất. Hẳn là Nguyễn Đình Thi đã chứng kiến nhiều cánh đồng quê bị tàn phá nh thế nên đã khát quát lại thành hình nh "cánh đồng quê chy máu" trong câu th đầy ấn tợng này.
    - Đến câu thứ hai lại là cách nói mới mẻ và hiện đại của thi sĩ:
    Dây thép gai đâm nát trời chiều.
    "Dây thép gai" là hình nh tàn bạo, man rợ của chiến tranh hiện đại. Hình nh này đã đi vào câu th Nguyễn Đình Thi với cách nói cũng rất hiện đại trong sự đối lập với "trời chiều". "Trời chiều" là khong trời êm , bình lặng, là khong khắc thời gian dành cho cuộc sống tâm hồn, tình cm của con ngời, gợi nhớ thng, hi vọng - là biểu tợng cho hạnh phúc bình thờng mà ai cũng có. ở đây "dây thép gai" đã đâm nát "trời chiều". Chiến tranh đã huỷ diệt đến c đời sống tinh thần, tình cm của con ngời, không buông tha những khong trời chiều xanh hi vọng, tím nhớ nhung. Một chữ đâm nát mà nhói đau, mà căm uất. Nhà th thực đã nói lên cái nỗi đau tận cùng và cũng tố cáo đến tận cùng tội ác của quân thù trong chiến tranh huỷ diệt. Đó là nhờ cách nói mới mẻ và sáng tạo mang dáng dấp những câu th hiện đại phng Tây. Thi sĩ đã để cho một vật cụ thể, sắc, nhọn (dây thép gai) đâm nát một vật êm , th mộng, trừu tợng (trời chiều) nhằm tăng thêm sự dã man tàn bạo của nó, tăng thêm sức tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Ta thờng gặp những câu th nh thế của Nguyễn Đình Thi, ngay c trong bài Đất nớc:
    Xiềng xích chúng bay không khoá đợc
    Trời đầy chim và đất đầy hoa
    Súng đạn chúng bay không bắn đợc
    Lòng dân ta yêu nớc thngnhà.
    3. Chỉ hai câu th mà dựng lên đợc hình nh đất nớc đau thng trong chiến tranh thật hàm súc và gợi cm. Đó là do tài năng và tâm hồn của nhà th. Nhng trớc hết và quan trọng nhất, là do thi sĩ đã sống sâu sắc trong lòng dân tộc, đã hiểu và yêu tha thiết Tổ quốc mình, đã "chín" trong cm hứng th về "đất nớc", để có thể khái quát thành những hình nh th cô đúc, nhiều d vị, d vang. Ngời ta nói Nguyễn Đình Thi có sở trờng khi nói về đất nớc đau thng trong chiến tranh chính là nh thế.



    Long

Chia sẻ trang này