1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bá tước Monto Crixto_Alexandre Dumas

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi luuchivi, 16/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 7: Vượt ngục
    Một đêm, Edmond chợt thức giấc, như nghe thấy có người gọi mình. Anh mở mắt và cố nhìn xuyên qua bóng đêm dày đặc.
    Tên anh hay đúng hơn là một tiếng nói rên rỉ cố phát ra tên anh, vọng đến tai anh. Tiếng rên rỉ vọng ra từ hầm kín của người bạn tù của anh.
    - Trời ơi! Dantès thì thào; có phải là... ?
    Và anh dịch cái giường, lôi hòn đá ra, lao mình vào hành lang ngầm sang đến đầu kia bên đối diện; tấm đá đậy cửa hang đã được nâng lên rồi. Trong ánh sáng của một ngọn đèn dị hình và chập chờn, Edmond nhìn thấy ông già mặt tái xanh còn đang đứng và bám riết lấy cột giường.
    Nét mặt ông bị xáo động bởi những triệu chứng khủng khiếp mà anh đã từng biết.
    - Này anh bạn, Faria nói một cách cam chịu, con hiểu rồi phải không? Và ta chẳng còn gì phải nói cho con biết nữa!
    Edmond bật lên một tiếng kêu đau đớn.
    - Ồ! Anh nói, con đã cứu ông một lần mà, con sẽ cứu được ông lần thứ hai!
    Và anh nâng chân giường lên, rút cái lọ Ở đấy ra, vẫn còn đầy đến một phần ba chất lỏng màu đỏ. Anh nói:
    - Ông nghe đây, vẫn còn thứ thuốc nước cứu mạng đây mà. Nhanh lên, ông nói cho con biết nhanh lên xem lần này con phải làm những gì, có chỉ dẫn gì mới không? Nói đi ông bạn, con nghe đây.
    - Anh cứ làm như lần trước chỉ có điều đừng đợi lâu đến thế. Vào lúc này mọi động lực của cuộc sống đều đã yếu quá rồi và cái chết, ông vừa nói tiếp vừa chỉ vào tay chân bị liệt của mình, chỉ còn phải làm một nửa công việc của nó nữa mà thôi. Nếu sau khi đổ cho ta mười hai giọt thay cho mười giọt như mọi khi vào miệng mà anh không thấy ta tỉnh lại thì anh đổ nốt chỗ còn lại vào miệng ta.
    Edmond đỡ ông già trong tay và đặt nằm lên giường.
    - Bây giờ, bạn ơi, Faria nói, điều an ủi duy nhất cho cuộc đời khốn khổ của ta là anh mà.trời ban cho ta đấy, vào lúc ta phải rời xa anh vĩnh viễn, ta cầu chúc cho anh hạnh phúc trọn vẹn, cho anh tất cả sự giàu có mà anh đáng được hưởng: con trai của ta ơi, ta cầu phúc cho con!
    Một cơn rung giật mãnh liệt ngắt lời ông già; Dantès ngẩng đầu lên, thấy đôi mắt ông đỏ ngầu: người ta nói đó là làn sóng máu từ ngực dâng lên trán.
    Cơn kịch phát thật khủng khiếp: chân tay ông vặn vẹo, mi mắt phồng lên, bọt mép đầy máu, thân hình bất động, đó là những gì còn lại trên chiếc giường bệnh đầy đau đớn thế chỗ cho con người thông minh vừa nằm đây lúc nãy.
    Khi Dantès thấy đến lúc cần cho uống thứ thuốc cứu mạng, anh cầm lấy con dao, cậy răng nhưng không thấy bị cản lại mạnh nhiều như trước, anh nhỏ thuốc, đếm từng giọt cho đến mười hai giọt rồi đợi.
    Anh đợi mười phút, mười lăm phút, nửa giờ, không có gì nhúc nhích. Run rẩy, tóc cứng lại, trán đẫm mồ hôi lạnh, anh đếm từng giây bằng nhịp đập của trái tim mình.
    Lúc này anh nghĩ đã đến lúc phải thử dùng phép cuối cùng: anh ghé cái lọ thủy tinh vào đôi môi tím ngắt của Faria và không cần phải cậy mà hai hàm răng đã mở sẵn, anh trút tất cả chỗ thuốc còn lại vào miệng ông.
    Thuốc đã gây nên một hiệu ứng điện, một cơn rung lay mạnh chân tay ông già, mắt ông lại mở ra nhìn thật đáng sợ. Miệng ông phát ra một tiếng thở dài giống như tiếng kêu rồi toàn thân rung giật ấy dần dần trở lại bất động như trước.
    Nửa giờ, một giờ, một giờ rưỡi trôi quạ Suốt một giờ rưỡi đồng hồ khắc khoải lo âu ấy E**ond cúi trên ông bạn già, tay anh đặt lên trái tim ông, cảm thấy cơ thể này cứ lạnh đi dần và nhịp đập trái tim này đang tắt dần.
    Cuối cùng không có gì là còn sống; nhịp run rẩy yếu ớt cuối cùng của trái tim ngừng hẳn, gương mặt tu sĩ trở nên nhợt nhạt, mắt còn mở nhưng cái nhìn mờ đục đi.
    Khi ngày lại rạng, Dantès hiểu rằng anh chỉ có một mình với một tử thị Anh tắt đèn giấu nó đi cẩn thận rồi đi ra, hết sức khéo léo đặt tấm đá đậy cửa hang trên đầu anh lại. Vả chăng, vừa kịp lúc, người gác ngục sắp đến.
    Lần này hắn đến chỗ Dantès trước, khi ra khỏi hầm kín của anh, hắn đi sang hầm của tu sĩ Faria mang theo đồ trải giường và thức ăn sáng.
    Lúc này Dantès lâm vào một trạng thái nóng ruột bồn chồn khó tả, muốn biết ngay điều gì sắp xảy ra trong hầm kín của người bạn đáng thương của mình; anh vào đường hầm và kịp nghẹthấy tiếng kêu của người mang chìa khóa yêu cầu giúp đỡ.
    Edmond nghe thấy tiếng động của cái giường khi người ta lay gọi tử thi, anh nghe tiếng viên quản ngục ra lệnh đi tìm thầy thuốc.
    Người thày thuốc phân tích chứng bệnh mà người tù đã không chống chọi nổi và tuyên bố rằng ông ta đã chết.
    Còn nghe thấy cả tiếng chân những người đến và đi; một lát sau tiếng vải sột soạt lọt vào tai Dantès, chiếc giường rít lên trên những chiếc lò so, một bước đi nặng nề như của một người mang vật nặng giẫm lên tấm đá đậy cửa hang, rồi cái giường lại rít lên dưới sức nặng vừa bị đặt lên.
    Tiếng quản ngục nói:
    - Các anh khóa cửa hầm kín lại như ông ta còn sống và sẽ đem xác đi vào mười hoặc mười một giờ.
    Thế rồi tiếng các bước chân xa dần, tiếng nói nhỏ dần, lại nghe tiếng cửa sập vào rồi cái ảm đạm ngự trị tất cả.
    Lúc đó Dantès lấy đầu từ từ đội tấm đậy cửa hang lên và đưa đôi mắt dò xét nhìn khắp căn phòng.
    Căn phòng trống rỗng.
    Trên giường thấy có một túi vải thô, bên dưới những nếp vải thấy lờ mờ in hình một vóc dáng dài và cứng: đó là tấm vải liệm tu sĩ Faria.
    Thế là tất cả đã kết thúc. Faria người bạn tù nhân hậu hữu ích mà anh đã quen thuộc một cách mãnh liệt biết bao nay chỉ còn trong ký ức của anh. Thế là anh ngồi lên đầu giường, cái giường ghê gớm ấy, và buông mình đắm chìm vào một nỗi buồn mênh mông.
    Đột nhiên anh đứng dậy, đặt tay lên trán như người bị chóng mặt, đi hai ba vòng trong phòng rồi trở lại đứng trước giường...
    - Ồ! ồ! Anh thì thào, ai đem lại cho mình ý tưởng ấy? Có phải người không? Lạy chúa tôi!
    Vì chỉ có người chết mới tự do ra khỏi nơi này, ta phải thay chỗ cho người chết.
    Và không phí thì giờ để xem xét lại quyết định ấy, anh cúi xuống cái túi gớm ghiếc ấy, mở nó ra bằng con dao do Faria tự tạo, lôi thi hài ông ra khỏi t úi, đưa về phòng anh, đặt lên giường rồi phủ chăn kín, quay đầu vào tường để người gác ngục khi mang bữa tối đến tưởng rằng anh nằm ngủ như thường lệ, rồi trở vào đường hầm, kéo cái giường vào sát tường, vào căn phòng bên kia, lấy kim chỉ trong tủ, chui vào túi vải thô đã rạch ra lúc nãy, nằm vào vị trí của xác chết và khâu kín lại bằng đường khâu từ bên trong.
    Dantès suy tính thật nhanh chóng: nếu như bọn họ đưa anh đến nghĩa địa và đặt anh xuống huyệt thì anh cứ để mặc cho đất lấp lên, rồi vìlà về đêm chờ lúc những người đào huyệt vừa quay lưng đi thì anh sẽ mở lối chui qua lớp đất mềm và chạy trốn: anh hy vọng là sức nặng sẽ không quá lớn để anh có thể thoát ra được. Nếu anh lầm, ngược lại đất quá nặng làm anh chết ngạt thì càng hay! Tất cả sẽ kết thúc!
    Nhiều giờ trôi qua không thấy có một động tĩnh nào trong lâu đài. Cuối cùng đến giờ quản ngục đã định tiếng bước chân nghe dội lên ở cầu thang. Edmond hiểu ra rằng đã đến lúc; anh lấy hết can đảm, cố nén hơi thở của mình.
    Họ dừng lại ở cửa, có tiếng chân hai người.
    Cửa mở, một làn ánh sáng mờ rọi vào mắt Dantès. Qua lớp vải thô bọc người anh, thấy có hai bóng đến gần giường. Một bóng thứ ba ở cửa, tay cầm đèn ***g. Hai người đến gần giường, mỗi người nắm lấy một đầu túi vải.
    - Xem ra một ông già gầy nhom mà vẫn còn nặng gớm! - Một trong hai người nói trong khi nắm đầu bọc nâng túi lên.
    Họ khiêng người giả chết từ giường sang cáng. Edmond phải cứng người lại để đóng trọn vai trò của người quá cố. Họ đặt anh lên cáng; và đám ma có người cầm đèn ***g đi trước, lên cầu thang.
    Bỗng nhiên anh thấy bị chìm ngập trong không khí lạnh buốt của ban đêm. Dantès nhận ra làn gió thổi dọc sông Rhône quen thuộc. Đó là một cảm giác đột ngột đầy ắp những vui sướng và lo âu lẫn lộn.
    Những người khiêng cáng đi độ hai mươi bước thì dừng lại và đặt cáng xuống đất.
    Một người khiêng đi ra xa và Dantès nghe thấy tiếng giày của hắn vang trên các tấm đá.
    - Soi đèn cho tao, đồ súc sinh, tiếng người vừa đi ra xa nói, không thì tao chẳng bao giờ tìm thấy vật tao muốn tìm.
    Một lát sau hắn đến gần Edmond, anh nghe thấy hắn đặt cạnh anh một vật nặng có tiếng vang; cùng lúc thấy có sợi dây quấn quanh chân anh, siết chặt làm anh đau.
    - Này thắt nút rồi chứ? Người phu huyệt nãy giờ đứng yên hỏi. Vậy thì lên đường.
    Và cái cáng được khiêng lên, đi độ năm mươi bước nữa rồi họ dừng lại để mở một cánh cửa, sau đó lại đi tiếp.
    - Thời tiết xấu quá, đêm nay mà đi biển sẽ chẳng tốt đẹp gì.
    Họ còn đi bốn năm bước nữa, cứ lên cao mãi rồi Dantès cảm thấy họ túm lấy anh bằng đầu và chân rồi đung đưa anh.
    - Một, hai, ba này!.Cùng lúc ấy anh cảm thấy bị quăng ra, quả thật là quăng vào một khoảng trống khổng lồ, vút qua không trung như một con chim bị thương, rồi rơi, rơi mãi với nỗi kinh hoàng làm lạnh cứng tim anh. Dù bị một vật gì nặng lôi anh bay xuống nhanh nhưng anh vẫn cảm thấy thời gian rơi như suốt cả một thế kỷ.
    Cuối cùng, với một tiếng động kinh khủng, anh rơi vào làn nước giá băng như một mũi tên làm anh bật lên một tiếng kêu nhưng nó lại bị dập tắt ngay vì anh đã chìm nghỉm.
    Dantès đã bị ném xuống biển, một hòn lê nặng ba mươi sáu cân buộc vào chân kéo anh xuống đáy.
    Biển là nghĩa địa của pháo đài If.
    Dantès choáng váng, gần ngạt thở, tuy thế nhanh trí kịp nín thở và bàn tay phải của anh như chúng tôi đã nói là anh chuẩn bị sẵn sàng chờ mọi khả năng, đã cầm con dao mở sẵn, anh vội rạch cái túi, đưa cánh tay ra ngoài rồi đến cái đầu. Nhưng lúc đó anh vẫn cảm thấy bị lôi đi mặc dầu đã tìm cách nâng hòn lê lên. Anh bèn cong người xuống tìm sợi dây trói chân và bằng một cố gắng tột độ, anh cắt được nó đúng lúc anh ngạt thở; thế rồi đạp chân một cái thật mạnh, anh ngoi lên được mặt biển trong khi hòn lê kéo cái túi vải thô suýt nữa thành áo liệm cho anh xuống những tầm sâu xa lạ của biển.
    Dantès chỉ đủ thời gian để thở và anh lại lặn xuống nước một lần nữa; vì việc tránh có ai nhìn thấy là điều anh phải đề phòng đầu tiên.
    Khi anh lại ngoi lên thì anh đã ở cách chỗ anh rơi xuống đến năm mươi bước.
    Dantès lại lặn xuống lần nữa, rẽ nước lặn một hơi khá dài bằng những thao tác quen thuộc với anh từ trước và khi anh trở lên mặt biển thì thấy chiếc đèn ***g ở đảo If đã mất tăm.
    Anh phải định hướng: trong tất cả các đảo quanh đảo If thì hòn đảo an toàn nhất là đảo Tiboulen cách cái nhà tù ác hại ấy một dặm.
    Suốt một giờ đồng hồ liền, phấn khích bởi cảm giác tự do xâm chiếm toàn bộ con người anh, Dantès tiếp tục rẽ sóng theo hướng đã chọn.
    Anh tự nhủ:
    - Nào, thế là mình đã bơi suốt một giờ liền, bây giờ ta chẳng còn cách Tiboulen bao xa nữa.
    Bỗng nhiên anh thấy chân chạm đất; độ hai mươi bước trước mặt anh sừng sững một khối đá hình thù kỳ dị: đó là đảo Tiboulen.
    Dantès đứng lên, bước lên phía trước vài bước và vừa tạ Ơn Chúa vừa nằm xoài ra trên những mũi nhọn của đá hoa cương mà giờ đây đối với anh dường như êm ái như chưa bao giờ anh từng thấy trên những chiếc giường êm ấm nhất.
    Thế rồi mặc cho gió, mặc cho mưa đã bắt đầu rơi nặng hạt, rã rời vì quá mệt, anh ngủ thiếp đi một giấc ngon lành.

  2. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 7)
    Sau một giờ Edmond thức dậy bởi một tiếng sấm ầm ầm rất to: bão đã nổi; thỉnh thoảng một tia chớp trên trời rọi sáng những lớp sóng và những đám mây cuồn cuộn trôi lớp nọ tiến lên trước lớp kia như những làn sóng của một cõi hỗn mang vô bờ.
    Vừa khi anh đứng dậy, một ánh chớp như mở màn trời ra, soi sáng không gian; nhờ ánh sáng của tia chớp này anh thấy xuất hiện cách chỗ anh độ một phần tư dặm có cái gì như một bóng ma lướt từ ngọn sóng xuống vực thẳm, một chiếc tàu đánh cá nhỏ nhoi bị cơn giông tố và làn sóng hung dữ cuốn đi.
    Rồi nhờ một tia chớp khác lóe lên, chàng trai nhìn thấy bốn người đang bám riết lấy cột buồm và các dây néo cột; một người thứ năm bám lấy cái cần của bánh lái đã vỡ.
    Cùng lúc ấy anh lại nghe thấy tiếng răng rắc đáng sợ, những tiếng kêu la của người sắp chết vang đến tận chỗ anh. Uốn cong người như con nhãn ngủ trên tảng đá của mình, từ đó anh nhìn xuống vực thẳm, một làn chớp nữa cho anh thấy chiếc tàu nhỏ đã tan tành và giữa các mảnh vỡ, những đầu người nhấp nhô, những bộ mặt tuyệt vọng, những cánh tay giơ lên trời chới với.
    Rồi tất cả chìm vào trong đêm đen, cảnh khủng khiếp ấy diễn ra trong ánh chớp rồi tắt.
    Gió yếu dần. Ngày đã rạng. Có thể đã là năm giờ sáng, biển tiếp tục lặng dần.
    Edmond tự nhủ:
    - Sau hai hay ba giờ nữa sẽ có báo động ở pháo đài If. Ngay lúc ấy những chiếc xuồng đầy lính có vũ trang sẽ vây dồn tạ Đại bác sẽ bắn báo tin cho cả vùng bờ biển rằng không được cưu mang con người trần truồng, đói khát mà họ sẽ gặp. Ta đói, ta khát, ta phải vứt bỏ cả con dao cứu mạng gây vướng víu khi ta bơi, ta phải phó mình cho người nông dân đầu tiên bắt gặp, nộp ta cho cảnh sát để lĩnh hai mươi frăng tiền thưởng, ta chẳng còn sức lực lẫn ý tưởng và quyết tâm. Ôi lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Hãy giúp con.
    Vào lúc mà Edmond nói ra lời nguyện cầu khát khao cháy bỏng ấy thì anh thấy ở mũi đất của đảo Pomègue có một con tàu nhỏ và chỉ có mắt một thủy thủ mới nhận ra được là thuyền buôn đặc chủng của vịnh Gênes trên đường chân trời còn tranh tối tranh sáng của biển. Con.thuyền này đến từ cảng Marseille và đang đi giữa biển cả mênh mông.
    - Ồ! Edmond kêu lên, chỉ sau nửa giờ nữa ta sẽ cập mạn chiếc tàu này, nếu không sợ bị vặn hỏi, bị coi là một kẻ chạy trốn và bị giải về Marseille! Làm gì bây giờ? Nói gì? Bịa ra chuyện gì? Bọn này toàn là bọn buôn lậu, bọn đầu trộm đuôi cướp. Chúng mượn cớ buôn bán vùng ven biển để cướp bóc vét sạch bờ biển, chúng sẽ thích bán ta đi hơn là làm một nghĩa cử không sinh lợi.
    Và trong khi nói thế Dantès đưa mắt nhìn về phía con tàu nhỏ bị vỡ và bỗng giật mình.
    Anh thấy có chiếc mũ thủy thủ bị vướng vào chân một hòn đá, hẳn là của một trong những thủy thủ gặp nạn, và sát gần đó bập bềnh trôi những mảnh vụn của chiếc tàu.
    Trong giây lát anh đã có quyết định; anh nhảy xuống biển, bơi lại chỗ chiếc mũ, đội nó lên đầu, với lấy một cái rầm của con tàu vỡ rồi bơi về phía chiếc tàu buôn.
    Anh thì thào:
    - Bây giờ thì ta thoát rồi!
    Một lát sau anh nhìn thấy rõ chiếc thuyền buôn thế rồi anh lao lên để bắt kịp nó, rồi bằng một cố gắng cuối cùng anh bật lên gần như đứng sững trên mặt biển vừa vẫy vẫy cái mũ vừa gào lên những tiếng kêu thảm thiết như tiếng kêu của thủy thủ gặp nạn.
    ở đằng kia họ trông thấy và nghe tiếng anh kêu. Chiếc tàu buôn ngừng hẳn vận hành và quay hướng về phía anh. Một lát sau một chiếc xuồng chở hai người lướt về phía anh, khua hai cặp chèo trên mặt biển.
    Anh kêu lên một tiếng thật to, hai tay chèo gắng sức lên gấp bội và một trong hai người hét lên bằng tiếng ý: "Can đảm lên!" Lời nói ấy đến tai anh vừa lúc có một ngọn sóng mà anh chẳng còn sức vượt qua đổ lên đầu anh và trùm lớp bọt bạc đầu kín người anh.
    Anh ngoi lên mặt biển bằng một cố gắng mãnh liệt. Anh thấy hình như có người túm lấy tóc anh rồi anh không còn nhìn thấy gì nữa, anh không còn nghe thấy gì nữa: anh đã ngất đi.
    Đến lúc anh mở mắt ra thì thấy mình nằm trên boong chiếc tàu buôn đang tiếp tục hành trình.
    - Anh là ai? Người chủ hỏi anh bằng tiếng Pháp, giọng lơ lớ.
    Anh trả lời bằng một thứ tiếng ý tồi:
    - Tôi là một thủy thủ đảo Malte, chúng tôi đến từ Syracuse, chở rượu vang và dầu ô lưu. Cơn gió bất chợt đêm qua làm chúng tôi bất ngờ và.tàu chúng tôi bị va vào đá vỡ tan tành như các ông nhìn thấy đàng kia. Tôi nghĩ rằng tôi là người duy nhất còn sống sót: ba người bạn cùng thuyền và ông thuyền trưởng đều bị chết đuối.
    Tôi nhìn thấy tàu các ông và sợ rằng phải đợi quá lâu trên hòn đảo hoang vu cô tịch ấy nên vội vớ lấy một mảnh tàu vỡ tôi cố bơi đến với các ông. Xin cám ơn, Dantès nói thêm, các ông đã cứu sống tôi; tôi đã bất tỉnh khi một trong các thủy thủ của tàu ông nắm lấy tóc tôi.
    - Là tôi đấy mà, một thủy thủ có bộ mặt thẳng thắn và cởi mở khuôn gọn trong chòm râu quai nón đen nói thế, và thật đúng lúc anh đang chìm.
    Ông chủ hỏi:
    - Bây giờ chúng tôi phải làm gì với anh?
    - Chao ôi! Dantès trả lời, xin tùy ông. Tôi là thủy thủ khá thạo nghề; ông sắp ghé cảng nào thì hãy ném tôi xuống đó và thế nào tôi cũng tìm được việc làm trên một tàu buôn.
    - Anh biết rõ Địa Trung Hải chứ?
    - Tôi đã đi tàu ở đây từ hồi nhỏ, tôi nhắm mắt cũng có thể đưa tàu ra vào cảng được dù là cảng khó nhất.
    - Hãy cầm lấy lái, ông chủ nói, để chúng tôi đánh giá tài nghệ của anh.
    Chàng trai đến ngồi vào buồng lái ép nhẹ cần bánh lái để xem con tàu có ngoan ngoãn vâng lời không và vận hành khéo léo trong luồng lạch, bỏ lại đảo bên mạn phải đến vài chục sải tay.
    - Hoan hô! ông chủ và các thủy thủ vừa nói vừa thán phục con người mà ánh mắt đã trở lại thông minh và thân thể lấy lại được sức cường tráng mà họ chẳng còn nghi ngờ gì anh lại có được.
    - Ông xem đấy, Dantès rời cần lái nói, tôi có thể có ích cho ông đôi chút, ít ra cũng trong chuyến đi này.
    - Tốt lắm, tốt lắm, ông chủ nói; chúng ta có thể thu xếp với nhau được nếu anh biết điều.
    Lấy cớ mệt, Dantès xin ngồi vào buồng lái.
    Người lái tàu mừng rỡ thấy có người thay chức trách của mình bèn đưa mắt dò hỏi ông chủ, ông này gật đầu ra hiệu rằng anh ta có thể trao cần lái cho người bạn mới.
    Được đặt vào chỗ như vậy, Dantès có thể không rời mắt khỏi phía Marseille.
    - Hôm nay là ngày bao nhiêu? Dantès hỏi người thủy thủ tên là Jacopo vừa ghé đến ngồi bên anh.
    - Ngày 28 tháng hai, anh ta trả lời.
    - Năm nào? - Dantès còn hỏi thêm.
    - Năm nào là làm sao? Anh quên cả chúng ta đang ở năm nào à?
    - Làm thế nào được! Tôi đã quá sợ hãi suốt đêm qua, Dantès vừa cười vừa nói, đến suýt bị mất trí ấy chứ, chẳng thế mà trí nhớ của tôi vẫn cứ còn rối loạn. Vậy tôi hỏi anh hôm nay là 28 tháng hai của năm nào thế?
    - Của năm 1829, Jacopo nói.
    Thế là đúng từng ngày, cách đây mười bốn năm Dantès bị bắt giữ. Anh vào lâu đài If năm anh mười chín tuổi, ra khỏi đó anh đã ba mươi tuổi rồi.
    Một nụ cười đau khổ thoáng hiện trên đôi môi anh; anh tự hỏi không biết Mercédès đã ra sao trong khoảng thời gian mà cô ắt phải tin rằng anh đã chết.

  3. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 8: Đảo Monte Cristo
    Edmond Dantès đã mau chóng hiểu ra rằng mình đang có chuyện với ai: anh đã lên một con tàu buôn lậu chuyên buôn bán bất hợp pháp ở vùng biển Địa Trung Hải hàng bông bị cấm, thuốc súng Anh và thuốc lá mà sở Thuốc lá Pháp "quên" đóng dấu.
    Tàu đến Livournẹ Edmond quen một người thợ cắt tóc ở phố Saint - Ferdinand. Anh vào tiệm ấy để cắt tóc và cạo râu. Người thợ cắt tóc kinh ngạc nhìn ông khách có mái tóc dài, bộ râu rậm và đen rồi bắt tay vào việc mà chẳng có ý kiến gì.
    Khi xong việc, anh hỏi mượn một cái gương và tự ngắm mình.
    Mười bốn năm tù đã làm anh thay đổi hẳn.
    Anh nhìn vào gương mỉm cười: người bạn tốt nhất của anh, nếu như anh còn có bạn, cũng không thể nhận ra được anh, ngay đến anh cũng còn chẳng nhận ra được mình..a.ng chủ tàu Jeune - Amélie - đó là tên của chiếc tàu buôn đóng theo kiểu vùng vịnh Gênes -, thiết tha muốn giữ lại trong thủy thủ đoàn của mình một con người có giá trị tầm cỡ Edmond, đã đề nghị anh ký hợp đồng; nhưng anh đã có kế hoạch riêng nên chỉ muốn nhận làm ba tháng.
    Hai tháng rưỡi đã trôi qua trong những chuyến đi liên tiếp. Edmond đã trở thành một thủy thủ chạy tàu ven bờ khéo léo cũng như trước kia anh đã từng là thủy thủ viễn dương táo bạo, anh đã có mối quen biết với tất cả các tay buôn lậu dọc bờ biển.
    Anh đã qua lại đến hai chục lần trước hòn đảo Monte - Cristo nhưng chưa hề tìm được dịp nào đổ bộ lên đó.
    Tới một hôm nhân có một việc buôn bán lớn: đó là chuyện một con tàu chở đầy thảm Thổ Nhĩ Kỳ, vải lụa phương Đông và Cachemire, phải tìm một mảnh đất trung lập để có thể thực hiện được việc trao đổi rồi đem đổ số hàng ấy lên bờ biển nước Pháp.
    Ông chủ tàu Jeune - Amélie đề nghị nơi bốc hàng là đảo Monte-Cristo, đảo này hoàn toàn hoang vắng và chẳng có cả lính lẫn nhân viên hải quan. Thế là việc được quyết định là họ sẽ ghé lại đảo Monte-Cristo và sẽ nhổ neo vào tối ngày hôm sau. Nghe thấy dự định này Dantès run lên vì vui mừng.
    Hai hôm sau, tàu chạy suốt ngày thì nhìn thấy đảo Monte-Cristo vào lúc năm giờ chiều.
    Edmond nhìn ngấu nghiến khối đá và anh bị giày vò bởi nỗi khắc khoải thường cảm thấy trong những cực điểm của niềm hy vọng.
    Đêm đến: người ta cặp bờ lúc mười giờ tối; tàu Jeune - Amélie đến điểm hẹn đầu tiên - Con tàu đến muộn xuất hiện ngay sau đó, trắng và im lìm như một bóng ma và thả neo cách bờ một sải cáp.
    Ngay lúc ấy hàng được chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, suốt đêm mới xong.
    Hôm sau Dantès cầm lấy súng, đạn chì và thuốc súng ngỏ ý muốn đi bắn những con dê hoang dã thấy rất đông cứ nhảy nhót lung tung từ hòn đá nọ sang hòn đá kia, người ta cũng chỉ gán cho cuộc đi chơi này của Dantès là do ham săn bắn hoặc muốn được rảnh một mình.
    Thực ra, Dantès theo đúng những điều suy đoán của tu sĩ Faria: anh cho rằng hồng y giáo chủ Spada cố làm sao cho khỏi bị lộ đã đến cái vùng này, đã giấu con tàu nhỏ của ông ở đó rồi đi theo đường thẳng vạch ra bởi những vết khía trên đá và chôn giấu kho báu của mình ở đầu kia đường thẳng ấy.
    Lúc đi đến đỉnh một mô đá cách bến độ sáu mươi bước, Edmond vẫn luôn luôn được mặt đất mấp mô che khuất tầm nhìn của các bạn đồng hành, thấy các vết khía chấm dứt, chỉ có điều là chẳng dẫn tới một cái hang nào. Một tảng đá to tròn được đặt trên một nền vững chắc là cái đích duy nhất mà các vết khía dường như dẫn tới.
    Tảng đá này đáng được xem xét kỹ hơn; do đó anh đi theo hướng ngược lại và quay trở về.
    Trong lúc đó các bạn trên tàu đang làm bữa ăn sáng. Đúng lúc họ rút con dê ra khỏi cái que xiên tự tạo thì họ thấy Edmond nhẹ nhàng và táo bạo như một con sơn dương đang nhảy từ mô đá này sang mô đá khác: họ bắn một phát súng để báo hiệu cho anh là bữa ăn đã sẵn sàng.
    Chàng đi săn lập tức đổi hướng đi và chạy nhanh về phía họ. Nhưng khi mọi người cùng nhìn theo anh đang nhảy như bay trên các mỏm đá, chê sự khéo léo của anh là liều lĩnh thì như để chứng tỏ sự lo ngại của họ là đúng, bỗng Edmond hụt chân, họ thấy anh lảo đảo trên đỉnh một mô đá, kêu to lên rồi mất hút.
    Tất cả nhất tề nhảy vọt lên vì mọi người đều mến Edmond dù cho anh có tài giỏi hơn họ, tuy nhiên người kịp đến trước là Jacopo.
    Anh ta trông thấy Edmond nằm sóng sượt, đầy máu và gần như bất tỉnh, chắc anh phải lăn xuống từ độ cao tới mười hai hay mười lăm bộ.
    Họ đổ vào miệng anh chút rượu rhum và phương thuốc này từng có hiệu quả với anh lại tác động giống như lần đầu anh được vớt lên tàu.
    Edmond lại mở được mắt, phàn nàn rằng bị đau dữ dội ở đầu gối, đầu nặng ghê gớm và bị đau nhói không sao chịu nổi ở vùng thận. Họ muốn khiêng anh ra sát mép nước, nhưng khi đụng tới người anh, vừa rên rỉ anh vừa nói rằng anh cảm thấy không đủ sức chịu đựng việc di chuyển.
    Những cơn đau của Dantès chẳng những là không dịu đi mà hình như còn tăng lên dữ dội.
    Ông già chủ tàu buộc phải khởi hành ngay buổi sáng để đến đổ hàng giữa Nice và Fréjus cố nài Dantès thử đứng lên. Dantès cố gắng vượt quá sức người để chiều theo yêu cầu đó nhưng cứ mỗi lần gắng sức, anh lại rên rỉ và tái xám.
    - Anh ấy bị dập vùng thắt lưng, ông chủ nói nhỏ: đó là một người bạn tốt ta không được bỏ rơi anh ta, hãy cố gắng chuyển anh ấy lên tàu.
    Nhưng Dantès bảo rằng anh thích được chết ở chỗ anh đang nằm còn hơn là phải chịu đựng những đau đớn khủng khiếp do cử động gây ra vì anh đã quá yếu..- Này, đành ra sao thì ra vậy nhưng không thể nói rằng chúng ta đã bỏ rơi không cứu một người bạn gan dạ như anh.
    - Không, anh nói với ông chủ, tôi là một kẻ vụng về và tôi phải gánh chịu sự trừng phạt do thói vụng về ấy là đúng. Hãy để tôi ở lại với một ít bánh bích quy làm lương thực, một khẩu súng, thuốc súng và đạn để bắn dê, với một cái cuốc để nếu ông có đến đón tôi quá muộn thì tôi tự làm lấy một thứ nhà để mà trú tạm.
    - Chúng tôi phải vắng mặt ít nhất tám ngày, ông chủ nói.
    Những người buôn lậu để lại cho Edmond các thứ anh yêu cầu và ra đi không quên ngoái lại nhìn anh nhiều lần, mỗi lần họ lại làm hiệu chào anh với tình thân hữu còn Edmond chỉ đáp lại được bằng cách vẫy tay, cứ như anh không thể cựa quậy được phần còn lại của cơ thể.
    Thế rồi khi họ đã khuất hẳn, anh thận trọng bò lên đỉnh một mô đá che khuất tầm mắt anh với quang cảnh ngoài biển, từ đó anh nhìn thấy chiếc tàu buôn chuẩn bị vận hành và nhổ neo.
    Sau một giờ con tàu khuất hẳn. Lúc đó Dantès đứng dậy còn nhẹ nhàng và dẻo dai hơn cả một con dê hoang dã đang nhảy nhót giữa các mô đá, anh cầm súng một tay còn cuốc tay kia và chạy đến tảng đá ở cuối các vết khía mà anh đã nhận ra trên các mô đá.
    ở đó Edmond thận trọng bới đất, ngỡ như nhận ra một kỹ xảo tinh vi và bèn tự nhủ là cần phải tấn công vào chính tảng đá này.
    Nhưng bằng cách nào đây?
    Dantès đưa mắt quanh mình như những người đang bối rối thường làm; rồi cái nhìn của anh rơi vào một cái sừng sơn dương chứa đầy thuốc súng mà anh bạn Jacopo để lại cho anh.
    Anh dùng cuốc đào ở chân tảng đá một hố mìn, nhồi thuốc súng vào; rồi anh xé đôi khăn tay lăn lăn trong thuốc súng để làm thành ngòi nổ.
    Anh châm ngòi nổ rồi chạy ra xa.
    Lập tức tiếng nổ bùng lên: tảng đá bị nhấc lùi bằng một sức mạnh không lường được, nó lăn ra, nẩy lên, lao xuống dưới và mất hút, chìm nghỉm dưới biển, để lộ một khoảng tròn phô ra một vòng sắt gắn vào giữa một tấm đá hình vuông.
    Dantès bật lên một tiếng kêu mừng rỡ và kinh ngạc.
    Anh xỏ đòn bẩy vào vòng sắt, bẩy thật mạnh và tấm đá bị tách ra để ngỏ một dốc đứng như cầu thang dẫn xuống một cái hang nhờ nhờ do không khí và ánh sáng không những chỉ lọt qua cửa hang vừa mở mà còn qua các kẽ đá nứt không thấy được hết của tầng đất ngoài cửa hang..Dantès mới chỉ vào được hang thứ nhất; bây giờ anh phải tìm đường vào hang thứ hai. Anh xem xét chân các hòn đá và gõ lên chỗ vách hang mà anh đoán có thể là cửa vào đã được ngụy trang cẩn thận.
    Sau khi gõ vài cái, anh nhận thấy các hòn đá không phải được gắn lại mà chỉ xếp chồng lên nhau rồi trát vữa bên ngoài; anh đưa đầu nhọn của cái cuốc chim vào một khe giữa hai hòn đá rồi ấn mạnh lên cán và mừng rỡ nhìn thấy hòn đá rơi xuống.
    Từ lúc ấy Dantès chỉ còn việc là rút từng hòn đá ra bằng cái răng sắt của cuốc chim, rồi cứ thế lần lượt hòn nọ rơi xuống cạnh hòn kia.
    Cuối cùng Dantès từ hang thứ nhất bước sang hang thứ hai. Hang thứ hai này thấp hơn, tối hơn và có vẻ dễ sợ hơn hang thứ nhất, anh đưa mắt thăm dò cái hang thứ hai này thấy nó cũng rỗng không như hang thứ nhất. Thế thì kho báu, nếu có thật, phải được chôn giấu trong góc tối.
    Anh tiến về phía góc hang và ráo riết đào đất lên. Đến nhát cuốc thứ năm hay thứ sáu thì có tiếng sắt chạm vào sắt. Đó là một hòm gỗ đóng đai sắt.
    Giữa nắp hòm có gắn một tấm bạc mà đất cát không làm han gỉ được, trên đó sáng lóa gia huy của dòng họ Spada mà tu sĩ đã mô tả cho anh nghe nhiều lần.
    Từ lúc ấy, không còn hồ nghi gì nữa, kho báu đúng là đây rồi. Mở hòm ra thấy có ba ngăn.
    Trong ngăn thứ nhất sáng chói những đồng ê quy vàng bóng lộn. Trong ngăn thứ hai những thỏi vàng không đánh bóng được xếp ngay ngắn.
    Cuối cùng là ngăn thứ ba đầy đến một nửa, E**ond vục tay xuống lấy lên từng vốc kim cương, ngọc trai, hồng ngọc mà lúc anh buông tay chúng rơi lên nhau như mưa đá rơi trên kính.
    Sau khi đã sờ nắn, mân mê, vục bàn tay run rẩy vào vàng và đá quý, Edmond đứng dậy và bắt đầu đếm của cải của mình; anh đếm được một ngàn thỏi vàng mỗi thỏi nặng độ hai hay ba livre, hai mươi lăm ngàn đồng ê quy vàng có thể trị giá mỗi đồng tới tám mươi frăng mà anh thấy ngăn hòm mới vơi đến một nửa; cuối cùng anh đong bằng vốc tay được mười lần vốc cả hai tay những kim cương, ngọc trai và đá quý.
    Dantès thấy ngày đang tàn và tối dần. Anh sợ sẽ bị bất ngờ nếu ở lại trong hang nên anh đi ra, súng cầm taỵ Thế rồi anh ngụy trang cửa hang, nằm lên trên, lấy thân mình che lấp lối vào hang và ngủ được độ vài giờ.
    Ngày lại rạng. Edmond xuống, đi vào hang, nhét đầy đá quý vào các túi của mình, cố hết sức đậy thật khéo các tấm gỗ và đai sắt của chiếc hòm, lấp đất kín, giẫm chân lèn cho chặt, đổ cát lên trên cũng để làm cho chỗ mới đào bới giống y như những chỗ khác trên mặt đất; anh ra khỏi hang; đậy tấm đá lên rồi chất lên tấm đá đậy cửa hang những hòn đá kích cỡ to nhỏ khác nhau, nhét đất vào các khe hở, trồng vào đó mấy cây mua và mấy cây thạch thảo, tưới cho cây mới trồng để chúng có vẻ như mọc ở đó từ lâu, xóa sạch các vết chân của anh chi chít quanh chỗ đó, và nóng lòng chờ các bạn cùng tàu quay lại.
    Những người buôn lậu trở lại sau sáu ngày.
    Anh lết ra tận bến như một người bị thương và khi các bạn lên bờ anh bảo họ rằng đã khá hơn nhưng vẫn cứ còn than vãn; và vì chiếc tàu Jeune-Ameslie chỉ ghé Monte-Cristo để đón anh nên anh xuống tàu ngay tối hôm ấy và theo ông chủ tàu tới Livourne.
    Đến Livourne anh bán cho một người Do Thái bốn viên kim cương nhỏ nhất mỗi viên năm ngàn frăng.
    Cùng ngày hôm ấy Dantès cáo biệt đoàn thủy thủ tàu Jeune-Amélie bằng món tiền thưởng hậu hĩnh rồi đi Gênes.
    Lúc anh đến nơi, người ta đang đi thử một du thuyền nhỏ do một người Anh đặt làm, vì nghe nói rằng người thành Gênes là những người đóng tàu giỏi nhất vùng Địa Trung Hải nên ông ta muốn có một du thuyền đóng tại đây. Người Anh đã làm giá xong xuôi với bốn mươi ngàn frăng; Dantès trả luôn sáu mươi ngàn với điều kiện giao tàu ngay hôm ấy. Ông người Anh ba tuần hay một tháng sau mới quay lại nên ông chủ xưởng đóng tàu đồng ý vì nghĩ rằng ông sẽ đủ thời gian đóng một chiếc tàu khác tại xưởng.
    Hai giờ sau, Dantès ra khỏi cảng Gênes, được đưa tiễn bằng ánh mắt của đám đông những người hiếu kỳ muốn xem cái ông lãnh chúa Tây Ban Nha có thói quen đi biển một mình ấy.
    Anh đến Monte- Cristo vào chiều tối hôm sau, chiếc du thuyền là một tàu buồm hảo hạng, nó đã chạy quãng đường ấy mất có ba mươi lăm giờ. Hòn đảo vẫn hoang vắng; có vẻ không ai lên bờ ở đây từ lúc Dantès ra đi, anh đến kho báu của mình: tất cả vẫn còn nguyên trạng như lúc anh đi.
    Ngày hôm sau tài sản khổng lồ của anh được chuyển hết lên du thuyền, nó quay mũi về hướng Marseille.
    Thế rồi một sớm mai, chiếc du thuyền hùng dũng vào cảng Marseille và đậu đối diện đúng.cái chỗ mà buổi tối định mệnh ấy người ta đã đưa anh xuống tàu đi pháo đài If.
    Dantès với vẻ tự tin hoàn hảo mà anh đã tiếp thu được, đưa cho người cảnh binh hỏi giấy anh tấm hộ chiếu Anh mua được ở Livourne dưới cái tên huân tước Wilmirẹ Anh lên bờ chẳng khó khăn gì.
    Tất cả những kỷ niệm thời thơ ấu của Dantès vẫn còn sống mãi trong tâm trí anh nay hiện lên theo mỗi bước anh đi, ở từng góc quảng trường, ở từng góc phố, ở mỗi cái cọc chắn ở ngã tư.
    Vừa nhìn thấy đường Meilhan, anh cảm thấy đầu gối muốn khuỵu xuống và suýt nữa anh ngã xuống dưới những bánh xe quạ Cuối cùng anh đến tận ngôi nhà cha anh đã ở.
    Anh tiến về phía cửa, bước qua ngưỡng cửa hỏi người gác nhà để xin vào thăm căn hộ hai phòng trên gác năm. Những người ở căn hộ nhỏ này là một cặp vợ chồng trẻ vừa cưới được tám ngày.
    Dantès nhìn về phía giường, cái giường vẫn còn đó ở ngay chỗ cũ khi cha anh ở đây; bất giác mắt Edmond đẫm nước mắt: đây là nơi mà cha già đã trút hơi thở cuối cùng trong khi đang gọi tên con.
    Đi xuống tầng dưới, Edmond dừng lại trước một cái cửa khác và hỏi thăm người thợ may Caderousse có còn ở đó hay không. Nhưng người gác cổng trả lời rằng ông ta làm ăn sa sút và bây giờ mở một quán trọ nhỏ trên đường Bellegarde đi Beaucaire.
    Ngay tối hôm ấy người ta thấy Edmond đi dạo trong ngôi làng nhỏ của những người Catalan và bước vào một ngôi nhà tồi tàn của dân chài, ở lại đó chừng hơn một giờ để hỏi thăm tin tức về nhiều người đã chết hay người đã biệt tích từ hơn mười lăm hay mười sáu năm nay.
    Ngày hôm sau, những người mà anh đã đến để hỏi thăm họ, nhận được quà tặng là một chiếc xuồng catalan mới tinh và kèm theo hai lưới vây và một lưới rê.
    Những con người tử tế ấy rất muốn cám ơn người hỏi tin hào hiệp nọ; nhưng khi anh vừa cáo biệt họ thì đã thấy anh lên ngựa rời khỏi Marseille theo cửa ô Aix sau khi sai bảo một thủy thủ vài điều.

  4. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 9: Quán trọ Cầu sông Gard
    Edmond Dantès đã mau chóng hiểu ra rằng mình đang có chuyện với ai: anh đã lên một con tàu buôn lậu chuyên buôn bán bất hợp pháp ở vùng biển Địa Trung Hải hàng bông bị cấm, thuốc súng Anh và thuốc lá mà sở Thuốc lá Pháp "quên
    Nửa đường giữa Beaucaire và Bellegarde có một quán trọ nhỏ treo một tấm tôn cứ rít lên khi có chút gió nhẹ nhất, trên vẽ một cách thô kệch hình ảnh cầu sông Gard.
    Người chủ quán trọ là người quen cũ của chúng ta Gaspard Caderousse, anh ta theo thói quen đang đứng trước cửa quán thì thấy ló ra một kỵ sĩ trên đường từ Bellgarde tới.
    Đó là một thầy tu mặc toàn đen và đội một chiếc mũ ba sừng bất chấp cái nóng nung nấu của mặt trời lúc giữa trưa.
    Kỵ sĩ nhảy xuống đất rồi tiến đến cửa quán trọ, lau trán nhễ nhại mồ hôi bằng chiếc khăn sợi bông màu đỏ rồi gõ ba tiếng bằng mũi gậy bịt sắt xuống ngưỡng cửa.
    - Tôi đây mà, Caderousse nói rất ngạc nhiên.
    Thưa tu sĩ ông muốn gì? Tôi xin nghe lệnh ngài.
    Thầy tu nhìn người đàn ông trong hai ba giây với vẻ chú ý kỳ lạ và nói giọng ýrất nặng:
    - Ông có phải là Caderousse không ?
    - Vâng thưa ông, chủ nhân tỏ ý ngạc nhiên về câu hỏi, tôi đúng là Gaspard Caderousse sẵn sàng phục vụ Ông.
    - Trước hết cần cho tôi tin chắc rằng ông là người mà tôi có việc cần giải quyết. Ông có quen một người tên là Dantès vào năm 1814 hay 1815 không?
    - Dantès !... Tôi có biết anh ta không ư? Cái anh Edmond đáng thương ấy! Tôi tin là có!
    Thậm chí anh ta là một trong những bạn tốt nhất của tôi! Caderousse kêu lên như vậy và mặt anh ta đỏ tía lên.
    - Anh ta ra sao rồi? Thưa ông, cái anh E**ond tội nghiệp ấy? Chủ quán nói tiếp, ông có quen anh tả Anh ta còn sống không ? Anh ta được ra tù chưa? Anh ta có sung sướng không ?
    - Anh ta đã chết trong tù, còn tuyệt vọng hơn, còn khốn khổ hơn người tù khổ sai kéo theo cái lê của mình ở nhà lao khổ sai Toulon.
    Một sắc tái xám chết chóc hiện lên mặt Caderousse thay cho màu đỏ tía lúc đầu. - Và ông quen anh ta à, cái cậu bé tội nghiệp ấy?
    - Tôi được mời đến giường lâm chung của anh ta để làm lễ rửa tội lần cuối. - Tu sĩ trả lời.
    Caderousse lau mồ hôi ròng ròng trên trán.
    - Trong tất cả chuyện này có điều lạ lùng là, tu sĩ nói tiếp, Dantès trên giường bệnh cho đến lúc chết cứ thề với tôi rằng anh ta không hay biết gì về nguyên nhân làm anh ta bị bắt.
    - Đúng thế, đúng đấy, Caderousse thì thào, anh ta không tài nào biết được. Không, thưa tu sĩ, anh ta không nói dối đâu, cậu bé tội nghiệp.
    - Anh ta đã nhờ tôi làm sáng tỏ nguyên nhân gây nên tai họa cho mình mà anh ta đã không thể làm rõ được, để khôi phục tiếng tăm cho anh ta nếu nó đã bị vài vết nhợ Anh ta đã chọn tôi làm người thực hiện di chúc của mình: tôi phải tìm được năm người và chia cho họ tài sản duy nhất của Edmond: viên kim cương này.
    Tu sĩ rút trong túi ra một chiếc hộp nhỏ bằng da nổi cát mịn màu đen, mở ra và làm lấp lánh trước cặp mắt chói lòa của Caderousse một viên kim cương long lanh nạm trên một chiếc nhẫn chạm tuyệt khéo.
    - Một người Anh giàu có bị giam trong cùng xà lim với anh ta có một viên kim cương có giá trị lớn. Khi ra tù ông ta để lại viên kim cương này tặng Dantès là người đã săn sóc ông ta như một người anh lúc ông lâm bệnh. Nó đáng giá năm mươi ngàn frăng không kể cái nhẫn cũng có giá trị nào đó. - Tu sĩ nói thêm.
    Và ông đậy nắp hộp lại rồi bỏ vào túi.
    - Edmond bảo tôi "ông sẽ đến Marseille.
    Ông bán viên kim cương này đi, chia làm năm phần và cho những người nào đã thực sự quý mến tôi trên đời.
    Tôi có ba người bạn tốt và một cô vợ chưa cưới, cả bốn người này tôi tin chắc rằng họ đều tiếc thương tôi hết sức: một trong những người bạn tốt đó tên là Caderousse.
    Caderousse rùng mình.
    - Còn một người khác, tu sĩ nói tiếp, tỏ vẻ như không nhìn thấy sự xúc động của Caderousse, người ấy là Danglars; người thứ ba, anh ta còn nói thêm, dù là tình địch của tôi nhưng anh ta cũng quý tôi, anh ấy tên là Fernand; còn vợ chưa cưới của tôi tên là Mercédès.
    Tu sĩ lại nói tiếp:
    - Phần thứ năm là dành cho người cha của Dantès, nhưng hình như ông đã mất.
    - Chao ôi! Vâng, Caderousse nói trong cơn xúc động bởi những khát vọng đang xung đột lẫn nhau trong đầu hắn; Chao ôi! Vâng, ông cụ tội nghiệp đã mất. Edmond khốn khổ!... Anh ta, anh ta là một tấm lòng vàng, đã gọi tất cả những người ấy là bạn mình... Thực ra quả là tốt hơn khi anh ta không biết một tý gì; anh ta sẽ phải khó khăn cực nhọc lắm lắm mới tha thứ được cho họ vào lúc anh chết...
    - Những người ấy đã làm điều gì chống lại Dantès sao? Tu sĩ nói tiếp. Ông có biết không ?
    Hãy kể ra đi!
    - Phỏng có ích gì? Caderousse nói. Nếu cậu bé còn sống, tôi không nói, nhưng anh ta đã nằm dưới đất như ông đã nói với tôi, anh ta không còn có thể có hận thù, cũng không còn có thể trả thù được. Thôi dập tắt mọi chuyện ấy đi.
    - Vậy ông muốn tôi chia một phần thưởng dành cho sự trung thành cho cả những người ấy mà ông cho là không xứng đáng và là những người bạn giả dối ư?
    - Đúng đấy, ông có lý, Caderousse nói.
    Những người bạn không thể là kẻ phản bội!
    Đó gần như là một sự báng bổ người đã khuất, gần như một tội phạm thánh khi đem thưởng cho sự phản bội, cho tội ác chưa chừng. Vậy thì viên kim cương sẽ dành toàn bộ cho chúng ta.
    Tôi sẽ kể hết tất cả cho ông nghe.
    - Sự thực tôi tin rằng đó là cách làm tốt nhất. - Tu sĩ nói.
    - Chắc là cậu Edmond tội nghiệp đã kể cho ông nghe đoạn đầu câu chuyện. - Caderousse nói.
    - Phải, tu sĩ nói, Edmond đã kể cho tôi nghe những việc cho đến lúc anh ta bị bắt. Nào, ai là những người làm cho Dantès phải chết?
    - Hai người ghen ghét anh ta, thưa ông, một người vì tình, người kia vì tham vọng: đó là Fer-nand và Danglars.
    - Sự ghen ghét ấy thể hiện ra bằng cách nào?
    Ông kể đi.
    - Chúng tố cáo Edmond là nhân viên của tổ chức khôi phục chế độ Bonapart. Chính Danglars đã viết đơn tố giác bằng tay trái để không ai nhận ra được nét chữ của hắn, còn Fernand là người gửi đơn đi.
    - Nhưng, tu sĩ chợt kêu lên, ông đã ở đấy!
    - Đúng thế, Caderousse đáp bằng một giọng nghẹt thở, tôi có mặt ở đó.
    - Thế mà ông không chống lại điều bỉ ổi đó?
    Vậy ông là kẻ tòng phạm.
    - Vâng, thưa ông, tôi ở đó và tôi muốn nói ra tất cả nhưng Danglars đã ngăn cản tôi. Tôi sợ chính trị đang diễn ra hồi ấy, tôi thú nhận điều đó, tôi đã câm miệng, đó là sự hèn nhát, tôi đồng ý như vậy, nhưng không phải là tôi ác..Và Caderousse cúi đầu xuống với dấu hiệu của nỗi ân hận thực sự.
    - Được, thôi ông ạ, tu sĩ nói, ông đã nói với sự thẳng thắn; tự lên án mình như vậy là xứng đáng được tha thứ. Còn ông Morrel đã đóng vai trò gì trong sự việc đáng buồn này?
    - Đó là vai trò của một người chính trực, can đảm và có tình, thưa ông. Hai mươi lần ông can thiệp cho Edmond. Khi Hoàng đế trở về ông đã viết đơn, đã kêu xin, đã đe dọa đến nỗi mà trong thời kỳ phục hồi lần thứ hai ông bị hành hạ khốn đốn như một kẻ ủng hộ chế độ Bona-parte.
    Hàng chục lần như tôi đã nói với ông, ông ta đến nhà cha Dantès để mời cụ về ở nhà ông, và lúc cụ sắp mất, tôi nói thêm với ông chuyện đó, ông ta đã để lại trên lò sưởi một túi tiền để thanh toán nợ nần cho ông cụ và để trang trải cho đám tang; thành thử ông cụ ít ra cũng được chết xứng đáng với cuộc đời cụ đã trải qua, không làm cho ai bị thiệt thòi tổn hại. Còn tôi là người giữ cái túi, một cái túi lớn bằng lưới màu đỏ.
    - Và cái ông Morrel ấy, tu sĩ nói tiếp, ông ta nhất định phải được chúa ban phúc, ông ta phải được giàu có... sung sướng chứ?
    - Ông ta sắp lâm vào cảnh khốn khó, thưa ông, và hơn nữa, ông ta sắp bị mất danh dự. Sau hai mươi nhăm năm làm việc, sau khi đã đạt được vị trí danh giá nhất trong ngành thương mại ở Marseille, ông Morrel đã bị sụp đổ hoàn toàn.
    Ông đã mất năm chiếc tàu trong hai năm, đã phải chịu ba cuộc vỡ nợ kinh khủng và chỉ còn hy vọng nếu chính chiếc tàu Pharaon do Dantès tội nghiệp đã từng chỉ huy, nó phải từ ấn Độ trở về với chuyến hàng chở đầy cánh kiến và chàm. Nếu tàu này cũng bị như những chiếc khác thì ông ta nguy.
    - Thật là thê thảm! Tu sĩ thì thào. Thế còn Danglars thì ra sao? Có phải là kẻ tội nặng nhất, có phải hắn là kẻ chủ mưu không?
    - Hắn ra sao ư? Hắn đã rời Marseille nhờ sự gửi gắm của ông Morrel do không biết tội ác của hắn, đã giúp hắn vào làm nhân viên bảo vệ cho một chủ ngân hàng Tây Ban Nhạ Hồi chiến tranh Tây Ban Nha hắn được dự một phần vào việc cung ứng cho quân đội Pháp và đã trở nên giàu có. Thế rồi với số tiền đầu tiên ấy hắn đã đầu cơ vốn và đã tăng gấp ba gấp bốn số vốn ban đầu của hắn. Hắn đã thực sự là triệu phú, người ta đã phong nam tước cho hắn để ngày nay hắn là ngài nam tước Danglars, hắn có một dinh thự Ở phố Mont-Blanc, mười con ngựa trong chuồng, sáu đầy tớ ở tiền sảnh nhà hắn và tôi.không biết hắn có bao nhiêu triệu trong những két sắt của hắn.
    - Còn Fernand?
    - Fernand thì lại là một chuyện khác hẳn.
    Khi Napoléon trở về, ban sắc lệnh về một cuộc động viên bất thường và Fernand có tên trong danh sách gọi nhập ngũ, được phiên chế vào các binh đoàn chủ công. Tiến ra biên giới cùng với trung đoàn, hắn dự trận Lignỵ Đêm hôm sau trận đánh, hắn là liên lạc trực ở cửa nhà viên tướng có liên hệ bí mật với quân địch. Ngay trong đêm ấy, viên tướng phải gặp quân Anh.
    Ông ta bảo Fernand đi theo, Fernand nhận lời, rời vị trí và đi theo viên tướng.
    Hành động phản quốc này sẽ đưa Fernand ra tòa án quân sự nếu Napoléon còn tại vị thì hắn lại được dùng để tiến cử với nhà vuạ Hắn trở về Pháp với lon thiếu úy; và nhờ sự bảo trợ của viên tướng được trọng dụng, không hề bỏ rơi hắn, hắn trở thành đại úy năm 1823 hồi chiến tranh Tây Ban Nha, đó chính là lúc Danglars liền tiến hành những vụ đầu cơ đầu tiên của hắn.
    Fernand là người Tây Ban Nha nên được cử đến Madrid làm gián điệp; hắn gặp Danglars ở đó, bắt mối với hắn, hứa hẹn với viên tướng về sự ủng hộ của những người bảo hoàng ở thủ đô Tây Ban Nha và ở cả các tỉnh, nhận các lời hứa hẹn và về phần mình đưa ra những lời cam kết, đưa trung đoàn tiến theo những con đường chỉ một mình hắn biết trong những thung lũng do người bảo hoàng kiểm soát, và trong chiến dịch ngắn ngủi này hắn đã có nhiều công lao đến mức sau khi chiếm được Trocadéro, hắn được phong làm đại tá và được thưởng Bắc đẩu bội tinh với hàm bá tước. Bây giờ hắn là bá tước de Morcerf.
    - Ôi số phận! Số phận! - Tu sĩ thì thào.
    - Vâng, nhưng này ông, chưa hết chuyện đâu.
    Chiến tranh Tây Ban Nha chấm dứt, con đường tiến thân của Fernand có cơ nguy vì nếu hòa bình lâu dài có nhiều hứa hẹn sẽ ngự trị trên toàn châu Âu. Chỉ có mỗi một nước Hy Lạp nổi dậy chống Thổ Nhĩ Kỳ và vừa mới phát động chiến tranh giành độc lập. Fernand chạy vạy để được cử sang phục vụ Ở Hy Lạp.
    Một thời gian sau người ta được tin Bá tước de Morcerf vào phục vụ Ali-Pacha, với cấp hàm tướng huấn luyện.
    Ali-Pacha bị giết như ông biết đấy; nhưng trước khi chết, ông thưởng công cho Fernand một số tiền đáng kể, với số tiền đó Fernand trở về Pháp và được thăng Trung tướng. Đến mức mà.ngày nay hắn có một dinh thự tráng lệ Ở Paris, phố Helder số nhà 27.
    Tu sĩ mở miệng, dừng lại một lát như thể do dự rồi cố gắng quá sức mình mới nói được :
    - Còn Mercédès, ông nói, người ta đã đoán chắc với tôi rằng cô ta mất tích?
    - Giờ này Mercédès là một trong những mệnh phụ danh giá nhất Paris. - Caderousse nói.
    - Kể tiếp đi, tu sĩ nói, dường như tôi đang nghe kể chuyện chiêm bao.
    - Mercédès thoạt đầu tuyệt vọng vì việc người ta cướp đi mất Edmond của cộ Giữa cơn tuyệt vọng ấy thì một đau khổ mới lại đến với cô, đó là sự ra đi của Fernand mà cô vẫn coi như anh mình. Fernand ra đi, Mercédès còn lại một mình.
    Nàng khóc ròng rã suốt ba tháng trời, không có tin tức gì của Edmond, không có tin tức gì của Fernand; thế rồi Fernand trở về với quân phục thiếu úy. Niềm vui được thoát cảnh cô đơn trên đời và được gặp lại một người bạn, sau một thời gian dài buồn bã cô đơn, đã xâm chiếm tâm hồn cộ Thế rồi phải nói điều này, Fernand chưa bao giờ bị căm ghét: hắn không được yêu, thế thôi.
    Có một người khác chiếm lĩnh toàn bộ trái tim của Mercédès, con người ấy lại vắng mặt, lại mất tích... có thể lại đã chết.
  5. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chươpng 9)
    Lần thứ hai trở lại, hắn là trung úy, trong chuyến đi đầu tiên, hắn không nói với Mercédès một lời nào về tình yêu, đến lần thứ hai hắn nhắc cô nhớ đến chuyện hắn đã yêu cô.
    Mercédès yêu cầu hắn thêm sáu tháng nữa để cô đợi và khóc Edmond. Sau sáu tháng, Caderousse tiếp, là đám cưới. Fernand thu xếp ngay lập tức việc đổi chỗ ở cho vợ mình và tự mình cũng lánh đi luôn: ở lại làng Catalan vừa quá nhiều nguy hiểm vừa quá nhiều kỷ niệm. Tám ngày sau khi cưới họ ra đi.
    - Thế ông có gặp lại Mercédès không ? - Tu sĩ hỏi.
    - Có, hồi chiến tranh Tây Ban Nha tôi có gặp cô ở Perpignan là nơi Fernand để cô ở lại đó; lúc ấy cô đang dạy học cho con trai, thằng bé Albert.
    Tu sĩ run rẩy.
    - Nhưng muốn dạy cho cậu con trai này thì cô ta cũng phải được học chứ?
    - Ồ! Caderousse nói, Mercédès có thể thành bà hoàng nếu chỉ cần đặt vương miện lên mái đầu đẹp nhất và thông minh ấy. Tài sản của cộđã lớn lên và cô cũng lớn lên theo tài sản. Cô học vẽ, học nhạc, cô học mọi thứ. Ngoài ra nói riêng với ông nhé, tôi tin rằng cô làm mọi thứ như vậy chỉ để khuây khỏa, để lãng quên, và đưa bao nhiêu thứ như vậy vào đầu óc mình chỉ để chống chọi với những gì chất chứa trong tim.
    Caderousse nói tiếp: nhưng bây giờ thì mọi sự ắt đã xong: tài sản và danh giá chắc hẳn đã an ủi được cô tạ Cô ta giàu có, cô ta là bà bá tước.
    Riêng mình tôi, ông xem đấy, tôi vẫn cứ nghèo khổ và bị chúa lãng quên.
    - Ông lầm rồi, ông bạn ạ, tu sĩ nói, và đây là chứng cớ.
    Nói xong, tu sĩ liền lấy viên kim cương trong túi ra và chìa cho Caderousse:
    - Này, ông bạn, ông bảo hắn, cầm lấy viên kim cương này vì nó thuộc về ông. Viên kim cương ấy đáng lẽ phải chia cho các bạn của E**ond.
    Anh ta lại chỉ có một người bạn duy nhất, vậy chẳng cần chia bôi gì nữa. Ông cầm lấy viên kim cương này và bán đi; nó đáng giá năm mươi ngàn frăng, tôi nhắc lại với ông điều đó và số tiền này đủ để đưa ông ra khỏi cảnh khốn cùng.
    Đổi lại ông hãy cho tôi cái túi bằng tơ đỏ mà ông Morrel đã để lại trên lò sưởi nhà cụ Dantès như ông đã kể là ông vẫn đang giữ nó.
    Caderousse mỗi lúc một thêm kinh ngạc, đi về phía cái tủ lớn bằng gỗ sồi, mở ra và đưa cho tu sĩ một cái túi dài màu đỏ đã phai sắc, có quai bằng hai vòng đồng trước kia mạ vàng.
    Tu sĩ cầm lấy túi và đưa viên kim cương cho Caderousse.
    - Tốt lắm, được lắm, tu sĩ nói, mong sao số tiền này sinh lợi cho ông! Xin chào, tôi phải tránh xa những người cứ quen thói người nọ làm hại người kiạ.
    " đóng dấu.
    Tàu đến Livournẹ Edmond quen một người thợ cắt tóc ở phố Saint - Ferdinand. Anh vào tiệm ấy để cắt tóc và cạo râu. Người thợ cắt tóc kinh ngạc nhìn ông khách có mái tóc dài, bộ râu rậm và đen rồi bắt tay vào việc mà chẳng có ý kiến gì.
    Khi xong việc, anh hỏi mượn một cái gương và tự ngắm mình.
    Mười bốn năm tù đã làm anh thay đổi hẳn.
    Anh nhìn vào gương mỉm cười: người bạn tốt nhất của anh, nếu như anh còn có bạn, cũng không thể nhận ra được anh, ngay đến anh cũng còn chẳng nhận ra được mình..a.ng chủ tàu Jeune - Amélie - đó là tên của chiếc tàu buôn đóng theo kiểu vùng vịnh Gênes -, thiết tha muốn giữ lại trong thủy thủ đoàn của mình một con người có giá trị tầm cỡ Edmond, đã đề nghị anh ký hợp đồng; nhưng anh đã có kế hoạch riêng nên chỉ muốn nhận làm ba tháng.
    Hai tháng rưỡi đã trôi qua trong những chuyến đi liên tiếp. Edmond đã trở thành một thủy thủ chạy tàu ven bờ khéo léo cũng như trước kia anh đã từng là thủy thủ viễn dương táo bạo, anh đã có mối quen biết với tất cả các tay buôn lậu dọc bờ biển.
    Anh đã qua lại đến hai chục lần trước hòn đảo Monte - Cristo nhưng chưa hề tìm được dịp nào đổ bộ lên đó.
    Tới một hôm nhân có một việc buôn bán lớn: đó là chuyện một con tàu chở đầy thảm Thổ Nhĩ Kỳ, vải lụa phương Đông và Cachemire, phải tìm một mảnh đất trung lập để có thể thực hiện được việc trao đổi rồi đem đổ số hàng ấy lên bờ biển nước Pháp.
    Ông chủ tàu Jeune - Amélie đề nghị nơi bốc hàng là đảo Monte-Cristo, đảo này hoàn toàn hoang vắng và chẳng có cả lính lẫn nhân viên hải quan. Thế là việc được quyết định là họ sẽ ghé lại đảo Monte-Cristo và sẽ nhổ neo vào tối ngày hôm sau. Nghe thấy dự định này Dantès run lên vì vui mừng.
    Hai hôm sau, tàu chạy suốt ngày thì nhìn thấy đảo Monte-Cristo vào lúc năm giờ chiều.
    Edmond nhìn ngấu nghiến khối đá và anh bị giày vò bởi nỗi khắc khoải thường cảm thấy trong những cực điểm của niềm hy vọng.
    Đêm đến: người ta cặp bờ lúc mười giờ tối; tàu Jeune - Amélie đến điểm hẹn đầu tiên - Con tàu đến muộn xuất hiện ngay sau đó, trắng và im lìm như một bóng ma và thả neo cách bờ một sải cáp.
    Ngay lúc ấy hàng được chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, suốt đêm mới xong.

  6. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 9)
    Hôm sau Dantès cầm lấy súng, đạn chì và thuốc súng ngỏ ý muốn đi bắn những con dê hoang dã thấy rất đông cứ nhảy nhót lung tung từ hòn đá nọ sang hòn đá kia, người ta cũng chỉ gán cho cuộc đi chơi này của Dantès là do ham săn bắn hoặc muốn được rảnh một mình.
    Thực ra, Dantès theo đúng những điều suy đoán của tu sĩ Faria: anh cho rằng hồng y giáo chủ Spada cố làm sao cho khỏi bị lộ đã đến cái vùng này, đã giấu con tàu nhỏ của ông ở đó rồi đi theo đường thẳng vạch ra bởi những vết khía trên đá và chôn giấu kho báu của mình ở đầu kia đường thẳng ấy.
    Lúc đi đến đỉnh một mô đá cách bến độ sáu mươi bước, Edmond vẫn luôn luôn được mặt đất mấp mô che khuất tầm nhìn của các bạn đồng hành, thấy các vết khía chấm dứt, chỉ có điều là chẳng dẫn tới một cái hang nào. Một tảng đá to tròn được đặt trên một nền vững chắc là cái đích duy nhất mà các vết khía dường như dẫn tới.
    Tảng đá này đáng được xem xét kỹ hơn; do đó anh đi theo hướng ngược lại và quay trở về.
    Trong lúc đó các bạn trên tàu đang làm bữa ăn sáng. Đúng lúc họ rút con dê ra khỏi cái que xiên tự tạo thì họ thấy Edmond nhẹ nhàng và táo bạo như một con sơn dương đang nhảy từ mô đá này sang mô đá khác: họ bắn một phát súng để báo hiệu cho anh là bữa ăn đã sẵn sàng.
    Chàng đi săn lập tức đổi hướng đi và chạy nhanh về phía họ. Nhưng khi mọi người cùng nhìn theo anh đang nhảy như bay trên các mỏm đá, chê sự khéo léo của anh là liều lĩnh thì như để chứng tỏ sự lo ngại của họ là đúng, bỗng Edmond hụt chân, họ thấy anh lảo đảo trên đỉnh một mô đá, kêu to lên rồi mất hút.
    Tất cả nhất tề nhảy vọt lên vì mọi người đều mến Edmond dù cho anh có tài giỏi hơn họ, tuy nhiên người kịp đến trước là Jacopo.
    Anh ta trông thấy Edmond nằm sóng sượt, đầy máu và gần như bất tỉnh, chắc anh phải lăn xuống từ độ cao tới mười hai hay mười lăm bộ.
    Họ đổ vào miệng anh chút rượu rhum và phương thuốc này từng có hiệu quả với anh lại tác động giống như lần đầu anh được vớt lên tàu.
    Edmond lại mở được mắt, phàn nàn rằng bị đau dữ dội ở đầu gối, đầu nặng ghê gớm và bị đau nhói không sao chịu nổi ở vùng thận. Họ muốn khiêng anh ra sát mép nước, nhưng khi đụng tới người anh, vừa rên rỉ anh vừa nói rằng anh cảm thấy không đủ sức chịu đựng việc di chuyển.
    Những cơn đau của Dantès chẳng những là không dịu đi mà hình như còn tăng lên dữ dội.
    Ông già chủ tàu buộc phải khởi hành ngay buổi sáng để đến đổ hàng giữa Nice và Fréjus cố nài Dantès thử đứng lên. Dantès cố gắng vượt quá sức người để chiều theo yêu cầu đó nhưng cứ mỗi lần gắng sức, anh lại rên rỉ và tái xám.
    - Anh ấy bị dập vùng thắt lưng, ông chủ nói nhỏ: đó là một người bạn tốt ta không được bỏ rơi anh ta, hãy cố gắng chuyển anh ấy lên tàu.
    Nhưng Dantès bảo rằng anh thích được chết ở chỗ anh đang nằm còn hơn là phải chịu đựng những đau đớn khủng khiếp do cử động gây ra vì anh đã quá yếu..- Này, đành ra sao thì ra vậy nhưng không thể nói rằng chúng ta đã bỏ rơi không cứu một người bạn gan dạ như anh.
    - Không, anh nói với ông chủ, tôi là một kẻ vụng về và tôi phải gánh chịu sự trừng phạt do thói vụng về ấy là đúng. Hãy để tôi ở lại với một ít bánh bích quy làm lương thực, một khẩu súng, thuốc súng và đạn để bắn dê, với một cái cuốc để nếu ông có đến đón tôi quá muộn thì tôi tự làm lấy một thứ nhà để mà trú tạm.
    - Chúng tôi phải vắng mặt ít nhất tám ngày, ông chủ nói.
    Những người buôn lậu để lại cho Edmond các thứ anh yêu cầu và ra đi không quên ngoái lại nhìn anh nhiều lần, mỗi lần họ lại làm hiệu chào anh với tình thân hữu còn Edmond chỉ đáp lại được bằng cách vẫy tay, cứ như anh không thể cựa quậy được phần còn lại của cơ thể.
    Thế rồi khi họ đã khuất hẳn, anh thận trọng bò lên đỉnh một mô đá che khuất tầm mắt anh với quang cảnh ngoài biển, từ đó anh nhìn thấy chiếc tàu buôn chuẩn bị vận hành và nhổ neo.
    Sau một giờ con tàu khuất hẳn. Lúc đó Dantès đứng dậy còn nhẹ nhàng và dẻo dai hơn cả một con dê hoang dã đang nhảy nhót giữa các mô đá, anh cầm súng một tay còn cuốc tay kia và chạy đến tảng đá ở cuối các vết khía mà anh đã nhận ra trên các mô đá.
    ở đó Edmond thận trọng bới đất, ngỡ như nhận ra một kỹ xảo tinh vi và bèn tự nhủ là cần phải tấn công vào chính tảng đá này.
    Nhưng bằng cách nào đây?
    Dantès đưa mắt quanh mình như những người đang bối rối thường làm; rồi cái nhìn của anh rơi vào một cái sừng sơn dương chứa đầy thuốc súng mà anh bạn Jacopo để lại cho anh.
    Anh dùng cuốc đào ở chân tảng đá một hố mìn, nhồi thuốc súng vào; rồi anh xé đôi khăn tay lăn lăn trong thuốc súng để làm thành ngòi nổ.
    Anh châm ngòi nổ rồi chạy ra xa.
    Lập tức tiếng nổ bùng lên: tảng đá bị nhấc lùi bằng một sức mạnh không lường được, nó lăn ra, nẩy lên, lao xuống dưới và mất hút, chìm nghỉm dưới biển, để lộ một khoảng tròn phô ra một vòng sắt gắn vào giữa một tấm đá hình vuông.
    Dantès bật lên một tiếng kêu mừng rỡ và kinh ngạc.
    Anh xỏ đòn bẩy vào vòng sắt, bẩy thật mạnh và tấm đá bị tách ra để ngỏ một dốc đứng như cầu thang dẫn xuống một cái hang nhờ nhờ do không khí và ánh sáng không những chỉ lọt qua cửa hang vừa mở mà còn qua các kẽ đá nứt không thấy được hết của tầng đất ngoài cửa hang..Dantès mới chỉ vào được hang thứ nhất; bây giờ anh phải tìm đường vào hang thứ hai. Anh xem xét chân các hòn đá và gõ lên chỗ vách hang mà anh đoán có thể là cửa vào đã được ngụy trang cẩn thận.
    Sau khi gõ vài cái, anh nhận thấy các hòn đá không phải được gắn lại mà chỉ xếp chồng lên nhau rồi trát vữa bên ngoài; anh đưa đầu nhọn của cái cuốc chim vào một khe giữa hai hòn đá rồi ấn mạnh lên cán và mừng rỡ nhìn thấy hòn đá rơi xuống.
    Từ lúc ấy Dantès chỉ còn việc là rút từng hòn đá ra bằng cái răng sắt của cuốc chim, rồi cứ thế lần lượt hòn nọ rơi xuống cạnh hòn kia.
    Cuối cùng Dantès từ hang thứ nhất bước sang hang thứ hai. Hang thứ hai này thấp hơn, tối hơn và có vẻ dễ sợ hơn hang thứ nhất, anh đưa mắt thăm dò cái hang thứ hai này thấy nó cũng rỗng không như hang thứ nhất. Thế thì kho báu, nếu có thật, phải được chôn giấu trong góc tối.
    Anh tiến về phía góc hang và ráo riết đào đất lên. Đến nhát cuốc thứ năm hay thứ sáu thì có tiếng sắt chạm vào sắt. Đó là một hòm gỗ đóng đai sắt.
    Giữa nắp hòm có gắn một tấm bạc mà đất cát không làm han gỉ được, trên đó sáng lóa gia huy của dòng họ Spada mà tu sĩ đã mô tả cho anh nghe nhiều lần.
    Từ lúc ấy, không còn hồ nghi gì nữa, kho báu đúng là đây rồi. Mở hòm ra thấy có ba ngăn.
    Trong ngăn thứ nhất sáng chói những đồng ê quy vàng bóng lộn. Trong ngăn thứ hai những thỏi vàng không đánh bóng được xếp ngay ngắn.
    Cuối cùng là ngăn thứ ba đầy đến một nửa, E**ond vục tay xuống lấy lên từng vốc kim cương, ngọc trai, hồng ngọc mà lúc anh buông tay chúng rơi lên nhau như mưa đá rơi trên kính.
    Sau khi đã sờ nắn, mân mê, vục bàn tay run rẩy vào vàng và đá quý, Edmond đứng dậy và bắt đầu đếm của cải của mình; anh đếm được một ngàn thỏi vàng mỗi thỏi nặng độ hai hay ba livre, hai mươi lăm ngàn đồng ê quy vàng có thể trị giá mỗi đồng tới tám mươi frăng mà anh thấy ngăn hòm mới vơi đến một nửa; cuối cùng anh đong bằng vốc tay được mười lần vốc cả hai tay những kim cương, ngọc trai và đá quý.
    Dantès thấy ngày đang tàn và tối dần. Anh sợ sẽ bị bất ngờ nếu ở lại trong hang nên anh đi ra, súng cầm taỵ Thế rồi anh ngụy trang cửa hang, nằm lên trên, lấy thân mình che lấp lối vào hang và ngủ được độ vài giờ.
    Ngày lại rạng. Edmond xuống, đi vào hang, nhét đầy đá quý vào các túi của mình, cố hết sức đậy thật khéo các tấm gỗ và đai sắt của chiếc hòm, lấp đất kín, giẫm chân lèn cho chặt, đổ cát lên trên cũng để làm cho chỗ mới đào bới giống y như những chỗ khác trên mặt đất; anh ra khỏi hang; đậy tấm đá lên rồi chất lên tấm đá đậy cửa hang những hòn đá kích cỡ to nhỏ khác nhau, nhét đất vào các khe hở, trồng vào đó mấy cây mua và mấy cây thạch thảo, tưới cho cây mới trồng để chúng có vẻ như mọc ở đó từ lâu, xóa sạch các vết chân của anh chi chít quanh chỗ đó, và nóng lòng chờ các bạn cùng tàu quay lại.
    Những người buôn lậu trở lại sau sáu ngày.
    Anh lết ra tận bến như một người bị thương và khi các bạn lên bờ anh bảo họ rằng đã khá hơn nhưng vẫn cứ còn than vãn; và vì chiếc tàu Jeune-Ameslie chỉ ghé Monte-Cristo để đón anh nên anh xuống tàu ngay tối hôm ấy và theo ông chủ tàu tới Livourne.
    Đến Livourne anh bán cho một người Do Thái bốn viên kim cương nhỏ nhất mỗi viên năm ngàn frăng.
    Cùng ngày hôm ấy Dantès cáo biệt đoàn thủy thủ tàu Jeune-Amélie bằng món tiền thưởng hậu hĩnh rồi đi Gênes.
    Lúc anh đến nơi, người ta đang đi thử một du thuyền nhỏ do một người Anh đặt làm, vì nghe nói rằng người thành Gênes là những người đóng tàu giỏi nhất vùng Địa Trung Hải nên ông ta muốn có một du thuyền đóng tại đây. Người Anh đã làm giá xong xuôi với bốn mươi ngàn frăng; Dantès trả luôn sáu mươi ngàn với điều kiện giao tàu ngay hôm ấy. Ông người Anh ba tuần hay một tháng sau mới quay lại nên ông chủ xưởng đóng tàu đồng ý vì nghĩ rằng ông sẽ đủ thời gian đóng một chiếc tàu khác tại xưởng.
    Hai giờ sau, Dantès ra khỏi cảng Gênes, được đưa tiễn bằng ánh mắt của đám đông những người hiếu kỳ muốn xem cái ông lãnh chúa Tây Ban Nha có thói quen đi biển một mình ấy.
    Anh đến Monte- Cristo vào chiều tối hôm sau, chiếc du thuyền là một tàu buồm hảo hạng, nó đã chạy quãng đường ấy mất có ba mươi lăm giờ. Hòn đảo vẫn hoang vắng; có vẻ không ai lên bờ ở đây từ lúc Dantès ra đi, anh đến kho báu của mình: tất cả vẫn còn nguyên trạng như lúc anh đi.
    Ngày hôm sau tài sản khổng lồ của anh được chuyển hết lên du thuyền, nó quay mũi về hướng Marseille.
    Thế rồi một sớm mai, chiếc du thuyền hùng dũng vào cảng Marseille và đậu đối diện đúng.cái chỗ mà buổi tối định mệnh ấy người ta đã đưa anh xuống tàu đi pháo đài If.
    Dantès với vẻ tự tin hoàn hảo mà anh đã tiếp thu được, đưa cho người cảnh binh hỏi giấy anh tấm hộ chiếu Anh mua được ở Livourne dưới cái tên huân tước Wilmirẹ Anh lên bờ chẳng khó khăn gì.
    Tất cả những kỷ niệm thời thơ ấu của Dantès vẫn còn sống mãi trong tâm trí anh nay hiện lên theo mỗi bước anh đi, ở từng góc quảng trường, ở từng góc phố, ở mỗi cái cọc chắn ở ngã tư.
    Vừa nhìn thấy đường Meilhan, anh cảm thấy đầu gối muốn khuỵu xuống và suýt nữa anh ngã xuống dưới những bánh xe quạ Cuối cùng anh đến tận ngôi nhà cha anh đã ở.
    Anh tiến về phía cửa, bước qua ngưỡng cửa hỏi người gác nhà để xin vào thăm căn hộ hai phòng trên gác năm. Những người ở căn hộ nhỏ này là một cặp vợ chồng trẻ vừa cưới được tám ngày.
    Dantès nhìn về phía giường, cái giường vẫn còn đó ở ngay chỗ cũ khi cha anh ở đây; bất giác mắt Edmond đẫm nước mắt: đây là nơi mà cha già đã trút hơi thở cuối cùng trong khi đang gọi tên con.
    Đi xuống tầng dưới, Edmond dừng lại trước một cái cửa khác và hỏi thăm người thợ may Caderousse có còn ở đó hay không. Nhưng người gác cổng trả lời rằng ông ta làm ăn sa sút và bây giờ mở một quán trọ nhỏ trên đường Bellegarde đi Beaucaire.
    Ngay tối hôm ấy người ta thấy Edmond đi dạo trong ngôi làng nhỏ của những người Catalan và bước vào một ngôi nhà tồi tàn của dân chài, ở lại đó chừng hơn một giờ để hỏi thăm tin tức về nhiều người đã chết hay người đã biệt tích từ hơn mười lăm hay mười sáu năm nay.
    Ngày hôm sau, những người mà anh đã đến để hỏi thăm họ, nhận được quà tặng là một chiếc xuồng catalan mới tinh và kèm theo hai lưới vây và một lưới rê.
    Những con người tử tế ấy rất muốn cám ơn người hỏi tin hào hiệp nọ; nhưng khi anh vừa cáo biệt họ thì đã thấy anh lên ngựa rời khỏi Marseille theo cửa ô Aix sau khi sai bảo một thủy thủ vài điều.

  7. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 10: Hãng Morrel
    Hôm sau cái ngày đã diễn ra cảnh mà chúng tôi vừa kể, một người đàn ông quãng ba mươi đến ba mươi hai tuổi, có cả dáng vẻ và ngữ điệu Anh, đến nhà ông de Boville.
    - Thưa ông, ông ta nói, tôi là người đại diện toàn quyền của hãng Thomson và French ở Romẹ Từ mười năm nay chúng tôi giao dịch với hãng Morrel ở Marseillẹ Chúng tôi đã bỏ vốn vào các mối giao dịch đó và chúng tôi không khỏi lo ngại khi nghe đồn rằng hãng này có nguy cơ phá sản.
    - Ồ! Thưa ông, ông de Boville kêu lên, sự lo ngại của ông thật không may lại hết sức có cơ sở và ông đang thấy đây một con người tuyệt vọng. Tôi có hai trăm ngàn frăng đặt trong hãng Morrel, số tiền hai trăm ngàn frăng này phải được thanh toán vào ngày 15 tháng này. Nhưng tình cảnh ông Morrel thì đến mức, xin nói gọn với ông, là tôi coi món nợ này như mất trắng.
    - Thế thì, người Anh nói, tôi mua của ông món nợ ấy; hai trăm ngàn quan bằng tiền mặt.
    Và người Anh rút trong túi ra một bó tiền giấy có thể là gấp đôi số tiền mà ông de Boville sợ mất.
    Một ánh mừng rỡ lướt qua mặt ông ta.
    - Tôi chỉ yêu cầu có mỗi một việc.
    - Xin nói đi, thưa ông, tôi nghe đây.
    - Ông là thanh tra các nhà tù, vậy chắc là ông giữ sổ sách vào, ra tù trong đó có ghi kèm cả những nhận xét liên quan đến tù nhân phải không?
    - Từng tù nhân có hồ sơ riêng.
    - à, thưa ông, tôi đã được nuôi dạy ở Rome do một tu sĩ đáng thương, tu sĩ Faria, ông ấy đã mất tích đột ngột. Rồi tôi được biết rằng ông bị giam giữ ở pháo đài If và tôi muốn biết một vài chi tiết về cái chết của ông.
    - Tu sĩ Fariả ồ! Tôi còn nhớ rất rõ về ông ta, ông de Boville reo lên, ông ấy bị điên. Mời ông sang phòng làm việc của tôi và tôi sẽ cho ông thấy điều đó.
    Và cả hai người đi sang phòng làm việc. Ông thanh tra đặt trước mặt người Anh một cuốn sổ cái và các hồ sơ liên quan đến pháo đài If, chọphép ông khách tùy ý lật giở từng trang, trong khi chính ông ta thì ngồi vào một góc đọc báo.
    Ông người Anh dễ dàng tìm thấy hồ sơ liên quan đến tu sĩ Faria; nhưng sau khi đã biết rõ những hồ sơ đầu tiên này, ông ta tiếp tục lật từng trang cho đến lúc tới tập hồ sơ của Edmond Dantès. Ở đó ông tìm thấy y nguyên: đơn tố giác, biên bản thẩm vấn, đơn khiếu nại của ông Morrel, lời phê của Villefort, ông ta nhẹ nhàng gấp tờ đơn tố giác bỏ vào túi, đọc biên bản thẩm vấn, đọc nhanh đơn đề ngày 10 tháng tư năm 1815 trong đó ông Morrel theo lời khuyên của phó biện lý, lúc đó Napoléon đang tại vị, vì có thiện chí đã trình bày quá lên rằng Dantès đã cống hiến cho Đế chế nhiều thành tích, những thành tích mà lời xác nhận của Villefort làm cho chúng trở nên không thể nào chối cãi được. Vậy là ông hiểu tất cả. Cái đơn gửi Napoléon này bị Villefort lưu lại, đến cuộc phục hồi lần thứ hai đã biến thành một vũ khí khủng khiếp trong tay viên biện lý hoàng gia.
    - Cám ơn ông, ông người Anh nói trong khi gập mạnh sổ cái. Tôi đã biết cái phải biết; bây giờ ông giao cho tôi số tín phiếu mà ông có quyền đòi ông Morrel rồi tôi sẽ đếm tiền cho ông.
    Rồi ông ta nhường chỗ ở bàn giấy cho ông de Boville, ông này ngồi ngay vào đó không câu nệ gì và vội vàng làm việc chuyển nhượng được yêu cầu, trong khi đó ông người Anh đếm các tờ giấy bạc bên mép các giá để hồ sơ.
    Sau đó người phái viên của hãng Thomson và French ở Rome đến nhà ông Morrel.
    Mười bốn năm trời đã làm cho nhà kinh doanh đáng kính ấy thay đổi nhiều, ông mới chỉ vừa năm mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, trán hằn sâu những nếp nhăn đầy âu lo.
    - Thưa ông, hãng Thomson và French trong khoảng tháng này và tháng sau phải chi ở Pháp ba hay bốn trăm ngàn frăng. Được biết sự đúng hẹn tuyệt đối của ông nên hãng đã tập họp toàn bộ giấy tờ có mang chữ ký này và giao cho tôi lần lượt theo hạn vay ghi trong giấy mà thu hồi vốn ở ông và sử dụng số vốn đó. Chúng tôi đã có những hối phiếu do ông ký, thưa ông, để vay một khoản tiền khá lớn là hai trăm tám mươi bảy ngàn năm trăm frăng. Và tôi không giấu gì ông, ông ta nói tiếp sau một lát im lặng, vẫn biết tính trung thực không chê trách vào đâu được của ông cho đến tận bây giờ, nhưng dư luận chung ở Marseille cho là ông không đủ khả năng để đương đầu với việc kinh doanh..Trước lời mở đầu gần như là thô bạo này, ông Morrel tái mặt đi một cách đáng sợ.
    - Xin hãy nói thẳng, thưa ông, ông có chi trả những giấy tờ này được đúng hạn như trước không ?
    Ông Morrel rùng mình.
    - Có, thưa ông, tôi có trả chứ, như tôi hy vọng, tàu tôi cập bến bình an, vì chuyến hàng này về sẽ trả lại cho tôi khoản kinh phí bị mất trong các tai nạn liên tiếp trước đây mà tôi phải gánh chịu; nhưng nếu như không may tàu Pharaon, nguồn vốn cuối cùng mà tôi trông cậy bị thất thoát...
    Ông Morrel thở ra thật dài và lướt bàn tay lên vầng trán đầy mồ hôi.
    -... Nếu nguồn vốn này mà thất thoát thì tôi đi đời, thưa ông, tôi hoàn toàn đi đứt.
    - Cái gì thế, người Anh nói trong khi lắng tai nghe ngóng, tiếng ồn ào ấy nghĩa là gì?
    - Ôi lạy chúa! Lạy chúa tôi! - Ông Morrel kêu lên tái mặt đi, còn xảy ra chuyện gì nữa thế?
    Đúng thế, có tiếng ồn ào ở ngoài cầu thang; tiếng người đi lại, còn nghe thấy cả một tiếng kêu đau đớn.
    Cùng lúc ấy, cánh cửa mở ra và xuất hiện một cô gái mặt tái xanh, má đẫm nước mắt.
    Ông Morrel đứng dậy run bắn lên và phải chống vào tay ghế bành vì nếu không ông không thể nào đứng vững được. Ông muốn hỏi mà không sao thốt nên lời.
    - Ôi cha ôi! - Cô gái nói tay chắp vào nhau, hãy tha lỗi cho con đã làm người đưa tin xấu!
    Ông Morrel sắc mặt nhợt đi kinh khủng.
    Julie lao vào vòng tay ông.
    - Ôi cha ơi! Cha của con hãy can đảm lên.
    - Thế là tàu Pharaon đã đắm ư? ông Morrel hỏi, giọng nghẹn ngào.
    Cô gái không trả lời nhưng cô khẳng định bằng cách gật gật mái đầu đang dựa vào ngực cha mình.
    - Thế còn đoàn thủy thủ thì sao? - Ông Morrel hỏi.
    - Đã được cứu thoát, cô gái nói, được một tàu của thành phố Bordeaux cứu thoát, tàu ấy vừa vào cảng.
    Ông Morrel giơ hai tay lên trời tỏ vẻ cam chịu và lòng biết ơn sâu sắc.
    - Cám ơn chúa! ông Morrel nói, ít ra thì người cũng chỉ trừng phạt có một mình tôi. Mời vào đi vì tôi đoán rằng mọi người đã ở ngoài cửa..Đúng thế, vừa mới nghe thấy những lời này thì bà Morrel bước vào trong tiếng nức nở; Emmanuel theo sau và phía sau trong tiền sảnh thấy có những bộ mặt gân guốc của bảy tám người thủy thủ mình trần.
    - Chuyện xảy ra như thế nào? - Ông Morrel hỏi, lại gần đây Penelon, hãy kể lại diễn biến sự việc đi.
    Một thủy thủ già da màu đồng vì nắng xích đạo, tiến lên, cuộn trong tay phần còn lại của chiếc mũ.
    - Xin chào ông Morrel. Ông ta nói cứ như vừa mới rời Marseille hôm qua.
    - Xin chào ông bạn, ông chủ tàu nói, không kìm được nụ cười trong nước mắt; thế còn ông thuyền trưởng Gaumard đâu?
    - Về ông thuyền trưởng, thưa ông Morrel, ông ta ngã bệnh ở Palma; nhưng nếu được chúa thương đến thì sẽ không sao đâu và ông sẽ thấy ông ta về sau vài hôm, cũng khỏe mạnh như ông và tôi.
    - Tốt lắm... Bây giờ kể đi, Penelon. - Ông Morrel nói.
    Penelon lùa miếng thuốc đang nhai từ má phải sang má trái, đưa tay che miệng, quay đầu đi và nhổ ra ngoài tiền sảnh một tia dài nước bọt màu đen đen, vừa bước chân lên vừa đung đưa hông.
    - Trong lúc đó chúng tôi gặp phải sự việc giống như đã xảy ra giữa mũi Blanc và mũi Boyador, thưa ông Morrel, tàu đang chạy với ngọn gió thuận Nam-Tây nam thì cơn bão ập đến. Sau mười hai giờ liền chúng tôi cứ bị lắc lư dữ dội rồi một lỗ hổng lớn bung ra dưới đáy tàu. Phải rời tàu thôi.
    Ông thuyền trưởng xuống cuối cùng. Vừa kịp. Ông ta vừa nhảy, thì boong tàu bục ra với một tiếng động phải nói là như loạt súng mạn tàu cỡ bốn mươi tám. Mười phút sau, boong tàu chìm xuống từ đàng mũi và rồi, thôi chào cả bọn brru!... Thế là xong, chẳng còn Pharaon nữa!
    Còn chúng tôi, chúng tôi bị ba ngày ròng không có gì để mà ăn mà uống. Rồi chúng tôi được tàu Gironde vớt. Thế đấy, chuyện xảy ra như vậy đấy, thưa ông Morrel, xin thề danh dự!
    - Tốt, các bạn ạ, các bạn đều là những con người gan dạ. Bây giờ hãng nợ lương các bạn là bao nhiêu? Coclès, hãy trả cho mỗi con người gan dạ này hai trăm frăng. Và nếu các bạn tìm được việc tốt thì vào làm đi, các bạn đã được tự do.
    Phần cuối của câu nói này gây ra một tác dụng kỳ lạ Ở những người thủy thủ đáng trọng.này. Họ nhìn nhau vẻ hốt hoảng, Penelon hụt hơi, suýt nuốt chửng cả miếng thuốc nhai.
    - Thế nào, thưa ông Morrel, ông ta nói với giọng nghẹn ngào, ông thải chúng tôi ư? ông không hài lòng về chúng tôi sao?
    - Không đâu các con, ông chủ tàu nói, không, tôi không phiền lòng vì các bạn, hoàn toàn ngược lại. Không tôi không thải các anh đâu. Nhưng biết làm sao được? Tôi không còn tàu nữa nên tôi không cần thủy thủ.
    - Làm sao? ông không còn tàu nào nữa ư?
    - Penelon nói. - Này, ông đóng một chiếc khác đi, chúng tôi sẽ đợi. Cám ơn chúa, chúng tôi hiểu thế nào là chèo chống với sóng gió.
    - Tôi không còn tiền để đóng tàu nữa, Penelon ạ, ông chủ tàu nói với một nụ cười buồn, vậy tôi không thể nhận đề nghị của các anh được, dù rằng đề nghị ấy thật ân cần. Hãy đi đi, tôi van các anh đấy. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một thời cơ tốt đẹp hơn. Bây giờ xin để tôi một mình một lúc, tôi cần nói chuyện với ông đây.
    Và ông đưa mắt nhìn người phái viên của hãng Thomson và French vẫn đứng im bất động trong góc suốt cảnh này.
    Chỉ còn lại hai người với nhau.
    - Này ông, Morrel vừa nói vừa buông mình xuống ghế bành, ông đã thấy tất cả, đã nghe tất cả, tôi chẳng còn gì để báo tin cho ông.
    - Thưa ông, người Anh nói, tôi đã thấy rằng một tai nạn mới không đáng có như những lần trước lại đến với ông, và điều đó củng cố lòng ao ước của tôi muốn giúp ông. Nào, có phải tôi là một trong những chủ nợ chính của ông không ?
    - ít ra ông cũng là người có những số tiền cho vay ngắn hạn nhất.
    - Ông có muốn gia hạn thanh toán không?
    - Một thời hạn kéo dài thêm có thể cứu vãn được danh dự của tôi và do đó cả cuộc sống của tôi.
    - Được, người ngoại quốc nói, hãng Thomson và French cho ông thêm ba tháng nữa. Hôm nay là mùng 5 tháng sáu, vậy thì ông hãy chuyển tất cả các hối phiếu đó sang thanh toán vào ngày mùng 5 tháng chín cho tôi, và ngày mùng 5 tháng chín vào hồi mười một giờ sáng tôi sẽ đến nhà ông.
    - Tôi sẽ đợi ông, ông Morrel nói, và ông sẽ được thanh toán hoặc tôi sẽ chết.
    Những tiếng cuối cùng này được thốt ra thật khẽ, thành thử người ngoại quốc không nghe thấy được.
    Người Anh cáo từ ông Morrel, ông đưa tiễn và cầu phúc cho khách đến tận cửa..Trên cầu thang ông khách gặp được Julie.
    Cô gái làm ra vẻ đi xuống nhưng thực ra là cô đợi ông.
    - Ồ! Thưa ông! Cô vừa nói vừa chắp hai bàn tay.
    - Thưa cô, người ngoại quốc nói, cô sẽ nhận được một bức thư vào một ngày kia ký tên... thủy thủ Simbard... Hãy làm theo đúng từng điều nói trong thư, dù lời dặn dò có lạ lùng đến mấy.
    - Thưa ông ,vâng. - Julie trả lời.
    - Cô hứa với tôi sẽ làm theo chứ?
    - Tôi xin thề với ông sẽ làm như vậy.
    - Tốt, xin chào cộ Cô hãy giữ mình luôn luôn là một cô gái thánh thiện và tốt bụng như từ trước đến nay và tôi hy vọng rằng chúa sẽ ban thưởng cho cô cậu Emmanuel mà cô yêu làm chồng.
    Julie thốt ra một tiếng kêu khẽ, đỏ mặt lên như quả anh đào và phải nắm lấy tay vịn cầu ********* khỏi ngã.
    Người ngoại quốc đi tiếp và vẫy tay chào cô.
    Ra đến sân, ông ta gặp Penelon, mỗi tay cầm một cuộn giấy bạc một trăm frăng dường như chẳng dám mang tiền đi.
    - Lại đây ông bạn, tôi có chuyện muốn nói với ông.
    Cái thời hạn mà người phái viên của hãng Thomson và French thỏa thuận, đối với ông chủ tàu tội nghiệp như là một thứ may mắn trời cho.
    Nhưng khốn thay tất cả các chủ nợ của ông Morrel không phải đều phản ứng như thế, thậm chí một số người còn phản ứng ngược lại. Vậy là các hối phiếu mang chữ ký ông Morrel được xuất trình ở quỹ với độ chính xác hoàn hảo và nhờ có sự gia hạn của người Anh nên đều được ông thủ quỹ Coclès thanh toán hết một cách thuận lợi.
    Dư luận của cả ngành thương mại Marseille đều cho là sau những tai họa liên tiếp và dồn dập xảy ra, ông Morrel không thể nào trụ lại được. Điều kinh ngạc lớn với họ là quyết toán cuối tháng vẫn được hoàn thành với độ chính xác như thường lệ. Tuy nhiên điều đó không tài nào mang lại niềm tin cho mọi người và họ đều nhất trí cho rằng cuối tháng sau ông chủ tàu đáng thương sẽ phải quyết toán tài sản.

  8. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Cả một tháng trời trôi qua trong những nỗ lực phi thường của ông Morrel để tập họp toàn bộ các nguồn vốn còn lại của mình.
    May mắn thay ông Morrel còn có một vài thu nhập riêng và ông có thể dựa vào đó; những thu nhập này được thực hiện; vậy là ông Morrel.đang còn đủ sức đương đầu với những cam kết của mình, thì tháng bảy sắp kết thúc.
    Tháng tám trôi đi với những cố gắng không ngừng của ông Morrel nhằm tăng thêm khoản tín dụng cũ hoặc mở thêm một khoản vay mới.
    Người ta bèn cho rằng đến cuối tháng này bản quyết toán tài sản phải được khai báo. Nhưng ngược lại với mọi suy đoán, ngày 31 tháng tám đã đến mà quỹ vẫn mở như thường lệ.
    Coclès vẫn xuất hiện sau tấm lưới, điềm tĩnh.
    Ông ta xem xét tờ hối phiếu được xuất trình với cùng một sự chăm chú như trước và các hối phiếu từ tờ thứ nhất đến tờ cuối đều được chi trả với cùng một độ chính xác như nhau. Người ta chẳng còn hiểu ra làm sao và người ta lại lui lại với tính dai dẳng đặc biệt của những kẻ tiên tri tin xấu rằng vụ vỡ nợ sẽ xảy ra vào cuối tháng chín.
    Ngày 5 tháng chín đã tới gần và tình cảnh gần như tuyệt vọng: ông Morrel nợ gần ba trăm ngàn frăng mà chỉ còn có gần mười lăm ngàn trong quỹ. Tuy nhiên ông tỏ ra khá điềm tĩnh.
    Sự điềm tĩnh ấy lại làm cho vợ và con gái ông sợ hãi hơn là sự ủ rũ đến cùng cực. Hai mẹ con trò chuyện thủ thỉ với nhau một lát rồi thỏa thuận rằng Julie viết thư cho anh trai đang đồn trú ở Nimes về ngay lập tức.
    Đó là một chàng trai rắn rỏi và thẳng thắn.
    Anh đã học rất giỏi, đã thi đỗ vào trường Bách khoa và tốt nghiệp với cấp hàm thiếu úy ở binh đoàn thứ 53. Từ một năm nay anh làm việc ở cấp này và đã có hứa hẹn được phong trung úy trong dịp gần nhất.
    Đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng chín, bà Morrel bảo con gái đi ngủ, nửa giờ sau khi Julie đi ra, bà trở dậy, bỏ giày rồi rón rén ra hành lang để nhìn qua lỗ khóa xem ông chồng làm gì.
    Ông Morrel ngồi viết, nhưng bà Morrel lập tức nhận thấy ngay rằng ông chồng đang viết trên giấy có đóng dấu. Chi tiết ấy đưa đến một ý tưởng kinh khủng là ông đang làm di chúc, chân tay bà run bắn, tuy nhiên bà còn có sức để tự kiềm chế không nói năng gì.
    Ngày hôm sau ông Morrel tỏ ra hoàn toàn điềm tĩnh, ông vẫn ở trong phòng làm việc như bình thường, vẫn xuống ăn sáng như thường lệ.
    Suốt đêm mùng 4 sang ngày mùng 5 tháng chín, bà Morrel dán tai vào vách gỗ. Cho đến ba giờ sáng bà nghe thấy chồng đi lại bứt rứt trong phòng rồi gieo mình xuống giường.
    Đến 8 giờ ông Morrel vào trong phòng mà hai mẹ con ngủ chung đêm quạ Ông điềm tĩnh.nhưng sự xúc động đêm qua lộ rõ trên gương mặt tái xanh và tiều tụy của ông.
    Ông Morrel đã tỏ thái độ tốt nhất với bà vợ, đã bày tỏ tình thương cha con với cô con gái như ông chưa từng làm thế bao giờ. Julie muốn theo cha khi ông đi ra, nhưng ông nhẹ nhàng đẩy con ở lại, ông nói:
    - Hãy ở lại với mẹ, cha muốn thế! Đó là lần đầu tiên ông Morrel nói với con gái "Ta muốn thế" nhưng ông nói ra câu ấy với giọng thấm đượm tình cha con, dịu dàng đến mức Julie không dám bước lên thêm một bước.
    Cô dừng lại ở chỗ cũ, đứng sững, lặng câm và bất động. Một lát sau, cửa mở ra, cô cảm thấy có hai cánh tay ôm lấy cô và một đôi môi gắn vào trán cô.
    Cô ngước mắt nhìn và reo lên mừng rỡ:
    - Anh Maximilien!
    Nghe tiếng reo ấy mà Morrel chạy lại và lao vào vòng tay con trai. Chàng trai nói:
    - Mẹ Ơi, anh vừa nhìn mẹ rồi lại nhìn em gái, có chuyện gì vậy, có gì xảy ra thế? Thư của em làm cho con sợ quá và chạy vội về ngay.
    Bà Morrel ra hiệu cho con và bảo:
    - Julie hãy sang báo cho cha con biết Maxi-milien đã về.
    Cô con gái lao ra khỏi phòng, cô gặp một người đàn ông tay cầm bức thư.
    - Thưa, có phải cô là Julie Morrel không ?
    - Người ấy hỏi với một ngữ điệu ý quá nặng.
    - Vâng thưa ông, Julie đáp ấp úng, nhưng ông muốn gì ở tôi? Tôi không quen biết ông.
    - Xin cô hãy đọc lá thư này, người đàn ông nói và đưa cho cô một tấm thiếp. Nó góp phần cứu cha cô đấy. Người đưa tin nói thêm.
    Cô gái giật lấy tấm thiếp. Rồi cô hấp tấp mở ra và đọc:
    "Mời cô đến ngay lập tức đường Meilhan, vào nhà số 15, hỏi người gác cổng chiếc chìa khóa phòng tầng 5, vào trong phòng hãy cầm lấy ở góc lò sưởi một túi lưới bằng tơ màu đỏ và mang túi về cho cha cộ Điều quan trọng là cha cô phải có nó trước mười một giờ.
    Cô đã hứa là cứ im lặng nghe lời tôi, tôi xin nhắc cô nhớ lời hứa ấy. Thủy thủ Simbad" Cô gái reo lên mừng rỡ, ngước mắt lên để hỏi người đàn ông vừa giao cho cô tấm thiếp thì ông ta đã đi mất.
    Julie lưỡng lự, cô quyết định phải hỏi ý kiến.
    Nhưng một tình cảm lạ lùng đã khiến cô không cầu viện đến mẹ, đến anh mà cầu viện Emmanuel..Cô chạy xuống kể lại anh nghe điều vừa xảy ra.
    Emmanuel nói:
    - Phải đến đó thôi cô ạ, có phải hôm nay là ngày mùng 5 tháng chín không? Nếu hôm nay trước lúc mười một giờ cha cô không tìm được ai đến giúp thì đến trưa cha cô sẽ buộc phải tuyên bố phá sản.
    - Ôi! Đến đó thôi! Đến đó thôi! - Cô gái kêu lên và kéo chàng trai đi cùng.
    Trong lúc đó, bà Morrel đã nói tất cả cho con trai biết. Chàng trai đã hiểu rõ rằng do hậu quả của những tai họa liên tiếp xảy đến với cha cậu, nhiều thay đổi lớn đã được thực hiện trong việc chi tiền của gia đình nhưng không biết rằng mọi việc lại đến nông nỗi này.
    Anh lao ra khỏi phòng, chạy nhanh lên cầu thang rồi gõ cửa phòng làm việc của cha.
    Vừa lúc đó anh nghe thấy cửa phòng ở mở ra, anh quay lại và thấy cha anh ra khỏi phòng.
    Ông Morrel kêu lên một tiếng kinh ngạc khi thấy Maximilien, ông không biết con ông đã về.
    Ông đứng yên tại chỗ, tay trái kẹp chặt một vật mà ông giấu vào dưới áo khoác.
    Maximilien chạy gấp xuống cầu thang và lao vào ôm cổ cha, nhưng đột nhiên anh lùi lại; chỉ để bàn tay phải đặt lên ngực cha mình.
    - Cha ôi, anh nói, tái người đi như xác chết, tại sao cha lại có cặp súng lục dưới áo khoác?
    Ông Morrel nhìn con đăm đăm rồi trả lời:
    - Maximilien, con là một người đàn ông, và là một người đàn ông trọng danh dự; lại đây, ta sẽ nói với con chuyện này.
    Và ông Morrel đi lên phòng làm việc bằng những bước chân tự tin. Ông đưa cho Maximilien cuốn sổ cái trong đó ghi rõ tình trạng chính xác của tình thế. Chàng trai đọc và như bị choáng ngợp.
    - Máu rửa sạch nỗi nhục. - Ông Morrel nói.
    - Thưa cha, cha có lý, con hiểu cha.
    - Con hiểu rằng không phải lỗi của cha chứ?
    - Ông Morrel nói. Maximilien mỉm cười.
    - Con biết, thưa cha, rằng cha là người chính trực nhất mà con chưa từng thấy bao giờ.
    - Được lắm, rõ cả rồi: bây giờ con quay về với mẹ và em con đi.
    - Cha ơi, chàng trai nói và khuỵu gối xuống, xin cha hãy ban phúc cho con!
    Ông Morrel ôm lấy đầu con trai trong hai bàn tay, kéo lại gần và đặt môi lên đó nhiều lần.
    - Và bây giờ, ông nói, hãy để cha một mình và cố đưa những người đàn bà ra xa đây. Đi địcon! Con sẽ tìm thấy di chúc của ta trong tủ bàn giấy ở phòng ngủ của ta.
    Khi người con trai đã đi ra, ông Morrel tỉnh lại một lát, mắt dán vào cửa, rồi ông với tay lấy được sợi dây chuông và rung chuông.
    Một lát sau Coclès xuất hiện.
    - Coclès trung hậu của tôi ơi, ông Morrel nói với một ngữ điệu thật không tài nào diễn tả được, anh hãy đến ngồi ở phòng đợi. Khi nào cái ông đã đến đây ba tháng trước ấy, anh biết đấy, ông phái viên của hãng Thomson và French ấy mà tới thì anh báo cho tôi.
    Coclès không trả lời, ông gật đầu rồi đến ngồi ở phòng đợi và chờ.
    Ông Morrel gieo mình xuống ghế, đôi mắt ông ngước lên nhìn chiếc đồng hồ treo tường:
    ông còn có bảy phút, thế thôi.
    Kim đồng hồ chạy nhanh không ngờ, dường như là ông trông thấy nó dịch đi. Những khẩu súng đã lên đạn sẵn, ông vươn tay ra cầm lấy một khẩu, miệng ông hé mở, đôi mắt dán vào kim đồng hồ, rồi ông rùng mình vì tiếng động mà ông tự gây ra khi ông bật cái chốt kim hỏa.
    Trong lúc đó, một lớp mồ hôi lạnh toát chảy trên trán ông, một nỗi kinh hoàng chết chóc thắt chặt trái tim ông. Ông nghe thấy cửa cầu thang rít lên trên những chiếc bản lề.
    Thế rồi cửa phòng làm việc của ông mở ra.
    Đồng hồ sắp điểm mười một giờ. Ông Mor-rel chẳng buồn quay lại , ông đợi những lời của Coclès báo tin người phái viên của hãng Thom-son và French đã tới.
    Và ông đưa súng lên gần miệng.
    Bất thình lình ông nghe một tiếng kêu: đó là tiếng con gái ông. Ông ngoảnh lại và thấy Julie, khẩu súng tuột khỏi tay ông.
    - Cha ơi! Cô gái kêu lên đến hết hơi và gần như chết được vì mừng rỡ, thoát rồi! Cha đã được cứu thoát rồi!
    Và cô lao vào vòng tay ông, tay giơ cao cái túi lưới bằng tơ đỏ.
    - Thoát à? - Ông Morrel nói. - Con muốn nói gì vậy?
    - Vâng, thoát rồi! Xem này, xem này! - Cô con gái nói.
    Ông Morrel cầm lấy cái túi và rùng mình vì một ký ức mơ hồ làm ông nhớ ra cái đồ vật này đã từng thuộc về ông. Một bên là tờ hối phiếu hai trăm bốn mươi bảy ngàn năm trăm phrăng..Tờ hối phiếu đã được ký nhận trả đủ. Bên kia là một viên kim cương to bằng quả dẻ với mấy chữ viết trên một mẩu giấy da láng:
    "Hồi môn của Julie" ông Morrel tưởng mình nằm mơ.
    - Nào con, ông nói, con giải thích đi. Con tìm thấy cái túi này ở đâu?
    - Trong một ngôi nhà ở đường Meilhan, số 15, trên góc lò sưởi của một căn phòng tồi tàn ở tầng 5.
    Morrel kêu lên:
    - Nhưng cái túi này không phải của con.
    Julie chìa cho cha cô xem bức thư mà cô nhận được lúc sáng.
    Cùng lúc ấy Emmanuel vào, nét mặt bàng hoàng vì vui mừng và xúc động.
    - Tàu Pharaon! Anh kêu to, tàu Pharaon!
    - Này, cái gì? Tàu Pharaon? Anh có điên không đấy Emmanuel? Anh thừa biết là nó đắm rồi mà.
    - Tàu Pharaon! Thưa ông, người ta đánh tín hiệu báo tàu Pharaon đang vào cảng.
    Ông Morrel ngã xuống ghế, mất hết sức lực, trí tuệ của ông không chịu thu nạp cái chuỗi sự kiện không thể tưởng tượng nổi, kinh dị và hoang đường này.
    - Các bạn! ông Morrel nói, nếu có chuyện này thì phải tin vào phép thần kỳ của Chúa!
    Không thể có được! Không thể có được!
    Nhưng cái có thật và không kém phần khó tưởng tượng nổi chính là cái túi mà ông đang cầm trong tay, chính là tờ hối phiếu đã được ký nhận trả đủ, chính là viên kim cương lộng lẫy này.
    - Ta đi nào các con, ông Morrel nói và đứng dậy, ta đi xem có phải chúa thương chúng ta hay chỉ là một tin vịt.
    Họ đi xuống. Một lúc sau họ đã tới Canebière.
    Người đông nghịt cảng. đám đông rẽ ra trước ông Morrel.
    - Tàu Pharaon! Tàu Pharaon! - Tất cả mọi người cùng nói.
    Đúng thế, điều kỳ diệu, phi thường trước tháp Saint Jean là một con tàu mang ở đuôi tàu những chữ kẻ bằng sơn trắng, Le Pharaon (Mor-rel và con trai ở Marseille), kích thước đúng như con tàu Pharaon trước kia và cũng chở đúng loại hàng như tàu kia là cánh kiến và chàm, đang bỏ.neo và cuốn buồm, trên boong tàu ông thuyền trưởng Gaumard đang ra lệnh và lái tàu Penelon đang ra hiệu cho ông Morrel.
    Trong lúc ông Morrel và con trai ôm hôn nhau trên đê chắn sóng trong tiếng vỗ tay hoan hô của cả thành phố chứng kiến điều kỳ diệu này thì có một người đàn ông, mặt bị bộ râu đen che lấp đến một nửa, nấp sau cái chòi của người lính gác, ngắm cảnh này với vẻ cảm động và thì thào những lời này:
    - Hãy sung sướng hỡi trái tim nhân hậu, hãy hưởng phúc vì tất cả những việc tốt mà người đã làm, và sẽ còn làm nữa; và cứ để cho việc trả ơn của ta nằm trong bóng tối cũng như việc làm ân nghĩa của người.
    Và với một nụ cười ánh lên niềm vui và hạnh phúc, ông ta rời chỗ nấp mà chẳng ai để ý đến mình vì họ còn bận theo dõi hiện tượng kỳ lạ trong ngày; ông xuống một trong những cầu thang hẹp dùng để bốc hàng rồi gọi một chiếc xuồng để đi ra một du thuyền sang trọng rồi nhảy lên boong nhẹ nhàng như một thủy thủ; từ đó ông nhìn lại ông Morrel một lần nữa, lúc này đang vừa khóc vì sung sướng vừa bắt tay thân ái tất cả mọi người trong đám đông và cám ơn bằng một cái nhìn mơ hồ con người làm phúc vô danh mà hình như ông tìm kiếm ở trên trời.
    - Và bây giờ, người không quen biết nói, xin vĩnh biệt lòng tốt, tình nhân ái và lòng biết ơn...
    Xin vĩnh biệt mọi tình cảm làm trái tim ta nở hoa! Ta đã thay trời để ban thưởng cho những người tốt... Thần trả thù hãy cho ta thay chỗ để trừng phạt những kẻ ác!
    Và ông nhắc lại lời nguyền trả mối thù không bao giờ quên được đối với Danglars, Fernand và Villefort mà ông đã phát nguyện trong tù.
    Rồi ông ra hiệu khởi hành, cứ như là chỉ đợi mỗi tín hiệu ấy để ra đi, du thuyền lập tức ra khơi.

  9. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 11: Hội hóa trang thành Rome
    Hồi đầu năm 1838 ở Florence thấy có hai người trẻ tuổi thuộc xã hội thanh lịch nhất của Paris; một người là tử tước Albert de Morcerf, người kia là nam tước Franz d''épinaỵ Họ cùng nhau đi dự hội hóa trang thành Romẹ Thật không phải là việc dễ dàng: ba trăm ngàn người xem, người La Mã, người ý, người ngoại quốc từ bốn châu lục của thế giới đến dự và nếu không muốn dự lễ hội giữa đám người bình dân và kẻ tầm thường thì phải tìm được một cái xe, những quần áo giả trang và nhất là một cái cửa sổ mở ra phố Cours là nơi đoàn diễu hành đi qua.
    Albert và Franz thuê phòng ở chỗ bác Pas-trini, chủ khách sạn Londres trên quảng trường Tây Ban Nha.
    Căn hộ họ đặt trước chỉ có hai phòng nhỏ vì phần kia của tầng gác đã được một người giàu sụ thuê, và hình như ông ta là người đảo Sicilẹhay đảo Malte và mang tước vị bá tước Monte Cristo.
    - Này bác Pastrini, bác đã tìm được một cửa sổ trông xuống đoàn diễu hành chưa? Hôm nay đã là thứ sáu, hai ngày nữa là khai mạc hội hóa trang rồi.
    - à, xin vâng, một cái cửa sổ! - Bác Pastrini kêu lên, chuyện này sẽ khó khăn đấy. Còn một cái ở tầng năm lâu đài Doria nhưng vừa mới cho thuê rồi.
    - Chúng tôi trông cậy ở bác đấy, bác Pastrini ạ, Franz nói. Còn chiều nay bác cho chiếc xe ngựa mui gấp đưa chúng tôi đi thăm đấu trường Colisée.
    - Đấu trường Colisée ư? Các quý ngài ơi, nếu tôi có thể đưa ra một lời khuyên thì xin các ông tránh những đường phố ngoại vi.
    - Tại sao vậy?
    - Vì đó là vùng đất của Luigi Vampa, một tên cướp đáng sợ nhất thành Romẹ Hắn chuyên bắt cóc du khách và đòi tiền chuộc: tùy theo chỗ ở của khách trong thành phố là xa hay gần mà hắn đưa ra một thời hạn để nộp tiền chuộc; rồi thời hạn ấy trôi qua, hắn cho thêm một giờ làm phúc. Đến phút thứ sáu mươi của giờ đó, nếu chưa nhận được tiền thì hắn sẽ bắn vỡ sọ người ta bằng một phát súng lục, và thế là xong chuyện.
    - Quỷ thần ơi! Này bác Pastrini, bác dọa chúng tôi bằng các chuyện cướp này đủ rồi chứ?
    ít ra thì cũng cám ơn bác đã chỉ bảo cho!
    Nói xong, hai chàng trai đi xuống cầu thang, lên xe đi thăm đấu trường Colisée. Tuy nhiên họ vẫn tránh các đường phố ngoại vi.
    Ngày hôm sau, bác Pastrini đến phòng các chàng trai.
    - Tôi đã tìm được rồi. Ông chủ khách sạn nói với giọng hoàn toàn hài lòng. Các ông biết rằng bá tước Monte Cristo ở cùng tầng gác với các ông. Nay ông ấy biết các ông đang gặp trở ngại và sẵn lòng dành cho các ông hai chỗ trong xe của mình và hai chỗ cửa sổ lâu đài Rospoli.
    - Nhưng mà, Albert hỏi, liệu chúng tôi có nên nhận sự giúp đỡ của một người không quen biết chăng?
    Trong lúc đó có tiếng người gõ cửa. Một người hầu xuất hiện ở cửa phòng.
    - Ngài bá tước Monte Cristo, người hầu nói, cho tôi sang hỏi xem các ông đây có vui lòng cho phép chủ nhân tôi được tiếp kiến ở bên này như một người láng giềng được không?
    - Hãy nói với bá tước, Franz trả lời, rằng chính chúng tôi sẽ rất hân hạnh được đến thăm ông ấy.
    Người hầu rút lui..- Thế thì các ông nhận lời đề nghị của ông ta chứ? Bác Pastrini nói.
    - Riêng tôi thì xin vâng, Albert nói. Còn anh nói sao hả Franz?
    - Tôi nói rằng các cửa sổ lâu đài Rospoli đã khiến tôi quyết định. Franz trả lời.
    - Này, Franz nói, sửa soạn đi và chúng ta cùng sang bên bá tước Monte Cristo.
    Franz và Albert mới đi ngang qua đầu cầu thang, một người hầu đã ra mở cửa và ra hiệu mời họ vào.
    Họ đi ngang qua hai phòng bày biện sang trọng đến mức mà họ không tin được rằng có thể thấy trong khách sạn của bác Pastrini, và cuối cùng bước vào một phòng khách thanh lịch.
    - Xin mời các quý ngài ngồi, người hầu nói, tôi đi báo cho ngài bá tước.
    Gần như ngay lập tức tấm thảm treo được nâng lên lấy lối đi cho người chủ sở hữu tất cả các đồ đạc quý giá này. Đó là một người đàn ông quãng ba mươi tám bốn mươi tuổi, ăn mặc cực kỳ thanh nhã và lịch sự.
    - Chúng tôi, Franz và tôi, ngàn lần biết ơn ông thưa ngài bá tước, Albert nói, thực sự ngài đã giúp chúng tôi thoát khỏi một vụ lúng túng lớn.
    - A! Lạy Chúa! Thưa các ông, bá tước tiếp lời và đưa tay ra hiệu mời hai chàng trai ngồi xuống một cái đi văng, nếu tôi để các ông bị lúng túng lâu đến thế, thì đó là lỗi ở cái gã ngu đần Pastrinị Thưa các ông, tôi đã ra lệnh rồi, trưa ngày mai sẽ có xe đưa chúng ta đến lâu đài Rospoli.
    Hai chàng trai đứng dậy và cáo biệt.
    Ngày chủ nhật, ngày đầu tiên của hội hóa trang đã tới. Bá tước đã cho soạn sửa những bộ y phục loang lổ của hề Arlequin bằng xa tanh trắng và xanh thuộc loại lịch sự nhất.
    - Vì các ông đã để tôi chọn hộ quần áo, ông nói với hai người bạn, nên tôi đã sai sửa soạn cho các ông những bộ này. Ta mặc vào nhanh lên.
    Trang phục tinh tươm, họ đi xuống. Chiếc xe đợi ở cửa, chất đầy confettis và các bó hoa.
    Một đám đông những người đeo mặt nạ đi ra, tràn từ mọi hướng, ùa ra từ các cửa ra vào, nhảy xuống từ các cửa sổ tầng trệt. Xe cộ trổ ra mọi góc phố, chở đầy những anh hề Pierrot, những anh hề Arlequin quần áo chắp vá nhiều màu, những chàng hiệp sĩ.
    - Thưa các ngài, bá tước vừa nhảy xuống xe vừa nói, khi nào các ngài chán đóng vai diễn trò mà muốn trở lại làm khán giả thì xin biết rằng các ngài có chỗ bên các cửa sổ của tôi. Trong khi chờ đợi, xin tùy ý sử dụng người đánh xe và xe ngựa cùng các người hầu của tôi.
    Franz cám ơn bá tước về lời mời ân cần còn Albert lại bị cuốn hút bởi một xe đầy nhóc các.cô thôn nữ La Mã, cũng bị dừng lại như xe của bá tước.
    - A! Bạn thân mến, anh nói với Franz, tôi đảm bảo rằng họ là những người đàn bà rất hấp dẫn và tôi mong hội hóa trang thế nào cũng đem lại cho tôi cuộc gặp gỡ nào đó.
    Suốt phần còn lại của ngày hôm ấy, chiếc xe ngựa mui gấp của các cô thôn nữ La Mã qua lại nhiều lần trước mặt đôi bạn trai. Trong một lần gặp chiếc xe ấy, Albert lấy một bó hoa và ném lên chiếc xe. Chắc là một trong những người đàn bà hấp dẫn này mà Albert đã đoán ra dưới lớp quần áo thôn nữ đỏm dáng đã động lòng với hành vi tình tứ ấy vì lúc chiếc xe của đôi bạn lại đi qua thì đến lượt cô ta ném sang một bó hoa đổng thảo.
    Albert vồ lấy bó hoa và hãnh diện cài lên khuyết áo.
    - Này, Franz nói đùa với anh ta, đây là khởi đầu một cuộc phiêu lưu!
    Câu chuyện đùa mau chóng mang tính hiện thực, vì lúc Franz và Albert gặp lại chiếc xe thôn nữ, cô gái đã ném bó hoa cho Albert liền vỗ tay khi nhìn thấy hoa của mình trên khuyết áo anh ta.
    - Hoan hô! Bạn thân mến! Hoan hô! Franz bảo anh ta, sắp sửa đến điều kỳ diệu đấy!
    - Đừng có mà hấp tấp. Nếu cô thôn nữ xinh đẹp có ý muốn đi xa hơn nữa thì ta sẽ lại gặp cô ấy vào ngày mai.
    Họ trở lại lâu đài Rospoli, nhưng bá tước đã biệt tăm. Họ liền quay về khách sạn.
    Ngày hôm sau, lúc một giờ rưỡi, các chàng trai đi xuống đường. Bá tước Monte Cristo đã dành một chiếc xe cho họ sử dụng. Albert cài bó hoa đổng thảo đã héo vào khuyết áo của mình.
    Lúc họ đã nhập vào đoàn diễu hành, một bó hoa đổng thảo tươi tắn từ chiếc xe các thôn nữ La Mã bay vụt sang xe của bá tước, báo cho Albert thấy rằng cuộc phiêu lưu của anh ta hôm qua vẫn tiếp diễn. Cô gái ném bó hoa đã bỏ mặt nạ ra để cho Albert có thể nhìn rõ mặt cộ Cô ta quả là đẹp.
    Bó hoa có gài một tấm thiếp và Albert đọc:
    "Tối thứ ba, hồi bảy giờ, anh xuống xe trước phố Pontefici và đi theo người thôn nữ La Mã đến giật cái đèn ***g của anh. Chú ý thắt một dải lụa hồng lên vai áo để cô ta dễ nhận ra anh.
    Từ nay đến lúc đó sẽ không gặp tôi nữa." - Này, Franz nói, xem ra sự việc mang tính chất của một cuộc phiêu lưu đến là dễ chịu.
    - Mình cũng thấy thế. Albert nói.
    Rồi cũng tới ngày thứ ba, ngày cuối cùng và ồn ào nhất trong các ngày hội hóa trang..Albert đã dành được thắng lợi trong bộ y phục của anh hề áo vá nhiều màu. Trên vai anh có một dải băng hồng tết thành nơ rủ hai đầu xuống tận khÂo chân.
    Ngày càng muộn thì thành phố lại càng nhộn nhịp. Đến tối mỗi người đều thắp cái đèn ***g kiểu ý gọi là moccoletto của mình. Thế là chỉ trong mười phút đã thấy lấp lánh năm mươi ngàn đốm sáng xuôi từ lâu đài Venise xuống quảng trường Nhân Dân. Cứ như thể hội ma trơi.
    Lúc bảy giờ hai anh bạn đang ở mạn trên của phố Ponteficị Albert nhảy ra khỏi xe ngựa, tay cầm đèn ***g, thế rồi gần như lập tức có người đeo mặt nạ mặc y phục quen thuộc của cô thôn nữ ném hoa đưa tay giật lấy chiếc đèn ***g.
    Franz ở quá xa không nghe thấy tiếng họ trao đổi với nhau, nhưng anh thấy Albert và cô thôn nữ khoác tay nhau cùng đi. Thế rồi họ mất hút.
    Bỗng tiếng chuông báo hiệu kết thúc hội hóa trang vang lên và cùng lúc ấy tất cả các moccoli tắt đi như có phép màu. Như thể một cơn gió duy nhất và rất lớn đã thổi tắt tất cả. Cùng lúc mọi tiếng hò reo đều ngừng bặt. Hội hóa trang đã kết thúc.
    Có thể là trong đời mình, Franz chưa từng cảm nhận được một ấn tượng nào dứt khoát đến thế, một bước chuyển từ niềm vui sang nỗi buồn mau lẹ đến thế. Mà anh chẳng cách xa khách sạn là bao. Sau mười phút, xe anh hay đúng hơn là xe của bá tước đã đậu trước khách sạn Londres.

  10. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 11)
    Lúc đến gần khách sạn, Franz thấy một người đứng giữa đường phố. Người này choàng một áo khoác lớn. Trước sự kinh ngạc của Franz, người ấy nói với anh.
    - Có phải nam tước Franz d''épinay đó không? Hắn hỏi thế. Lá thư này gửi cho ông.
    Franz quay vào đọc dưới ánh nến:
    "Bạn thân mến, ngay lúc nhận thư này, xin vui lòng làm ơn lấy cái thẻ tín dụng trong ví của tôi, kèm cả cái của anh vào đó nếu nó chưa đủ. Chạy đến ông chủ ngân hàng để lập tức lĩnh ngay bốn ngàn đồng rồi trao cả cho người mang thự Việc khẩn cấp nên số tiền phải được gửi cho tôi ngay lập tức.
    Bạn anh Albert de Morcerf" Và bên trên là những chữ của người khác:
    "Nếu đúng sáu giờ sáng mà bốn ngàn đồng chưa đến tay ta thì đến bảy giờ, tử tước Albert de Morcerf sẽ không còn nữa.
    Luigi Vampa" Albert đã rơi vào tay tên tướng cướp khét tiếng mà anh ta mãi cứ không chịu tin là có nó trên đời.
    Không thể để phí thời gian. Franz chạy tới bàn giấy, mở ra, tìm thấy chiếc ví trong ngăn.kéo, trút thêm cả tiền riêng của mình vào đó:
    vẫn còn thiếu một ngàn đồng mới đủ.
    Chợt một ý tưởng thần tình lướt qua đầu óc anh. Anh nghĩ đến bá tước Monte Cristọ Một lát sau anh đã đứng trước cửa phòng bá tước.
    Một người hầu dẫn anh vào nhà. Bá tước đến trước mặt anh, nói:
    - A! Ngọn gió lành nào mà đưa anh tới vào giờ này? Anh đến đòi tôi thết bữa đêm chăng?
    - Không, tôi đến nói với ngài một việc nghiêm trọng: Albert đã bị bọn cướp bắt cóc, chúng đòi tôi tiền chuộc.
    Và Franz đưa thư của Albert cho ông xem.
    - Người đưa lá thư này đâu? - Bá tước hỏi sau khi đọc xong.
    - Ở ngoài phố.
    Bá tước đến cửa sổ căn phòng trông ra phố và huýt một hiệu còi. Người đàn ông khoác áo choàng rời khỏi bức tường và đi ra giữa đường.
    - A! Anh đấy à, Peppinọ Lên đây, ông nói như thể ra lệnh cho người hầu.
    Người đưa thư vâng lời.
    - Tử tước Albert rơi vào tay Luigi như thế nào? Bá tước hỏi.
    - Thưa ngài, xe của ông người Pháp đã gặp xe có chở Teresa nhiều lần.
    - Với tình nhân của chủ tướng ư?
    - Vâng. Ông người Pháp đã liếc mắt đưa tình, Teresa đùa đáp lại ông tạ Ông ném cho cô ấy những bó hoa, cô cũng ném hoa đáp lại cho ông, dĩ nhiên là được chủ tướng cũng đang ở trên chiếc xe ấy đồng ý, chính ông ta cải trang thành người đánh xe ngựa.
    - Rồi sao? Bá tước hỏi.
    - Vậy rồi Teresa đã đồng ý hẹn gặp mặt, duy chỉ có điều là Beppo đã thay Teresa đến điểm hẹn.
    - Thế nào! Franz ngắt lời, chính cái cô thôn nữ đã giật chiếc đèn moccoletto của anh tả...
    - Đó là một cậu bé mười lăm tuổi, Peppino trả lời, nhưng đối với bạn ông thì chẳng có gì đáng hổ thẹn cho việc bị lầm, Peppino đã lừa như thế được khối người đấy, nhá. Ông ta bị dẫn tới cho Luigi đang đợi trong hầm mộ Ở nhà thờ Saint-Sébastien.
    - Đó là một nơi thật đẹp như tranh. Nếu anh chưa biết các hầm mộ Ở Saint-Sébastien thì đây vừa may có dịp đến viếng thăm!
    Franz và bá tước lên xe, cả Peppino nữa, và họ cho ngựa chạy nước kiệu. Mười phút sau, xe dừng lại. Peppino đến mở cửa cho bá tước và Franz xuống xe.
    Franz và bá tước đi theo Peppino đến một khoảng trống giữa các tảng đá đến một người đi qua cũng hơi khó. Ba người lách qua đó.
    - Ai?.- Bạn! - Peppino nói.
    Những người mới đến nhìn qua khoảng trống của các vòm cuốn thấy có một người ngồi đọc, khuỷu tay tựa vào một cái cột, lưng quay lại phía các vòm cuốn. Đó là chủ tướng của băng cướp, Luigi Vampa.
    Quanh hắn thấy có độ vài chục tên cướp, tên nào cũng để súng vừa tầm tay với. Phút chốc tất cả những tên cướp cùng đứng bật dậy và hai mươi cái nòng súng carabine nhằm vào bá tước.
    - Bỏ súng xuống! Tên tướng cướp thét lên và ra hiệu bằng một tay, còn tay kia thì hắn kính cẩn ngả mũ chào.
    - Trí nhớ của anh xem ra kém quá Vampa ạ.
    Bá tước nói, chẳng phải là đã thỏa thuận rằng không riêng gì con người ta mà còn cả các bạn bè ta nữa cũng là thiêng liêng đối với các anh sao?
    - Tôi vi phạm thỏa ước ở chỗ nào thưa ngài?
    - Tối nay anh đã bắt cóc đem về đây tử tước Albert de Morcerf, bá tước nói với một ngữ điệu làm Franz rùng mình; mà chàng trai này thuộc số bạn bè của ta, anh đã đòi anh ta nộp tiền chuộc như bất kỳ một ai khác.
    - Xin thề trước thánh giá! Tôi mà phát hiện ra kẻ nào trong các anh đã biết chàng trai là bạn của đức ông thì tự tay tôi sẽ bắn vỡ sọ hắn.
    Tên tướng cướp đi vài bước đến trước Franz:
    - Hoan nghênh ngài đã đến chỗ chúng tôi.
    Thưa ngài, hắn bảo anh tạ Người bị bắt ở đàng kia và tôi sẽ đích thân báo cho ông ta rằng ông ấy được tự do.
    Bá tước và Franz theo tên tướng cướp đến một xà lim và hắn mở khóa.
    Lúc đó nhờ ánh sáng một ngọn đèn, có thể thấy Albert cuộn tròn trong một cái áo khoác của một tên cướp cho mượn nằm trong một xó và ngủ rất say.
    - Nào! Bá tước nói và cười, nụ cười đặc trưng của ông, một người bị xử bắn vào bảy giờ sáng mà chẳng đến nỗi nào.
    Vampa nhìn Albert ngủ, lộ vẻ ít nhiều khâm phục.
    - Ngài nói đúng thưa bá tước, con người này phải là một trong số bạn của ngài.
    Rồi đến gần Albert, hắn chạm vào vai anh:
    - Thưa ngài! - Hắn nói, ngài vui lòng thức dậy chứ?
    Albert vươn tay, giụi mắt rồi mở mắt nhìn.
    - Ngài được tự do, thưa ngài.
    - Họ đã trả tiền chuộc cho tôi rồi sao?
    - Không, thưa ngài. Có người mà tôi không dám từ chối bất cứ điều gì đã đến đòi ngài về.
    - A! Thế đấy, con người nào sao dễ thương đến thế?.Albert đưa mắt nhìn quanh mình và nhận ra Franz đi cùng với bá tước Monte Cristo.
    - A, thưa bá tước, Albert vui vẻ nói và sửa lại cavat cùng các cửa tay áo, ông là một con người thật quý hóa, mong ông coi tôi là người chịu ơn ông suốt đời.
    Tên cướp nhìn toàn bộ cảnh này với vẻ kinh ngạc.
    - Thưa ngài Luigi, Albert nói tiếp, có cần hoàn tất thủ tục gì không để cáo biệt ngài?
    - Không cần gì cả thưa ông, và ông được tự do như khí trời vậy.
    - Như vậy thì chúc ông một cuộc sống tốt lành và vui vẻ. Đi nào, các ông, đi nào!
    Họ gặp lại chiếc xe ở chỗ nó đậu lúc trước.
    Bá tước chỉ nói một tiếng với người đánh xe là những con ngựa đã chạy miết.
    Ngày hôm sau vừa mới thức dậy, câu nói đầu tiên của Albert là rủ Franz sang thăm bá tước.
    Ngay sau đó họ đến trình diện ở cửa.
    - Thưa bá tước, Albert vừa nói vừa bước lại gần, sáng nay xin phép cho tôi được thưa lại với ông về điều hôm qua tôi nói chưa rõ: đó là không bao giờ tôi quên rằng ông đã cứu tôi trong hoàn cảnh như thế nào và tôi sẽ luôn nhớ rằng tôi chịu ơn ông cứu mạng hay gần như thế.
    - Ông láng giềng thân mến của tôi ơi, bá tước vừa cười vừa trả lời, ông đã quá lời khi nói về sự hàm ơn đối với tôi. Nhờ tôi mà ông tiết kiệm được khoản tiền nhỏ độ vài chục ngàn quan trong việc chi tiêu du lịch của ông, chỉ có thế thôi mà. Ông thấy rõ là chuyện này chẳng đáng nói làm gì.
    - Tuy nhiên việc tôi chịu ơn ông không vì thế mà ít hơn, bởi vậy tôi muốn hỏi rằng liệu tôi có thể giúp ông được chút việc gì không. Cha tôi, bá tước De Morcerf, người gốc Tây Ban Nha hôm nay đang có địa vị cao ở Pháp và Tây Ban Nha, và tôi xin thưa rằng tôi và tất cả những người yêu mến tôi sẵn sàng đợi ông sai bảo.
    - Thế thì, bá tước nói, tôi thú thực với ông rằng, ông de Morcerf ạ, tôi mong đợi đề nghị của ông và tôi chấp nhận nó hết sức thực lòng.
    Tôi đã chọn ông để nhờ cậy một việc lớn.
    - Việc gì ạ?
    - Tôi chưa từng ở Paris! Tôi không biết Paris.
    Lúc tôi đến Paris liệu ông có hứa mở giùm các cửa cho tôi đi vào cái thế giới mà ở đó tôi là người xa lạ hay không?
    - Rất sẵn lòng, Albert đáp, rất vui mừng được giới thiệu một người như bá tước Monte Cristo.
    Và khi nào thì tôi được hân hạnh tiếp ông?
    - Liệu ông có ưng một cuộc hẹn đúng ngày đúng giờ không? Xin báo để ông biết rằng tôi là người chính xác đến khó chịu..- Đúng ngày đúng giờ, Albert nói, điều đó hết sức phù hợp với tôi.
    - Vậy thì, cứ thế nhé. Bá tước đưa tay về một quyển lịch treo cạnh tấm gương. Hôm nay là 21 tháng hai, lúc này là mười giờ rưỡi sáng.
    Ông có muốn chờ tôi vào ngày 21 tháng năm sắp tới vào hồi mười giờ rưỡi sáng không?
    - Tuyệt vời! Albert nói, bữa sáng sẽ sẵn sàng.
    - Ông ở đâu?
    - Phố Helder số nhà 27.
    Bá tước ghi cẩn thận những thông tin ấy.
    - Và bây giờ, bá tước nói trong khi bỏ những mảnh giấy ghi chép của mình vào túi áo, xin cứ yên tâm, kim đồng hồ treo tường nhà ông không chính xác hơn tôi được đâu. Khi nào ông quay về Paris?
    - Ngày mai, tôi đi vào hồi năm giờ chiều.
    - Như vậy thì xin chào ông. Còn ông, bá tước hỏi Franz, ông cũng đi chứ, ông nam tước?
    - Vâng, đi Venisẹ Tôi còn ở lại Italia một vài năm.
    - Nào, chúc các ông lên đường may mắn! Bá tước nói với hai người bạn và chìa cho mỗi người một tay.
    Đó là lần đầu Franz cầm tay người đàn ông này, anh rùng mình vì nó lạnh giá như tay người chết.

Chia sẻ trang này