1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bài Ca Vọng Cổ.... (Nhạc Dân Tộc trong văn thơ...)

Chủ đề trong 'Nhạc Dân Tộc Dân Gian' bởi g8ubvn, 08/05/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. g8ubvn

    g8ubvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/03/2004
    Bài viết:
    683
    Đã được thích:
    1
    Bài Ca Vọng Cổ.... (Nhạc Dân Tộc trong văn thơ...)

    Tuy tôi không mê nghe vọng cổ nhưng bài viết của tác giả Tiểu Tử đã làm tôi xúc động bồi hồi. Bây giờ vọng cổ có lẽ sẽ ngày càng lui dần vào những vùng làng mạc xa xôi của miền Nam nước Việt hay vọng cổ sẽ được ấp ủ bởi một số đứa con Việt tha phương ở một nơi gốc bể chân trời nào đó?


    Bài ca vọng cổ

    Tiểu Tử

    (Riêng tặng những người còn ca vọng cổ và tặng những người còn nhớ vọng cổ)

    Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi, mái tóc đã ngà bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước "Cách mạng thành công" và tôi của bây giờ thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt!

    Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d''''''''Ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu cho tôi Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhân tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!

    Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da đen như là: Ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v.v.. Vì vậy, tôi hơi ...ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia.

    Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng này toàn rừng là rừng. Không phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước ...coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao và trũng, không sâu.

    Nhà nước phá rừng trồng míạ. Ruộng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v.v.. nằm cách nhau cỡ vài cây số.

    Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựạ Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afriqua về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đá đỏ, mỗi lần máy bay đáp lên đáp xuống là bụi bay ...đỏ trời!

    Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi "làm lại cuộc đời" ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là "le chinois"- thằng Tàu - Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậỵ

    Một hôm, sau hơn tám tháng "ở rừng", tôi được gọi về Abidjan để họp (Đây là lần đầu tiên được về thủ đô!). Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói:

    - Tôi ra ngủ trưa ở trong xẹ. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi tôi mới về.

    Ở xứ đen, họ dùng từ "Patron" để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v.v... Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết!

    Tôi nói:

    - Về đi! Đâu cần phải đợi!

    Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng toát:

    - Tại Patron không biết chớ ở đây lâu lâu họ lại huỷ chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.

    Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh, hành khách khá đông. Nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v.v... Không phải họ không biết gởi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ xách tay, cho dầu là vừa nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh!

    Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim.

    Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: "Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy". Rồi lại nhắm mắt lim dim. Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi "xuống hò": "Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng?đang vươn lên ngọn khói... á... lam... à... chiều..." Đúng rồi! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có năm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển họ cũng ít dùng nữa.

    Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là cái võng nhà binh của quân đội VNCH hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp:

    - Bonjour!

    Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói "Bonjour". Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:

    - Anh hát cái gì vậy ?

    Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp:

    - Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?

    Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:

    - Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotoụ. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàụ Tôi là người Việt Nam.

    Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:

    - Trời ơi! ...Bác là người Việt Nam hả ?

    Rồi hắn vỗ lên ngực:

    - Con cũng là người Việt Nam nè!

    Thiếu chút nữa là tôi bật cườị Nhưng tôi kiềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại "trôi sông lạc chợ"đến cái xứ "khỉ ho cò gáy"này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt.

    Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:

    - Trời ơi! Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi! Bác biết không ? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt con mừng "hết lớn "bác à!

    Rồi hắn kéo tôi lại võng:

    - Bác nằm đi! Nằm đi!

    Hắn lại đống gạch "bờ-lóc"gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói:

    - Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honđa vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu được tới bây giờ.

    Hắn móc gói thuốc, rồi mời tôi:

    - Mời bác hút với con một điếu.

    Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai taỵ. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấỵ. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một "cái gì" rất Việt Nam.

    Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máỵ Hắn nhăn răng cười:

    - Bộ bác nhìn ra nó rồi hả ?

    Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt, bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến:

    - Của ông ngoại con cho đó! Ông cho hồi ổng còn sống lận.

    Rồi hắn bật cười:

    - Hồi đó ông gọi con bằng "thằng Lọ Nồi".

    Ngừng một chút rồi tiếp:

    - Vậy mà ổng thương con lắm à bác!

    Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm. Tôi nói:

    - Vậy là cháu lai Việt Nam à ?

    - Dạ. Má con quê ở Nha Trang.

    - Rồi má cháu bây giờ ở đâu ?

    Giọng của hắn như nghẹn lại:

    - Má con chết rồị Chết ở Nha Trang hồi năm 1975.

    - Còn ba của cháu ?

    - Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!

    Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi môi dầy.

    Tôi chợt nói, nói một cách máy móc:

    - Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!

    Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang:

    - Có chớ bác. Con có lai chớ bác.

    Hắn xoè hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:

    - Bên nội của con là nằm ở bên ngoài này đây nè.

    Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

    - Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.

    Bỗng giọng hắn nghẹn lại:

    - Con lai Việt nam chớ bác!

    Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi nói vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói:

    - Ờ... Bác thấỵ. Bây giờ thì bác thấy.

    Hắn mỉm cười:

    - Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?

    Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt:

    - Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữạ gặp một người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là trời còn thương con quá!

    Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng.

    Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:

    - Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn.

    Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài "Đường về quê ngoại" đó bác.

    - Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.

    Giọng nói hắn bỗng như hăng lên:

    - Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.

    - Bác cũng vậy.

    Tôi nói mà thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau.

    Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trờị Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:

    - Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afriqua, bác à.

    Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:
    - Thôi, bác đi mạnh giỏị Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết "Jean le vietnamien" hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.

    Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:

    - Ghé con nghe bác... Ghé con...

    Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật đầu vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con.

    Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi vội quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho "thằng Jean le vietnamien". Hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ.

    Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến "thằng Jean" rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!

    Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi:

    - "Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiều người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam?"

    - "Và có được bao nhiêu người còn mang mểnh trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên trong đó ?".

    --------------
  2. pkyb6

    pkyb6 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/03/2004
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Nếu ở góc biển chân trời nào cũng còn những "Jean le vietnamien" có lẽ cải lương vọng cỗ vẫn còn hy vọng tìm lại chỗ đứng của nó trong lòng những người dân miền Nam. "Jean le vietnamien" d9áng quý la81m.
  3. pkyb6

    pkyb6 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/03/2004
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Nếu ở góc biển chân trời nào cũng còn những "Jean le vietnamien" có lẽ cải lương vọng cỗ vẫn còn hy vọng tìm lại chỗ đứng của nó trong lòng những người dân miền Nam. "Jean le vietnamien" d9áng quý la81m.
  4. honghoavi

    honghoavi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    1.412
    Đã được thích:
    0
    Đọc xon bài này tôi lại nhớ đến "Khúc Ly Hương" của soạn giả Thanh Tuấn. Nghe buồn, nhưng lại vui vì còn những người quan tâm đến cải lương như vậy.
    Người ta chê cải lương là cổ là xưa là không hợp thời. Nhưng những người vì một lý do nào đó xa quê, thèm nghe một ai đó tâm sự ... lúcấy mới thấm cảnh một thân xứ người. Mình nói mình hiểu, mình nói mình nghe... chợt thèm nghe câu hò...
    hò.... hơ... Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm
    Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu
    Chiếu này tôi chẳng bán đâu
    Tìm cô không gặp ... hò... hơ...
    Tìm cô không gặp tôi gối đầu mỗi đêm...
    Bao nhiêu người Việt xa quê gối đầu mỗi đêm một câu hò...
    honghoavi
  5. honghoavi

    honghoavi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    1.412
    Đã được thích:
    0
    Đọc xon bài này tôi lại nhớ đến "Khúc Ly Hương" của soạn giả Thanh Tuấn. Nghe buồn, nhưng lại vui vì còn những người quan tâm đến cải lương như vậy.
    Người ta chê cải lương là cổ là xưa là không hợp thời. Nhưng những người vì một lý do nào đó xa quê, thèm nghe một ai đó tâm sự ... lúcấy mới thấm cảnh một thân xứ người. Mình nói mình hiểu, mình nói mình nghe... chợt thèm nghe câu hò...
    hò.... hơ... Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm
    Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu
    Chiếu này tôi chẳng bán đâu
    Tìm cô không gặp ... hò... hơ...
    Tìm cô không gặp tôi gối đầu mỗi đêm...
    Bao nhiêu người Việt xa quê gối đầu mỗi đêm một câu hò...
    honghoavi
  6. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4

    Góp thêm 1 câu chuyện hòai niệm nữa, được lưu truyền nhiều trên net, và chắc nhiều người đã đọc :
    Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:
    - Đi ra! Để người ta bán, đừng có hãm tài.
    - Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.
    Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Đà Nẵng.
    - Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Đây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!
    Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:
    - Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!
    Thương hại lão, tôi gợi chuyện:
    - Thế bà Xuân người như thế nào?
    - Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.
    Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:
    - ồ ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Để tụi này tìm giúp coi có ?oxơ múi? chi không?
    - Cô ấy thua tui một tuổi?
    Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố... náo loạn.
    - Thế thì "cố" chứ "cô" gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.
    - Mà cố Xuân là gì của lão? - Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.
    - Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.
    - Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?
    - Vâng.
    - Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! - Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:
    - Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?
    - Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.
    Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.
    - Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. - Đột ngột lão góp ý.
    - Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.
    - Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.
    - Mở đầu được đấy ! Mần ly rượu nói tiếp đi!
    Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó... Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món ?ohương nhục? đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó. bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...
    - Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này - bà chủ lên tiếng - Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...
    Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món ?ohương nhục?, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là "lão Tầm Xuân". Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão:
    ?oNụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...?.
    Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin ?odỏm? về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: ?oHồi trẻ, lão phải vật trâu!?
    - Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật - Hứng chí lão khoe.
    - Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.
    Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:
    - Lần này "dỏm" không đó?
    - Dỏm 50%. 50% có thể thật. Đứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.
    Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...
    Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: "Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!". Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố. Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc "gặp" ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: "Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. ******** ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh".
    (còn tiếp)
  7. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    Câu Hát Tìm Nhau (2)

    Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một ***g ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão!
    Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên ?oái mộ? lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão ?omê hoặc? như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. ?oSớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy??... Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ - những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe loẹt xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liến hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...
    - Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?
    - Vâng. Đó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...
    - Đa tình thế sao không lấy?
    - Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau ?oxuân thu nhị kỳ?, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Tôi nhận ra một điều: người ta có thể cho nhau niềm hạnh phúc to lớn biết dường nào và chẳng lần nào giống lần nào... Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tôi đau lòng hát miên man...
    Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: "Ăn quả nhãn ***g. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay...?. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ! -
    Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài "Khi tương phùng, khi tương ngộ" ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: "******** ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh". Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.
    Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam.
    Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: "Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...". Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?
    Lão im bặt. Đôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Đêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liến, đắm say, chân tình lai láng.
    Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.
    Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.
    Đó là một buổi trưa nắng chang chang. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: ?oAi hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không...? - Tiếp liền sau một giọng hát cất lên :"Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình... thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. ******** ơi...?. "Ôi!". Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: ?oLão mài dao... lão Tầm Xuân". Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều. Lão đã thực sự già thêm nhiều. Lão đã thực sự già! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Đôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố hoa lệ. Con chó vàng của bà Tư cầy lẽo đẽo theo bên. Chỉ khác là nó không còn mập ú nữa, nó xơ xác gầy nhom như chủ.
    Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Định biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấỵ Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:
    - May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi Quê gọi Đành hẹn kiếp sau vậy...
    Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt mầu hoàng hôn.
    - Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.
    - Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...
    Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.
    - Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...
    Lão nghẹn ngào, mắt hấp háỵ Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!
    Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:
    - Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.
    - Đâu? Bà ấy ở đâu? - Tôi chụp tay nó.
    - ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?
    Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.
    - Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: "Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi". Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... -Em tôi kể.
    Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...
    "Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp..."
    Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ ***g ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. "******** ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh".
    -Đúng rồi! Cố Xuân đây rồi! Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác - Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.
    Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.
    Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: "Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình..." Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!
    Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Định tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: ?oLão Tầm Xuân! Đã tìm ra nửa câu quan họ. Đến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp".
    Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.
    Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi...
    Quế Hương
  8. aries84

    aries84 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2005
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    "Lối về xóm nhỏ" mà you tặng có phải là bài vọng cổ không nhỉ?Thỉnh thoảng mới nghe,nhiều lúc nghe xong lại thấy phương Nam sao gần gũi thế.Nhưng...
    Hà Nội lại sắp vào thu,nghe khúc hát của những chàng trai cô gái miệt vườn,lại nhớ những kỷ niệm...
  9. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4

    [​IMG]

    Cổ Nhạc Và Ca Dao

    Một hôm trời chớm vào Thu, những nghệ sĩ cổ nhạc tới thăm tôi. Từ Paris xuống Le Plessis Robinson hơi xa. Từ Việt Nam sang Pháp còn xa hơn. Các nghệ sĩ xuýt xoát tuổi nhau. Có một cô được học bổng của Pháp tuyển lựa, theo học trường Sorbonne, chuẩn bị hai năm tốt nghiệp tiến sĩ cổ nhạc Việt Nam! Cô này, hãng phim 3 B Productions nhờ sáng tác một nhạc khúc cổ điển Việt Nam xen kẽ vào cuốn phim Poussières de vie phóng tác tiểu thuyết La colline de Fanta của tôi, rủ bạn bè ái mộ truyện tuổi thơ của tôi, đến nhà tôi, vừa để trình bầy khúc nhạc phim, vừa để thăm tôi. Bốn cô khệ nệ mang nhạc khí đựng trong những cái étui theo. Cô nào cô nấy mặc áo dài Việt Nam. Ái Nhi gẩy đàn bầu. Đàn bà, thiếu nữ, bây giờ, chơi đàn bầu, và mê nghệ thuật đàn bầu, không như đàn bà, thiếu nữ, thời xưa. Ca dao đàn bầu đã lỗi thời chăng?
    Đàn bầu khéo gẩy thì nghe
    Làm thân con gái chớ mê đàn bầu.

    Đàn bầu lãng mạn vô cùng. Con gái mê đàn bầu sẽ cùng người chơi đàn bầu đi hết nẻo đường gió bụi. Con trai mê đàn bầu thì sao? Ca dao không nói tới, và đời nay, con gái gẩy đàn bầu mặc kệ con trai xúc động từng thớ thịt.
    Đàm Hoa kéo nhị. Ca dao diễn tả:
    Nhị kia réo rắt ngân vang
    Làm xao xuyến khúc xự xang xê hồ.

    Bản nhạc Việt Nam nào thiếu năm nốt hồ xự xang xê cống? Hò xự xang xê cống đã xao xuyến lòng người, khi tiếng nhị rung lên. Tôi nhớ lại, đã thấy 36 năm cũ, mình ca ngợi đàn bầu và nhị trong truyện ngắn "Bóng mây kỷ niệm... " Sau mỗi cuộc rượu tàn, bác Nhị không quên rủ cha tôi sang nhà bác hòa đàn. Tôi lẽo đẽo theo sau, xách giùm cha tôi cái nhị. Dưới bóng mát của giàn hoa lý gần cầu ao, cha tôi trịnh trọng so giây nắn phím.
    Tiếng đàn nguyệt rung lên, tiếng đàn nghệ sĩ tặng nghệ sĩ thì còn chê vào đâu được nữa! Sao tôi vẫn không thấy cảm? Tai tôi nghe nhạc, mà mắt tôi cữ mải nhìn lũ chim chào mào líu ríu mổ sung chín. Và, lẫn vào âm hưởng của cây đàn nguyệt, tiếng sung rụng lõm bõm dưới nước, tiếng ve sầu rên rỉ giữa trưa hè. Cùng một lúc, tôi nghe cả ba thư âm nhạc. Bản đàn nguyệt dứt, cha tôi kéo nhị, trong khi, tôi vẫn mơ màng ngắm chim chào mào mổ sung. Đến khi chim bay đi, tôi mới kịp để ý đến cha tôi. Người có vẻ khác lúc thường, nét mặt biến đổi từng giây phút. Tiếng nhị êm êm, dịu hiền như mầu hoa lý, đôi khi réo rắt, réo rắt mà không dâm dật, réo rắt chỉ làm lòng ta phấn khởi say sưa. Thỉnh thoảng, âm thanh trầm lắng, đẹp như câu ca dao thoát ra từ đôi môi thôn nữ xuân thì. Sao tai lôi vẫn còn nghe rõ tiếng cu gáy đằng xa? Tôi muốn hỏi bác đồ Nhị nhưng bác tôi đang lim rim đôi mắt ra chiều say mê tận hưởng tài nghệ của cha tôi, một nghệ sĩ bình dân đã từng làm rung động bao nhiêu người Ở bao nhiêu chân trời Có trăng Có lúa. Bản nhạc dứt, âm thanh loãng dần. Cha tôi lấy khăn lau mồ hôi đổ rồi hỏi bác Nhi:
    - Thưa bác, bác nghe tiếng đàn em dạo này thế nào?
    -Kém ngọt hơn mấy năm về trước. Chú ít luyện tập?
    -Vâng. quả có thế, lâu nay em bỏ đàn địch. Bác tính từ ngày em tạm nghỉ đời giang hồ đến giờ, có khi nào tâm hồn em thanh thản đâu.
    - Phải rồi, tâm hồn mà vướng mắc, tiếng nhạc nghe nặng nhọc lắm, khó thoát lên được. Chú thử nghe tôi dạo khúc đàn bầu xem sao.
    Nói dứt câu, bác đồ Nhị cởi phăng áo, để mình trần, với cây đàn bầu. Cây đàn của bác cổ kính quá chừng. Tôi nhớ rõ ràng, nó bẩn lắm. Màng nhện chăng đầy. Ở dưới đáy, bụi phủ kín mặt đàn. Miếng tre để gẩy đã sạm mầu đen, đồ lên giây mọt ăn vào quá nửa. Bác tôi nhè nhẹ vặn giây. Bác lấy miếng giẻ vuốt sợi giây sắt, rồi bắt đầu khởi nhạc. Tiếng đàn bầu dìu ngân khoan thai thánh thót. Trời bỗng như nhiều gió hơn, và không gian chừng dễ thở quá. Đàn bầu, ồ, chỉ có một sợi giây thôi, linh cảm phức tạp nhất của con người gửi gấm cả vào đấy. Tay phải làm cho phát ra âm thanh, tay trái lựa sao cho nét nhạc hoa mỹ, tuyệt vời. Ngồi khom lưng, một chân đè lên thành đàn, người bác nghệ sĩ của tôi thay lời nói lên tình trời đất. Tâm tư bác vướng trên giây, hình ảnh tối tăm hiện tại biến đi, chỉ còn thế giới âm thanh lắng vào mênh mông, vô tận. Tiếng đàn khi nũng nịu như cô gái mới lấy chồng, tha thiết như tình mẫu tử, rạo rực như lòng thiếu nữ dậy thì, và băn khoăn như giấc mộng nửa đêm. Mặc cho mấy chú muỗi bám vào lưng, bác đồ Nhị đăm đăm thả hồn theo âm nhạc. Tiếng đàn cơ hồ gió ngàn, lúc dâng lên ta tưởng có trận phong ba chớm dậy trong lòng, xui ta giận dỗi, hờn oán. Lúc dịu đi, ta trạnh nghĩ một hoàng hôn nắng vàng thoi thóp. Âm hưởng bay vút lên khơi như nước thủy triều dâng bao la, bát ngát. Ta tưởng chừng tình đời đơm nở ngát thơm mùi lúa chín được mùa, đẹp hơn cả môi hồng trinh nữ. Tiếng đàn lắng xuống trầm trầm, im lặng, cô quạnh khao khát yêu đương, buồn như khách giang hồ lỡ chuyên đò ngang, hoang mang như mối tình đầu thất vọng. Và, ta cảm động không ngăn kịp lệ rơi. Sao giọng con ve sầu, lời con cu gáy vắng bặt? Âm nhạc quê hương nhiệm mầu đuổi chúng bay xa rồi chăng? Hay chúng võ vàng nín thinh để hớp lấy những phút giây thiêng liêng vạn kỷ? Trong tôi, lúc ấy, mới hoàn toàn thấu đượm âm thanh, tuy trước khi bác Nhị rung tơ lòng, con bé hàng xóm ru em to quá, tiếng võng kẽo kẹt càng to hơn. Tiếng đàn của tay lão tài tử đã cảm hóa được tôi bấy giờ, và cả bây giờ nữa. Cung đàn ngừng lại. Tôi thấy còn giang dở, còn thiếu một cái gì khó nói. Bác tôi cũng nghĩ vậy, bác ngồi mơ màng hối tiếc. Thế nào bóng kỷ niệm chả rủ nhau về gõ cửa tim bác, khi tiếng đàn xa khơi. Lúc lâu, bác rời đàn buông tiếng hỏi:
    -Chú nghe thế nào?
    -Dạ, tiếng đàn của bác tuyệt diệu, có một không hai trong thiên hạ.
    Bác tôi gật đầu sung sướng:
    -Đánh đàn cần phải tự do, chú ạ? Hồn tài tử như mây trôi, như nước mưa giữa trời theo nhịp thở của trái tim ta, không có sức mạnh nào lái lòng ta được. Này chú...
    -Dạ.
    - Ta đàn tặng tri kỷ tiếng mới ngọt thế đấy. Chứ, cũng lại vì miếng đỉnh chung của thời đại nhố nhăng này, mà mặc quần áo đẹp, ngồi trên ghế khảm xà cừ, rung tơ lòng cho bọng vương giả nghe thì tơ lòng đến đứt quãng tứ tung mất thôi.
    -Thưa bác, đàn bầu vốn dĩ...
    -Là loại khó. ừ, đàn bầu khó chơi nhất, nó cũng như nhị ấy, không có phím để mà phân biệt. Lại nữa, mình hiếm sách dậy, nên rồi nó sẽ mai một như cánh áo the lương, như cái khăn xếp, như đôi giầy Gia Định, hay như... cái khố y. Tội nghiệp người bình dân, người quê hương sẽ mất mát kho tàng giá trị"...
    Thụy Anh thổi sáo. Ca dao diễn tả:
    Sáo ơi buồn quá đi thôi
    Không vui lên để tình tôi lỡ làng

    Cây sáo ống tre trúc thổi ngang dùng hơi thở để nói lên tư tưởng của mình. Cổ nhạc nước ta hiếm phong cầm, càng hiếm... hơi cầm! Có lẽ, chỉ có một thứ kèn: kèn đám ma. Kèn thổi ở nơi ma chay. Nó bất hủ hòa tấu với trống cơm, nửa đêm mùa Đông. Có lẽ, chỉ có một thứ sáo; sáo thổi ngang. Cây sáo này, Thế Lữ đã bùi ngùi, cảm xúc trong Tiếng dịch tuyệt vời.
    Tiếng địch thổi đâu đây
    Cớ sao mà réo rắt
    Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt.
    Mây bay gió quyến mây bay
    Tiếng vi vút như than van như dìu dặt
    Như hắt hiu càng hơi gió heo may...

    Thế Lữ cảm xúc thêm, trong giấc mơ lên thiên thai, gặp bên rừng thổi sáo một hai kim đồng. Tiếng vui ra sao, tiếng buồn thế nào...
    Theo chim tiếng sáo lên khơi
    Lại theo giòng hạc bên người tiên nga
    Khi cao vút tận mây mờ
    Khi gần vắt véo bên bờ cây xanh...

    Cây sáo duy nhất của nền cổ nhạc Việt Nam đấy. Phục chưa? Quỳnh Dao chơi đàn tranh. Ở quê hương miền Bắc của tôi, cũng có thứ đàn gọi là đàn tranh. Nó ngắn hơn đàn nguyệt hai giây. Thưở còn bé, tôi coi đàn tranh hôm nay là đàn thập lục, mười giây. Đàn tam thập lục, ba mươi giây. Bên Trung quốc sẵn hai loại đàn này. Họ chơi y hệt người Việt Nam chơi. Tôi đã tận mắt xem ban nhạc hát chèo, ban nhạc đình đám, chẳng hề. Thấy đàn thập lục trong ban nhạc. Cho nên, tôi không hiểu đàn thập lục của Tầu hay của Ta. Và, nó xuất hiện ồ ạt vào năm nào, cả hai miền Bắc và Nam. Nhưng, hôm nay, người ta bảo đàn tranh (thập lục) là nhạc khí của cổ nhạc Việt Nam, tôi đành nghe theo, trong ngờ vực. Vì, ca dao không nói đến đàn thập lục!
    Cô Ái Nhi, đàn bầu;
    Cô Đàm Hoa, nhị;
    Cô Thụy Anh, sáo;
    Cô Quỳnh Dao, đàn tranh.
    Bốn nghệ sĩ cổ nhạc sẽ hòa tấu khúc nhạc làm cho phim Poussières de vie - Bụi đời, báo Le Monde viết buidoi - Sau những thủ tục tiếp đón lỉnh kỉnh, các cô mở nắp étui lôi nhạc cụ ra, so giây nắn phím. Tôi lấy cái máy cassette chuẩn bị thu tiếng nhạc của tài tử miền Bắc nước Việt Nam.
    Chơi xong khúc nhạc cổ điển sáng tác cho phim ảnh, các cô quên hỏi tôi có hài lòng chăng. Thấy cảnh tượng vui vui, Cô Quỳnh Dao cao hứng:
    -Anh thích thơ không?.
    -Thích chứ.
    -Thơ Đường cơ?
    -Tôi mê lắm.
    -Em ngâm bài của Trương Kế nhé? Rồi, em ngâm bài dịch của Tản Đà luôn.
    -Cô biết tiếng Quảng Đông chứ?
    -Em biết.
    -Ngâm thơ Quảng nữa
    -Vâng.
    Cô Quỳnh Dao dạo đàn tranh. Các cô đàn bầu, nhị, sáo chỉ chơi nhạc đệm, đi rất nhẹ. Cô Quỳnh Dào tay đàn miệng ngâm.
    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
    Dạ bán trung thanh đáo khách thuyền
    Vụt loọc lú thầy sương mũn thín
    Cúng phóng dùy phổ tối sầu mìn
    Cú sầu sình ngồi Hồn Sán chỉ
    Dề pún chúng sinh tâu hạc xuỳn
    (Chứ) Trăng tà chiếc quạ kêu sương
    Lửa chài gợi ánh sầu thương giấc hồ
    (Chứ) Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe ttiÕngchuông chùa Hàn San

    Cô Quỳnh Dao ngâm tiếp bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu.
    Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
    Thử địa không du hoàng hạc lâu
    Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
    Bạch vân thiên tải không du du
    Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
    Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
    Nhật mộ hương quan hà xứ thị
    Yên ba giang thượng sử nhân sầu

    Và bài dịch của Tản Đà.
    Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
    Mà nay hoàng hạc riêng lầu còn trơ
    Hạc vàng đi mất từ xưa
    Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
    Hán Dương sông tạnh cây bầy
    Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
    Quê hương khuất bóng hoàng hôn
    Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

    Tiếng đàn ngừng. Giọng ngâm chấm dứt ngay. Cô Quỳnh Dao hỏi tôi:
    -Được không anh?
    Tôi đáp:
    -Được. Cô biết một điệu chèo nào không?
    Cô Quỳnh Đào vui vẻ:
    -Biết, biết.
    Tôi dục:
    - Cô hát thử coi.
    Đàn địch vang vang.
    Ba mươi tết tết lại ba mươi
    Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách
    Một tay cô cầm dù rách
    Một tay cô xách cái chăn bông
    Cô ra đứng bờ sông
    Cô gọi tên người
    Ới chú Chiệc ơi là chú Chiệc
    Một tay cô cầm quan tiền
    Một tay cô cầm thằng bù nhìn
    Cô vất xuống sông
    Quan tiền nặng thì quan tiền chìm.
    Bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi.
    Ới ai ơi của nặng hơn người

    Tôi vỗ tay, khen ngợi:
    -Hay lắm
    Cô Quỳnh Dao trách khéo:
    -Bây giờ mới thấy anh nói hay lắm. Tại sao thế anh?
    Tôi cười:
    -Ngót 45 năm, tôi không được nghe hát chèo, được ngắm người hát chèo, được nhìn những người xừ dụng nhạc khí chèo. Hôm nay, bất ngờ, ở Robinson, vùng ngoại ô Paris, cô Ái Nhi nầy đàn bầu, cô Đàm Hoa kéo nhị, cô Thụy Anh thổi sáo, cô Quỳnh Dao hát điệu nhạc dân tộc cho một mình tôi nghe, hỏi sao tôi nói hay lắm? Tôi đã cố nén xúc động, để khỏi phải khóc đấy thôi. Cô Quỳnh Dao chọn bài hát tuyệt vời. Quan tiền nặng thì quan tiền chìm, Bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi, ơi ai ơi của nặng hơn người. Quê người, đồng tiền nặng. Quê nhà, đồng tiền nhẹ. Và, tình người nặng chĩu đôi vai chúng ta. Quê người, xác con người không quý bằng xác con vật. Cho nên, tôi bị bại chân liệt tay một cách cay nghiệt, vì những lý do vẩn vơ. Này, tôi muốn nghe điệu hát xẩm, các cô chơi được không?
    - Được, được, anh ạ.
    - Các cô chiều tôi một tí nhé?
    - Chiều anh suốt đời chúng em...
    -Cô hát bài Xẩm Chợ của Vô Danh.
    Cô Thụy Anh hát, cô Đàm Hoa kéo nhị, cô Quỳnh Dao và cô ái Nhi ngồi im nghe.
    Sông kia nước chảy đôi giòng
    Đèn khêu hai ngọn anh trông ngọn nào.
    Muốn tắm mát lên ngọn con sông Đào
    Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
    Đôi tay vin cả đôi cành
    Quả chín thì hái quả xanh thì đừng
    Ba bốn năm nay anh ở trên rừng
    Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo
    Xa chân lở bước xuống đò.
    Gieo mình xuống sập còn lo nỗi gì
    Gặp nhau thiên tải nhất thì

    Tôi nhắm mắt lại, tưởng tượng ra một người mù lòa, tay kéo nhị, miệng hát Xẩm kiếm kế sinh nhai, ở bến đò, ở đầu chợ, ở góc đình... Thửa xưa hình như, nước tôi không có ăn mày. Người mù lòa hát xẩm cũng chẳng mở lờì van xin tiền phước thiện. Thi sĩ bình dân đã sáng tác thơ cho họ biểu diễn văn nghệ. Ai thấy họ hát hay, thì quăng tiền biếu họ. Người nghệ sĩ hát xẩm mù lòa vẫn giữ được tư cách. Đôi khi, thi sĩ dùng nghệ sĩ nói lên tâm trạng của mình. Thí dụ, đả kích Hàn mua, thi sĩ đã viết: "ông thì hàn, ông thì hàn, chứ ông hàn chảo hàn xanh hàn nồi"..., và nghệ sĩ hát xẩm đã phổ biến cùng hết khắp đất nước. Người hát xẩm ngày trước là cán bộ tuyên truyền bấy giờ. Tôi mở mắt nhìn cô Thụy Anh. Cô Thụy Anh mỉm cười, nhìn tôi:
    -Em giống xẩm không anh?
    -Hôm nay, hết xẩm rồi; bến đò, xó chợ buồn tênh. Thi sĩ sáng tác xẩm chợ, xẩm nhà trò cũng chết hết. Từ khi Tản Đà giã từ trần thế, xẩm tự tử đồng loạt. Tôi cố hình tưởng, cô giống xẩm y hệt, Cô làm sống lại thời đại đã mất tích trong mù khơi, bằng nghệ thuật hát xẩm của cô và cái nhị của cô Đàm Hoa nghe muốn đứt ruôït. Tôi muốn một thứ nữa.
    -Gì anh?
    -Cô nào thuộc thơ Nguyễn Bính?
    - Em, cô Đàm Hoa nói.
    - Thơ Nguyễn Bính lục bát?
    - Em thuộc nhiều.
    - Bài thơ mới nhất, trước khi Nguyễn Bính lìa đời.
    - Vâng, Tỉnh giấc chiêm bao.
    - Cô ngâm đi.
    Cô Quỳnh Đào đàn tranh, cô Thụy Anh thổi sáo, cô Ái Nhi gẩy đàn bầu.
    Chín năm đốt đuốc soi rừng
    Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
    Cửa xanh màn trúc còn ngăn
    Góc tường vẫn đọng trăng xuân thưở nào
    Làng xa bản nhỏ đèo cao
    Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng
    Anh về luyến núi thương rừng
    Nhớ em đêm sáng một vùng thủ đô
    Bồi hồi chuyện cũ năm xưa
    Gặp nhau lần cuối trang thư lệ nhòa
    Thư rằng thôi nhé đôi ta
    Tình sao không phụ mà ra phụ tình
    Duyên nhau đã dựng trường đình.
    Mẹ em đã xé tan tành gối thêu
    Trăng khuya sang núi gươm đèo
    Anh đi thư vẫn nằm theo bên mình
    Lửa sàn nét chữ chênh chênh
    Nếp thư đến rách chưa lành vêt thương
    Đằm đằm hoa sữa lên hương
    Chân anh đương bước giữa đường cái đây
    Néo hồ song cửa lá bay
    Sáng trưng bóng dạng bao ngày yêu xưa
    Trăm năm đã lỡ hẹn hò
    Cây đa bến cũ con đò còn không
    Tình cờ gặp giữa phố đông
    Em đi ríu rít tay chồng tay con
    Nét cười âu yếm môi son.
    Áo bay nhắc buổi trăng tròn sánh vai
    Chín năm bão tối mưa ngày.
    Nước non để có hôm nay sáng trời
    Em đi hạnh phúc hồng tươi
    Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao
    Sắc hương muôn nẻo tuôn trào
    Tiếc mà chỉ ước chiêm bao một mình
    Anh về viết lại thư anh
    Để cho bến mát cây xanh đôi bờ
    Cho sông cho nước tự giờ
    Chẳng còn lỡ chuyện con đò sang ngang
    Lứa đôi nhưng bức thư vàng
    Chẳng còn chữ chữ hàng hàng lệ rơi
    Chim hồng chim nhạn em ơi
    Trên nền gối cưới đời đời yêu nhau

    -Cô Đàm Hoa làm 9 năm kháng chiến chống Pháp Nguyễn Bính ê chệ hơn. Ông ấy chết ở quê nhà?
    -Vâng, ở Nam Định, quê em.
    -A, Cô người cùng quê hương Nguyễn Bính.
    - Ông ấy chết năm 48 tuổi.
    -Nguyễn Bính không nên sống lâu hơn. Có cô nào thuộc ca dao không?
    - Có em.
    - Có em
    - Có em
    - Có em
    - Bốn cô đều thuộc ca dao, nhất đấy nhé! Cô Quỳnh Dao đã hát chèo, cô Thụy Anh đã hát xẩm, cô Đàm Hoa đã ngâm thơ Nguyễn Bính, tôi mời Cô Ái Nhi ngâm ca dao.
    -Vâng, anh thích bài nào?
    -Vì nhớ mà buồn
    - Em ngâm bài ấy.
    (còn tiếp)
  10. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    Cổ nhạc và Ca dao (2)
    Ba cô dạo nhạc cho một cô về với ca dao.
    Đêm qua ra đứng bờ ao
    Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
    Buồn trông con nhện giăng tơ
    Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
    Buồn trông chênh chếch sao Mai
    Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ
    Đêm đêm tưởng giải Ngân hà
    Chuôi sao Tinh Đấu đã ba năm tròn
    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
    Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ

    Buồn và nhớ quá. Cô Ái Nhi bắt người đã chết về với người đang sống cùng nhớ vì buồn, cùng buồn vì nhớ. Các cô đã tung hê chút nghệ thuật cho tôi thưởng thức. Cảm động lắm. Bây giờ, tôi tắt máy cassette đi, cho trở lại từ đầu. Để các cô uống trà nóng thưởng thức tài nghệ của chính mình. Mời các cô dùng trà Trà Ninh Thái ướp sen đó. Quan phủ Thái Ninh uống trà Ninh Thái. Trà Ninh Thái đã đi vào câu đối, làm vẻ vang phủ Thái Ninh. tỉnh Thái Bình.
    -Nó đang nổi tiếng ở Paris..
    -Không đâu, ít người Việt Nam uống trà Ninh Thái, và ít người ở phủ Thái Ninh gửi trà miền Bắc sang cho người Việt Nam ở Paris.
    Tôi mở cassette cho to to một chút. Im lặng. Chúng tôi uống trà, nghe nhạc phim, nghe thơ Đường, nghe hát chèo, nghe hát xẩm, nghe thơ Nguyễn Bính, nghe ca dao.
    Hết bài ca dao, chương trình văn nghệ chấm dứt. Các cô yêu cầu tôi phê bình cuốn cassette thu tài nghệ của các cô.
    -Tôi đã đọc báo Hànội, thành phố Hồ Chí Minh, người ta khen các cô không để đâu hết. Cần gì tôi phê bình nữa!
    -Thưa anh, chúng em ngoài 30 tuổi rồi, đã lớn rồi, nên thẩm thấu lời cổ nhân: Kẻ nào khen ta đúng, là bạn ta: Kẻ nào khen ta sai, là thù nhân của ta. Kẻ nào chê ta là bọn đố kỵ, ghen ghét ta. Kẻ nào chê ta đúng là bậc thầy của ta. Chúng em đã có nhiều bạn, nhiều kẻ thù, nhiều kẻ đố kỵ Vẫn thiếu một bậc thầy. Mong anh,vì nghệ thuật, vì chúng em đáng hàng con cái anh, phê bình giùm.
    -Các cô đừng đặt vấn đề con cháu, anh em vào lãnh vực nghệ thuật. Tôi xin coi các cô là những người ít tuổi, đi sau tôi. Còn phê bình thiên hạ, từ ngày tôi bị thân bại danh liệt, thề rằng, không thèm hé môi nói chuyện ấy nữa.
    -Tại sao vậy?
    -Vì phê bình đúng đắn, chỉ mang lại nhiều kẻ thù. Phê bình, hiểu theo chữ nghĩa của thời đại, là bốc thơm tận mạng, là chẳng còn chỗ nào để chê. Tôi không làm được việc khen ngợi trái với lòng mình như thế. Phê bình, theo tôi, là khen và chê; không khen láo, chê láo. Người phê bình phải biết cảm thông với người làm nghệ thuật muốn họ tiến xa, tiến sâu, hay dài, hay rộng, chứ không đả kích họ vô tội vạ, khen họ cho sướng miệng.
    -Anh cứ phê bình chúng em đi, không ngại làm mất lòng chúng em đâu. Người làm nghệ thuật ví mình như tấm da thú căng ra, để chịu đựng những mũi tên phê bình, dù phần đông những mũi tên tẩm thuốc độc. Cần gì, chỉ một mũi tên chứa đựng lẽ phải và sự thật, sẽ bắn những mũi tên tẩm thuốc độc tan biến.
    -Thật ư?
    - Chúng em đem danh dự của tuổi trẻ ra thề.
    -Tôi nhận xét tài nghệ của các cô, theo ý của riêng tôi. Theo tôi, các cô biểu diễn nghệ thuật đã tới, nhưng ra tới cái đích của nghệ thuật. Trước hết, nói về nhạc khúc cô Quỳnh Dao sáng tác cho phim Poussières de vie, cộng tác theo tiểu thuyết la colline de Fanta của tôi. Tôi không hân hạnh chút nào về tiểu thuyết của mình lên màn ảnh Pháp. Tôi ký hợp đồng với nhà xuất bản, lg thời, ký luôn hợp đồng sách của tôi sẽ được lên n ảnh với nhà xuất bản. Nhà Belfond ký với hãng m 3 B Productions. Tác quyền chia đôi, nhà xuất bản t nửa, tác giả một nửa. Tiền đặt cọc, hãng phim 3 B Productions đưa cho nhà Belfond, nhà Belfond nghiến y một nửa. Mới hay, nhà xuất bản ăn từ đầu đến đít nhà văn! Hãng phim 3 B Productions đã về Việt Nam chọn đất, và tài tử Việt Nam để quay phim Poussières de vie. Họ thất bại chuyện Việt Nam. Tôi cũng chán chuyện Việt Nam. Năm ngoái (1993), 3 B Productions phải quay ở Mã lai, tài tử Mã lai. Truyện không dính líu về Việt Nam nữa. Tài tử nhóc con Việt Nam không có trong phim Việt Nam! Cô Quỳnh Đào được 3 B Productions thuê làm nhạc cổ điển Việt Nam, chơi ở phim Việt Nam, do người Pháp thực hiện, người Mã Lai diễn xuất, tôi không có ý kiến gì về bản nhạc của cô ấy. Nhạc hay hoặc không hay, tôi chẳng lưu ý. Cô Quỳnh Dao có buồn, tôi đành chịu lỗi.
    Nhấp một ngụm trà Ninh Thái, tôi tiếp:
    -Nhưng, tôi lưu ý nhất hai bài Đường thi của Trương Kế và Thôi Hiệu, mà cô Quỳnh Dao đã diễn tả. Cô Quỳnh Dao, chắc chắn, không biết bến Cô Tô, chùa Hàn San, sông Hán Dương, bãi Anh Vũ ở đâu, bên Trung quốc. Cô đã biết, phải biết bến Phà Đen, sông Nhị Hà, ở Thăng Long, thủ đô Hà nội, Việt Nam, nơi có Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy trốn, nơi có hàng vạn quân xâm lược Mãn Thanh máu đỏ ngập sông Nhị Hà. Cô đã biết phải biết bãi Phan Lương, sông LÔ ở Việt Bắc, nơi có đầy tầu Pháp bị bắn chìm, nơi có hàng ngàn xác thực dân Tây trôi lêu bêu. Bỏ những cái mình đã biết, nghĩ về những cái mình chưa biết, thật là lỗi lầm lớn. Tại sao mình phải ca ngợi Đường thi? Tại sao mình phải ngưỡng mộ bến Cô Tô, chùa Hàn San, bãi Anh Vũ, sông Hán Dương? Tại sao mình phải vọng tưởng nòi Hán? Tại sao mình phải suy tôn thờ Trung quốc? Nước mình, dân tộc mình có bao nhiêu thi sĩ bình dân và bác học. Nước mình, dân tộc mình có 4000 năm ca dao, lấy đấu đong hàng đời chưa hết. Âm nhạc cổ điển Việt Nam, âm nhạc dân tộc Việt Nam, nhạc khí cổ nhạc Việt Nam, tài năng cổ nhạc Việt Nam lại chơi thơ Tầu, thì buồn cười biết mấy, chua xót biết mấy! Rồi đây, sẽ chơi thơ Pháp, thơ Nhật, thơ Nga, thơ Mỹ...
    Cô Quỳnh Dao chớp mắt thật mau:
    -Em biết cái lầm lẫn ấy.
    Tôi nói:
    - Phê bình các cô, tôi muốn đọc đoạn văn ở Bóng mây kỷ niệm: "Diễn tả bản nhạc là một nghệ thuật siêu đẳng. Người tài tử lúc ngồi nắn phím so giây, thì hoàn toàn sống với tâm tư. Ảnh hình ngoại giới, lúc ấy, mờ đi để chỉ thấy hiện trước mắt mình chân trời bao la nghệ thuật gói ghém tình thương yêu, lòng bác ái. Người tài tử càng rung cảm bao nhiêu, chân trời siêu đẳng càng rộng mở bấy nhiêu. Cho nên, có thể; nghe tiếng đàn mà đoán tâm tính người chơi. Như đứa vũ phu thì tiếng đàn yếu ớt, loãng dần. Người mẫu mực thì tiếng đàn thong thả, đều đều. Người hào hoa thì tiếng đàn phóng túng, buông trôi. Người có tâm hồn tranh đấu thì tiếng đàn thôi thúc, vội vã. Người mang tâm sự thầm kín thì tiếng đàn mung lung, huyền bí. Tất cả những hạng người kể trên, đều không phải là tài tử. Người tài tử khác hẳn. Tiếng đàn rung lên, thính giả có thể khóc, có thể buồn, có thể yêu thương, có thể giận dỗi, có thể oán hận, hay ray rứt, đứng ngồi không yên. Muốn luyện ngón đàn như thế, tất phải sống, phải đi nhiều, phải mang tuổi trẻ mua lấy chua cay, khinh bỉ của thế nhân, để biết khóc, biết cười, biết oán hận, biết yêu thương, thì mới hòng làm cho người khác khóc, cười, yêu thương, oán giận, ghen hờn. Nhưng đời nay, cái đời kim tiền khốn nan này, đã làm hồn tài tử lịm chết, làm tai nhân thế điếc đi rồi"!...Các cô thấy thế nào?
    - Chúng em mới chỉ là nhạc công, chưa được là tài tử.
    -Các cô sẽ là tài tử
    - Làm cách nào?
    - Chưa suy nghĩ, chưa chịu khó suy nghĩ đấy thôi. Quỳnh Dao hát chèo để mà hát chèo thôi. Nếu cô biết tâm sự của tác giả gói ghém trong điệu chèo; tiếng đàn sẽ trách móc gay gắt, tiếng hát sẽ giận hờn khôn nguôi, người nghe sẽ băn khoăn, tức tối. Đấy là điểm thành tài tử. Như cô Thụy Anh hát điệu Xẩm Chợ, không nghĩ hát xẩm đã biệt hương, không bao giờ hồi hương nữa. Hát với giọng hoài cổ, hoài xẩm tha thiết, não nùng. Đàm Hoa với tiếng nhị man mác, nuối tiếc; người nghe tưởng chừng mình gặp lại người mù hát xẩm ở ngày nào đó xa xôi. Đấy là điểm thành tài tử. Như cô Ái Nhi ngâm bài ca dao Vì nhớ mà buồn, không mà buồn, và nỗi buồn đi đâu. Tôi xin nhắc các cô một đoạn văn viết về Vì nhớ mà buồn: "Nhìn dưới nước, cá thương cảm nỗi gì, lặn sâu hun hút. Nhìn lên bờ, nhện chờ mối ai, hiu hắt giăng tơ. Nhìn lên trời, sao nhớ nhung chuyện chi, mờ nhạt đi thế. Con người vụt buồn tênh, nhớ đến cảnh vật, nhớ đến loài vật, nhớ đến tinh tú. Không nhớ tới mình. Đêm nào cũng như đêm qua, đứng ở ở bờ ao ngắm cả Ngân Hà hình tưởng thiên thai. Rồi, nỗi buồn của con người tan loãng vào hư vô. Con người vẫn là con người lòng dạ còn nguyên, chẳng giống đá mòn vẹt kinh khủng, vì suối Tào Khê nước chảy vun vút. Nghĩ một chút đi, ai vì nhớ mà buồn? Không mình cũng chẳng ta. Không chàng cũng chẳng nàng. Không em cũng chẳng anh. Thế thì tiếng ai sang sảng bên bờ ao, đêm qua? Tiếng nói dân tộc đấy. Và, tiếng nói ấy, từ sâu trong lòng đất phóng lên tỏa lan khắp vùng trời quê ta. Dân tộc quen ngậm nỗi buồn, chả bao giờ nói nỗi buồn. Qua những nghìn năm khổ tủi, dân tộc vẫn giữ tâm hồn nguyên vẹn". Nỗi buồn siêu việt, ở trong ca dao. Ca dao không chỉ có những nỗi buồn, mà còn tình yêu, niềm vui, hạnh phúc... Nếu cô Ái Nhi ngâm ca dao, làm cho Vì nhớ mà buồn bay vào hư vô, cả cô cũng bay vào hư vô khoảnh khắc, thì đấy là điểm các cô trở thành tài tử.
    -Anh là bậc thầy chúng em..
    - Không, tôi chỉ là người thưởng ngoạn nghệ thuật của các cô. Làm bậc thầy, vĩ đại quá, tôi không dám. Theo tôi, cổ nhạc Việt Nam phải gắn liền với điệu ca dân tộc. Hát chèo, hát quan họ, hát cò lả, hát trống quân, hát vọng cổ, hát xàng xê, hát thủ phong nguyệt... là những điệu hát của dân tộc. Tân nhạc không nên xử dụng nhạc khí cổ nhạc. Có thể, nhạc khí cổ nhạc chơi dân ca đúng nghĩa. Ca dao là nhất. Không thể thiếu điệu ngâm ca dao trong ban cổ nhạc của các cô. Thiếu ca dao, thiếu linh hồn dân tộc, các cô sẽ bơ vơ. Tôi ước mơ, sau này các cô sẽ sáng tác những đại trường ca cổ nhạc Trê cóc, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ..., sẽ phổ nhạc hàng ngàn bài ca dao, làm rạng danh cổ nhạc Việt Nam. Các cô phải yêu ca dao, phải hiểu ca dao. Ca dao sẽ đưa các cô từ cuộc phiêu lưu nghệ thuật này sang cuộc phiêu lưu nghệ thuật nọ. Các cô sẽ không bao giờ bị đào thải, nếu giữ ca dao làm gốc gác để tôn thờ. Tôi gởi các cô những lời nhắn nhủ thơm nồng tình nghĩa.
    - Cảm ơn anh, chúng em cám ơn anh. Ba tháng sau, chúng em sẽ tặng anh cuốn cassette khác, ghi những bài hát chèo, hát xẩm, ngâm ca dao như hôm nay.
    - Một cuộc thách đố?
    - Coi như vậy, anh ạ! Thách đố và làm việc không ngừng.
    Bốn nghệ sĩ cổ nhạc ra về. HọÏ khuất bóng. Tôi đã mường tượng Quỳnh Đào, Ái Nhi, Đàm Hoa, Thụy Anh sắp cùng nghệ thuật bước vào hư vô.
    Duyên Anh
    16-9-1994
    Trích trong "Vỡ Lòng Ca Dao"

Chia sẻ trang này