1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bá tước Monto Crixto_Alexandre Dumas

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi luuchivi, 16/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 12: Đến ở Paris
    Trong ngôi nhà ở phố Helder, nơi mà Albert de Morcerf lúc ở Rome đã chọn làm điểm hẹn với bá tước Monte-Cristo, tất cả đều được dọn dẹp trong buổi sáng sớm ngày 21 tháng 5 để làm vinh dự cho lời nói của chàng trai.
    Albert de Morcerf ở trong một tòa lầu nằm phía góc sân lớn. Phía bên kia sân là tòa nhà rộng rãi của ông bà bá tước de Morcerf.
    Đã mười giờ, một vài người được Albert mời đến để đón bá tước Monte Cristo đã có mặt. Ở đây có Lucien Debray, một chàng trai cao lớn tóc vàng, nước da tái, mắt màu xám và tự tin, anh ta là tùy viên ở văn phòng Bộ trưởng bộ nội vụ, và Beauchamp, nhà báo đáng gờm của tờ "Công Minh".
    Người hầu phòng vào báo có hai người khách mới..- Ông de Château-Renaud! ông Maximilien Morrel!
    - Morrel. - Albert thì thào vẻ ngạc nhiên.
    Nhưng nói chưa dứt thì ông de Château-Renaud, một chàng bảnh trai ba mươi tuổi, quý tộc từ đầu đến chân, đã nắm lấy tay Albert:
    - Bạn thân mến, cho phép tôi giới thiệu với bạn ông đại úy kỵ binh Maximilien, bạn tôi.
    Người sĩ quan trẻ lịch sự nghiêng mình chào.
    - Thưa ông, Albert nói với sự nhã nhặn trìu mến, ông là bạn của ông nam tước de Château-Renaud vậy xin cũng là bạn của chúng tôi.
    - Kể chuyện về ông khách của ông đi. Ông ấy ở đâu đến thế? ông đã gặp gỡ ông ta như thế nào?
    - à, tôi đã ở Rome dự hội hóa trang.
    - Chúng tôi biết chuyện ấy. - Beauchamp nói.
    - Vâng, nhưng điều ông chưa biết là tôi bị bọn cướp bắt cóc đưa đến các hầm mộ Saint-Sébastien.
    Tôi viết thư cho Franz rằng nếu anh ấy không đến kịp vào lúc sáu giờ sáng cùng với bốn ngàn đồng ê quy thì tên tướng cướp Luigi Vampa sẽ bắn vỡ sọ tôi.
    - Nhưng Franz có đến với bốn ngàn ê quy không? Château-Renaud nói.
    - Không, anh ta chỉ có đi cùng với ông khách mà tôi sắp giới thiệu với các anh. Ông ta nói vài lời vào tai tên tướng cướp và tôi được tự dọ Bọn chúng lại còn xin lỗi tôi nữa chứ.
    - A, hóa ra là như vậy! Thế cái ông ấy có phải là bậc á-thánh không?
    - Không, rất đơn giản chỉ là bá tước Monte Cristo.
    - Nào Albert! Hãy xếp chuyện bọn cướp ý và cả chuyện bá tước Monte Cristo lại, Debray nói. Này đồng hồ đánh chuông mười giờ rưỡi rồi đấy! Hãy thú nhận rằng anh đã bị một cơn ác mộng rồi ta đi ăn thôi.
    Nhưng tiếng ngân quả chuông đồng hồ chưa dứt thì cánh cửa đã mở ra và Germain thông báo:
    - Đức ông bá tước Monte Cristo!
    Bá tước xuất hiện ở ngưỡng cửa, ăn mặc cực kỳ đơn giản nhưng tất thảy đều tuyệt vời phong nhã và đều xuất xứ từ những nhà cung ứng lịch sự nhất. Ông vừa mỉm cười vừa đi vào giữa phòng khách đến thẳng chỗ Albert lúc đó đang bước lại phía ông, vồn vã đưa tay ra bắt tay ông.
    - Sự chính xác, Monte Cristo nói, là cách cư xử lịch thiệp của các bậc vua chúa. Nhưng dù có thiện chí đến đâu thì tính chính xác không phải bao giờ cũng là cách xử sự lịch thiệp của du khách được. Tuy nhiên, tôi mong rằng, tử tước.thân mến, xin ông lượng thứ cho hai hay ba giây chậm trễ mà vì thế tôi tin rằng mình đã xuất hiện muộn ở cuộc hẹn. Đi năm trăm dặm đường không thể nào tránh được một vài điều trái ý.
    - Thưa bá tước, tôi đang thông báo cuộc viếng thăm của ngài với một số bạn bè của tôi, mời họ đến họp mặt nhân dịp ngài đã vui lòng đến thăm và tôi hân hạnh được giới thiệu các bạn tôi với ngài. Đó là bá tước de Château-Renaud, ông Lucien Debray, ông Beauchamp, và sau nữa là ông Maximilien Morrel.
    Cho đến lúc ấy bá tước vẫn chào mọi người rất lịch sự nhưng lạnh nhạt, đến lúc nghe thấy cái tên này thì bá tước không kiềm chế được đã bước lên một bước và một sắc son phơn phớt hiện ra như một ánh chớp trên đôi má nhợt nhạt của ông.
    - Thưa các ông, Albert nói, Germain báo cho tôi rằng bữa ăn đã sẵn sàng phục vụ các ngài.
    Họ lặng lẽ đi sang phòng ăn. Ai ngồi vào chỗ nấy.
    - Thưa các ông, bá tước nói lúc ngồi vào bàn, cho phép tôi nói lời tự thú thay cho lời xin lỗi về mọi ứng xử không hợp cách mà tôi có thể gây ra: tôi là người ngoại quốc mà lại ngoại quốc đến mức đây là lần đầu tôi đến Paris. Cho nên cuộc sống Pháp đối với tôi là hoàn toàn xa lạ và từ trước cho đến tận bây giờ tôi mới chỉ quen sống theo kiểu phương đông. Tôi xin các ông thứ lỗi cho nếu các ông thấy ở tôi có vài điều quá Thổ Nhĩ Kỳ, quá naples hay quá ả Rập.
    Trình bày như vậy rồi, thì thưa các ông, xin mời.
    - Xem ông ta nói như thế chứ! - Beauchamp thì thầm, hẳn phải là một đại quý tộc.
    Và các vị khách bắt đầu dùng bữa.
    - Ông bảo rằng, thưa bá tước, ông vừa mới đến đây. Vậy ông tính chuyện chỗ ở thế nào?
    - Tôi đã có chỗ ở hoàn toàn sẵn sàng. Tôi đã cử người hầu phòng đến trước và anh ta có nhiệm vụ mua cho tôi ngôi nhà ấy và bày biện đồ đạc cho nó.
    - Như thế có phải là ông bảo ông có một người hầu phòng quen thuộc Paris rồi không? -Beauchamp reo lên như vậy.
    - Đây cũng là lần đầu anh ta đến Pháp như tôi. Anh ta tên là Ali, người Nubie và anh ta bị câm. Monte Cristo đáp.
    - Nhưng sao ông lại giao cho một người Nu-bie câm mua nhà ở Paris và trang bị đồ đạc cho ông? Morcef hỏi. Hắn sẽ làm mọi chuyện sai lạc hết, cái anh chàng khốn khổ đáng thương ấy.
    - Ông lầm rồi, thưa ông. Anh ta đến đây đã tám hôm rồi, anh ta đã chạy khắp thành phố và vì anh ta biết rõ những ý thích thất thường, những sở thích riêng và những nhu cầu của tôi.nên anh ta sẽ thu xếp mọi thứ cho tôi vừa ý.
    Anh ta đã đón tôi trên đường và đưa cho tôi mảnh giấy này, đó là địa chỉ mới của tôi: ông cầm lấy.
    - Champs-élysées, 30. - Morcerf đọc.
    - A! Điều này quả thật rất vương giả đấy! -Beauchamp không nín được buột miệng nói.
    - Như vậy, Beauchamp nói, là ngài đây có một ngôi nhà trang bị đầy đủ: ngài có một dinh thự Ở Champs-élysées, những người hầu, người quản gia, ngài chỉ còn thiếu có mỗi một cô nhân tình.
    - Tôi có nhiều hơn thứ đó, Monte Cristo nói: tôi có một cô nô lệ mua được ở Constanti-nople.
    Việc này làm tôi phải trả khá đắt nhưng tôi chẳng phải bận tâm nữa.
    Người ta đã chuyển sang ăn tráng miệng và hút xì gà từ lâu. Các khách mời đã bị bá tước chinh phục. Đó thực sự là một con người kỳ lạ nhất mà họ thấy trong đời.
    - Bạn thân mến, Debray đứng dậy và nói, đã hai giờ rưỡi rồi, ông khách của bạn thật khả ái, nhưng bầu bạn có cao nhã đến mấy rồi cũng phải cáo biệt.
    Đó là tín hiệu ra về: mọi người cùng đứng dậy và từ biệt Albert và bá tước Monte Cristo.
    - Thưa bá tước, Maximilien Morrel nói, đây là danh thiếp của tôi. Tôi hy vọng rằng sẽ được hân hạnh đón tiếp ông ở số nhà 14 phố Meslay.
    - Hãy tin chắc rằng thế nào tôi cũng sẽ đến, thưa ông, bá tước vừa nói vừa nghiêng mình.
    Albert gọi người hầu phòng và sai đi báo cho ông bà de Morcerf về cuộc viếng thăm tiếp theo của bá tước de Monte Cristo.
    Một lát sau đó, Monte Cristo giáp mặt với chính bá tước de Morcerf. Đó là một người đàn ông có lẽ trạc độ bốn mươi đến bốn lăm tuổi nhưng có vẻ ít nhất cũng phải năm mươi, ria mép và lông mày màu đen lại tương phản đến lạ kỳ với bộ tóc bạc cúp bốc theo kiểu nhà binh.
    Monte Cristo thấy ông ta đến gặp mình mà chẳng bước lên bước nào, dường như chân ông bị đóng đinh chặt xuống ván sàn cũng như đôi mắt dán chặt vào mặt bá tước de Morcerf.
    - Xin chào mừng ngài đã đến với chúng tôi.
    Bá tước de Morcerf vừa mỉm cười vừa chào Monte Cristo.
    Trong khi nói những lời chào đón này, bá tước de Morcerf chỉ một chiếc ghế bành mời Monte Cristo.
    - Thật hân hạnh cho tôi, Monte Cristo nói, ngay từ lúc mới đến đã được tiếp kiến một người mà công trạng sánh kịp danh tiếng.
    Viên tướng thích thú vì cung cách của bá tước..- Mẹ đây rồi! - Tử tước bỗng reo lên.
    Đúng thế, Monte Cristo quay lại đã thấy bà de Morcerf ở lối vào phòng khách: đứng sững bất động và tái mặt, cánh tay bà đang tựa vào khung cửa rơi thõng xuống lúc Monte Cristo quay lại.
    Bá tước đứng dậy và cúi rất thấp chào Mer-cédè s, đến lượt mình bà cũng cúi chào, lặng câm và trịnh trọng.
    - Này, lạy Chúa, bà làm sao thế? Viên tướng hỏi. Có phải là hơi nóng ở phòng khách này làm bà khó chịu không?
    - Mẹ Ơi, mẹ khó chịu à? - Tử tước kêu lên và lao đến trước mặt Mercédès.
    Nàng cảm ơn cả hai người bằng một nụ cười.
    - Không, nàng nói, nhưng tôi có xúc động đôi chút khi gặp người mà tôi hàm ơn cứu mạng con trai tôi.
    Bá tước lại nghiêng mình, anh còn tái mặt hơn cả Mercédès.
    - Thưa bà, anh nói, ông bá tước và bà đã không tiếc lời khen tôi về một hành động bình thường. Nhưng tôi tiếc rằng buộc phải cáo biệt ông bà. Sáng nay vừa bước ra khỏi chiếc xe đi đường trường của tôi là vào cửa nhà ông, nơi ăn chốn ở của tôi ở Paris như thế nào tôi chưa rõ.
    Mà ở đâu thì tôi cũng chỉ vừa mới được biết thôi. Đó là một băn khoăn nhỏ, tôi biết thế, nhưng tuy vậy cũng đáng kể.
    - Vậy thì tôi không giữ ông ở lại đâu, thưa ông, bà bá tước vừa nói vừa rời phòng khách.
    - Bá tước thân mến, Albert nói, xin ông vui lòng dùng chiếc xe hòm của tôi cho đến khi nào ngựa, xe của ông được trang bị xong.
    - Cám ơn về sự ân cần chu đáo của ông, tử tước ạ, nhưng tôi đoán rằng người quản gia của tôi, ông Bertuccio đã kiếm được cho tôi một chiếc xe nào đó có thắng ngựa sẵn sàng.
    Ra đến thềm quả nhiên Monte Cristo thấy có một chiếc xe đang đợi mình. Đó là một chiếc xe hòm lộng lẫy với đôi ngựa đẹp tuyệt trần mà mới hôm qua người chủ cũ còn chưa chịu bán với giá mười tám ngàn frăng.
    Và Monte Cristo nhảy lên xe, cửa xe đóng lại sau lưng anh rồi xe chạy nước đại.

  2. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Ngôi nhà Ali đã chọn làm nơi ở trong thành phố cho Monte-Cristo thuộc dãy phải đường lên Champs-élysées. Người đánh xe còn chưa kịp gọi người canh cổng thì cánh cửa sắt đồ sộ đã quay trên các bản lề.
    Khi chiếc xe đỗ lại, người quản gia đến gần và cung kính chào bá tước..- Ông Bertuccio, bá tước nói, ngôi nhà này hoàn toàn hợp ý tôi. Nhưng tôi còn muốn mua một ngôi nhà ở ngoại ô Paris và ngay chiều nay tôi muốn xem cái tài sản mới này ở Auteuil. Ông biết Auteuil chứ?
    - Không, thưa ngài, người quản gia trả lời với một vẻ run run do căng thẳng thần kinh mà Monte Cristo là người am hiểu về nguồn cơn các xúc động đã quy kết một cách có lý là do lo ngại thái quá.
    - Thật đáng tiếc, anh nói, nhưng thôi lên đường! ông đi cùng tôi.
    - Đến Auteuil? Bertuccio kêu lên, màu da đồng trở nên gần như tím tái. Tôi ạ, đi đến Au-teuil à!
    - Này, tôi hỏi ông, có gì đáng kinh ngạc khi ông đến Auteuil hả? Khi mà tôi sẽ ở nơi đó, chắc hẳn là ông phải đến đó rồi!
    Bertuccio cúi đầu trước cái nhìn oai vệ của ông chủ rồi ông ta kính cẩn ngồi vào chiếc ghế dài đàng trước của chiếc xe.
    Hai mươi phút sau họ đến Auteuil. Nỗi xúc động của người quản gia cứ tăng lên mãi.
    - Ông cho đậu xe ở phố La Fontaine số 28, bá tước vừa nói vừa hướng cái nhìn đăm đăm chẳng chút xót thương lên người quản gia đang tái mặt đi khi nhận lệnh này.
    Trong khi đi đường đêm đã xuống. Chiếc xe đỗ lại trước nhà người gác cổng.
    - Thế này là thế nào? - Hắn hỏi.
    - Đây là ông chủ mới của anh. - Bertuccio nói.
    - Phải, anh bạn ạ, - bá tước nói, tôi sẽ cố làm cho anh khỏi phải tiếc ông chủ cũ của mình.
    - Ồ! Thưa ông, người hầu nói, tôi chẳng phải tiếc gì lắm ông hầu tước de Saint-Méran, vì chúng tôi rất hiếm khi gặp ông ta.
    - Hầu tước de Saint Méran! - Monte Cristo nhắc lại, nhưng hình như với tôi cái tên này không phải là không quen, hầu tước de Saint Méran... và ông làm ra vẻ lục lại trí nhớ.
    - Một nhà quý tộc già, người hầu nói tiếp, ông ta có cô con gái độc nhất lấy ông biện lý hoàng gia de Villefort.
    Monte-Cristo ngước nhìn bắt gặp Bertuccio lại còn tái xám hơn cả bức tường anh ta dựa vào cho khỏi ngã.
    - Và người con gái này chết rồi phải không?
    - Monte-Cristo hỏi; hình như tôi có nghe nói thế.
    - Vâng, thưa ông, đã hai mươi mốt năm và từ đó chúng tôi chỉ gặp hầu tước có ba lần.
    - Nào, bá tước bảo Bertuccio đang bị kích động dữ dội, ông hãy cầm lấy cái đèn rồi ta đi xem nhà. - Không! Không ạ! Bertuccio vừa kêu vừa bước tiếp dọc theo lối đi. Không, thưa ông, tôi không đi xa hơn đâu, điều này thật chẳng bình thường chút nào: đã tậu một ngôi nhà ở Paris, ông lại còn tậu đúng ngôi nhà này. Cứ như là ở Auteuil chẳng có ngôi nhà nào khác ngoài ngôi nhà của kẻ sát nhân!
    - Ồ! ồ! Monte Cristo vừa thốt lên vừa đột ngột dừng lại, ông nói gì thế? Nào, cố nhớ lại rồi kể chuyện này cho tôi nghe.
    - Tôi chỉ mới kể chuyện ấy có một lần cho tu sĩ Basoni, trong lúc xưng tội; mà cũng chỉ kể một phần thôi. Sự việc đi ngược về tận năm 1815.
    Tôi có người anh cả phục vụ hoàng đế. Người anh ấy cũng là người bạn độc nhất của tôi.
    Một hôm, chúng tôi nhận được thư anh nói rằng quân đội bị giải giáp và anh sẽ trở về nhà, nếu tôi có ít tiền, anh xin tôi gửi đến Nimes cho anh đang ở nhà người chủ quán quen biết. Tôi yêu anh tôi tha thiết, tôi đã nói điều đó với ngài, thưa ngài, nên tôi quyết định không gửi tiền mà tự mình mang đến cho anh. Để chị dâu tôi là Assunta ở nhà, tôi lên đường đi Nimes. Đó là thời xảy ra những cuộc tàn sát nổi tiếng ở miền Nam. Ở đó có hai hoặc ba trăm tên bất lương, chúng cắt cổ bất kỳ ai bị nghi là thân Bonaparte.
    Khi đi vào Nimes tức là hoàn toàn bước đi trong máu, thấy xác chết ở khắp nơi: những kẻ sát nhân tập hợp thành bầy đã giết người, cướp phá, và đốt nhà.
    Tôi chạy đến nhà người chủ quán. Chao ôi!
    Anh tôi đã tới Nimes hôm trước và đã bị giết ngay ở cửa nhà người mà anh hỏi trọ.
    - Thế lúc đó anh đã làm gì? Monte Cristo hỏi.
    - Tôi đến gặp ông biện lý hoàng gia.
    - Có phải viên biện lý hoàng gia này tên là Villefort không? - Monte Cristo hờ hững hỏi.
    - Đúng thưa ngài.
    "Thưa ông, tôi bảo hắn, anh tôi đã bị sát hại hôm qua trên đường phố và tôi đòi hỏi công lý.
    "- Ông muốn tôi làm gì trong việc này?
    Người quan tòa trả lời.
    "- Thưa ông, tôi nói, không phải là tôi cầu xin ông cho tôi. Tôi ấy à, tôi sẽ khóc hoặc tôi sẽ trả thù, có thế thôi; nhưng người anh đáng thương của tôi còn có một người vợ, chị tôi bây giờ không còn nguồn sống nào. Xin hãy cấp cho chị tôi một món tiền tuất nhỏ của chính phủ.
    "- Mỗi cuộc cách mạng đều có những thảm họa của nó, ông Villefort đáp, anh của ông là nạn nhân của cuộc cách mạng này, và chính phủ không hề mang nợ gia đình ông về chuyện đó.
    "- Cái gì? Thưa ông, tôi kêu lên, một ông quan tòa có thể nói với tôi như thế à! ông thấy.rằng giết anh tôi là phải à; Vậy thì tôi, tôi tuyên bố với ông một điều: đó là tôi sẽ giết ông, chính ông. Từ phút này tôi tuyên bố việc trả nợ máu.
    Hãy giữ mình cẩn thận vì lần đầu tiên ta giáp mặt nhau tức là giờ cuối cùng của ông sẽ đến." Và ngay lúc ấy, trước khi hắn kịp hết ngạc nhiên, tôi mở cửa ra và bỏ chạy.
    Từ lúc đó, hắn không ra ngoài một mình nữa, nỗi sợ hãi ám ảnh hắn; hắn xin đổi nhiệm sở, và hắn được cử đến Versailles; nhưng tôi theo sát hắn.
    Suốt ba tháng trời tôi rình de Villefort; suốt ba tháng trời không một bước nào, một cử động nào, một cuộc đi dạo nào của hắn mà không có con mắt của tôi theo hắn đến tận nơi. Cuối cùng tôi phát hiện ra hắn bí mật đến Auteuil: tôi lại theo hắn và thấy hắn đi vào căn nhà mà chúng ta đang có mặt ở đây; nhưng kỳ cục thay hắn vào bằng cái cửa nhỏ mà ông thấy ở đàng kia.
    Đó là chỗ mà tôi phải gài bẫy.
    Một buổi tối, trong khi nhìn qua tường tôi thấy một thiếu phụ trẻ và đẹp đi dạo một mình trong khu vườn này. Thực ra cô ta đợi Villefort.
    Lúc cô ta đến khá gần chỗ tôi, tôi nhận thấy cô ta có mang.
    Một buổi tối khi tôi quan sát ngôi nhà, trong khi đợi lúc thuận tiện để trả thù, tôi thấy một người hầu đi ra một giờ đồng hồ sau hắn trở về cùng với Villefort. Cơ hội thật tốt: tôi rút con dao trong túi ra, nhảy qua tường và ẩn vào trong vườn.
    Hai giờ đồng hồ trôi quạ Rất nhiều lần tôi tưởng như nghe thấy tiếng rên rỉ suốt trong quãng thời gian ấy. Đồng hồ đánh nửa đêm. Giữa lúc tiếng chuông cuối cùng còn rung lên sầu thảm và vang động thì cửa mở ra và Villefort đi thẳng đến chỗ tôi; hắn dừng lại ở rìa một lùm cây, đảo mắt nhìn quanh mình rồi bắt đầu đào một cái hố. Tôi nhận ra rằng hắn mang theo một cái hòm nhỏ. Tôi để cho hắn đặt cái hòm xuống hố rồi lấp đất lên trên. Lúc đó tôi mới nhảy bổ vào hắn và đâm hắn một nhát dao vào ngực trong khi nói với hắn rằng: "Ta là Giovanni Bertuccio!
    Cái chết của mày là để trả thù cho anh tao, kho báu của mày là cho bà vợ góa bụa của anh tao:
    cuộc trả thù còn hoàn hảo hơn cả điều tao mong muốn".
    Hắn ngã xuống không kêu được một tiếng:
    tôi cảm thấy máu của hắn chảy chứa chan, bắn tóe vào tôi nóng hổi.
    Tôi vớ lấy cái hòm rồi chạy ra tận sông, tôi ngồi trên sườn đê và nậy khóa bằng con dao của mình. Một đứa trẻ vừa mới đẻ được quấn trong cái tã bằng vải lanh mịn, mặt nó nhuốm màu tía,.đôi tay tím ngắt cho thấy rằng nó đã lâm vào tình trạng không chống chọi nổi sự ngạt thở; tuy nhiên tôi cảm thấy có nhịp đập khẽ ở vùng tim; thế là tôi liền hà hơi vào phổi cho nó. Sau mười lăm phút cố gắng phi thường tôi thấy nó thở, và tôi nghe thấy một tiếng khóc buột ra từ ngực nó.
    - Vậy ông làm gì đứa trẻ ấy? Monte Cristo hỏi.
    - Tôi biết ở Paris có một nhà tế bần có nhận các tạo vật đáng thương này. Sau khi đã đề phòng cẩn thận bằng cách rọc cái tã làm đôi sao cho một trong hai chữ tên đánh dấu cái tã còn quấn quanh mình đứa trẻ, tôi đặt gánh nặng của mình xuống, giật chuông rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy.
    Mười lăm ngày sau tôi về nhà và giải thích toàn bộ câu chuyện cho Assuntạ Tôi đưa cho chị nửa cái tã mà tôi đã giữ lại, để đòi nhận lại đứa trẻ khi chúng tôi khấm khá hơn.
    Nửa muốn xua tan những hoài niệm vẫn ám ảnh tôi nửa muốn chu cấp cho những nhu cầu của người quả phụ đáng thương, tôi hăng hái quay lại với nghề buôn lậu của tôi. Những chuyến đi của tôi ngày càng kéo dài hơn, ngày càng sinh lợi nhiều hơn. Assunta làm việc nội trợ và cái tài sản nhỏ bé của chúng tôi cứ tăng lên. Một hôm, sau chuyến đi sáu tuần tôi trở về, khi bước vào nhà tôi kinh ngạc thấy một cái nôi trong có đứa trẻ độ bảy tám tháng. Tôi thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Assunta đã nhân lúc tôi vắng nhà, đem theo nửa cái tã, đi Paris đòi lại đứa trẻ. Assunta đã đặt tên cho nó là Benedetto.
    - Vậy là ông đã sung sướng quá. - Bá tước nói.
    - Chao ôi! Từ lúc nó còn nhỏ tuổi, nó đã tỏ ra là đứa tệ nhất của đám vô lại trong làng.
    Chưa đầy mười một tuổi mà tất cả đám bạn bè của nó đều được chọn trong đám thanh niên hai mươi, những kẻ xấu xa nhất vùng và tòa án cũng đã phải cảnh cáo chúng tôi.
    - Đứa bé hay thật! - Monte Cristo lẩm bẩm.
    Rồi sau nó ra sao?
    - Benedetto đã lợi dụng một chuyến tôi đi vắng mà cuỗm sạch tiền dành dụm được của As-sunta sau khi tra khảo mẹ. Từ hôm ấy, tôi không hề gặp lại nó mà thậm chí chẳng nghe nói gì về nó. Giờ đây, ông quản gia vừa nói tiếp vừa cúi đầu, ông đã biết hết, thưa ông bá tước.

  3. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 13: Những người mang họ Danglars và họ Villefort
    Vào hồi mười một giờ hôm sau, bá tước xuống nhà rồi lên xe, cho xe dừng lại trước dinh thự của ông chủ ngân hàng Danglars, đậu bên cạnh một cỗ ngựa khác cũng đẹp gần như cỗ ngựa của mình.
    Danglars đang làm chủ tọa một hội đồng được cử ra để làm một đường xe lửa, thì người ta báo cho hắn cuộc viếng thăm của bá tước Monte Cristo.
    - Thưa các ông, hắn nói với các đồng nghiệp, thứ lỗi cho tôi nếu tôi phải cáo biệt các ông như thế này nhưng xin hãy hình dung là hãng Thom-son và French ở Rome giới thiệu đến chỗ tôi một bá tước Monte Cristo nào đó, để mở cho ông ta một khoản tín dụng vô hạn. Về phần tôi các ông hiểu cho vì bị tính tò mò ám ảnh nên phải vội gặp con người này.
    Và hắn rời khỏi đám khách khứa của mình để đi sang một phòng khách.
    Nghe thấy tiếng Danglars đi vào, bá tước ngoảnh lại. Danglars khẽ gật đầu chào rồi ra hiệu mời bá tước ngồi. Monte Cristo nói:
    - Hẳn ông đã nhận được bức thư yêu cầu ngân hàng của ông cấp tín dụng cho tôi?
    - Vâng, Danglars nói, nhưng tôi phải thú thật với ông rằng về chuyện này tôi chưa hoàn toàn hiểu rõ. Lá thư này mở một tín dụng vô hạn cho ông ở ngân hàng của tôi.
    - Vậy thì, thưa ông nam tước, ông thấy có gì tối nghĩa trong đó?
    - Không có gì, thưa ông, chỉ có điều cái từ vô hạn...
    - Này, từ ấy không phải tiếng Pháp à?
    - Rút cục, thưa ông, Danglars nói sau một lúc suy nghĩ, tôi sẽ cố để ông hiểu tôi bằng cách đề nghị Ông tự mình ấn định khoản tiền mà ông định nhận ở tôi.
    - Nhưng, ông ạ, Monte Cristo nói thêm, nếu tôi yêu cầu một tín dụng vô hạn ở ông tức là tôi chẳng biết chính xác tôi cần bao nhiêu tiền.
    Lão chủ ngân hàng cho rằng thế là đã đến lúc thắng thế, hắn ngả người trong chiếc ghế bành của mình và nói với một nụ cười nặng nề và ngạo nghễ:.- Ồ! Thưa ông, đừng ngại và ông muốn gì cũng được. Ngân hàng Danglars có thể thỏa mãn những yêu cầu lớn nhất, cho dù ông có yêu cầu tới một triệu. Tôi nói rõ là: một triệu, Danglars lặp lại với cái vẻ chững chạc của sự ngu xuẩn.
    - Một triệu thì tôi sẽ làm cái gì chứ? Bá tước nói. Lạy Chúa! Thưa ông, nếu tôi chỉ cần có mỗi một triệu thì tôi sẽ chẳng phải mở tín dụng cho một món tiền còm như thế. Một triệu à? Mà bao giờ tôi chả có một triệu trong ví hoặc là trong hộp đựng đồ đi đường.
    Và Monte Cristo rút từ một cuốn sổ tay nhỏ đựng các danh thiếp của mình ra hai phiếu chi mỗi phiếu năm trăm ngàn frăng trực tiếp chi cho người cầm phiếu, ở kho bạc.
    Danglars ngước hai con mắt ngây dại nhìn Monte Cristo.
    - Xin tha lỗi cho tôi, thưa bá tước.
    - Vậy thì, bây giờ khi ta đã hiểu nhau, hãy ấn định, nếu ông vui lòng, một khoản tiền đại khái cho năm đầu: sáu triệu chẳng hạn.
    - Sáu triệu, được! - Danglars nói, sửng sốt.
    - Để mở đầu, xin vui lòng cho mang lại năm trăm ngàn frăng vào ngày mai, tôi sẽ ở nhà đến trưa.
    - Điều đó sẽ được thực hiện, Danglars nói.
    Và bá tước đứng lên.
    Danglars tiễn ông ra tận thềm.
    - Này nam tước, cho tôi biết cỗ ngựa đẹp tuyệt vời màu xám đốm kia là thuộc về ai?
    - Của bà Danglars. Chúng được thắng sẵn để cho bà de Villefort mượn chiều nay vào rừng chơi.
    Về đến nhà, bá tước lập tức gọi Ali.
    - Ali này, anh bảo hắn, anh hay kể với tôi về tài ném thòng lọng của anh phải không?
    Ali ra hiệu là vâng rồi đứng thẳng người, tỏ vẻ hãnh diện Ali mỉm cười.
    - Vậy thì nghe đây, bá tước nói. Lát nữa sẽ có chiếc xe thắng hai ngựa màu xám đốm chạy quạ Dù anh có bị nghiền nát thì cũng phải làm cho cái xe ấy dừng lại ở cửa nhà tôi.
    Người Nubie chạy ra ngồi trên khúc gỗ ở góc hợp thành bởi tòa nhà với đường phố, hút cái ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ của mình, trong khi ấy Monte Cristo quay vào nhà chẳng còn quan tâm đến gì hết.
    Đột nhiên, vào quãng năm giờ, thấy có tiếng bánh xe lăn từ đàng xa, rồi lại gần với sự mau lẹ của sấm sét. Một chiếc xe mui gấp xuất hiện, người đánh xe đang cố kìm ngựa lại một cách vộhiệu, chúng chạy hung hăng, bờm dựng ngược, vọt lên bằng những cái vươn mình điên dại.
    Trong xe, một thiếu phụ trẻ và một đứa bé khoảng bảy tám tuổi ngồi ôm lấy nhau, co quắp.
    Bất chợt Ali đặt ống điếu xuống, cầm cuộn dây thòng lọng vung ra, quấn ba vòng vào các chân trước của con ngựa chạy bên trái, để mình bị kéo theo sự chuyển động mạnh mẽ của con ngựa, nhưng sau ba hay bốn bước con ngựa bị trói ngã khuỵu xuống làm tê liệt mọi cố gắng của con ngựa còn đứng muốn chạy tiếp. Ali đã nắm được mũi con ngựa thứ hai và con vật nằm dài ra co giật bên cạnh bạn đồng hành.
    Tất cả việc này chỉ cần một thời gian đủ cho một viên đạn chạm vào đích. Nhưng mấy giây ấy cũng đủ để Monte Cristo kịp lao ra, theo sau là nhiều người hầu, đem hai người khách qua đường vào trong phòng khách. Đặt họ lên một tràng kỷ, ông nói:
    - Đừng sợ, thưa bà, bà đã thoát nạn.
    Thiếu phụ đã hoàn hồn và hỏi thăm về cậu con trai còn đang bất tỉnh.
    Monte Cristo đưa tay phác một cử chỉ để làm yên lòng người mẹ đang khóc sướt mướt và mở một cái hộp lấy chiếc lọ thủy tinh Bohème nạm vàng đựng một thứ nước màu đỏ rồi rỏ có mỗi một giọt lên môi đứa trẻ.
    Đứa trẻ dù còn tái xanh, lập tức mở mắt ra.
    Thấy thế người mẹ vui sướng gần như phát điên.
    - Ồ! Chỉ tại cái tính hiếu kỳ đáng nguyền rủa! Người thiếu phụ nói. Cả Paris bàn tán về những con ngựa tuyệt vời của bà Danglars và tôi đã điên rồ muốn đi thử. Nhưng tôi đang ở đâu đây?
    - Bà đang ở nhà bá tước Monte Cristo.
    - Thưa ông, tôi là bà Héloise de Villefort.
    Bá tước chào trong vai một người hoàn toàn không biết gì khi nghe nói đến cái tên này.
    - Thưa ông, chúng tôi đội ơn ông cứu mạng.
    Chắc chắn là nếu không nhờ có người hầu dũng cảm của ông thì đứa con yêu dấu này và tôi đều đã bị giết chết.
    - Ôi chao! Thưa bà! Tôi vẫn còn run vì hiểm họa mà bà đã trải qua.
  4. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 13)
    Trong phút im lặng này, bá tước có thể tha hồ nhìn kỹ đứa trẻ mà người mẹ đang ra sức hôn hít. Nó bé nhỏ, mảnh khảnh, nước da trắng với mái tóc đen, cặp mắt đầy vẻ tinh ranh khéo vờ vĩnh và ưa chơi ác.
    - Tôi thấy bà đã hoàn toàn lại sức và bà muốn ra về. Tôi vừa sai thắng chính cặp ngựa ấy vào xe của tôi và Ali sẽ đánh xe đưa bà về nhà..Tối hôm ấy sự kiện Auteuil thành đề tài trong mọi cuộc trò chuyện: Albert kể lại chuyện ấy với mẹ, Château-Renaud kể ở câu lạc bộ đua ngựa, Debray ở phòng khách của ông bộ trưởng; Beauchamp tự mình xử sự phong nhã với bá tước bằng một cái tin hai chục dòng đăng trên tờ báo của mình, đưa nhà quý tộc ngoại quốc lên thành bậc anh hùng đối với các phu nhân trong giới quý tộc.
    Ngày hôm sau, bá tước đến phố Meslay xin gặp ông bà Herbault và ông Maximilien Morrel.
    - A! Thưa bá tước, Maximilien nói, cám ơn, trăm lần cám ơn ông đã không quên lời hứa. Mời ông vào trong vườn, chị tôi đang cắt những bông hồng héo.
    Tiếng chân bước làm cho người thiếu phụ trẻ chừng hai mươi đến hai mươi nhăm tuổi, mặc một chiếc áo dài trong nhà, ngẩng đầu lên. Cô chính là Julie và nay đã là bà Emmanuel Herbault.
    Emmanuel bước đến chào bá tước. Rồi cả ba người đưa anh đi dạo trong vườn và dẫn vào phòng khách.
    Từ lúc bước vào căn nhà này, bá tước đã thấy lòng mình tràn ngập niềm hạnh phúc. Bởi vậy ông lặng thinh không nói, chỉ ngồi im mơ mộng. Lát sau ông cố bứt mình ra khỏi mơ màng:
    - Xin bà thứ lỗi cho tôi, cuối cùng ông nói, đối với tôi, vẻ mãn nguyện hiện trên gương mặt của con người là điều hết sức mới mẻ, thành thử tôi ngắm hai vị, bà và chồng bà, mà không biết chán.
    - Chúng tôi rất sung sướng, đúng thế, thưa ông, Julie đáp, nhưng chúng tôi cũng đã trải qua nhiều thời gian đau khổ và ít có ai trả giá đắt cho hạnh phúc như chúng tôi.
    Sự tò mò thoáng hiện ra trên nét mặt của bá tước.
    - Và Chúa đã ban cho các vị, như Người từng ban cho tất cả mọi người, nguồn an ủi cho nỗi đau khổ đúng không? - Monte Cristo hỏi.
    - Vâng thưa bá tước, Julie nói; chúng tôi có thể nói như vậy, vì Người đã làm cho chúng tôi điều mà Người chỉ làm cho những người được ân sủng. Người đã ban cho chúng tôi một trong các thiên thần của Người.
    Monte Cristo đứng dậy chẳng đáp lại một lời vì nếu nói thì giọng run run của anh sẽ làm lộ rõ những xúc động đang khuấy động lòng anh, anh liền đi từng bước một khắp phòng khách.
    - Bà nói là một thiên thần? Monte Cristo tái mặt và đưa tay cố nén nhịp đập của trái tim mình..- Vâng, một thiên thần mà những di vật duy nhất đang ở đây.
    Julie chỉ cho bá tước xem một hình cầu bằng pha lê úp lên một cái túi bằng tơ, một lá thư và một viên kim cương được đặt nằm trang trọng trên một cái gối nhỏ bằng nhung đen.
    - Vật này, thưa bá tước, là quý giá nhất trong kho báu của gia đình, Maximilien vừa nói vừa nhấc quả cầu pha lê lên. Cái túi này đã cứu cha tôi khỏi chết, cứu chúng tôi khỏi sự phá sản, cứu tên tuổi chúng tôi khỏi nỗi ô nhục. Lá thư này được viết vào hôm mà cha tôi đã chọn một giải pháp thật tuyệt vọng, và viên kim cương này tặng em gái tôi làm của hồi môn bởi con người không quen biết hào hiệp ấy.
    - Ông nói không quen biết? Con người đã giúp các vị trong việc này vẫn cứ còn là không quen biết đối với các bạn?
    - Vâng, thưa ông, chưa bao giờ chúng tôi có diễm phúc được cám ơn ông ta, Julie nói. Nhưng tôi còn chưa mất hết hy vọng một ngày kia được hôn bàn tay đã cứu vớt chúng tôi.
    - Cha chúng tôi đã tin chắc ai là người đem lại hạnh phúc này cho chúng tôi, Maximilien nói.
    Monte Cristo rùng mình.
    - Cha tôi thấy ở hành động này một chuyện thần kỳ. Cha tôi tin vào một ân nhân đã vì chúng tôi mà ra khỏi nấm mồ. ý tưởng này cho đến ngày ấy vẫn chỉ là một mối hoài nghi nhưng rồi nó trở thành niềm xác tín, và những lời cuối cùng mà cha tôi nói ra lúc lâm chung là: "Maximilien, đó là Edmond Dantès!".
    Những lời này làm cho vẻ xanh xao của bá tước vốn đã tăng lên từ mấy giây đồng hồ trước, nay trở nên đáng sợ.
    Anh rút đồng hồ ra cứ như là anh quên mất giờ giấc, cầm lấy mũ, nói với bà Herbault một lời chúc tụng bối rối và ngắn gọn, rồi bắt tay Emmanuel và Maximilien:
    - Thưa bà, anh nói, xin phép bà cho tôi được thỉnh thoảng ghé lại thăm bà. Tôi yêu ngôi nhà của các vị, và tôi cám ơn về sự đón tiếp của các vị, vì đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài quên mất mình, tôi được đón tiếp như vậy.
    Ngay lúc bá tước rời khỏi ngôi nhà ở phố Meslay thì Maximilien đến lượt mình cũng đi ra, và bằng những bước chân khẽ khàng bước vào một khu vườn đã trở lại hoang dã liền kề ngôi nhà lộng lẫy của ngoại ô Saint-Honoré.
    Trong vườn hoa của tòa dinh thự sang trọng bậc nhất này, ở một góc cây cối đặc biệt um tùm có một người đàn bà trẻ đứng nhìn đăm đăm qua một khe giữa lùm cây vào phía vườn hoang..Đó là một thiếu nữ khoảng mười chín tuổi, cao dong dỏng, tóc màu hạt dẻ sáng, cặp mắt xanh thẫm, có dáng đi uể oải thấm đượm vẻ quý phái tao nhã. Cô là con gái của cuộc hôn nhân đầu tiên giữa ông de Villefort và bà de Saint-Méran.
    Với cái nhìn chỉ có ở những người đang yêu chàng trai đã thấy phấp phới tà áo trắng và chiếc thắt lưng dài màu thanh thiên. Anh lao về phía tường chắn và ghé miệng vào một khe nứt.
    - Đừng sợ, Valentine, anh nói, tôi đây mà.
    - Ồ! Thưa ông, cô nói, tại sao hôm nay ông đến muộn thế? ông có biết là sắp đến giờ ăn tối rồi không và tôi đã phải khéo biện bạch để đem đồ thêu ra đây làm.
    - Valentine thân mến, chàng trai nói, đối với tôi cô quá kiêu xa để tôi dám ngỏ lời với cô, tuy nhiên mỗi lần gặp cô, khi nghĩ đến cô, máu tôi sôi sục, ngực tôi căng lên, trái tim tôi chan chứa niềm yêu. Tôi yêu cô, Valentine.
    - Tình yêu của anh không được phải lẽ lắm vì anh biết rằng tôi đã được hứa gả cho ông Franz d''Epinay.
    - Nghe nói là ông Franz d''Epinay còn đi vắng một năm nữa; trong một năm trời biết bao nhiêu cơ may có thể giúp ta biết bao nhiêu sự kiện có thể hỗ trợ cho ta! Vậy hãy luôn luôn hy vọng, thật là tốt đẹp và thật là dịu ngọt khi người ta hy vọng!
    Bất thần Valentine thốt lên:
    - Xuỵt! Trốn đi anh, có người đến đấy!
    - Cô ơi! Cô ơi! - Có tiếng gọi sau đám cây.
    Bà de Villefort đang tìm cô khắp nơi. Có khách đến thăm đang ở phòng khách. Một đại lãnh chúa, một ông hoàng ấy chứ, theo như người ta đồn, đó là ngài bá tước Monte Cristo.
    - Tôi đến đây. Valentine nói to.
    Cái tên đó làm Maximilien rùng mình.
    - Này! Anh tự nhủ, sao bá tước Monte Cristo lại quen ông de Villefort nhỉ?
    Bà de Villefort đang ở trong phòng khách lúc người ta báo bá tước đến thăm, liền lập tức cho gọi con trai để cho con cám ơn bá tước một lần nữa. Ông de Villefort vắng nhà vì đi dự bữa tối ở nhà ông chưởng ấn.
    Valentine đã được bà hầu phòng báo trước, bước vào, thấy người ngoại quốc mà cô đã nghe nói đến nhiều đang ngồi cạnh bà mẹ kế, cô liền chào rất duyên dáng làm tăng gấp bội sự chú ý của bá tước.
    Lúc đó chuông điểm sáu giờ.
    - Sáu giờ rồi đấy, bà Villefort nói, rõ ràng là muốn lợi dụng cái cớ này để ngồi lại một mình.với Monte Cristo, Valentine này sao con không đến xem ông nội con đã sẵn sàng để ăn tối chưa?
    Valentine đứng dậy và vừa chào bá tước, vừa ra khỏi phòng không nói một lời.
    - Xin ông vui lòng tha lỗi cho cô de Villefort, thiếu phụ sôi nổi nói tiếp; vì đã đến giờ chúng tôi phải dọn cho cụ Noirtier cái bữa ăn buồn tẻ để duy trì sự sống buồn tẻ của cụ. Chao ôi! Cụ già tội nghiệp hoàn toàn không cử động được nữa, riêng chỉ có tinh thần còn sáng suốt trong cỗ máy con người này. Nhưng, bà ta nói tiếp, ông chắc phải là một nhà hóa học lớn. Thứ rượu thuốc mà ông đã cho con trai tôi uống...
    - Ồ! Tôi không nói thế, thưa bà, bá tước trả lời với một nụ cười; tuy tôi có nghiên cứu hóa học vì đã quyết định cư trú đặc biệt ở phương Đông, tôi muốn biết nhiều hơn về các độc dược.
    Vì những người phương Đông là những chuyên gia đáng sợ trong lĩnh vực ấy: chẳng phải là chẳng có một người đàn bà Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ hay Hy Lạp nào là không biết về lĩnh vực hóa học đến nỗi làm sững sờ một người thầy thuốc đấy thôi.
    - Thật thế ư! - Bà de Villefort nói, mà cặp mắt ánh lên một ngọn lửa lạ lùng khi nghe lời trò chuyện này.
    - Chẳng hạn thứ rượu thuốc mà bà vừa nói, thưa bà; một giọt rượu ấy đủ để đưa cậu bé sắp chết kia trở về với cuộc sống, nhưng ba giọt ắt đẩy máu vào phổi làm cho cậu bé đánh trống ngực; sáu giọt ắt làm cho cậu ngừng thở, và gây ra một cơn ngất nặng hơn nhiều cơn cậu vừa trải qua; sau rốt mười giọt ắt gây đột tử.
    - Tôi cho rằng cách điều chế ra nó là một bí mật, và tôi không thiếu tế nhị để hỏi xin ông đơn thuốc ấy.
    - Nhưng tôi, thưa bà, Monte Cristo vừa nói vừa đứng dậy, tôi lại đủ lịch thiệp để tặng bà đơn thuốc này. Chỉ xin nhắc bà một điều là: ở liều thấp, đó là một phương thuốc; ở liều cao, đó là thuốc độc. Một giọt đem lại mạng sống; chin hay mười giọt chắc chắn là chết người, và bằng một cách còn khủng khiếp hơn, là nếu pha vào một ly rượu vang nó chẳng hề làm thay đổi hương vị của rượu chút nào. Nhưng tôi xin dừng lại đây, vì thưa bà, gần như có vẻ là tôi chỉ dẫn cho bà rồi.
    Chuông đồng hồ vừa báo sáu giờ rưỡi.
    - Tôi phải cáo biệt bà, Monte Cristo nói; tôi có một lời hứa mà tôi không thể bỏ qua được.
    Tôi nhận lời với một công chúa Hy Lạp trong số bạn gái của tôi, cô ấy chưa từng thấy nhà hát lớn và nhờ cậy tôi đưa cô đi xem.
    - Vậy ông đi đi, thưa ông. Nhưng đừng có quên đơn thuốc của tôi..Monte Cristo chào và ra về. Kết quả thật vượt quá mong đợi của ông. Và hôm sau, giữ đúng lời hứa, ông gửi đơn thuốc bà ta đã hỏi xin.
    Nhà hát nhạc vũ kịch đêm hôm ấy chào mừng Levasseur, và tác phẩm của nhạc sĩ thiên tài hợp thời thượng như mọi khi đã thu hút cả xã hội thanh lịch nhất Paris.
    Morcerf có khoang ghế riêng ở gần dàn nhạc, Château-Renaud cũng có khoang ghế sát cạnh đó. Beauchamp với tư cách nhà báo, là chúa tể của nhà hát, có thể ngồi ở bất cứ đâu. Nữ nam tước Danglars và cô con gái Eugénie được Lucien Debray mời vào lô của ông bộ trưởng.
    Bước vào phòng diễn, họ thấy khán giả ở khu trước sân khấu đều đứng, mắt nhìn đăm đăm về cùng một điểm trong phòng; họ đưa mắt theo hướng ấy và dừng lại ở lô trước đây của đại sứ Nga.
    - Này! Albert nói, đó là Monte Cristo và cô gái Hy Lạp của ông ta.
    Một lát sau, người đàn bà trẻ là đối tượng chú ý không những của khu trước sân khấu mà của cả phòng diễn; các bà nhoài người khỏi lô của mình để ngắm cái dòng thác kim cương ấy chảy dưới ánh sáng của các ngọn đèn chùm. Bà Danglars hỏi:
    - Lucien, cái người đàn ông này anh có biết là ai không?
    - Đó là một cô nô lệ, theo như chính bá tước nói với chúng tôi.
    - Lucien thân mến, bà nam tước nói, hãy thừa nhận là cô ta có vẻ như một công chúa của Nghìn một đêm lẻ thì đúng hơn. Anh biết mình phải làm gì rồi chứ? Anh phải ghé thăm bá tước Monte Cristo va đưa ông ta đến với chúng tôi.
    - Tôi xin hết lòng. Debray nói.
    Lucien Debray nhân dịp nghỉ giữa hai màn bèn đến lô của Monte Cristo và mời ông sang lô của bà Danglars.
    - Hãy nói với bà nam tước rằng tôi sẽ rất hân hạnh, nếu bà cho phép được đến để bày tỏ lòng kính trọng của tôi đối với bà. Nhưng thỉnh thoảng bá tước de Morcerf có đến nhà hát Nhạc vũ kịch chứ? Tôi đã để mắt tìm mà chẳng thấy ông ta đâu.
    - Ông ta sẽ đến tối nay.
    Cuối màn ba, bá tước ra khỏi lô của mình và một lát sau ông xuất hiện trong lô của bà nam tước Danglars và bá tước de Morcerf đã đến giữa chừng. Bà nam tước không nén được một tiếng reo ngạc nhiên xen chút mừng rỡ.
    - Xin cho biết con người tuyệt diệu kia là ai vậy?.- Đó là Haydée, một cô gái Hy Lạp mà tôi là người đỡ đầu.
    - Một cô gái Hy Lạp! - Bá tước de Morcerf lẩm bẩm.
    - Vâng, thưa bá tước de Morcerf, bà Danglars nói; và xin cho biết ông có bao giờ thấy ở triều đình Pacha nơi ông đã phục vụ vẻ vang đến thế, có một sắc đẹp nào được như vậy không.
    - A! Monte Cristo nói, ông đã từng phục vụ Ở Janina ư, thưa bá tước?
    - Tôi đã từng là tướng thanh tra trong quân đội của Pacha, Morcerf trả lời, và tài sản ít ỏi của tôi, chẳng giấu gì ông, là do sự hào phóng của thủ lĩnh nổi tiếng người Anbani ấy.
    - Hãy nhìn kìa! - Bà Danglars nhắc.
    Viên tướng nhoài người ra ngoài lô để nhìn rõ Haydée.
    Lúc này, Haydée đưa mắt tìm bá tước Monte Cristo, thấy gương mặt tái của ông bên cạnh ông de Morcerf. Cái nhìn này gây ra ở người thiếu nữ một tác động lạ thường. Cô vừa ngả người về phía sau vừa thốt lên một tiếng kêu.
    - Này, Eugénie nói, có chuyện gì xảy ra cho người được ông giám hộ thế thưa bá tước? Có vẻ là cô ta khó ở.
    - Đúng thế, Haydée rất mẫn cảm. Tôi phải trở lại với cô tạ Bá tước vừa nói vừa chào bà Danglars.
    Khi ông bước vào lô, Haydée vẫn còn rất nhợt nhạt.
    - Đức ông vừa nói chuyện với ai thế? - Thiếu nữ hỏi.
    - Với bá tước de Morcerf, Monte Cristo trả lời, người đã từng phục vụ người cha nổi tiếng của em, hắn thừa nhận rằng tài sản của hắn là nhờ ở cha em.
    - A! Tên khốn nạn! Haydée kêu lên, chính nó đã phản cha em vì bọn Thổ, còn cái cơ nghiệp ấy là cái giá của sự phản bội. Đức ông thân yêu lại không biết thế hay sao?
    - Ta đã từng nghe nói đôi điều về chuyện này ở Hy Lạp, Monte Cristo nói, nhưng không biết chi tiết. Về đi, con gái, kể tỉ mỉ cho ta nghe, chắc phải kỳ lạ lắm.
    - Ồ! Vâng, em về, em về đây. Có lẽ em chết mất nếu còn ở lại lâu trước mặt con người này.

  5. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 14: Bữa ăn tối
    Vài hôm sau cuộc gặp gỡ ấy, Albert de Morcerf đến thăm bá tước Monte Cristo trong ngôi nhà của ông ở Champs-Elysées.
    - Tôi nghe thấy gì nhỉ? Hình như tiếng một cây đàn guitare.
    - Quả thực, đó là cây đàn guzla của Haydée, tử tước ạ.
    - Haydée, cái tên đến là tuyệt! Cô ta là ai vậy?
    - Ông biết chuyện tổng trấn Janina?
    - Chuyện Ali - Tebelin? Dĩ nhiên, vì cha tôi phục vụ ngài mà nên cơ nghiệp.
    - Này, Haydée là con gái ông ta đấy, thực thế. Nhưng Albert thân mến này, tôi định tổ chức cuộc họp mặt ông bà Danglars cùng ông bà de Villefort ở ngôi nhà thôn dã của tôi ở Auteuil, liệu anh cùng mẹ anh có đến được không?
    - Chao ôi không! Chúng tôi bắt đầu thực hiện một dự định đã có từ trước đây ít lâu: Bà de Morcerf muốn thở hít không khí biển. Ngày mai chúng tôi rời Paris, và đến chủ nhật mới trở về.
    - Nếu thế thì đành vậy.
    - à này, tôi đã nhận được thư của Franz.
    Anh ta gửi lời thăm ông.
    - A! Thật ư! Monte Cristo nói. Thế anh ta vẫn cứ thích ở Italia à? Anh ta có định cưới vợ không?
    - Có, anh ta phải cưới cô de Villefort.
    - Thật thế chứ? Còn Eugénie Danglars có nhằm đám nào không?
    - Eugénie, nàng rất đẹp, lại có tính cách riêng của cô tạ Chỉ còn chuyện tài sản! Tôi đã tính những gì mà nhà Danglars phải kiếm được : ba trăm ngàn livrơ trong lần tăng giá hối phiếu Haiti mới đây và một triệu với các hối phiếu Tây Ban Nha trong năm nay.
    - A! Quỷ thần ơi! Bá tước thốt lên, ông Danglars đánh liều được mất ba trăm ngàn frăng trong một ngày. úi dào! Thế thì ông ta cực kỳ giàu?
    - Trong trường hợp của ông ta, phải nói rằng ông ta cố hạn chế các rủi rọ Tôi cho rằng ông ta thâm nhập được các tin tức điện tín trước tất cả mọi người và lợi dụng điều đó để tiến hành đầu tư sáng suốt.
    Monte Cristo dù bề ngoài ra vẻ thờ ơ nhưng không bỏ sót một lời nào trong cuộc nói chuyện này.
    Albert đứng dậy xin cáo từ.
    - Vậy xin chào, chúng tôi sẽ trở về vào chủ nhật.
    Chuông đồng hồ vừa điểm bảy giờ, một chiếc xe ngựa thuê dừng lại trước cửa dinh thự, để một người đàn ông trạc độ năm mươi tuổi mặc chiếc áo đuôi tôm cấp thiếu tá bước xuống.
    Người khách lạ được dẫn vào căn phòng khách đơn sơ nhất. Lý do khiến ông ta đến nhà Monte Cristo là ở lá thư bí ẩn mà ông ta đã nhận được có nội dung như sau:
    "Ông túng bấn, tuổi già khốn khổ đang đợi ông. Ông có muốn trở nên nếu không giàu có thì ít ra cũng được sống độc lập không?
    Ông hãy đi Paris ngay lập tức, đến đòi người con trai mà ông đã có với bà hầu tước Corsinari và đã bị bắt đi vào lúc nó năm tuổi, ở nhà bá tước Monte Cristo, phố Champs élysées số 30.
    Người con trai này tên là Andrea Cavalcanti.
    Để đổi lại ông sẽ nhận được
    1. Một phiếu chi hai ngàn livrơ toscanes
    2. Một lá thư giới thiệu với ông bá tước Monte Cristo trong đó tôi báo có cho ông một số tiền là năm mươi ngàn frăng.
    Hãy có mặt ở nhà bá tước ngày 26 tháng năm vào lúc bảy giờ tối.
    Tu sĩ BUSONI" - A! Thưa quý ông, xin đón chào, bá tước nói. Tôi đang đợi ông. Thế thì hạnh phúc của ông chỉ còn thiếu mỗi một điều là gặp lại con ông.
    Người đàn ông chẳng biết phải có thái độ như thế nào.
    - Và, Monte Cristo nói tiếp, ông có mang theo hôn thú của ông với bà Olivia Corsinari cùng giấy khai sinh của con trai ông là Andrea Cavalcanti không?
    - Thưa ngài bá tước, tiếc rằng phải thông báo với ông là do tôi không được báo trước phải có các giấy tờ này nên tôi quên không mang theo.
    Vậy chúng có phải là hoàn toàn cần thiết không?
    - Tất nhiên, nếu ở đây người ta lại nêu ra vài nghi vấn về giá trị hợp thức của cuộc hôn nhân của ông, về tính hợp pháp của đứa con ông!
    Nhưng may quá tu sĩ Busoni đã tính chuyện này giúp ông. Các giấy tờ ấy đây. - Tất cả đều hợp thức, thiếu tá nói. Nhưng phần thứ hai của lá thư nói về năm mươi ngàn frăng.
    - Mà tôi sung sướng được giao cho ông ngay lần đầu ông hỏi đến. Này, bây giờ mọi việc đã được thu xếp xong xuôi, tôi dành cho ông một bất ngờ. Con ông, con trai ông, cậu Andrea...
    - Nó ở đây?
    - Đang ở đây, Monte Cristo nói, nhưng tôi hiểu sự xúc động của ông, cần phải có thời gian để ông bình tâm lại; tôi cũng muốn chuẩn bị cho chàng trai trước cuộc gặp gỡ này, vì tôi đoán rằng anh ta sốt ruột chẳng kém gì ông.
    - Tôi cho là thế, Cavalcanti nói, mà chẳng tin tưởng hơn là mấy.
    - Vậy thì mười lăm phút nữa chúng tôi sẽ gặp ông.
    Vừa nghiêng mình chào rất lịch thiệp, Monte Cristo đi khuất vào sau khung cửa treo thảm.
    Bá tước Monte Cristo vào một phòng khách bên cạnh, ở đó có một chàng trai, tư thế ung dung, quần áo khá sang trọng. Anh ta cũng nhận được lá thư nói rằng:
    "Anh nghèo khó, và anh chỉ có một tương lai khốn khổ: anh có muốn có một họ tên được tự do, được giàu có không?
    Hãy đến nhà ngài bá tước Monte Cristo, phố Champs-élysées vào ngày 26 tháng năm hồi bảy giờ tối và yêu cầu ông cho gặp cha anh.
    Anh là con trai hầu tước Bartolomeo Cavalcanti và bà hầu tước Olivia Corsinari, những giấy tờ chứng thực điều đó sẽ được hầu tước trao cho anh và cho phép anh được mang họ tên này trong xã hội Paris.
    Còn về cương vị của anh thì một khoản thu nhập năm mươi ngàn livrơ mỗi năm được cấp cho anh chính là để củng cố cương vị ấy.
    Thủy thủ Simbad" Bá tước vào phòng khách. Vừa thấy Monte Cristo chàng trai liền đứng bật dậy.
    - Ngài là bá tước Monte Cristỏ - Anh ta nói.
    - Vâng thưa ông, bá tước trả lời, và tôi có hân hạnh nói chuyện tôi nghĩ là với ngài tử tước Andrea Cavalcanti?
    - Tử tước Andrea Cavalcanti, chàng trai vừa nhắc lại những lời này vừa cúi chào đầy vẻ ung dung thư thái. Thưa ngài bá tước, tôi xin phục vụ ngài.
    - Thực ra, ông ạ, bá tước nói và nhìn với vẻ hài lòng ảm đạm cái bộ mặt ung dung có vẻ đẹp mang dấu ấn của một ác thần này, ông đã làm rất đúng là nhất nhất đáp ứng lời mời của ông.bạn Simbad của tôi, vì cha ông đang ở đây, và ông sắp ở vào một tình huống dễ chịu nhất: ông ta cấp cho ông một khoản thu nhập là năm mươi ngàn livrơ mỗi năm trong suốt thời gian ông ở lại Paris. Ông hãy vào phòng khách để gặp cha ông đã, ông ta đang đợi ông.
    Andrea cúi chào rất thấp và bước vào phòng khách.
    Bá tước dõi nhìn theo hắn, vừa thấy hắn đi khuất liền nhấn vào chiếc lò so gắn với một bức tranh, bức tranh này liền tách khỏi khung để hé ra một khe hở được bố trí khéo léo cho phép nhìn được vào phòng khách.
    Andrea khép cửa lại sau lưng mình và tiến về phía thiếu tá, ông này đứng dậy lúc nghe thấy tiếng chân bước lại gần.
    - A! Thưa ông và thưa cha thân yêu, Andrea nói to để cho bá tước có thể nghe thấy qua cánh cửa đã đóng, có đúng là cha đấy không?
    - Chào con yêu quý, thiếu tá nghiêm trang nói.
    - Sau từng ấy năm xa cách, Andrea vừa nói vừa tiếp tục nhìn về phía cửa, thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta gặp lại nhau!
    Thế rồi chẳng hề có chuyển tiếp nhưng hắn hạ giọng xuống và nói bằng thổ ngữ "toscane":
    - Ông Cavalcanti thân mến của tôi ơi, họ cho ông bao nhiêu để làm bố tôi đấy? Phần tôi, họ cho năm mươi ngàn frăng mỗi năm để làm con ông: bởi vậy ông hiểu rõ rằng không phải tôi là kẻ định phủ nhận việc ông là cha tôi.
    Thiếu tá lo lắng nhìn quanh mình.
    - Này, về phần tôi, thiếu tá nói, họ cho tôi một số tiền năm mươi ngàn frăng.
    - Ông có hiểu đôi điều về việc này không?
    - Quả thực là không.
    Monte Cristo chọn đúng lúc ấy bước vào phòng khách. Vừa nghe tiếng bước chân của anh, cả hai người cùng đứng dậy lao vào vòng tay nhau, bá tước thấy họ Ôm hôn nhau liền nói.
    - Người cha hạnh phúc! Người con hạnh phúc!
    - Chỉ có mỗi một điều làm tôi buồn, thiếu tá nói, đó là việc tôi cần phải rời Paris gấp quá.
    - Ồ! ông Cavalcanti thân mến, Monte Cristo nói, tôi hy vọng ông đừng đi, trước khi tôi giới thiệu ông với một số bạn bè.
    - Tôi xin tuân lệnh ngài. Thiếu tá nói.
    - Thứ bảy này, nếu ông vui lòng... Tôi có mời cơm tối ở nhà tôi tại Auteuil, nhiều người trong đó có ông Danglars, chủ ngân hàng của ông. Tôi sẽ giới thiệu ông với ông ta, đúng là cần phải để cho ông ta biết cả hai người để ông ta chi tiền cho các ông. Các ông hãy đến vào lúc sáu giờ rưỡi..- Xin vâng, chúng tôi sẽ ở đó, thiếu tá vừa nói vừa đưa tay cầm lấy mũ.
    Cả hai người mang họ Cavalcanti cùng chào bá tước và đi ra.
    Trong khi cái cảnh kỳ lạ này diễn ra ở nhà Monte Cristo thì một cuộc họp mặt trang trọng diễn ra ở nhà Villefort.
    Ông de Villefort có bà de Villefort đi cùng, vào phòng cha mình. Ông Noirtier ngồi trong chiếc ghế bành lớn có bánh xe, nơi mà người ta đặt ông vào đó buổi sáng và lại đưa ông ra khỏi đó buổi tối, ông bất động như một xác chết, nhìn các con mình với cặp mắt thông minh và sắc sảo mà cái chào cung kính đúng nghi thức cho ông biết sắp có cuộc vận động gì đó bất ngờ. Thị giác và thính giác là hai giác quan sót lại còn làm cho ông hoạt động.
    Như vậy là toàn bộ hoạt động, toàn bộ sự khéo léo, toàn bộ sức lực, toàn bộ trí thông minh trước kia được phân phối khắp cơ thể và trí tuệ này thì nay được tập trung cả vào cặp mắt của ông lão Noirtier.
    Chỉ có ba người biết cách hiểu thứ ngôn ngữ ấy của ông già bại liệt đáng thương: đó là Villefort, Valentine và người lão bộc của ông là Barrois.
    - Thưa ông, vợ chồng con xin thông báo với ông rằng chúng con sắp gả chồng cho Valentine.
    Gương mặt cụ Noirtier vẫn cứ thản nhiên trong khi nghe câu chuyện.
    - Đám cưới sẽ tổ chức trong vòng ba tháng tới. Villefort nói tiếp.
    Mắt cụ già vẫn không linh hoạt hơn.
    Đến lượt bà de Villefort cất lời:
    - Chúng con chỉ còn phải nói với ông là đã gả cháu cho ai. Đó là một trong những đám danh giá nhất mà Valentine có thể với tới được. Đó là ông Franz de Quesnel, nam tước Epinay.
    Khi bà de Villefort nói đến cái họ của Franz, mắt ông Noirtier, mà con trai ông biết quá rõ rung lên, các mi mắt để lọt ra một ánh chớp.
    Chắc chắn tiếng thét đau khổ và giận dữ đang dâng lên họng nhưng không phát ra được, làm cho ông nghẹn ngào vì mặt ông tím lại và đôi môi ông xanh nhợt.
    - Cuộc hôn nhân này, bà de Villefort nói thêm, được cả ông d''épinay và gia đình ưng ý vả chăng gia đình ông ta chỉ có một ông chú và một bà cộ Mẹ Ông đã mất lúc ông ta chào đời, còn cha ông ta đã bị giết hại vào năm 1815, nghĩa là vào lúc cậu bé chưa đầy hai tuổi, vậy là chuyện chỉ tùy thuộc ý muốn của riêng ông ta.
    Rồi bà ta nói thêm:.- Ông có cần gì không?
    Đã thỏa thuận rằng cụ già biểu lộ sự tán thành bằng cách nhắm mắt, sự từ chối bằng cách chớp mắt nhiều lần, và biểu lộ cụ muốn cái gì đó khi ngước mắt nhìn lên trời.
    - Có, cụ già trả lời bằng cách nhắm ngay cặp mắt.
    Họ cho gọi Valentine.
    Rồi Valentine vào chỗ ông lão. Chỉ cần nhìn một cái là cô hiểu cụ đang đau khổ đến đâu và có bao nhiêu chuyện muốn nói với cô.
    - Ông muốn gì, ông yêu quý?
    Thế rồi Valentine đọc lần lượt từng chữ của bảng chữ cái từ A đến N đồng thời nụ cười của cô dò hỏi cặp mắt của cụ già bại liệt; đến chữ N cụ Noirtier ra hiệu là đúng.
    - A! Valentine nói, điều mà ông muốn bắt đầu bằng chữ N! Vậy thì nào, NẢ NẺ NI?
    NO?
    - Đúng, đúng, đúng, cụ già ra hiệu.
    Valentine chạy đi lấy một cuốn tự điển, đặt lên chiếc bàn nhỏ trước mặt cụ Noirtier. Cô mở ra đến chữ NO và khi thấy mắt cụ già đăm đăm nhìn vào các trang giấy, thì các ngón tay cô lần nhanh các cột từ trên xuống dưới. Đến từ NO-TAIRE (nghĩa là ông công chứng - N.D) thì cụ Noirtier ra hiệu dừng lại.
    - Ông công chứng, cô nói, ông cần một ông công chứng hả ông nội?
    Cụ già ra hiệu rằng đúng là ông cần một ông công chứng.
    Trước đòi hỏi bất ngờ đó, ông de Villefort hỏi:
    - Tại sao cha lại cần đến ông công chứng?
    Cha lại chơi khăm chúng con cái gì nữa đây?
    Villefort nói, có cần thiết không?
    - Cháu sẽ cho đi mời ông công chứng ngay lập tức cho ông, ông yêu quý, Valentine nói.
    Bốn mươi lăm phút sau, người hầu trở về có ông công chứng đi cùng.
    - Thưa ông, Villefort nói sau khi đã chào hỏi mọi người, ông được cụ Noirtier de Villefort mời đến, cụ đây mắc chứng bại liệt toàn thân mất khả năng sử dụng chân tay và lời nói của cụ, và chỉ có chúng tôi, khó khăn lắm họa chăng mới nắm được một vài mảnh gì đó trong ý tưởng của cụ.
    Noirtier đưa mắt tỏ vẻ nhờ cậy ở Valentine, một sự nhờ cậy rất nghiêm chỉnh và mang tính mệnh lệnh rất cao, khiến cô tức khắc đáp ứng:
    - Tôi, thưa ông, tôi hiểu tất cả những gì ông tôi muốn nói.
    - Vậy ta thử xem, ông công chứng nói. Nào, thưa ông, ông muốn gì ở tôi, và ông muốn làm văn bản gì?.Valentine đọc tất cả các chữ trong bảng chữ cái cho đến chữ T. Đến chữ này, Noirtier ra hiệu cho cô dừng lại. Họ lần tìm trong từ điển cho đến từ TESTAMENT (nghĩa là chúc thư - N.D).
    - Chúc thư! ông công chứng reo lên, việc đã rõ, cụ muốn làm chúc thư.
    - Đúng! Cụ Noirtier ra hiệu nhiều lần.
    Họ đọc cho cụ Noirtier nghe một mẫu chúc thư còn để trống rồi ông công chứng hỏi cụ:
    - Theo bản chúc thư trước đây của cụ, cụ có chín trăm ngàn frăng. Có đúng không?
    - Đúng.
    - Cụ muốn để lại tài sản này cho ai?
    - Ồ! Bà de Villefort nói. Cụ Noirtier chỉ yêu có mỗi cô cháu gái Valentine: cô là người chăm sóc cụ từ sáu năm nay, vậy thì trả giá cho sự tận tụy của cô là công bằng.
    - Vậy có phải là cụ để lại số tiền chín trăm ngàn frăng này cho cô Valentine không? - Ông công chứng hỏi.
    Cụ già nhìn Valentine một lúc tỏ ra cực kỳ âu yếm, rồi quay về phía ông công chứng, cụ chớp chớp mắt một cách dứt khoát.
    - Không ư? - Ông công chứng nói, không phải là cô Valentine de Villefort được cụ lập làm người thừa kế toàn bộ tài sản của cụ hay sao?
    - Không! Cụ Noirtier lặp lại, không!
    Sự kinh ngạc bao trùm tất cả mọi người.
    - Vậy thì có phải là cụ để lại tài sản cho cháu trai của cụ, Edouard de Villefort, thưa cụ Noirtier kính mến? - Người mẹ hỏi.
    Những cái chớp mắt trở nên dữ dội: tỏ vẻ gần như là căm ghét.
    - Vậy thì cụ để cho ông con trai cụ đang có mặt ở đây?
    - Không. Cụ già trả lời.
    Và Noirtier hướng ánh nhìn cháy bỏng vào bàn tay của Valentine.
    - Bàn tay của cháu ư? ồ! Valentine bất chợt kêu lên, cháu hiểu rồi! Việc hôn nhân của cháu có phải không, ông yêu quý?
    - Ừ, ừ, ừ, cụ già bại liệt nhắc đi nhắc lại ba lần, mỗi lần mi mắt mở ra lại để lọt một ánh mắt sáng quắc.
    - Ông không bằng lòng cho con lấy ông Franz d''épinay hay sao?
    - Không, ta không bằng lòng. Cụ già ngỏ ý bằng mắt.
    - Và cụ tước quyền thừa kế của cháu gái cụ, ông công chứng kêu lên, vì cô ta tiến hành hôn nhân trái ý cụ?
    - Đúng. Cụ Noirtier trả lời..Lúc này xung quanh cụ già lặng ngắt như tờ.
    ý nguyện của cụ đã rõ: nếu Valentine lấy Franz d''épinay thì toàn bộ tài sản đem cho những người nghèo ở Paris.
    Villefort sùi cả bọt mép vì tức điên lên.
    - Tôi cho rằng, Villefort nói, không nén nổi cơn giận của mình, chỉ tôi có quyền gả chồng cho con gái tôi, tôi muốn nó lấy ông Franz d''épi-nay và nó sẽ lấy ông tạ Tôi không chịu thua cái ý thích thất thường của người già và tôi sẽ hành động theo lương tâm của mình.
    Valentine ngã xuống một chiếc ghế bành, khóc sướt mướt.

  6. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 14)
    Lúc gia đình Villefort trở về các căn hộ của mình thì người hầu báo cho họ biết có ông bá tước Monte Cristo đến và đang đợi họ trong phòng khách.
    - Tôi chỉ đến để nhắc ông lời hẹn cho ngày thứ bảy. Bá tước nói.
    - Có phải là sẽ họp mặt ở nhà ông ở Champs-élysées hay không?
    - Không phải, Monte Cristo nói, họp mặt ở vùng quê, ở Auteuil, phố La Fontaine, số 28.
    - Nhưng có phải họ đã bán ngôi nhà của ngài de Saint-Méran cho ông không? - Villefort kêu lên với giọng nghẹn ngào.
    - Ngài de Saint-Méran? Monte Cristo hỏi.
    Vậy ra ngôi nhà ấy là của ngài de Saint-Méran?
    Tôi hy vọng, Monte Cristo nói với vẻ lo âu, rằng sự trùng hợp này không tước mất của tôi niềm hạnh phúc được thù tiếp ông?
    - Không, thưa bá tước... Tôi rất mong... Hãy tin rằng tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể, Villefort ấp úng.
    - Ồ! Monte Cristo trả lời, tôi không chấp nhận lý do thoái thác. Thứ bảy này vào lúc sáu giờ tôi đợi ông, và nếu ông không tới thì tôi, tôi sẽ nghĩ rằng có một truyền thuyết gì đó sầu thảm, có chuyện đổ máu gì đó ở cái ngôi nhà không người ở từ hơn hai mươi năm này.
    - Tôi sẽ tới, thưa bá tước, tôi sẽ tới, Villefort vội nói ngay.
    - Cám ơn, Monte Cristo nói, bây giờ ông phải cho phép tôi cáo biệt.
    Monte Cristo cáo biệt gia đình Villefort, họ sẽ hết sức kinh ngạc nếu thấy bá tước đến đài điện tín Montlhéry, một cây tháp xây trên chỗ cao nhất của vùng đồng bằng. Sau khi đã chiếm được cảm tình của điện báo viên, ông hỏi ông ta:
    - Nếu tôi biếu ông xem nào... mười lăm ngàn frăng để ông thay đổi tín hiệu đi đôi chút, hay để ông thay bằng một tín hiệu khác thì sao nào?.- Điều đó không thể được, tôi sẽ bị thải hồi và mất lương hưu. Ông phải biết rằng không bao giờ tôi làm những chuyện đó.
    - Nếu tôi tăng số tiền ấy lên gấp đôi? Điều này đáng suy nghĩ chứ hả?
    - Ồ! Thưa ngài, ngài đề xuất cho tôi việc gì?
    Và tôi phải làm gì?
    - Đánh lại các tín hiệu như thế này.
    Monte Cristo rút trong túi ra một tờ giấy trên đó có ghi ba ký hiệu được viết sẵn, có những số hiệu chỉ rõ thứ tự phát đi như thế nào.
    - Chẳng phải là dài, ông xem đấy.
    Mặt đỏ bừng như lên cơn sốt, mồ hôi chảy ròng ròng từng giọt lớn, lão ta phát đi ba tín hiệu mà bá tước đưa chọ Người đồng nghiệp ở bên trái chăm chú phát lại chính các tín hiệu ấy và cuối cùng chúng được nhận ở Bộ nội vụ.
    - Bây giờ, ông giàu có rồi. Monte Cristo nói.
    Năm phút sau khi tin điện báo đến bộ, De-bray liền cho thắng ngựa vào chiếc xe hòm của mình rồi chạy đến nhà Danglars.
    - Ông có trái phiếu Tây Ban Nha không?
    - Có chứ! Loại ấy tôi có tới sáu triệu.
    - Hãy bán chúng đi với bất cứ giá nào: nhà vua don Carlos đã chạy thoát khỏi Bourges và trở về Tây Ban Nhạ Barcelone đã nổi dậy. Gấp lên vì tin điện báo này chẳng mấy chốc sẽ lộ ra.
    Nam tước chạy đến chỗ nhân viên hối đoái của mình và ra lệnh cho anh ta giá bao nhiêu cũng bán.
    Nhưng hôm sau người ta đọc thấy trong báo "Người cố vấn" những dòng chữ sau:
    "Thật không có cơ sở nào mà tờ "Người đưa tin" hôm qua đã đăng tin don Carlos trốn thoát và về cuộc nổi dậy ở Barcelonẹ Đó là một tín hiệu điện báo bị sai lạc vì sương mù đã gây ra sai sót ấy." Các giá vốn lên đến một con số gấp đôi bắt đầu sụt.
    Việc này làm cho Danglars lỗ và mất ăn tới một triệu đồng chênh lệch giá.
    Ông Bectuccio đã xuất sắc hơn lúc thường về vẻ lịch sự của các đồ đạc được mua sắm bày biện và về việc thu xếp dọn dẹp nhanh chóng ngôi nhà ở Auteuil. Trong ba ngày ông đã cho trồng cây kín một cái sân hoàn toàn trần trụi và những cây dương đẹp đẽ, những cây sung được đem đến có cả bầu rễ khổng lồ của chúng làm râm mát mặt chính của tòa nhà, trước nhà, thay vì những viên gạch lát bị cỏ dại che lấp đến một nửa, là một bãi cỏ mà các vầng cỏ vừa được đặt xuống ngay buổi sáng hôm ấy, làm thành một tấm thảm rộng còn long lanh nước mới tưới..Lúc năm giờ đúng bá tước tới, có Ali đi theo.
    Thế rồi các khách mời lần lượt đến. Morrel đến đầu tiên có Debray đi cùng chỉ sớm hơn chiếc xe của Danglars chút ít.
    Tất cả mọi người được mời vào phòng khách, thì Baptistin vào báo danh:
    - Ông thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti, ông tử tước Andrea Cavalcanti!
    Thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti, người cha hiền mà chúng ta quen biết, xuất hiện trong trang phục không chê vào đâu được của người cựu binh.
    Bên cạnh hắn, tiến bước chàng tử tước Andrea Cavalcanti, người con kính cẩn mà chúng ta cũng đã biết, quần áo mới toanh từ đầu đến chân, nụ cười trên môi.
    - Các ông này là ai vậy? - Danglars hỏi bá tước Monte Cristo.
    - Ông đã nghe nói rồi, những người mang họ Cavalcantị Và nói đến họ Cavalcanti là nói đến dòng dõi hoàng thân.
    - Tài sản lớn chứ? - Viên chủ ngân hàng hỏi.
    - Rất lớn. Ngoài ra họ có mở tín dụng ở chỗ ông theo như họ nói với tôi hôm kia. Thậm chí tôi mời họ vì ông. Tôi sẽ giới thiệu họ với ông.
    Thế rồi Monte Cristo lại gần bà Danglars.
    Anh nói:
    - Ông nam tước hôm nay trông rầu rĩ quá.
    - Tôi cho rằng ông ấy đầu cơ chứng khoán, ông ấy đã lỗ và chẳng biết đổ trách nhiệm cho ai.
    Baptistin xướng to:
    - Ông bà de Villefort!
    Hai người vừa được báo bước vào. Ông de Villefort dù cố gắng gượng vẫn thấy rõ là bị xúc động. Khi bắt tay hắn, Monte Cristo cảm thấy bàn tay ấy run rẩy.
    Sau những lời chúc tụng đầu tiên, bá tước nhận ra Bertuccio từ nãy đến giờ cứ bận bịu ở phía gian dọn ăn cạnh bếp đang bị giày vò bởi một trạng thái kích động lạ thường. Anh đến với ông ta.
    - Có chuyện gì thế ông Bertuccio?
    - A! Trời ơi! Hắn đấy! ông ta vừa thì thào vừa chỉ tay vào Villefort. Vậy ra tôi vẫn chưa giết chết được hắn!
    - Phải tin là không, ông Bertuccio.
    - Và người đàn bà này!... Người đàn bà này!...
    Bà Danglars! Nhưng chính là cô ta, thưa ông, chính là cô ta! Người thiếu phụ trong vườn!
    Người thiếu phụ bụng chửa! Người thiếu phụ đi dạo...
    Bertuccio đứng lặng người miệng há hốc, tái nhợt và tóc tai dựng ngược. Nhưng lúc trông.thấy Andrea Cavalcanti ông ta lại còn bối rối hơn.
    - Benedetto! ông lẩm bẩm thật khẽ: Định mệnh!
    - Đấy chuông điểm sáu giờ rưỡi rồi, ông Ber-tuccio, bá tước nói nghiêm khắc, đến giờ mà tôi đã có lệnh phải sẵn sàng cho mọi người ngồi vào bàn ăn; ông biết rằng tôi không thích chờ đợi chút nào.
    Và Monte Cristo vào phòng khách, ở đó khách khứa đang đợi anh, trong khi ấy Bertuccio đi vào phòng ăn mà cứ phải vịn vào tường.
    Bữa tiệc thật xa hoa; Monte Cristo cố làm đảo ngược hoàn toàn tính cân đối của bữa tiệc kiểu Paris, và làm cho sự lạ miệng còn nổi trội nhiều hơn sự ngon miệng của đám thực khách đầy tính hiếu kỳ mong muốn ở món ăn. Đó là một bữa tiệc phương Đông xứng đáng với Nghìn lẻ một đêm. Những loài chim hiếm, những thứ cá quái lạ, mọi loại vang Archipel và của vùng tiểu á lần lượt diễu qua trước mặt các quan khách đang lạ lùng thán phục.
    - Tất cả những cái đó đều rất dễ thương, Château-Renaud nói, tuy nhiên tôi xin thú thực, điều làm tôi cảm phục nhất là việc phục vụ bàn tiệc nhanh nhẹn đến mức đáng khâm phục. Phải chăng, thưa bá tước, ông tậu ngôi nhà này vừa mới được có năm hay sáu ngày?
    - Quả vậy, không hơn. Monte Cristo nói.
    - Này tôi dám chắc rằng trong vòng tám ngày nữa ngôi nhà này đã biến đổi hoàn toàn. Đúng là ít nhất đã mười năm nhà bỏ trống không có người ở, Château-Renaud nói. Thực ra nếu nó không phải là của nhạc phụ một biện lý hoàng gia thì người ta đã coi nó là một trong những ngôi nhà bị nguyền rủa là nơi đã xảy ra một tội đại ác gì đó.
    Cho đến lúc này, Villefort vẫn chưa đụng tý nào đến ba hay bốn ly rượu vang lạ thường bày trước mặt hắn, bỗng vơ đại lấy một ly và uống cạn một hơi.
    - Ông không nghĩ rằng mình đã nói trúng đến thế đâu, bá tước nói giữa khoảng im lặng tiếp sau lời nói của Château-Renaud. Xin hãy hình dung rằng để làm trẻ lại các cây cối già cỗi trong vườn, tôi đã cho đào hố để đổ đất mùn.
    Thế là những người lao động của tôi, trong lúc đào đất, đã moi lên được một cái hòm hay đúng hơn là cái đai sắt của hòm, ở giữa có một bộ xương trẻ sơ sinh.
    Bà Danglars gần như ngất xỉu trong cánh tay de Villefort, còn chính hắn thì tái mặt đi một cách đáng sợ.
    - Trời ơi! Thưa bà, Debray kêu lên, bà làm sao thế? Sao bà tái nhợt thế?.Monte Cristo tỏ vẻ buồn phiền.
    - Thực ra, thưa bá tước, bà Danglars nói, tôi thật xấu hổ mà thú nhận sự yếu đuối của mình, nhưng những chuyện kinh khủng này đã làm tôi bàng hoàng.
    Monte Cristo thấy là đã hết mức khả dĩ chịu đựng được đối với hai người mà cảnh này được ông chuẩn bị dành cho họ. Ông quyết định đi ra.
    Viên biện lý hoàng gia kín đáo rỉ tai bà Dan-glars:
    - Tôi cần nói chuyện với bà. Ngày mai ở phòng làm việc của tôi.
    Buổi tối về khuya. Bà Villefort ngỏ ý muốn trở về Paris. Cho nên ông de Villefort là người đầu tiên ra hiệu lên đường. Hắn dành một chỗ trong chiếc xe ngựa bốn bánh của hắn cho bà Danglars, còn ông Danglars mải mê một câu chuyện kỹ nghệ thuộc loại hấp dẫn nhất với ông Cavalcanti nên chẳng mảy may để ý gì đến mọi chuyện đang xảy ra.
    Ngày hôm sau, sau khi đã giải quyết xong các công việc thường ngày, Danglars đến nhà Monte Cristo.
    - Lạy Chúa! Bá tước nói, ông sao vậy? ông có vẻ rất lo âu.
    - Tôi bị, thưa quý ông, Danglars nói, vận hẩm cứ rơi vào tôi từ mấy hôm nay, và tôi cứ chỉ nhận được những tin dữ.
    - Ôi! Lạy Chúa! Monte Cristo nói, có phải là ngài lại bị đổ bể ở phòng giao dịch chứng khoán không?
    - Không, tôi đã hồi phục, ít ra cũng được mấy ngày. Nói cho thật đúng ra là tôi đã bị vỡ nợ Ở Triestẹ Đây là một tai ương chưa từng thấy bao giờ. Tôi phát hành sáu trăm ngàn livrơ cho một người mà tôi đã cùng với họ tiến hành nhiều vụ giao dịch tốt đẹp; nhưng rồi chúng trở lại với tôi mà không được chi trả, thêm vào đấy tôi còn cầm số phiếu bốn trăm ngàn frăng mà không bao giờ có thể thu hồi được. Với cái tin nhảm về Tây Ban Nha két bạc của tôi lại bị hụt đi bảy trăm ngàn frăng nữa, việc này đưa đến cho tôi một bản quyết toán đẹp đẽ vào cuối tháng, với tôi thật là họa vô đơn chí, thật đấy.
    - Quỷ thần ơi, Monte Cristo nói, mất một triệu bảy trăm ngàn frăng trong một tháng! Ngoài hãng ông ra, bất kỳ hãng nào khác đều phải ngắc ngoải.
    - Ồ! Danglars nói với một nụ cười tê tái.
    Nhưng lúc này đây, tiền lại đổ vào hòm tôi do những cuộc đầu cơ thắng lợi khác. Nhưng vì chúng ta đang bàn việc, vậy hãy cho tôi biết đôi chút xem ông nghĩ về thiếu tá Cavalcanti như thế nào..- Nghe đây, tôi chỉ biết sơ qua về ông ta, cả đời tôi mới gặp ông ta ba lần. Những gì tôi biết về ông ta là qua tu sĩ Busoni, một người bạn của tôi, và chính ông ta kể với tôi. Sáng nay ông ta có cho tôi biết về những dự định về con trai mình, và hé lộ cho tôi biết rằng đã chán thấy cảnh vốn liếng to lớn của mình ngủ yên ở Italia, một xứ sở chết cứng, nên muốn tìm cách làm cho nó sinh sôi nảy nở hoặc ở Pháp hoặc ở Anh.
    Nhưng xin ông vẫn cứ lưu ý rằng dù cho tôi có tin tu sĩ Busoni đến đâu thì riêng cá nhân tôi, tôi không hề đảm bảo điều gì hết.
    - Và chàng trai? - Danglars hỏi.
    - ái chà! Chắc ông muốn gả con cho Andrea, ông Danglars thân mến, cho nên ông mới hỏi tôi tất cả những câu hỏi ấy?
    - Quả vậy, Danglars nói, tôi thấy việc đó hình như không phải là một vụ đầu tư tồi. Xem ra chàng trai này hoàn toàn phù hợp.
    - Ông đã cho điều tra về hắn chưa? - Monte Cristo hỏi.
    - Có cần làm thế không, và ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, người ta lại không biết là đang giao dịch với người như thế nào ư? Trước hết anh ta giàu, sau đó anh ta có một học vấn đặc biệt.
    - Tôi không dám chắc điều đó.
    - Này bá tước, ông chẳng công bằng đối với chàng trai này.
    Vào lúc mười hai giờ rưỡi bà Danglars đã đòi lấy ngựa để đi đến tòa án. Người mõ tòa dẫn bà ta đi theo một hành lang riêng vào phòng làm việc của ông de Villefort.
    - Cám ơn bà, hắn nói, cám ơn bà đã đến đúng hẹn.
    Villefort mỉm cười cay đắng.
    - Sao mà cái quá khứ khủng khiếp ấy lại sống lại thế? Hắn kêu lên; chẳng có gì là ngẫu nhiên đâu.
    - Nhưng có chứ, chẳng phải là sự ngẫu nhiên đã làm nên tất cả chuyện này ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà bá tước Monte Cristo đã mua ngôi nhà ấy ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà ông ấy đã cho đào đất ư?
    - Này, không đâu thưa bà, đây là cái điều khủng khiếp mà tôi phải nói với bà, Villefort trả lời với một giọng trầm đục: Không, không hề có di hài nào tìm thấy dưới những bông hoa.
    - Ông định nói gì thế? - Bà Danglars kêu lên, toàn thân run lập cập.
    - Tôi định nói rằng, ông Monte Cristo trong khi đào những gốc cây chẳng thể tìm thấy cả bộ xương trẻ con lẫn đai hòm, bởi vì dưới các gốc cây này không hề có cả hai thứ ấy..- Lạy Chúa tôi! ông làm tôi sợ quá!
    - Bà biết cái đêm đau lòng ấy diễn ra như thế nào không, cái đêm mà bà thì nằm ngắc ngoải trên giường ở cái buồng trên gác, trong khi tôi chờ đợi bà sinh nở? Khi đứa trẻ ra, chúng ta tưởng rằng nó đã chết. Tôi đặt nó vào trong một chiếc hòm rồi xuống vườn, tôi đào một cái huyệt rồi vội vàng chôn nó xuống. Vừa mới lấp đất xong thì cánh tay thằng nhỏ Corse đã phóng vào tôi. Tôi ngã xuống hấp hối, và tôi tưởng mình đã bị giết chết. Bà đã có can đảm để bà vú dìu trở về nhà. Một cuộc quyết đấu được dùng làm cái cớ gây thương tích cho tôi. Họ chở tôi đi Versailles. Tôi chiến đấu với cái chết suốt ba tháng ròng.
    Thời kỳ hồi phục của tôi kéo dài sáu tháng; tôi không còn nghe nói gì về bà, tôi không dám dò hỏi tin tức về chuyện bà đã ra sao. Khi tôi trở lại Paris thì biết tin bà là quả phụ của ông de Nargonne và đã thành hôn với ông Danglars.
    Nhưng suốt thời kỳ dưỡng bệnh của tôi, cái thi hài đứa trẻ ám ảnh tôi đến phát điên. Lúc vừa bình phục, tôi quyết định phải làm cho lòng mình thanh thản về chuyện này. Một đêm tôi lần mò vào khu vườn ở Auteuil và tôi đào chính chỗ đất ấy lên. Cái hòm không có ở đấy.
    - Chiếc hòm không có ở đấy! - Bà Danglars thì thào, nghẹn ngào vì lo sợ. - Tại sao con người ấy lại mang cái thi hài ấy đi?
    - Bởi có cái gì đó ghê gớm hơn, nguy hại hơn, đáng sợ hơn cho chúng ta: đó là đứa trẻ còn sống, và kẻ giết người đã cứu nó.
    Bà Danglars thét lên một tiếng kinh khủng.
    - Nếu đứa trẻ ấy sống, Villefort nói tiếp, và có ai đó biết nó còn sống, có ai đó nắm được bí mật của chúng ta; và cái bí mật này Monte Cristo đã nắm được, vì hắn nói trước mặt chúng ta về một đứa trẻ được moi lên từ cái chỗ mà đứa trẻ kia không còn ở đó nữa.
    - Nhưng tại sao?
    - Đó là điều tôi sẽ phải tìm ra. Villefort nói với một ngữ điệu mà nếu bá tước có nghe thấy ắt phải rùng mình.

  7. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 15: Maximilien và Valentine
    Sau tối hôm gặp mặt ấy, Villefort nhốt mình trong phòng làm việc, với một chồng hồ sơ, bỗng nghe thấy tiếng chân bước ngoài cầu thang của một người có tuổi, rồi những tiếng kêu.
    Hắn vội rút chốt cửa phòng và lập tức bà mẹ vợ bước vào không báo trước, chiếc khăn quàng vắt trên cánh tay và mũ cầm tay.
    - A! Lạy Chúa tôi! Thưa bà, Villefort hỏi, có gì xảy ra vậy? Ai làm cho bà thảng thốt đến thế? Sao ngài de Saint-Méran không đi cùng bà?
    - Ông de Saint-Méran đã mất. Bà hầu tước già nói.
    - Mất! Villefort ấp úng; như vậy là chết đột ngột?
    - Đến chỗ cách Marscille sáu dặm, ông de Saint-Méran vừa uống xong mấy viên thuốc thường dùng thì lăn ra ngủ thật sâu nhưng tôi thấy có vẻ không bình thường. Đột nhiên ông bật lên một tiếng kêu trầm đục và xé lòng như tiếng kêu của người bị đau đớn trong giấc mơ, và đầu ông hất mạnh ra đằng sau. Tôi cho dừng xe trạm, cho ông hít lọ muối của tôi nhưng ông đã chết!
    Villefort đứng lặng sửng sốt, mồm há hốc.
    - Và lúc đó bà làm gì?
    - Ông de Saint-Méran luôn nói rằng nếu ông chết xa Paris thì ông muốn đưa thi hài của ông vào hầm mộ của dòng họ.
    Ngày hôm sau Villefort vào nhà bà de Saint Méran thấy bà nhạc mẫu ốm liệt giường, có Valentine săn sóc. Một ngọn lửa u ám le lói trong cặp mắt bà hầu tước, và dường như bà đang lâm vào một trạng thái kích động dữ dội.
    - Anh này, bà de Saint-Méran nói, anh viết cho tôi về cuộc hôn nhân của con cháu này với cậu Franz d''épinay phải không? Này, anh phải làm gấp đi vì tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa.
    - Nào, bà ngoại! - Valentine kêu lên.
    - Tôi nói với anh rằng tôi sắp chết, anh nghe chưa? Và trước khi chết tôi muốn được thấy cháu rể của tôi. Đêm qua, tôi ngủ một giấc kinh khủng; mắt nhắm nghiền, từ cái góc có cửa thông sang phòng tắm của chị de Villefort tôi thấy có một bóng trắng lặng lẽ bước vào.
    - Chắc hẳn là do cơn sốt đấy thưa bà. - Villefort nói.
    - Anh cứ nghi ngờ nếu anh muốn, nhưng tôi tin chắc vào điều tôi nói: tôi thấy một bóng trắng; và tôi còn nghe thấy cả tiếng khuấy cái cốc của tôi, này chính cái kia kìa, đang đặt ở đấy, ở trên bàn.
    Tôi dám chắc đó là linh hồn của ông nhà tôi!
    Ông de Villefort đi ra và sai người đi tìm ông d''Avrigny, bác sĩ của gia đình. Valentine xuống vườn để tìm cách thay đổi sự suy nghĩ.
    Trong khi cô đang dạo bước trên lối đi trong vườn thì dường như thoáng nghe có ai gọi tên cộ Cô nhận ra giọng Maximilien.
    - Anh đến vào giờ này ư? - Cô nói.
    - Vâng, cô bạn đáng thương ơi, Morrel trả lời, tôi đến tìm cô và đem lại những tin xấu. Tôi vừa ở nhà bá tước Monte Cristo một giờ trước đây, bất chợt thấy có xe chạy vào sân. Đó là nam tước Franz d''épinay!
    - Maximilien tội nghiệp! - Valentine thì thào.
    - Bây giờ cô tính làm gì đây?
    Valentine cúi đầu, khổ não.
    - Làm sao mà tôi có thể chống lại quyết định của cha tôi, chống lại ý nguyện của bà tôi đang sắp chết! Thật không thể được! Tôi sẽ phải lấy Franz.
    - Tôi tự do, Morrel nói; tôi cũng khá giàu có đủ cho cả hai ta, hãy theo tôi, chúng ta sẽ xuống tàu đi Alger, đi Anh hoặc sang châu Mỹ tùy ý cô.
    - Tôi vẫn ngờ điều đó, Valentine vừa nói vừa lắc đầu. Đó là một lời khuyên rồ dại, và tôi sẽ lại còn rồ dại hơn anh nếu tôi không ngăn cản anh ngay lập tức các dự định của anh. Chúng ta hãy đợi! Có bao nhiêu chuyện có thể cứu chúng ta.
    - Tôi tin ở cô, Valentine, Morrel nói; có điều là nếu người ta bỏ qua mọi cầu xin của cô, nếu cha cô và bà de Saint-Méran yêu cầu phải mời ông Franz d''épinay đến ký hôn ước vào ngày mai thì...
    - Lúc ấy, thì anh đã có lời hứa của tôi. Đáng lẽ ký thì tôi đến tìm anh và chúng ta bỏ trốn; nhưng từ giờ đến lúc đó không được mạo hiểm; chúng ta đừng gặp nhau nữa. Tôi sẽ viết cho anh.
    Họ hôn nhau và Valentine bỏ đi.
    Chàng trai về nhà và đợi suốt cả buổi tối.
    Mãi đến ngày hôm sau anh mới nhận được một bưu thiếp có những từ này:
    "Nước mắt, năn nỉ, khẩn cầu đều vô hiệu.
    Chúa cũng vô cảm như con người, và việc ký kết hôn ước được ấn định vào tối nay lúc chín giờ. Tôi chỉ có một lời hứa cũng như chỉ có một trái tim, Morrel, và lời hứa ấy đã được trao cho anh: Trái tim này thuộc về anh! Vậy tối nay lúc chín giờ ở cửa sắt.
    Vợ anh Valentine de Villefort." Chàng trai đọc đi đọc lại hai mươi lần trong ngày lá thư của Valentine, đồng thời chuẩn bị vụ bắt cóc và chạy trốn.
    Cuối cùng đã đến giờ. Morrel giấu một cỗ xe sau một ngôi nhà tranh nhỏ hoang tàn mà anh vẫn thường ẩn mình trong đó.
    Ngày tàn dần. Morrel vào khu vườn hoang và lòng hồi hộp, đến nhòm qua lỗ trống của cửa sắt: vẫn chẳng có ai.
    Nửa giờ trôi đi trong chờ đợi; Morrel thả bước hết dọc lại ngang rồi với những khoảng cách cứ gần lại mãi, anh đến ghé mắt vào các tấm ván.
    Morrel xem đồng hồ, đã chín giờ rưỡi.
    Valentine đã trễ nửa giờ.
    - Ồ! Maximilien hoảng hốt thì thào, lẽ nào cuộc ký kết hôn ước lại kéo dài đến thế, trừ phi là có biến cố bất ngờ gì đây.
    Lúc đó, chẳng kịp suy nghĩ, anh trèo lên tường rồi nhảy sang bên kia. Nhưng đáng lẽ phải thấy ánh sáng ở các cửa sổ như anh nghĩ, đó cũng là điều tự nhiên trong các ngày có lễ nghi, thì anh lại chả thấy gì ngoài cái khối xám xịt của ngôi nhà họ Villefort.
    Vừa lúc anh chuẩn bị để vượt qua càng nhanh càng tốt khoảng đất trồng hoa trong vườn để tiếp cận ngôi nhà thì có tiếng người vọng đến tai anh.
    Anh vội lùi một bước và đứng câm lặng trong bóng tối.
    Morrel thấy Villefort xuất hiện, theo sau là một người mặc đồ đen. Morrel nhận ra ông bác sĩ d''Avrigny.
    - A! Bác sĩ thân mến, đây là lúc thượng đế tỏ ý cương quyết chống lại gia đình tôi. Một cái chết thật là khủng khiếp!
    - Sau nỗi bất hạnh vừa đến với ông, có thể có một bất hạnh khác nữa còn lớn hơn đấy, bác sĩ nói. Có phải bây giờ chỉ có riêng chúng ta không, ông bạn? Vì tôi có điều bí mật gớm ghê để trao cho ông.
    - Nói đi bác sĩ, tôi nghe đây, Villefort nói. Cứ giáng xuống đi, tôi sẵn sàng chịu đựng tất cả.
    - Dĩ nhiên là bà de Saint-Méran đã rất cao tuổi nhưng bà vẫn có sức khỏe rất tốt. Trong bốn mươi lăm phút bà chưa qua đời, tôi đã nghiên cứu cơn hấp hối của bà. Tôi tin chắc rằng bà de Saint-Méran bị đầu độc chết.
    Villefort nắm lấy bàn tay ông bác sĩ.
    - Ồ! Thật không thể được! Hắn nói, tôi đang mơ, lạy Chúa tôi! Cái chết rình rập trong nhà tôi!.- Phải nói là tội ác chứ, bác sĩ trả lời. Ông có trong nhà ông, trong nội bộ nhà ông một kẻ đầu độc.
    Villefort sửng sốt ghì chặt lấy cánh tay bác sĩ.
    - Bây giờ, bác sĩ nói thêm, coi như tôi chưa nói gì với ông. Hãy giấu kín điều bí mật khủng khiếp này vào nơi sâu kín nhất của lòng mình.
    Nhưng phải coi chừng.
    - Ồ! Cám ơn, cám ơn bác sĩ! Villefort nói.
    Lúc họ đã đi xa, Morrel rời khỏi lùm cây và bằng sức bật không sao hiểu nổi của tuổi trẻ anh nhảy ra khỏi chỗ nấp, vọt hai bước đã qua khoảng đất trồng hoa ngập ánh trăng. Anh đến bậc thềm, bước lên thật nhanh và đẩy cửa, cánh cửa mở ngay ra trước mặt anh không khó khăn gì.
    Morrel đi qua tiền sảnh và lên hết cầu thang không có gì trở ngại. Đàng kia, một tiếng nức nở quen thuộc làm dấu hiệu chỉ đường cho anh.
    Anh đẩy một cánh cửa và bước vào.
    Valentine đang quỳ bên chiếc giường có người bà đã chết nằm đó.
    Anh buông một tiếng thở dài, Valentine nhìn thấy anh và không hề lộ vẻ ngạc nhiên.
    - Bạn ơi, cô nói, sao anh lại ở dây?
    - Valentine, Morrel run run nói, mãi không thấy cô tới; tôi lo quá, tôi bèn nhảy qua tường và đã đến đây. Còn chuyện ông d''épinay thì sao?
    Cho tôi biết đi, tôi van cô đấy.
    - Ông Franz đã tới để ký hôn ước vào lúc bà ngoại tôi trút hơi thở cuối cùng.
    - Ôi chao! - Morrel nói với một tình cảm vui mừng vị kỷ, vì anh nghĩ thầm rằng cái chết này sẽ trì hoãn vô thời hạn đám cưới Valentine.
    - Lại đây Maximilien, Valentine nói. Tôi sẽ giới thiệu anh với ông nội tôi.
    - Cô nghĩ thế ư, Valentine?
    - Tôi chỉ còn có mỗi người bạn này trên đời, và cả hai chúng ta đều cần đến ông... Lại đây.
    Đi đến thềm trước căn hộ, cô vào trước phòng của cụ Noirtier.
    - Ông yêu quý, cô nói với giọng gãy gọn, ông nghe con nhé: ông biết rằng bà ngoại Saint-Méran đã chết và ông cũng biết rằng ngoài ông ra chẳng còn ai trên đời này yêu quý con chứ? Vậy có phải là chỉ có ông mới là người con phải phó thác gửi gấm cả nỗi buồn hay niềm hy vọng không?
    Người bại liệt ra hiệu là đúng.
    Valentine cầm tay Maximilien.
    - Như vậy thì, cô nói với ông, nhìn kỹ đây ông ơi.
    Cụ già đưa cặp mắt dò xét và hơi ngạc nhiên nhìn Morrel đăm đăm.
    - Đây là anh Maximilien Morrel, cô vừa nói vừa quỳ xuống trước cụ già. Con yêu anh ấy và.chỉ thuộc về anh ấy. Nếu họ buộc con phải lấy một người khác con sẽ để mặc cho mình chết hoặc tự sát.
    - Thưa cô, xin cô vui lòng cho phép tôi được hân hạnh nói chuyện một lát với cụ Noirtier.
    Valentine đứng dậy, đưa một cái ghế cho Morrel ngồi rồi ra khỏi phòng.
    - Thưa ông, Morrel nói, xin cho phép con kể lại chuyện Valentine và con đã quyết định như thế nào.
    Và thế là anh kể lại câu chuyện làm sao anh lại thỏa thuận bắt cóc Valentine.
    - Không. - Cụ Noirtier ra hiệu.
    - Không ư thưa ông? Morrel nhắc lại, vậy phải làm gì đây. Con phải để cho mọi việc xong xuôi ư?
    Cụ Noirtier không động đậy.
    - Nhưng mọi sự trì hoãn đều nguy cho chúng con, thưa ông, chàng trai nói tiếp. Phải chăng ông sẽ giúp chúng con?
    - Đúng.
    - Xin tha lỗi cho sự nài nỉ của con, vì cuộc đời con phụ thuộc vào câu trả lời của ông: ông có cứu vớt chúng con không?
    - Có!
    Trong cái nhìn toát ra sự khẳng định này hàm ý cương quyết đến mức không tài nào nghi ngờ được đó là ý chí nếu không nói là sức mạnh.
    - Như thế là con phải đợi? Chàng trai hỏi.
    Và ông hứa với con rằng hôn ước sẽ không được ký chứ?
    - Ừ! Cụ già bại liệt ra hiệu.
    Mặc dầu có sự bảo đảm ấy, Morrel vẫn còn chưa tin hẳn.
    - Bây giờ thưa ông, con xin phép được cáo lui. Anh vừa nói vừa chào cụ già.

  8. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo chương 15)
    Hai ngày sau thì đưa đám. Thi hài ông de Saint-Méran đã về đến nơi. Vậy là có hai quan tài được đặt vào hầm mộ của dòng họ.
    Chỉ có Villefort, Franz và vài người bà con họ gần vào trong chính tẩm.
    Ông de Villefort kéo Franz ra một chỗ.
    - Ông d''épinay, hắn nói với anh, tôi phải nhắc lại ý nguyện của bà de Saint Méran đã nói hôm kia trên giường lâm chung, đó là đám cưới Valentine không được trì hoãn. Hôn ước đáng lẽ phải ký từ hai hôm trước, chúng tôi đã tìm thấy văn bản viết sẵn: có thể ký kết ngay hôm nay.
    - Xin tùy ý ông, thưa ông, Franz nói.
    - Tôi đợi ông sau một giờ nữa nam tước ạ.
    Hãy đưa những người làm chứng của anh đến.
    Franz chào ông de Villefort và đi ra.
    Tin này gây ấn tượng mạnh trong nhà. Bà de Villefort không muốn tin là có chuyện ấy, còn Valentine như bị sét đánh, cõi lòng tan nát..Lát sau người ta nghe thấy tiếng hai chiếc xe chạy vào trong sân. Một chiếc xe là của ông làm chứng còn chiếc kia là của Franz và bạn hữu.
    Ngay sau đó mọi người tụ tập cả ở phòng khách.
    Ông làm chứng làm thủ tục chuẩn bị ký hôn ước thì đúng lúc đó cửa phòng khách mở ra và người hầu của cụ Noirtier xuất hiện.
    - Thưa các ngài, cụ Noirtier de Villefort muốn nói chuyện ngay lập tức với ông Franz de Quesnel, nam tước d''épinay.
    Villefort rùng mình.
    - Không thể được, viên biện lý hoàng gia nói; vả chăng ông d''épinay lúc này không thể rời phòng khách.
    - Xin lỗi ông, Franz nói. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội này để bày tỏ với cụ Noirtier sự tận tụy hết lòng của tôi.
    Và không để cho Villefort giữ lại lâu hơn, Franz đứng dậy theo sau Valentine.
    Cụ Noirtier đang đợi, cụ mặc toàn đồ đen và được đặt ngồi trong ghế bành.
    - Đây là ông Franz d''épinay, Villefort nói với cụ; cha đã cho mời ông ta và ông ta đến theo yêu cầu của cha.
    Cụ Noirtier đưa mắt nhìn cái bàn giấy mà Valentine mở ra. Cô cầm lấy tập giấy được bó lại bằng một giải lụa đen.
    - Phải trao lại cho ai ạ? Cho ông de Villefort?
    - Không.
    - Cho ông Franz d''épinay?
    - Đúng.
    Franz ngạc nhiên, mở phong bì, và cả phòng im phăng phắc. Giữa sự im lặng ấy anh đọc:
    "Trích biên bản một cuộc họp Câu lạc bộ thân Bonaparte ở phố Saint Lacque, họp ngày 5 tháng hai 1815." Franz dừng lại.
    - Ngày 5 tháng hai 1815! Đó là ngày cha tôi bị giết hại!
    Valentine và Villefort câm lặng. Franz đọc tiếp:
    "Những người ký tên dưới đây Louis Beaurepaire, Etienne Duchampy và Claude Lecharpal tuyên bố rằng ngày 4 tháng hai 1815 tướng d''épinay đã chết trong một cuộc quyết đấu trung thực và không phải là trong cuộc mai phục như người ta có thể nói thế.
    Cái chết này là do bàn tay của chủ tịch câu lạc bộ thân Bonaparte mà tướng d''épinay đã xúc phạm nghiêm trọng trước công chúng bằng những lời gièm pha nhục mạ Ông và hoàng đế." Franz kết thúc cái việc đọc quá khủng khiếp đối với một người con này bằng một giọng tắc nghẹn, bị giày vò bởi một xúc động kỳ lạ. Nhưng sau một lát lặng im, anh nói với cụ Noirtier:.- Thưa cụ, vì cụ biết câu chuyện kinh khủng này xin cho tôi biết tên của người chủ tịch câu lạc bộ, để cuối cùng tôi biết được kẻ nào đã giết người cha tội nghiệp của tôi.
    - Phải, cụ Noirtier trả lời và nhìn cuốn tự điển.
    Franz đưa tay run bắn cầm lấy áo rồi đọc lần lượt các vần chữ cái đến chữ M.
    - M! - Franz kêu lên.
    Ngón tay của chàng trai lướt qua các từ mà cụ Noirtier ra hiệu phủ nhận.
    Cuối cùng đến từ MOI (nghĩa là tôi, ND).
    - Đúng. Cụ già ra hiệu.
    - Cụ! Franz kêu lên, tóc trên đầu dựng ngược.
    Là cụ, cụ Noirtier! Cụ là người đã giết cha tôi!
    - Phải, cụ Noirtier trả lời, nhìn trừng trừng vào chàng trai bằng một ánh mắt oai vệ.
    Franz mất hết sức lực ngã xuống một chiếc ghế bành.
    Villefort mở cửa ra chạy trốn, vì hắn có ý tưởng phải bóp chết cái sự sống ít ỏi vẫn còn lưu lại trong trái tim ghê gớm của cụ già.
    Franz ra khỏi phòng cụ Noirtier, lảo đảo và thác loạn đến nỗi ngay cả Valentine cũng phải thương hại anh.
    Hai giờ sau, Villefort nhận được của Franz d''épinay một lá thư như sau:
    "Sau sự việc đã được phát lộ, có lẽ giữa gia đình tôi và gia đình ông de Villefort không thể nghĩ đến việc kết mối thông gia được".
    Ngay hôm sau cụ Noirtier cho mời ông làm chứng: bản chúc thư thứ nhất bị xé bỏ và làm một bản mới, trong đó cụ để lại toàn bộ tài sản cho Valentine với điều kiện là mọi người không được tách cô ra xa cụ.
    Có ai đó tính rằng cô de Villefort là người thừa kế của hầu tước de Saint-Méran lại được ông nội cô tin chuộng trở lại thì một ngày gần đây cô sẽ có gần ba trăm ngàn livrơ lợi tức.
    ít lâu sau, Maximilien gặp lại Valentine.
    - Thoát rồi! Valentine nói.
    - Thoát rồi! Morrel nhắc lại. Nhưng chuyện xảy ra thế nào?
    Valentine mở miệng định kể lại tất cả; nhưng cô lại nghĩ rằng trong chuyện này có một bí mật khủng khiếp không chỉ thuộc riêng về ông nội cô.
    - Sau này, cô nói, em sẽ kể lại cho anh mọi chuyện. Khi nào em trở thành vợ anh.

  9. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 16: Caderousse
    Một buổi chiều, ông Danglars tiếp Andrea Cavalcanti đến thăm. Sau mười phút trò chuyện Andrea mời hắn riêng ra một chỗ và ngỏ lời cầu hôn cô Danglars.
    Danglars nghe hết sức chăm chú; đã tới hai hay ba ngày nay hắn đợi tin này.
    - Hơn nữa, thưa ông, tôi có mang theo lá thư trong đó cha tôi cam kết cho tôi số vốn là hai triệu, nghĩa là một trăm năm mươi ngàn livrơ lợi tức tính từ hôm cưới. Ông xem, sự việc sẽ trở nên tốt đẹp nhất, nếu giả định rằng lời cầu hôn của tôi không bị bà nam tước Danglars và cô Eugénie khước từ.
    Danglars cảm thấy choáng ngợp mừng vui như người ta thường cảm thấy lúc sắp chết đuối lại gặp đất vững chắc dưới chân thay cho khoảng trống mình sắp chìm nghỉm vào đó.
    - Như vậy thì, thưa ông, Andrea vừa nói vừa rất mực cung kính chào ông chủ ngân hàng, tôi có thể hy vọng...
    - Anh Andrea, Danglars nói, hãy hy vọng đi, và hãy tin rằng nếu không có trở ngại gì về phía anh ngăn cản việc này tiến triển thì nó đã được quyết định.
    Andrea cáo biệt ông chủ ngân hàng và ra xe.
    Đúng lúc hắn sắp sửa đặt chiếc ủng bóng lộn của mình lên bậc xe thì một bàn tay đặt lên vai hắn.
    Andrea rùng mình và lùi lại thật nhanh.
    Người đàn ông bịt đầu bằng một chiếc khăn kẻ ô để lọt mớ tóc xam xám lấm láp.
    - Ông muốn gì ở tôi? Hắn nói.
    - Bây giờ mày chẳng thèm chào hỏi bạn bè hả thằng cu Benedettỏ Tao, bạn chung xiềng cũ của mày ở nhà lao khổ sai Toulon? Người đàn ông nói.
    Đó là Caderousse: hắn bị tù vì đã giết người buôn đồ nữ trang mà hắn gạ bán viên kim cương của tu sĩ Busoni, tức Monte Cristo.
    - ái chà! Mày! Tại sao mày đến quấy rối sự yên bình của tao?
    - Vì thích gặp lại bạn cũ! Tao ở phố Ménil-montant.
    Ngày mai đến gặp tao. Tạm biệt, Benedetto!.Và hắn phóng vào một phố nhỏ rồi mất hút trong đó. Ngày hôm sau, Andrea đến gõ cửa căn hộ của Caderousse, thoáng chút tò mò và lo lắng mơ hồ.
    - A! Mày đến đấy à, Caderousse vừa nói vừa rút then cửa.
    - Mày muốn gì tao?
    - Có vẻ sự việc xoay chuyển tốt cho mày nhỉ thằng cu Benedettỏ Caderousse nói với cặp mắt long lanh thèm muốn. Mày đi lại với xã hội thượng lưu Paris, mày sắp cưới con gái Danglars.
    Nhưng, vừa nói thêm hắn vừa mỉm cười hiểm độc, không được phụ bạc các bạn cũ, hiểu chưa.
    - Mày biết thừa, Andrea trả lời, tao không giàu có gì, và nếu không có người bảo trợ, bá tước Monte Cristo...
    - Ôi người bảo trợ quý giá! Caderousse nói, mỗi tháng nó cho mày bao nhiêu?
    - Năm nghìn frăng, Andrea nói.
    - Nói đi, Andrea, cúi mình xuống chắc là cũng thích, khi cái ông Monte Cristo tốt bụng này đánh rơi túi bạc của hắn chứ?
    - Ồ! Lạy Chúa! Andrea nói, tiền trong nhà hắn vương vãi như trái cây trong vườn cây ăn quả.
    - Thế nhà hắn như thế nào?
    - Chà, phải có mực và giấy cho tao vẽ sơ đồ.
    Caderousse đi tìm cái gì để viết trên một cái bàn giấy cũ. Andrea vẽ sơ đồ vườn và nhà bá tước Monte Cristo và cung cấp mọi tình hình mà Caderousse hỏi.
    - Thế hắn có hay vắng nhà không? Hắn hỏi.
    - Hai hay ba lần mỗi tuần. Hắn qua đêm ở Auteuil. Chẳng hạn, mai hắn phải đến đó.
    Caderousse nhìn người bạn trẻ như muốn rút hết sự thực từ đáy lòng nó.
    - Mày sẽ còn phải làm gì đó cho tao, cu con Benedetto ạ: mày để viên kim cương đeo ở ngón tay lại đây cho tao.
    - Được. Nhưng mày sẽ không quấy rầy tao nữa chứ?
    - Không bao giờ.
    Chúng chia tay nhau. Andrea vừa đi khỏi, Caderousse liền đóng cửa lại cẩn thận rồi bắt đầu nghiên cứu, như một kiến trúc sư thực thụ, cái sơ đồ mà Andrea để lại cho hắn.
    Hôm sau, bá tước Monte Cristo quả thực có đi Auteuil. Anh nói chuyện với Bertuccio trong khi Baptistin mở cửa; hắn cầm một bức thự Bá tước mở ra và đọc:
    "ạng de Monte Cristo được báo tin rằng ngay đêm nay một người đàn ông sẽ lẻn vào nhà ông ở Champs élysées để ăn trộm của ông.".Thoạt đầu bá tước cho là một mẹo lừa của kẻ trộm. Nhưng sau bữa tối, vừa ra hiệu cho Ali đi theo, ông vừa ra bằng cửa nhỏ, lên đường về Paris và vào lúc đêm về khuya ông đã ở trước nhà phố Champs élysées.
    Ông vào nhà bằng cầu thang phụ, mà ngay cả người gác cổng cũng chẳng thể ngờ rằng ngôi nhà anh ta tưởng là trống không, đã thấy ông chủ trở về. Lúc tiếng cuối cùng của chuông báo mười một giờ ở đồng hồ nhà thờ phố Invalides vừa dứt thì bá tước đã ẩn cùng với Ali sau một tấm bình phong, ngỡ nghe thấy một tiếng động khẽ, như tiếng cót két ở phía phòng làm việc.
    Một bàn tay quả quyết và thành thạo đang loay hoaỵ Cắt kính bằng một viên kim cương. Bất chợt ô vuông gãy ra mà không rơi xuống. Một giây sau, cửa sổ quay trên bản lề, và một người đàn ông bước vào.
    - Thật là một tên vô lại táo bạo, bá tước lẩm bẩm.
    Trong lúc đó, ông cảm thấy Ali chạm nhẹ lên vai mình, ông quay lại. Ali chỉ cho ông chiếc cửa sổ mở ra phố của căn phòng mà họ đang đứng.
    Monte Cristo bước ba bước lại phía cửa sổ ấy. Ông thấy một người đàn ông khác vừa rời khỏi một cánh cửa và trèo lên một cọc hàng rào có vẻ tìm cách nhìn xem việc gì xảy ra trong nhà bá tước.
    - Được, ông nói, chúng có hai người: một đứa hành động, một đứa canh gác.
    Ông ra hiệu cho Ali không rời mắt khỏi người ngoài phố còn ông quay vào theo dõi kẻ trong phòng làm việc.
    Người cắt kính đã vào phòng và đang định hướng; rồi hắn đi thẳng đến bàn giấy. Hắn lấy ra một bộ đồ thợ khóa và một chiếc đèn. Ngay lúc ấy một làn ánh sáng mờ soi khắp căn phòng.
    - ? này! Bất chợt Monte Cristo vừa nói vừa lùi lại bằng một động tác kinh ngạc, đây là...
    Lúc đó Monte Cristo cởi nhanh áo đuôi tôm, áo gi lê và áo sơ mi và mặc vào chiếc áo thầy tu dài. Anh giấu mớ tóc của mình dưới bộ tóc giả có khoanh hói ở giữa đỉnh đầu; đội mũ ba góc lên trên bộ tóc giả, hoàn thành việc chuyển bá tước thành tu sĩ.
    Ông thắp một ngọn nến và nhẹ nhàng mở cửa.
    - Này! Xin chào ông Caderousse thân mến, ông nói, ông đến đây vào giờ này để làm cái quái gì thế?
    - Tu sĩ Busoni! Caderousse kêu lên, bất động và như chết lặng vì sững sờ.
    - Ông có trí nhớ tốt đấy, vì nếu tôi không lầm thì đã đến mười năm nay chúng ta chưa gặp nhau..Vậy ông muốn ăn trộm của bá tước Monte Cristo?
    - Thưa tu sĩ, Caderousse nói, tôi thề với ông...
    - Một ô kính bị cắt, bá tước nói tiếp, một cái đèn mờ, một bộ đồ thợ khóa, một bàn giấy bị cậy dở dang, thế là rõ đấy chứ. Nếu tôi không lầm thì điều đó đưa ông tới máy chém.
    - Ôi! Xin gia ơn! Xin gia ơn! Caderousse kêu lên. Tôi bị lôi kéo. Đó là Benedetto, thằng bạn chung xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon nó đã chỉ dẫn cho tôi việc này.
    - Cái tên Benedetto này là ai? ông hỏi.
    - Nó lấy tên là Andrea Cavalcanti và ngụ tại khách sạn Các Hoàng Tử.
    - Là kẻ mà Danglars muốn gả con gái cho ư? Đứng dậy đi! Bá tước nói. Cầm lấy cái bút và tờ giấy này và viết những gì ta đọc cho ngươi.
    Caderousse bị chinh phục bởi cái sức mạnh ưu thắng ấy bèn ngồi xuống và viết theo lời tu sĩ đọc:
    "Thưa ông, người mà ông tiếp ở nhà ông và định gả con gái cho hắn là một tên cựu tù khổ sai vượt ngục cùng tôi từ nhà lao khổ sai Toulon. Hắn tên là Benedetto; nhưng chính hắn cũng không biết tên thật của mình vì xưa nay hắn không biết cha mẹ là ai." - Ký đi! Bá tước nói tiếp, và viết địa chỉ vào.
    Caderousse ký và viết: "Kính gửi nam tước Danglars, chủ ngân hàng, phố Chaussée d''Autin" Tu sĩ cầm lấy bức thư.
    - Bây giờ mày biến đi, thằng ranh!
    Caderousse hài lòng vì thoát được thân quá dễ dàng liền bước qua cửa sổ và đặt chân vào thang.
    Monte Cristo đưa mắt lướt nhìn thật nhanh từ vườn ra phố. Thoạt đầu anh thấy Caderousse tiến về phía cái thang mà hắn vừa trèo vào lúc nãy. Rồi anh thấy người đàn ông ở ngoài có vẻ chờ đợi, đứng vào đúng cái góc mà Caderousse sắp trèo xuống.
    Caderousse từ từ leo lên thang, cưỡi lên bờ tường, vắt chân qua rồi bắt đầu tụt xuống.
    Nhưng hắn đang trèo xuống thì một người lao vào bóng tối lúc hắn xuống đến nửa chừng, một cánh tay giơ lên vào lúc chân hắn sắp đụng đất; trước khi kịp phòng vệ, cái tay ấy đã đâm mạnh vào lưng hắn.
    - Cứu tôi với!
    Một nhát thứ hai ngay lập tức thọc vào mạng sườn và hắn ngã gục. Cuối cùng hắn đang lăn lộn trên mặt đất thì kẻ thù của hắn nắm lấy tóc hắn và đâm thêm nhát thứ ba vào ngực.
    Ba dòng suối máu vọt ra từ ba vết thương.
    Kẻ sát nhân cho là hắn chết rồi liền lảng đi.
    Lúc đó Caderousse biết hắn đã đi xa, liền chống tay nhỏm dậy và bằng giọng hấp hối lấy hết sức kêu lên:.- Có kẻ giết người! Tôi chết mất! Cứu tôi với, ông tu sĩ, cứu tôi với!
    Cửa nhỏ trong vườn mở ra và Ali cùng chủ anh cầm đèn chạy ra.
    Caderousse kêu mãi với giọng thê thảm. Họ khiêng người bị thương đưa vào một căn phòng.
    ở đó Monte Cristo ra hiệu cho Ali cởi áo hắn ra và anh thấy ba vết thương khủng khiếp trên người hắn.
    - Anh đi tìm viên biện lý hoàng gia Villefort và đưa ông ta đến đây. Tiện thể, anh đánh thức người gác cổng và bảo hắn đi mời thầy thuốc.
    Ali vâng lời và để ông tu sĩ giả ở lại một mình với Caderousse.
    - Một nhà phẫu thuật, thưa tu sĩ, một nhà phẫu thuật! Caderousse nói. Tôi chẳng còn sống được lâu nữa đâu, nhưng tôi muốn có thời gian để làm tờ khai về kẻ giết tôi.
    - Anh biết hắn à?
    - Tôi biết hắn chứ! Vâng, tôi biết hắn, đó là Benedetto.
    - Thằng bạn anh à?
    - Vâng. Sau khi cho tôi sơ đồ nhà bá tước, chắc hẳn hắn hy vọng tôi sẽ giết bá tước hoặc bá tước sẽ giết tôi và như vậy hắn sẽ gạt bỏ được tôi nên hắn đã đợi tôi ngoài phố và đã ám hại tôi.
    - Anh có bằng lòng để tôi viết hộ lời khai của anh không? Rồi anh sẽ ký vào đó.
    - Vâng, Caderousse nói, mắt long lanh ý tưởng về cuộc trả thù sau khi chết này. Monte Cristo viết:
    "Tôi chết vì bị tên người Corse Benedetto sát hại, hắn là bạn tù cùng xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon, số tù 59".
    Monte Cristo đưa bút cho Caderousse, hắn tập trung tàn lực để ký rồi vừa ngã xuống giường vừa nói:
    - Ông sẽ kể phần còn lại, thưa ông tu sĩ. Và hắn sẽ bị chết chém, ông hứa điều đó với tôi chứ?
    - Tôi sẽ nói rằng, bá tước nói tiếp, hắn đến sau anh, rằng hắn đã rình anh suốt, rằng khi hắn thấy anh ra, hắn đã chạy lại nấp ở góc tường.
    - Vậy ông đã nhìn thấy mọi việc này mà ông không báo cho tôi? Caderousse vừa nói vừa cố chống khuỷu tay nhổm người lên.
    - Không, vì trong bàn tay Benedetto ta thấy công lý của Chúa, và ta nghĩ mình sẽ mắc vào tội phạm thánh nếu chống lại ý Chúa.
    - Công lý của Chúa! Đừng có nói điều đó với tôi, thưa tu sĩ: nếu có công lý của Chúa thì ông hẳn biết rõ hơn ai hết rằng có những kẻ đáng bị trừng trị mà lại không việc gì..- Nghe đây, tu sĩ nói, làm sao mà ngươi dám đổ tội cho Chúa, ngươi, một kẻ đã phản bội một trong những người bạn tốt nhất của mình?
    - Bạn nào? Tôi không hiểu.
    - Nhìn ta đây cho kỹ, Monte Cristo vừa nói vừa đưa ngọn nến lại gần mặt mình: ngươi có nhận ra ta không?
    Monte Cristo nhấc bỏ bộ tóc giả làm anh biến dạng, để lộ ra mái tóc đen óng ả khuôn lấy gương mặt xanh xám của anh một cách thật hài hòa.
    - Ôi! Caderousse kinh hoàng nói, quả thực, có vẻ như tôi đã gặp ông, như tôi đã quen ông trước kia.
    - Phải! Caderousse phải, ngươi đã gặp ta, phải, ngươi đã quen ta.
    - Nhưng ông là ai vậy? Caderousse vừa nói vừa nhổm người lên.
    Bá tước không ngừng theo dõi diễn tiến của cơn hấp hối. Anh hiểu đây là sức sống bật lên lần cuối cùng; anh lại gần kẻ sắp chết.
    - Ta là... anh ghé vào tai hắn nói, ta là... và cặp môi anh chỉ hơi hé mở, thì thào một cái tên.
    Caderousse đã quỳ trên hai gối nhỏm dậy, dang hai cánh tay, cố lùi lại, rồi chắp hai bàn tay cố hết sức tàn giơ lên cao:
    - Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, hắn nói, tha thứ cho con!
    Và Caderousse nhắm mắt lại, ngã lộn về đàng sau thét lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.
    - Một đứa! - Bá tước nói một cách bí ẩn, mắt trừng trừng nhìn tử thi đã biến dạng đi vì cái chết khủng khiếp này.
    Mười phút sau, người thầy thuốc và viên biện lý hoàng gia do người gác cổng và Ali dẫn tới, được tu sĩ Busoni đang cầu nguyện bên xác chết đón tiếp.
    Trong suốt mười lăm ngày Paris chỉ xôn xao về vụ trộm bất thành này ở nhà bá tước. Dựa trên tờ khai của người sắp chết, cảnh sát tung toàn bộ nhân viên dò theo dấu vết kẻ sát nhân.
    Nhưng ba tuần lễ đã trôi qua mà các cuộc truy tìm ráo riết nhất cũng chẳng đem lại kết quả nào, và trong giới giao tế người ta bắt đầu quên đi vụ trộm bất thành ở nhà bá tước và tên trộm bị kẻ đồng lõa giết hại. Chính bá tước cũng tỏ vẻ mệt mỏi vì những sự kiện này nên họ đồn rằng ông đi du lịch.
  10. luuchivi

    luuchivi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/11/2006
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Chương 17: Morcerf
    Một buổi sáng, Albert thức dậy vì người hầu phòng vào báo có Beauchamp đến chơi.
    Albert mặc quần áo và xuống dưới nhà.
    - Sao tôi lại hân hạnh được anh tới thăm thế này?
    - Có chuyện gì đó nghiêm trọng, làm tôi sợ quá, Beauchamp nói. Này, đọc đi.
    Và anh đưa tờ báo cho Albert đọc, bài báo mang tiêu đề:
    "Thư gửi từ Janina:
    "Một sự kiện cho đến nay không ai biết, hay ít ra cũng được coi là mới lạ, đã được chúng ta biết đến; các pháo đài bảo vệ thành phố đã bị một sĩ quan Pháp trao cho bọn Thổ Nhĩ Kỳ.
    Viên sĩ quan này được tổng trấn Ali-Pacha phó thác trọn niềm tin, kẻ ấy tên là Fernand Monđego.
    Viên sĩ quan này ngày nay được gọi là ngài bá tước de Morcerf và là thành viên của Viện Nguyên lão".
    Trong khi đọc, cặp mắt Albert cứ tối dần, chân anh như muốn khuỵu xuống và chỉ chực ngã, anh tựa vào tường. Rồi anh lắc lắc mái tóc trên cái đầu đẫm mồ hôi và vò nhàu tờ báo:
    - Không thể được, anh nói. Và anh, Beauchamp, sao anh có thể cho đăng điều vu khống này?
    - Ồ lạy Chúa tôi, thật là rất đơn giản; chúng tôi không chạy sau vụ bê bối này mà là nó tìm đến chúng tôi. Hôm qua có một người từ Janina về, đến chỗ chúng tôi mang theo tập hồ sơ dữ dội này. Đây là chứng cớ.
    Albert mở tờ giấy ra; đó là một chứng thư của bốn thân sĩ ở Janina, xác nhận rằng viên đại tá Fernand Mondego, đại tá huấn luyện làm việc cho tổng trấn Ali-Pacha đã giao nộp lâu đài Janina để đổi lấy hai ngàn tờ trái phiếu.
    Albert lảo đảo và ngã rũ rượi xuống một chiếc ghế bành. Đây không còn là anh ta nữa:
    giọng anh lạc hẳn đi, dáng đi loạng choạng như người say rượu.
    - Bạn ơi, anh nói với Beauchamp, đời tôi tàn rồi.
    Cũng ngày hôm ấy ở Viện Nguyên lão, xảy ra một vụ náo động bao trùm cả những nhóm thường là hết sức ôn hòa của thượng viện. Mọi người đến hầu như trước giờ họp, bàn tán xôn xao về sự kiện quái ác này.
    Chỉ có mỗi một mình bá tước de Morcerf là không hay biết gì. Hắn không nhận được tờ báo có đăng cái tin phỉ báng ấy và dành cả buổi sáng để viết thư và để thử ngựa.
    Hắn đến thượng viện vào giờ thường lệ, đầu ngẩng cao, mắt kiêu kỳ, dáng đi ngạo nghễ, chẳng chú ý đến sự ngập ngừng của các môn lại và những cái chào nửa vời của các bạn đồng viện.
    Toàn thể thượng viện nóng lòng đợi khơi mào cuộc tranh luận, nhưng chưa ai dám nói.
    Cuối cùng một trong số các vị nguyên lão danh giá nhất, đối thủ công khai của bá tước, bước lên diễn đàn với vẻ trang trọng báo hiệu rằng thời điểm mong đợi đã đến.
    Một sự im lặng đáng sợ hình thành.
    Vừa mới nghe tiếng Janina và đại tá Fernand, bá tước de Morcerf đã xanh xám quá chừng, mọi cái nhìn đều đổ dồn vào hắn.
    Cuối cùng diễn giả kết luận bằng yêu cầu ra lệnh mở cuộc điều trạ Chủ tịch đưa việc điều tra ra biểu quyết; người ta bỏ phiếu và quyết nghị là cuộc điều tra sẽ được tiến hành.
    Người ta hỏi bá tước xem hắn phải có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị bào chữa.
    Morcerf đã lấy lại can đảm. Cho nên hắn lên tiếng với giọng quả quyết.
    - Thưa các vị nguyên lão, không phải là với thời gian mà đẩy lùi được cuộc tấn công do các kẻ thù giấu mặt tiến hành chống lại tôi trong lúc này. Ngay lập tức tôi phải trả lời những lời buộc tội ấy. Vậy tôi yêu cầu, rằng cuộc điều tra được tiến hành càng sớm càng tốt, và tôi sẽ cung cấp cho Viện mọi tài liệu cần thiết để cuộc điều tra này có hiệu quả.
    Những lời này gây nên một ấn tượng thuận lợi cho người bị buộc tội. Giờ khai mạc phiên thứ nhất của hội đồng này được ấn định vào bốn giờ chiều.
    Giờ họp hội đồng đã đến. Tiếng đồn lan ra như một vệt thuốc súng và toàn Paris ở vào thế chờ đợi sự biến. Nhiều người khẳng định rằng chỉ cần Morcerf xuất hiện là làm sụp đổ lời buộc tội; cũng lại nhiều người nói rằng bá tước sẽ không đến đâu.
    Ông de Morcerf bước vào đúng lúc tiếng chuông bốn giờ vừa dứt. Hắn cầm ở tay một số giấy tờ gì đó và thái độ có vẻ điềm tĩnh.
    - Xin mời ông trình bày, thưa ông de Mor-cerf.
    Ông chủ tịch nói.
    Bá tước mở đầu bài biện hộ của mình, hắn nói hùng hồn và khôn khéo lạ thường. Hắn đưa ra những tài liệu chứng tỏ rằng đến giờ phút cuối cùng của mình, tổng trấn Janina vẫn hoàn toàn tin cậy ở hắn, vì ông ta đã giao cho hắn đi tiến hành một cuộc đàm phán sống còn với đích thânvua Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng không may, hắn nói, cuộc đàm phán thất bại, và khi hắn quay lại để bảo vệ ân nhân của mình thì ông đã chết. Nhưng lúc sắp chết, bá tước nói, Ali-Pacha tin hắn đến mức phó thác cho hắn cả vợ và con mình.
    Tiếng xì xào tán thưởng lan khắp cử tọa và lúc ấy giá như không xảy ra vụ rắc rối nào thì bá tước de Morcerf đã thắng cuộc.
    Đúng lúc ấy một môn lại bước vào trao một lá thư cho ông chủ tịch. Ông chủ tịch hờ hững đưa mắt đọc bức thư người ta vừa mang tới; nhưng ngay mấy dòng đầu đã thức tỉnh sự chú ý của ông, ông đọc đi, đọc lại và đăm đắm nhìn ông de Morcerf:
    - Thưa các ngài, ông nói, và thưa ngài bá tước, tôi nghĩ rằng các vị sẽ thấy phiền lòng, phải nghe một nhân chứng rất quan trọng theo như người đó xác nhận và người đó sắp đích thân ra mắt. Cho gọi người phụ nữ đang đợi ngoài tiền sảnh vào. Ông chủ tịch nói.
    - Năm phút sau, người môn lại tái xuất hiện.
    Theo sau ông ta là một người đàn bà quấn một tấm sa lớn che kín toàn thân.
    Ông chủ tịch yêu cầu người đàn bà lạ mặt gỡ tấm sa của mình ra và mọi người lúc này có thể nhìn rõ người đàn bà trong y phục Hy Lạp, ngoài ra cô ta lại có sắc đẹp siêu phàm. Đó là Haydée.
    Ông chủ tịch giơ tay mời thiếu nữ ngồi xuống ghế, nhưng cô lắc đầu ra hiệu là cô vẫn đứng.
    Còn ông bá tước thì ngã xuống chiếc ghế bành của mình và hiển nhiên là chân ông không đứng vững được nữa.
    - Thưa bà, ông chủ tịch nói, bà là ai, những sự kiện này có tầm quan trọng như thế nào đối với bà?
    - Tôi tên là Haydée, con gái của Ali-Pacha và của Vasiliki người vợ yêu dấu của người. Tôi được bốn tuổi thì chính mắt tôi nhìn thấy cha tôi chết. Cha tôi bị con người được đưa ra xét xử trước các ông ngày hôm nay đây phản bội, ấy thế mà hắn đã là viên sĩ quan được cha tôi gửi trọn niềm tin của người. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi bị tên sĩ quan này bán đi, cả mẹ tôi và tôi, cho những lái buôn nô lệ Ở chợ Constan-tinople.
    Để làm chứng cứ cho điều tôi đưa ra trước hội đồng, tôi có mang theo văn tự bán tôi và mẹ tôi.
    Hai má bá tước de Morcerf nhợt hẳn đi pha lẫn ánh xanh. Haydée, vẫn điềm tĩnh, trao cho ông chủ tịch văn tự bán người viết bằng tiếng ả Rập.
    Người phiên dịch của Viện đọc bản dịch:
    "Tôi El-Kobir, lái buôn nô lệ, xác nhận đã nhận của nhà quý tộc Pháp bá tước Monte Cristo một viên ngọc lục bảo trị giá hai ngàn trái phiếu là giá bán một nữ nô lệ trẻ theo.đạo Thiên chúa mười một tuổi mang tên Hayđée là con gái mà ai cũng biết của nhà quý tộc quá cố Ali-Pacha; người nữ nô lệ này đã được bán cho tôi từ bảy năm nay cùng với người mẹ đã chết lúc đến Constantinople do một đại tá người Pháp làm việc cho tổng trấn Ali-Pacha tên là Fernand Mondegọ" Tiếp đó là yên lặng khủng khiếp.
    - Thưa ngài de Morcerf, ông chủ tịch nói, ngài có nhận ra bà đây là con gái của tổng trấn Janina không?
    - Không, Morcerf vừa nói vừa cố gượng đứng lên, và đó là một âm mưu do kẻ thù của tôi chuẩn bị.
    Haydée quay phắt lại và nhìn thấy bá tước đang đứng, cô thét lên một tiếng rùng rợn:
    - Mi không nhận ra ta sao, cô nói: này, nhưng ta, may thay ta lại nhận ra mi! Mi là Fernand Mondego, sĩ quan Pháp làm nhiệm vụ huấn luyện cho quân đội của người cha cao quý của tạ Chính mi đã giao nộp các pháo đài Janina! Chính mi đã bán chúng ta, mẹ ta và ta, cho gã lái buôn nô lệ El-Kobir! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Trán mi còn vấy máu của chủ mi!
    Lúc đó, tất cả các thành viên của hội đồng cùng nhìn vào bá tước. Tất cả mọi người đều trông chờ một sự thức tỉnh giống như tiếng sét.
    - Như vậy thì, ông chủ tịch hỏi hắn, ngài định thế nào?
    - Không định gì cả! Bá tước vừa đứng lên vừa nói với một giọng trầm đục.
    Lúc đó bằng một động tác thô bạo, hắn rứt tuột những chiếc khuy của bộ áo cài kín cúc làm hắn nghẹt thở và ra khỏi phòng họp như một kẻ mất trí thảm hại. Lát sau tiếng chân hắn bước vang âm thật bi thảm dưới mái vòm, rồi liền đó là tiếng bánh xe phi nhanh đem hắn đi làm rung cả hàng hiên của tòa nhà kiểu florance này.
    - Thưa các ngài, ông chủ tịch nói khi đã trở lại yên tĩnh, ông bá tước de Morcerf có bị kết là bất trung phản bội và hèn hạ hay không?
    - Có! Các ủy viên hội đồng điều tra trả lời nhất loạt.

Chia sẻ trang này