1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bài chòi được khôi phục tại Hội An

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi yenmusic, 04/08/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Bài chòi được khôi phục tại Hội An

    Bài chòi được khôi phục tại Hội An

    TTO - Đã thành lệ, cứ đến tối thứ bảy hàng tuần, đông đảo người dân đủ mọi lứa tuổi từ Đà Nẵng, Điện Bàn, Duy Xuyên đến Cù lao Chàm...lại vượt hàng chục cây số về tập trung bên bùng binh An Hội ở đầu đường Nguyễn Thái Học (khu phố cổ Hội An) để chơi bài chòi.

    Mới hơn ba giờ chiều thứ bảy, cụ bà Bùi Thị Mại - 75 tuổi (trú tại phường An Hải Tây , TP Đà Nẵng) lại giục con cháu đưa bà ra bến xe buýt để về Hội An chơi bài chòi. Cùng đi chuyến xe với cụ Mại chiều hôm ấy còn có một nhóm học sinh lớp 10/3 trường PTTH chuyên Lê Quý Đôn- Đà Nẵng. Họ cũng là những thành viên tích cực của hội bài chòi. Cụ Mại cho hay, hơn ba năm qua không bao giờ cụ vắng mặt vào các tối mà Hội An có tổ chức chơi bài chòi.

    Nếu ai đã từng chơi bài chòi thì sẽ biết vì sao cả người già lần trẻ đều mê trò chơi này. Cái không khí rộn ràng khi tiếng trống chầu khua vang mỗi khi có ai đó được bài cùng với những lời ca , hò vè mang đậm bản sắc của vùng đất quê nhà do anh Hiệu - người hô bài trong mỗi hội chơi như có mãnh lực kéo mọi người đến với hội.

    Bài chòi - sở dĩ có tên gọi như vậy vì người chơi ngồi trên chòi. Thường thì trên một khoảnh đất rộng, hoặc sân đình, sân chợ, người ta cất 9 chòi theo cạnh hình chữ nhật. Trên 2 cạnh dài, mỗi bên dựng 4 chòi con đối mặt nhau. Chính giữa một cạnh ngắn là chòi cái, dành cho những người có địa vị trong làng đến tham gia hội bài chòi. Cạnh ngắn kia đặt một trống chầu, cùng một chiếc bàn lớn đặt khay tiền và những lá cờ hiệu, cạnh đó là chỗ ngồi cuả dàn nhạc.

    Tại đây, trồng một cây tre, trên đó treo những ống tre lủng lẳng để đựng những thẻ quân bài. Đây là một trò chơi đánh bài nhưng không hề mang tính cờ bạc đỏ đen, mà lại nghiêng về nghệ thuật hô diễn, ngày xưa thường được tổ chức trong dịp tết cổ truyền, từ mồng một đến mồng 7 tháng giêng ở các vùng nông thôn Nam Trung bộ.

    Bài chòi là trò chơi dân gian lành mạnh và có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với công chúng. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn này là tài năng của anh hiệu. Anh hiệu phải là người có giọng tốt, nắm vững lề lối hô và diễn, có vốn liếng về thơ ca, có khả năng sáng tác và cải biến nhanh lời hát tại chỗ.

    Hội An không phải là cái nôi của bài chòi. Loại hình này ra đời Bình Định nhưng lại phát triển mạnh ở Quảng Nam. Và đặc biệt hiện nay, trong khi trò chơi bài chòi đã vắng bóng ở nhiều vùng nông thôn Nam Trung bộ, và làn điệu dân ca Bài Chòi hầu như chỉ còn trên sân khấu của 3 đoàn ca kịch Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Nam, thì tại Hội An, người dân lại được chơi, được nghe hát bài chòi.

    Bài và ảnh: KIM EM
    Source: tuoitre ONLINE
  2. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Hát bài chòi

    Dân ca bài chòi là một loại hình nghệ thuật độc đáo của khu vực nam Trung Bộ, ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20. Bài chòi bắt nguồn từ một trò chơi đố chữ, thường xuất hiện trong dịp Tết cổ truyền.

    Ở mỗi làng, người ta dựng những rạp hát để chơi đố bài chòi. Theo lệ chơi, mỗi rạp chia thành chín ô gọi là chín chòi, mà chòi thứ chín là chòi trung tâm. Đứng ở chòi trung tâm là người quản hiệu, mặc bộ quần áo bà ba, thắt lưng xanh, cầm trịch điều khiển trò chơi và cũng là người có giọng hát hay nhất được chọn để lĩnh xướng, hát giao quân bài cho các chòi khác để hát đối đáp lại bằng những câu thơ đã được lựa chọn. Khi hát có nhị, trống con và xênh để đệm. Chính từ lối chơi bài chòi này, dần dần hình thành một lối hát rồi nâng lên thành một loại hình kịch hát dân gian với những vở diễn lần lượt ra đời như Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn...
    Ngay từ những năm còn ở chiến khu Việt Bắc, Đảng đã ra chỉ thị phục hồi sân khấu truyền thống. Nghệ thuật dân tộc tưng bừng, hồ hởi bước vào một thời kỳ mới với các loại hình tuồng, chèo, kịch nói, trong đó có cả ca kịch bài chòi và ca kịch Huế, quần tụ lại thành một đại gia đình nghệ thuật phục vụ kháng chiến.
    Hòa bình lập lại, thủ đô Hà Nội tụ hội nhiều đoàn nghệ thuật trong đó có đoàn ca kịch bài chòi.
    Vở ca kịch bài chòi đầu tiên mà tôi được xem là vở Thoại Khanh Châu Tuấn do Đoàn Văn công Liên khu Năm trình diễn tại rạp hát Hồng Hà. Đêm diễn ấy, tôi thật sự bị cuốn hút bởi một vai diễn. Đó là nhân vật Thoại Khanh do nữ nghệ sĩ Lệ Thi thủ vai. Nghệ sĩ Lệ Thi bấy giờ còn rất trẻ. Ngoài cái duyên sân khấu, chị còn có lối diễn lôi cuốn người xem một cách kỳ lạ. Đặc biệt là giọng ca của chị, một giọng ca có màu âm đẹp, trong tiếng đàn đưa đẩy, tạo nhịp cho một khúc hát nghe da diết như than vãn, như kể lể trong một tình huống kịch đầy ắp những trắc trở, éo le. Lệ Thi bước vào đời làm nghệ thuật khi còn là cô bé mười ba tuổi. Đến khi chị trở thành một diễn viên sáng giá của dòng ca kịch bài chòi mà tên tuổi được nhiều người biết đến, thì chị đã trải qua thời kỳ làm diễn viên sân khấu tuồng ở độ tuổi mười bảy với nhân vật nữ tướng Đào Tam Xuân.
    NSND Lệ Thi có nhiều công lao trong quá trình sáng tạo và phát triển nhiều làn điệu mới của dân ca bài chòi. Chị kể: "Bài chòi là một dòng ca hát dân gian được truyền lại từ xưa lắm rồi. Nó được truyền chủ yếu bằng hình thức truyền miệng có nguồn gốc từ trò chơi trong các chòi hát. Trò chơi có 30 con bài được đặt tên khác nhau như nhất nọc, nhì nghèo, nhất trò, nhì bí... Số con bài cái có chín lá, được chia đều cho chín chòi. Phần còn lại người quản hiệu đựng trong ống tre, mỗi khi gọi bài thì xóc lên rồi rút từng con và rao lên xem con bài đó trúng vào ai và nếu trúng liền ba con thì người ấy được xem là thắng cuộc. Trò chơi rất vui, mang đậm tính dân gian, phù hợp với một loại hình văn chương truyền miệng. Bởi vì những câu hô bài, gọi bài đều phải là những câu thơ được chuẩn bị sẵn hoặc ứng tác, từa tựa như hát ống, hát trống quân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ vậy".
    Bài chòi gắn bó với người dân trong một vùng rộng lớn như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận... Hằng năm cứ vào dịp Tết đến, mỗi nhóm chừng năm, ba người tụ lại, dùng lối hát này để kể chuyện, kể lại những tích trò có tính truyền thuyết, có tính giai thoại trong vùng vừa để mua vui lại vừa để nhắc nhở đạo lý làm người.
    Ngày nay bài chòi là một loại hình sân khấu có nhiều địa chỉ biểu diễn như Quy Nhơn, Tam Kỳ, Nha Trang... với những vở phong phú, đội ngũ diễn viên được trẻ hóa, được đào tạo có bài bản. Đấy là nơi tụ hội của nhiều đoàn nghệ thuật bài chòi, cũng là nơi sinh ra và lưu truyền một loại hình văn hóa dân gian mà ngày nay được dân ta trân trọng và gìn giữ.
    NGUYÊN LINH
    Source: http://www.nhandan.org.vn/vietnamese/vanhoa/050204/bai_hatbaichoi.htm
  3. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Trò chơi bài chòi hay tiếng gọi của làng quê
    (VietNamNet) - Bài chòi là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống đặc sắc của miền Trung nói chung, Quảng Nam nói riêng. Vào mỗi dịp lễ Tết, ở vùng nông thôn rất phổ biến trò chơi này. Ban đầu, trò chơi chỉ mang tính chất gia đình, về sau, cứ mỗi độ xuân về, người ta dựng những chòi cao trên bãi đất trống thu hút khách thập phương đến tham gia?
    Ngày Tết, người đi xa vừa về đến đầu thôn đã nghe tiếng hô bài chòi giục giã. Những chòi lợp mái rạ ngày mùa còn thơm hương nếp, những cây cờ con ngũ sắc trên bàn cái rồi tiếng hô, tiếng mõ vang dậy một góc làng như thúc giục các cụ, các bà, các em nhỏ đến xin những con bài thử vận đầu năm.
    Có thể nói đã là người miền Trung thì đều biết chơi bài chòi. Hát bài chòi từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân nông thôn miền Trung. Người ta sáng tác những câu hò, làn điệu dân ca? trong quá trình chơi. Văn chương bài chòi là văn chương bình dân, nhưng nghe kỹ vẫn thấy chất thơ lai láng. Bộ bài chơi gồm 30 con bài in mộc bản theo lối thủ công, được dán trên những thanh tre vót mỏng. Người quản trò được gọi là ?oông hô hiệu?, là người có kiến thức văn chương, có tài ứng đối dí dỏm, có thể độc diễn với tiếng trống, tiếng đàn cò, tiếng phèng la? Khi con bài được rút ra, ông hiệu bắt đầu chạy lăng xăng, miệng không ngớt xướng to những câu thơ, câu vè ghép với tên những con bài ngộ nghĩnh, khiến người lớn lẫn đám trẻ con cười ngặt nghẽo. Tuỳ theo mỗi địa phương mà tên gọi các con bài khác nhau từ nhất trò, nhì nghèo, ba bụng, tứ giống, tám tiền, chín xe? cho đến sưa, dóng, xơ, quăng, ầm, voi, rún?
    Người chơi có thể mua một hoặc nhiều thẻ cho mỗi lần chơi. Ông hô hiệu xáo thẻ trong ống lon rồi rút một thẻ bất kỳ. Mỗi đợt chơi đều có người trúng. Người chơi khi nghe hô trúng con bài của mình thì đáp to, lập tức sẽ được trao một chiếc cờ nhỏ màu đỏ. Sau đó, cuộc chơi tiếp tục cho đến khi có người trúng đủ ba con bài trong cùng một thẻ. Giải thưởng được trao bằng tiền mặt, chỉ độ vài ba chục nghìn đồng nhưng niềm vui thì thật lớn; mà người không trúng cũng vui!
    Người chơi sành bài chòi chỉ cần nghe câu hô đầu tiên là có thể đoán ra con bài, ví như: ?oChồng nằm chính giữa - hai vợ hai bên - lấy chiếu đắp lên - gọi là ba bụng - ơ con ba bụng!?, ?oĐi đâu mang sách đi hoài - Cử nhân không đậu, Tú tài cũng không - con nhất trò nó vừa ra xong? hay như ?oHai bên chòi lẳng lặng mà nghe - róc rách ống tre con gì nó ra đây? - anh trai Kim Bồng đi bán chiếu tre - gặp em gái nhỏ bên sông Thu Bồn - thương ai lòng thấy bồn chồn - đêm nằm thao thức chiếu bông anh gối đầu - con chín gối nó ra rồi??
    Đánh bài chòi là một trò chơi giải trí mang tính văn chương bình dân. Cái thú của bài chòi không nằm ở ăn thua đỏ đen mà chủ yếu là vui đầu năm cùng bà con làng xã. Điệu hát bài chòi khẳng khái, rắn rỏi cũng vì thế trở thành máu thịt trong lòng người miền Trung xa xứ, gợi nhớ đến nao lòng?
    Túc Hạnh
    Source: http://vietnamnet.vn/vanhoa/amnhac/2004/01/45437/
  4. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    BÀI CHÒI BÌNH ÐỊNH
    Các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, đâu đâu cũng biết chơi bài chòi. Nhưng nhiều nhất là ở Bình Ðịnh, có thể nói, đây là cái nôi của trò chơi lý thú này. Cứ vào dịp Tết Nguyên đán, khắp miền quê, hội bài chòi được tổ chức trong khoảng thời gian dựng nêu, tức từ 30 tháng chạp đến mồn 7 Tết. Ðôi khi cuộc chơi kéo dài đến rằm tháng giêng âm lịch, tức từ Tết Nguyên đán đến Tết Thượng nguyên.
    SỰ HÌNH THÀNH
    Vùng đất Vijaya trở thành lãnh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân các tỉnh phía Bắc vào định cư còn thưa thớt, nơi đây rừng núi rậm rạp đan xen với chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, việc trồng tỉa thường bị tàn phá bởi thú hoang. Trên những vạt đất khai khẩn, phải dựng nhiều chòi có người canh giữ, bảo vệ hoa màu. Ðể được an toàn, các chòi phải vững chắc, sàn cao quá tầm tấn công của mãnh thú và bố trí theo hình vuông, chữ nhật, hay hình thuẫn tùy theo địa hình để tiện thanh viện cho nhau. Trên mỗi chòi đều có thanh la, mõ, trống; khi thú rừng kéo đến, các âm thanh đồng loạt nổi lên rung chuyển cả rừng núi, dã thú dù gan lì đến đâu cũng phải khiếp sợ bỏ chạy và không dám bén mảng đến phá phách. Rồi có những đêm trăng thanh gió mát, đối cảnh sinh tình, giữa các chòi người ta dùng loa nói chuyện hay ca hát đối đáp nhau cho giải buồn, dần dần trở thành một mô hình sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy.
    Theo truyền thuyết, do nhiều nghệ nhân của tỉnh nhà, đơn cử như cụ Phan Ðình Lang tức là nghệ sĩ Bốn Trang, sinh năm 1910, người xã Nhơn Thành huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, kể lại rằng lúc cụ còn trẻ đã từng nghe ông nội, ông thân và nhiều bô lão truyền lại là chính Ðào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Ðịnh, đã dựa theo mô hình văn nghệ ở các chòi canh miền núi mà sáng lập ra hội bài chòi. Ðáp ứng trình độ thưởng thức văn nghệ dân gian ngày càng cao, đến thế kỷ 20 người ta lập ra điệu hò để nâng cao nghệ thuật của bộ môn này. Ðiệu bài chòi theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói lối bốn chữ rất thích hợp với điệu bộ này. Người hô phải theo nhịp trống, nhịp sanh, có tiếng đàn tiếng kèn đệm theo, làm cho điệu hò thêm réo rắt, hấp dẫn. Người hô với chức năng quản trò, được gọi là ?oHiệu?. Tùy theo tuổi tác và giới tính, người ta gọi là ?oanh Hiệu?, ?ochú Hiệu?, hay ?ocô Hiệu?, người này phải rành các điệu hát nam, hát khách, hát lý... thuộc nhiều thơ và ca dao, biết pha trò đồng thời ứng đối nhanh nhẹn.
    Vậy bài chòi là lối đánh bài mà người chơi ngồi trên 9 cái chòi cất sẵn. Có nơi, để giản tiện người chơi bài ngồi trên ghế thay chòi, nên gọi là bài chòi ghế. Nhưng cả hai lối chơi bài này không có tính cách sát phạt, đỏ đen, mà chỉ nặng tính văn nghệ.
    (Còn tiếp)
  5. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    CÁCH TỔ CHỨC
    Làng xã nào muốn tổ chức cuộc chơi bài phải tìm đến những gánh bài chòi nổi tiếng mới lôi cuốn được đông người tham gia và có thể kéo dài trong nhiều ngày. Vào thập niên 1930, ở vùng An Nhơn và Tuy Phước có gánh bài chòi Sáu Cóc được nhiều người hâm mộ hơn cả. Trong tỉnh có nhiều cô, chú Hiệu tài hoa, đến nay còn truyền tụng, như các chú Bùng, Ðốc, Kim, Kích, Miệt, Ngô Quang Thắng, Tuấn Phong, Tư Liên... và các cô Ðạm, Hương, Liễu, Nhảy...
    Một gánh bài chòi có ban hô bài gồm một Hiệu chính và một hoặc hai Hiệu phụ, trong đó có đủ nam nữ thì diễn xuất mới linh hoạt. Ban nhạc thường chỉ gồm bốn người: một đàn cò, một kèn, một sanh, một trống chiến (nhỏ hơn trống chầu và lớn hơn trống tum, có dây mang trước ngực khi di chuyển).
    1.- Hội Bài Chòi
    Nơi tổ chức bài chòi thường ở sân đình, sân chùa hay sân chợ. Nói chung, nơi có khoảng đất trống bằng phẳng. Người ta cất 9 chòi, xếp chung quanh hình chữ nhật, mặt quay vào sân chơi. Tám chòi nằm dọc theo hai cạnh hình chữ nhật, mỗi bên bốn chòi, đối diện tương ứng nhau từng cặp một. Chòi trung ương ở giữa cạnh nắn hình chữ nhật. Cạnh bên kia, đối diện với chòi trung ương, là rạp hội đồng, dành cho ban tổ chức. Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu trệt, có bốn mặt dành cho Hiệu; rạp và các chòi đều quay mặt vào sân này. Chòi được cất theo kiểu nhà sàn, trang hoàng đẹp đẽ, nền sàn cao quá đầu người, có thang lên xuống. Mái chòi lợp tranh hay lá dừa để che mưa nắng. Mặt sau và hai hông chòi che kín, chỉ chừa trống mặt trước. Mỗi chòi chứa được 4 hoặc 5 người. Trong chòi có một cái mõ và một khúc thân cây chuối hay bó rơm để người chơi găm con bài và cờ đuôi nheo. Chòi trung ương, lớn hơn cái chòi thường một ít, dùng trống thay mõ và dành riêng cho các vị có chức tước hay có uy tín trong làng muốn tham gia cuộc chơi, cũng có thể dành cho cặp vợ chồng mới cưới. Những khi không có khách đặc biệt thì người dân thường vẫn có thể ngồi chòi này.
    Rạp ban tổ chức cũng có mái che mưa nắng, trang hoàng đẹp đẽ hơn. Các cột được bó lá ngâu hay lá đùng đình để tăng thêm vẻ trang trọng. Trong rạp kê một bộ phản ngựa rộng dành cho các hương chức và quan khách có địa vị ngồi. Ðầu phản đặt một cái trống chầu dùng làm trống lệnh để ban tổ chức điều khiển cuộc chơi. Bên cạnh bộ phản có đặt hàng ghế cho ban nhạc của gánh bài chòi ngồi hòa âm.
    2.- Bộ Bài Chòi
    Trong sân, trước rạp, chỗ Hiệu đứng hô bài, có đặt ống đựng bài. Ống bài là một khúc tre lớn, rỗng ruột, cắm lỏng trên một cái cột cố định để ống bài có thể lúc lắc được. Trong ống đựng 27 thẻ bài. Ðầu nằm trong ống, chân thẻ nhô ra ngoài và đật cao quá tầm mắt.
    Con bài làm bằng tre, đầu trên bè ra để dán lá bài lấy trong bộ bài tới. Ðầu dưới là chân thẻ nhỏ tròn như chiếc đũa, vót nhọn. Các chân bài nhuộm nửa xanh nửa đỏ, giống hệt nhau để không phân biệt được.
    Bộ thẻ bài chòi gồm 27 cặp, có tên như sau:
    Pho VĂN: Nhất Gối, Nhì Bánh, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rốn, Sáu Xưởng, Bảy Liễu, Tám Miểng, Chín Cu.
    Pho VẠN : Nhất Trò, Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Ghế, Ngũ Trượt, Lục Trạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa.
    Pho SÁCH: Nhất Nọc, Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách, Ngũ Dụm, Sáu Hường, Bảy Thưa, Tám Dây và Cửu Ðiều.
    Trên mỗi con bài không ghi tên con bài, chỉ vẽ hình như kiểu siêu thực, bằng mực đen, làm ký hiệu riêng cho mỗi con bài. Ðôi khi người ta rút 3 cặp bài bất kỳ, mỗi pho rút một cặp, thế vào đó 3 cặp Yêu, màu đỏ, có tên là Lão, Thang, Chi. Nếu Lão thì gọi Ông Ầm, Thang gọi là Thái Tử và Chi gọi là Bạch Huê. Miễn sao bộ thẻ bài chòi vẫn giữ y số ấn định là 27 cặp, chia đều mỗi pho 9 cặp. Ngoài 27 thẻ bài bỏ vào ống, còn 27 con bài cũng y như vậy, đem dán vào thẻ lớn. Cú 3 con bất kỳ dán chung vào một thẻ. Có 9 thẻ phát mỗi chòi một thẻ, nên thẻ lớn còn gọi là thẻ chòi. Cũng có nơi không dán chung 3 con bài vào một thẻ lớn mà vẫn dùng 27 thẻ nhỏ, y như 27 thẻ bài đã dùng trong ống để phân phát cho 9 chòi, mỗi chòi 3 thẻ bài. Như vậy, cả hai cách, mỗi bộ bài chòi phải có 27 cặp như đã kể trên, chia làm hai phần y nhau về số lượng và tên con bài. Một phần bỏ vào ống bài để cho Hiệu bốc thăm, một phần đem phân phát cho 9 chòi.
    Trong bài chòi, tên con bài đôi khi được gọi khác. Như trong pho Văn: Nhất Gối thì gọi là Chín Gối, Nhì Bánh tức là Hai Bánh rồi đảo ngược gọi là Bánh Hai, Ngũ Rốn gọi trại Ngũ Rún hay gọi khác là Ngũ Ruột, Tám Miểng gọi trại là Tám Miếu. Trong pho VẠN: Tứ Ghế còn gọi là Tứ Móc hoặc Tứ Cẳng, Ngũ Trượt là Ngũ Trật hay Ngũ Trợt, Lục Trạng gọi là Lục Chạng. Trong pho SÁCH: Tứ Sách gọi là Tứ Gióng, Ngũ Dụm thành Ngũ Dít, Bảy Thưa là Bảy Hột.
    THỂ THỨC CUỘC CHƠI
    Một hội bài chòi, ngoài số người đến đánh bài và thân nhân của họ, còn có số người đến xem, có thể lên đến vài trăm người. Một đám hát trống, người xem thường có mặt từ lúc dạo tuồng đến khi vãn tuồng. Nhưng ở bài chòi, người xem có thể đến rồi ra về bất cứ lúc nào tùy thích, và không có lệ bán vé vào xem.
    Muốn đánh bài chòi người ta phải báo cho ban tổ chức biết để sắp xếp ở hội kế tiếp. Người đến xem không cần xin phép ai cả, cú chen vào đứng dọc theo các chòi và rạp, làm thành một vòng bao quanh sân khấu. Mỗi ngày cuộc chơi kéo dài từ sáng tới khuya. Giờ ăn chỉ nghỉ ngơi chốc lát. Ở đám bài chòi, lúc nào cũng có tiếng kèn trống, âm thanh rộn rã vang xa, lôi cuốn thúc dục:
    ?oRủ nhau đi đánh bài chòi
    Ðể cho con khóc đến lòi rún (rốn) ra?.
    Trống chầu một hồi ba tiếng rống lên, giàn nhạc tiếp theo phụ họa, cuộc chơi bắt đầu. Những người tham gia leo ngồi trên chòi, do ban tổ chức sắp xếp. Người đánh bài có thể rủ bạn bè, thân nhân hay người tình lên ngồi trong chòi của mình. Ban Hiệu ra sân, thường thì một nam một nữ, nếu thêm một người nữa để thay bài thì càng tốt. Hiệu hô bài mặc áo dài đen, đội khăn đóng, thắt dây lưng đỏ, mặt đánh phấn thoa son, có khi hóa trang như là đào kép hát bội. Hiệu bưng khay đến từng chòi thu tiền và phát bài. Người ngồi trên chòi nhận bài, đem găm ở khúc chuối hay bó rơm để sẵng trên chòi. Phát bài xong, Hiệu đến trước rạp vái chào ban tổ chức rồi hô lớn: ?oPhát bài đã đủ cho Hiệu tính tiền?. Người điều khiển cho cuộc chơi đáp lại bằng ba tiếng trống chầu. Hiệu cúi đầu: ?oDạ!?
    Trống lệnh đã cho phép. Hiệu hai tay ôm lấy ống đựng thẻ lắc mạnh nhiều lần. Khi các con bài đã trộn lẫn vào nhau, Hiệu vói tay rút một con bài. Mọi người hồi hộp chờ đợi tên con bài đang nằm trong tay Hiệu. Lúc ấy tiếng trống chầu thúc liên hồi, dàn nhạc cũng dồn dập tưng bừng, kích thích lòng mong đợi của mọi người. Nhưng Hiệu chưa vội đọc tên con bài. Anh ta múa may, vái chào mọi người rồi mới cất giọng hô điệu bài chòi bằng hai câu thơ hay cả bài lục bát tùy thích. Có điều câu cuối bao giờ cũng có chữ chỉ định tên con bài vừa mới rút được. Chẳng hạn tên con bài là Ngũ Trượt thì hô:
    ?oTrời mưa làm ướt sân đình
    Anh đi cho khéo trợt ình xuống đây
    Trợt quơi (ơi), Ngũ Trợt!?
    Tức thì chòi có bài trùng với con bài ấy đáp lại bằng ba tiếng mõ "cốc, cốc, cốc!". Nếu là chòi trung ương trúng thì đánh ba tiếng trống "tum tum tum!". Hiệu trao thẻ bài cho người chạy bài đem đến chòi trúng. Con bài ấy được găm vào khúc chuối cây hay bó rơm trên chòi. Hiệu lại tiếp tục lắc ống rồi rút con bài khác. Và cũng theo thủ tục hô bài như đã nói trên. Ban đầu trong ống có 27 thẻ bài, nhưng bớt dần theo mỗi lần rút thẻ cho đến khi có một chòi nào trúng được ba lần, tức là bài đã tới thì mới chấm dứt ván bài. Khi Hiệu hô xong con bài, nếu có chòi trúng lần thứ ba thì báo hiệu bài tới bằng một hồi mõ dài (chòi trung ương thì báo một hồi trống tum), lúc ấy, ở rạp ban tổ chức, một hồi trống chầu được gióng lên, báo hiệu xong một ván bài.
    Hiệu bưng khay tiền và một lá cờ đuôi nheo đến tận chòi có bài tới. Cờ đuôi nheo còn gọi là cờ hiệu, có hình tam giác vuông, màu đỏ bằng giấy. Trên cờ viết số thứ tự ván bài, từ đệ nhất, đệ nhị đến đệ bát. Hiệu đứng trước chòi có bài tới trịnh trọng thưa:
    - Vâng lệnh làng lãnh lấy khay tiền. Hiệu (tui) khẩn cấp điện cờ Ðệ nhất.
    Theo lệ, chòi có bài tới, muốn lịch sự phải thưởng tiền cho Hiệu, nhiều ít là do tài diễn xuất của Hiệu. Vì thế, khi dâng khay tiền, Hiệu phải trổ tài múa những động tác đẹp mắt, miệng thì ngâm thơ, hát Nam, hát Khách. Nếu gặp người tới có máu văn nghệ, hỏi đố bằng thơ, Hiệu cũng phải biết đáp bằng thơ. Chẳng hạn như câu hỏi đố:
    ?oCái gì có trái không hoa?
    Cái gì không rễ cho ta tìm tòi?
    Cái gì vừa thơm vừa tho?
    Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân?
    Cái gì mà chẳng có chân?
    Cái gì không vú xây vần lắm con?
    Cái gì vừa trơn vừa tròn,
    Mười hai tháng chẵn không mòn chút nao?
    Cái gì mà ở trên cao?
    Làm mưa làm gió làm sao được vầy?
    Cái gì mà ở trên cây?
    Trèo lên tụt xuống khen ai là tài?
    Cái gì chỉ có một tai?
    Cái gì một mặt cái gì ngẳng lưng?
    Cái gì anh gảy từng tưng...?
    Nếu không lanh trí, có tài ứng đối, thuộc nhiều ca dao, câu đố... Hiệu khó mà vượt qua nổi. Hiệu nhanh nhẩu đáp ngay:
    ?oCây súng có trái không hoa
    Tơ hồng không rễ cho ta tìm tòi
    Quế ăn vừa thơm vừa tho
    Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân
    Cái ốc ma không có chân
    Con gà không vú xây vần lắm con
    Sợi chỉ vừa trơn vừa tròn
    Mười hai tháng chẵn chẳng mòn chút nao
    Ông trời mà ở trên cao
    Làm mưa làm gió làm sao được vầy
    Con vượn mà ở trên cây
    Trèo lên trợt xuống khen ai là tài
    Cối xay đậu có một tai
    Trống mảng một mặt, mâm bồng ngẳng lưng
    Ðàn bầu anh gảy từng tưng...?
    Hiệu vừa đáp xong, người chủ chòi trúng khoái quá, đổ cả khay tiền xuống thưởng. Các chòi thua cuộc, chẳng buồn việc ăn thua, vẫn ném tiền xuống thưởng tài nghệ của Hiệu, người đứng xem cũng hùa theo, vãi tiền vào sân như bươm **** lượn. Màn thưởng thức xem chừng đã mãn. Trống chầu của ban tổ chức vang lên một hồi ba tiếng, báo hiệu cuộc chơi cho ván kế tiếp. Người chạy bài đi thu con bài ở các chòi đem bỏ vào ống thăm chuẩn bị. Người xem chỉ cần nhìn cây cờ đuôi nheo cắm ở chòi trúng có đề số thứ tự thì biết hội bài này đã chơi đến ván thứ mấy.
    Thời gian cho một ván bài không chừng, tùy sự may rủi của việc bốc bài. Nhanh nhất, bốc ba lần đã thấy bài tới. Còn chậm nhất phải bốc đến lần thứ 19. Ngoài ra còn tùy thuộc vào việc hô bài của Hiệu. Nếu hô những bài dài thì chiếm nhiều thời gian. Vì vậy Hiệu thường hô những câu thai chỉ có hai hoặc bốn câu lục bát. Thỉnh thoảng mới chen một bài dài hoặc bài có tính hài hước để thay đổi không khí, tránh sự nhàm chán. Chẳng hạn như câu thai của con bài Bạch Huệ chọc cười dưới đây:
    ?oCon vợ tui tốt tợ tiên sa
    Coi trong thiên hạ ai mà dám beng (bì, sánh)
    Lưng khòm rồi lại da đen
    Còn hai con mắt tợ khoen trống chầu
    Giò cao đít lớn to đầu
    Lại thêm cái mặt cô sầu bắt ghê
    Việc làm trăm việc tui chê
    Chỉ thương có chút????????
    Những câu thai thường có sẵn, Hiệu phải thuộc lòng hàng trăm câu. Cũng có khi Hiệu phải sáng tác hoặc chắp nối, ráp câu nọ với câu kia, miễn sao câu thai nói lên được tên con bài Hiệu vừa mới bốc. Ðể tăng sự hấp dẫn, khi hô Hiệu phải diễn tả bằng điệu bộ, nét mặt, giọng nói như một diễn viên hát bội rành nghề. Nội dung câu thai cũng luôn thay đổi. Chẳng hạn ván thứ nhất, gặp con bài Nhì Nghèo, Hiệu hô:
    ?oChắp tay với chẳng tới kèo
    Cha mẹ anh nghèo chẳng cưới được em!?
    Ván thứ hai, nếu gặp lại con bài đó, Hiệu hô câu thai có nội dung khác:
    ?oCây khô tưới nước cũng khô
    Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo?.
    Ván thứ ba Hiệu đổi khác:
    ?oNhiều quan thêm khổ thằng dân
    Nhiều giàu thì lại chết trân thằng nghèo?.
    Ván thứ tư lại khác:
    ?oThấy anh em cũng muốn theo
    Chỉ sợ anh nghèo anh bán em đi?.
    Ván thứ năm khác nữa:
    ?oBuồn từ trong dạ buồn ra
    Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo?
    Ván thứ sáu, vẫn còn nhiều câu khác nữa:
    ?oNgày thường thiếu áo thiếu cơm
    Ðêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường
    Dù dơi, dép **** chật đường
    Màn loan gối phượng ai thương thằng nghèo?
    Ngoài ra tên con bài cũng được gọi trại đi hoặc đổi khác để ứng vào một câu thơ hoặc câu ca dao nào đó.
    Gọi khác chữ, chẳng hạn Bảy Thưa thành Bảy Hột. Gặp cái bài này, Hiệu xử dụng một trong hai câu thơ sau đây làm câu thai:
    ?oƯớc gì em chửa có chồng
    Anh về thưa với cha mẹ mang rượu nồng đón em?.
    hoặc:
    ?oCòn duyên mua thị bán hồng
    Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ
    Gặm xơ rồi lại gặm cùi
    Có ba bảy hột để lùi cho con?.
    Nói trại, chẳng hạn Ngũ Rốn thành Ngũ Rún rồi thành Ngũ Ruột:
    ?oRủ nhau đi đánh bài chòi
    Ðể cho con khóc đến lòi rún (rốn) ra?
    hay:
    ?oThò tay vào ngắt ngọn ngò
    Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ?.
    Suy diễn, từ Ngũ Dụm thành Ngũ Dít:
    ?oMột cây làm chẳng nên non
    Ba cây dụm lại thành hòn núi cao?.
    Có khi dùng câu đố làm câu thai. Trường hợp này thì nội dung của câu đố đã diễn tả tên con bài nên câu chót không cần phải trùng chữ với tên con bài nữa. Chẳng hạn gặp con bài Ba Gà, Hiệu có thể hô câu thai:
    ?oMình vàng vận áo mã tiên
    Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình?
    Có trường hợp không cần nêu tên con bài mà chỉ giải nghĩa đầy đủ là được. Gặp con bài Thái Tử, có thể dùng câu:
    ?oThuyền ai thấp thoáng bên bờ
    Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua?.
    Ðôi khi Hiệu dùng câu thai hình tượng để suy diễn ý nghĩa con bài Tứ Cẳng (còn gọi là Tứ Ghế hay Tứ Móc):
    ?oMột hai bận nói rằng không
    Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?.
    Thỉnh thoảng còn dùng những câu thai mơ hồ, người xem khó đoán được tên con bài Nhì Bánh mà Hiệu đang nắm trong tay:
    ?oBiết rằng ai có mong ai
    Sao trời lại nỡ xé hai thế này
    Có sao hôm mà chẳng có sao mai
    Hai đàng hai đứa tình phai hoa tàn?.
    Cũng có lúc, cả bốn câu đều nhắc đến tên con bài. Gặp con bài Chín Cu thì câu thai sau đây điển hình cho trường hợp này:
    ?oTiếc công bỏ mẩn cho cu
    Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu bay
    Cu say mũ cả áo dài
    Cu chê nhà khó phụ hoài duyên anh!?
    Còn như gặp những câu thai nêu trọn vẹn tên con bài thì Hiệu không bao giờ bỏ qua cơ hội. Chẳng hạn như con bài Ba Bụng mà dùng câu thai sau đây thì tuyệt:
    ?oXét ra cho kỹ sự đời
    Ba người ba bụng không ai thời giống ai?.
    Khi bài tới ván thứ tám thì xong một hội. Lẽ ra phải chín ván vì có chín chòi đóng tiền, nhưng phải dành tiền ván thứ chín để ban tổ chức chi phí cuộc chơi và trả tiền công cho gánh bài chòi. Vậy khi vãn một hội thì ban tổ chức được một khoản tiền bằng số tiền cáp của một chòi, và cứ xong một hội thì ít nhất cũng phải có một chòi thua. Xong một hội, trống chầu vang lên một hồi rất dài. Ban nhạc cũng tạm nghỉ giải lao, chuẩn bị cho hội khác. Người đánh bài nếu muốn chơi tiếp thì vẫn ngồi trên chòi của mình, bằng không thì xuống, để chòi trống cho người khác lên thay.
    (còn tiếp)
  6. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    CÂU THAI TRONG BỘ BÀI CHÒI
    Như đã nói trên, một bộ bài chòi có 27 con bài. Mỗi tên con bài Hiệu phải dùng một câu thai và nội dung câu thai phải luôn luôn thay đổi khi gặp lại con bài cũ.
    1.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho VĂN:
    Nhất Gối, nhưng thường gọi là Chín Gối:
    ?oÐêm nằm gối gấm không êm
    Gối lụa không mềm bằng gối tay em?.
    Nhì Bánh:
    ?oBánh bèo trục lúc không tai
    Bánh in to hột, dện hoài đổ ra?.
    Ba Bụng:
    ?oGió sao gió mát sau lưng
    Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này?.
    Tứ Tượng:
    ?oAi đi ngoài ngõ ào ào
    Hay là ông tượng đạp rào ổng vô??
    Ngũ Ruột:
    ?oBởi vì chai rượu Bạch Liên
    Mai dong điềm chỉ tới miền nhà em
    Cũng vì chai rượu gói nem
    Mà cha mẹ đã gả em đi rồi
    Còn gì than thở anh ơi
    Chỉ thêm đau ruột, em có chồng rồi, biết sao!?
    Sáu Xướng:
    ?oHồi nào đói rách có qua
    Bây giờ nên xưởng nên nhà lại lơ?.
    Bảy Liễu:
    ?oBiết đâu mà đợi mà chờ
    Tấm thân liễu yếu đào tơ gió ***g?.
    Tám Miểng:
    ?oVăn chương đựng không đầy lá mít
    Võ thì đá khổng bể nổi miểng sành
    Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi
    Bảng đề không biết chữ chi
    Mài nghiên múa bút có khi hết ngày?.
    Chín Cu:
    ?oSự đời có bốn cái ngu
    Mai dong, hứng nợ, rập cu, cầm chầu?.
    2.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho Vạn:
    Nhất Trò:
    ?oKhông ngon cũng bánh lá gai
    Dù anh có dại cũng trai học trò?.
    Nhì Bí:
    ?oBình Ðịnh có núi Vọng Phu
    Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
    Em về Bình Ðịnh cùng anh
    Ðược ăn bí đỏ nấu canh nước dừa?.
    Tam Quăng:
    ?oAnh đang viết liễn trong đình
    Nghe em, chồng hỏi, giật mình quăng nghiên?.
    Tứ Móc:
    ?oLòng thương chị bán thịt heo
    Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân?.
    Ngũ Trợt:
    ?oBớ chị em ơi! đi chợ
    Chợ nào bằng chợ Gò Chàm
    Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo
    Còn thêm bánh đúc bánh xèo
    Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
    Những con cá chép cá thu
    Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
    Ngó ra ngoài chợ
    Nẫu bán thịt phay
    Nem tươi chả lụa
    Rượu trà no say
    Ngó ra ngoài chợ
    Vẫn bán tranh cày
    Roi mây, lưỡi cuốc
    Nẫu bày nghinh ngang
    Ngó ra ngoài chợ
    Nẫu bán sàn sàn
    Khoai lang, bắp đỗ
    Ðục, chàng, kéo, dao...
    Xem ra chẳng sót hàng nào
    Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây mua ...
    Lại còn những món bánh khô
    Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay
    Những còn hàng giép hàng giày
    Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
    Lại còn những món nhiều tiền
    Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm...
    Song thần An Thái
    Dừa trái Tam Quan
    Ðường cát Dương An
    Ðĩa bàn nội phủ
    Kể đủ hàng hoa...
    Cà dê, cà dĩa, cà chình
    Ơ¨t ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay
    Rau răm, rau húng
    Bầu thúng, cà tây
    Mua bán bạc cây
    Những người hàng xén
    Mấy chú rón rén
    Ăn cắp thiệt lanh
    Mấy chú gian manh
    Là anh trùm chợ
    Buôn mọi bán rợ
    Mấy chú An Khê
    Ở trển đem về
    Xấp trần nài rể
    Dễ mua dễ bán
    Bánh tráng, kẹo cà
    Xoa xoa, đậu hũ
    Mè xửng , bánh canh
    Dạo hết xung quanh
    Hành ngò, cúc cải
    Dây dừa, dầu rái
    Kẹo đỗ, kẹo dừa
    Mấy chị ngủ trưa
    Nẫu mua trợt lớt?.
    Lục Trạng:
    ?oBậu khoe giỏi, sao chẳng chịu đi thi
    Cú ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu
    Bậu ơi tôi chẳng ưng đâu
    Trạng gì như thế có hầu cũng uổng công?.
    Thất Vung:
    ?oNgó lên hòn núi chóp vung
    Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà?.
    Bát Bồng:
    ?oChầu rày đã có trăng non
    Ðể tôi lên xuống có con em bồng!?
    Cửu Chùa:
    ?oCon vua thì được làm vua
    Con sãi ở chùa phải quét lá đa?.
    3.- Câu Thai Các Con Bài Trong Pho SÁCH:
    Nhứt Nọc:
    ?oÐò em đưa rước bộ hành
    Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề
    Trải qua bãi hạc, gành nghê
    Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô
    Tiếng ai văng vẳng gọi đò
    Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người?.
    Nhì Nghèo:
    ?oDầu mà hai ngả phân ly
    Mình ơi, hãy nhớ hồi khi còn nghèo?.
    Ba Gà:
    ?oKhôn ngoan đối đáp người ngoài
    Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau?.
    Tứ Sách:
    ?oGió đưa trăng thì trăng đưa gió
    Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai
    Trăm năm đá nát vàng phai
    Ðá nát mặc đá, vàng phai mặc vàng
    Trông cho én nhạn một lòng
    ***g đèn thiếp xách, mâm tơ hồng chàng bưng?.
    Ngũ Dụm:
    ?oMột cây làm chẳng nên non
    Ba cây dụm lại thành hòn núi cao?.
    Sáu Hường:
    ?oNghĩ duyên lận đận mà buồn
    Thương nhau vàng võ, má hường kém tươi?.
    Bảy Thưa:
    ?oÐừng ham nón tốt dột mưa
    Ðừng ham người tốt mã mà thưa chuyện nhà?
    Tám Dây:
    ?oVí dầu cha đánh mẹ treo
    Ðứt dây té xuống cũng theo tới cùng?
    Cửu Ðiều:
    ?oHuỳnh Kim có bến Tân An
    Có lầu Thông Nhẫn lập đàn bán buôn
    Trước kia đường vắng hơn truông
    Bây giờ trong bán ngoài buôn đầy tràn
    Trong nhà dệt nhiễu thêu hàng
    Trong sân thợ nhuộm, ngoài đàng xe hơi
    Khen cho ông Nhẫn đủ đời
    Lụa hàng cấp giá nơi nơi cũng điều?
    4.- Câu Thai Các Con Bài Trong Cặp YÊU:
    Ông Ầm:
    ?oVai mang bị bạc kè kè
    Nói bậy nói bạ nẫu nghe ầm ầm?.
    Thái Tử:
    ?oThuyền dời nhưng dạ chẳng dời
    Khăng khăng một lời: quân tử nhất ngôn?.
    Bạch Huê:
    ?oCũng vì duyên nợ ba sinh
    Sáng trăng câu hát huê tình mà theo?
    (còn tiếp)
  7. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    (tiếp theo và hết)
    SỰ CẢI TIẾN VÀ BIẾN THỂ CỦA BÀI CHÒI
    Hội bài chòi là một trò chơi dân gian, mang tính văn nghệ quần chúng. Tiền thân của bài chòi là sự liên lạc nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy. Và bài chòi được hình thành và hoàn chỉnh ở đồng bằng. Thể thức chơi vẫn giữ nét độc đáo nguyên thủy, ngồi trên những chiếc chòi, nên gọi là bài chòi truyền thống.
    Bài chòi truyền thống cũng chia làm hai giai đoạn: Hiệu hô những câu ca dao ngắn, nội dung không liên quan gì đến con bài, miễn sao có chữ đồng âm với tên con bài là được; thời kỳ này gọi là bài chòi tạp. Dần dần có xen nhiều những câu thai do nghệ nhân đặt ra hoặc do Hiệu ứng chế có nội dung ăn khớp với tên con bài, như câu Nhứt Nọc dưới đây; thời kỳ này gọi là bài chòi câu.
    ?oTay cầm sào chống lái
    Mắt liếc bãi lều tranh
    Ở đây đưa rước bộ hành
    Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề
    Trải qua bãi bạc gành nghê
    Tứ mùa chèo chống đôi bề sóng xao
    Thú vui ngang dọc một sào
    Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu
    Tiếng ai văng vẳng kêu đò
    Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người?.
    Sau này vì sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất chòi vẫn dùng 9 cái ghế thay cho 9 chiếc chòi và thể thức vẫn như cũ. Khuyết điểm của bài chòi ghế là không thể thay thế hết được chức năng của chòi nên kém phần sôi nổi, giảm sự hào hứng của người chơi bài và cả người xem. Từ hình thức bài chòi ghế, những năm đầu thế kỷ 20, có một số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô hình truyền thống để kiến tạo một lối mới gọi là bài chòi chiếu. Ðặc tính của bài chòi này không phụ thuộc vào thời vụ. Nghĩa là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp Tết Nguyên Ðán. Bài chòi chiếu cũng không có chòi. Sân khấu vẫn còn trệt nhưng đã được giới hạn trong phạm vi chiếu rải. Bài chòi chiếu cũng không còn độc diễn của Hiệu mà đã phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng còn đơn giản, chủ yếu là giọng ca mùi mẫn diễn những lớp trong các truyện tuồng như Lưu Kim Ðính, Phàn Lê Huê, Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên... Tuy vậy, sự trình diễn chỉ để giải trí và nêu tên con bài ở những câu thơ cuối lớp, chứ chưa đủ trình độ kết cấu nghệ thuật để trở thành mục diễn, nên người ta gọi là bài chòi lớp.
    Một biến cố lớn trong bộ môn bài chòi là sự ra đời của bài chòi truyện. Vào giữa năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập gồm Bốn Trang (tức Phan Ðình Lang người xã Nhơn Thành, An Nhơn) và Ba Nhỏ (tức Ba Huợt người xã Cát Sơn, Phù Cát) cùng với sự cộng tác của Tư Liên (Ðỗ Liên), Năm Oanh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ) và nhiều nghệ nhân khác; lần đầu tiên trình diễn bài chòi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An Lương xã Mỹ Chánh huyện Phù Mỹ. Ðây là lần thử nghiệm, không tránh khỏi nhiều trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái những kết quả khích lệ. Bài chòi truyện hoàn toàn dứt bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên sàn sân khấu có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa trang, có sự nhập vai, diễn xuất các động tác theo qui luật ước lệ và cách điệu. Làn điệu cũng phát triển để phù hợp tình cảm của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), còn có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mã, lý thượng... Về âm nhạc ngoài đờn cò, kèn, sanh, trống còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết nhưng không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng có trụ đèn ***g thắp dầu, về sau có đèn măng sông.
    Dịp Tết Giáp Tuất (1934) gánh bài chòi của ông Bốn Trang và Ba Nhỏ kiện toàn đội ngũ lập thành đoàn hát Tân Xuân đến lưu diễn ở thị trấn Gò Bồi (phủ Tuy Phước). Nhờ rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận nồng nhiệt và bán vé thu được một số tiền lớn.
    MỘT THỜI CỰC THỊNH
    Ðánh dấu sự thành công của gánh hát Tân Xuân, nhiều nghệ nhân đầu tư vào việc lập gánh hát bài chòi chuyên nghiệp. Ðoàn lớn thì diễn tuồng truyện trên sân khấu hiện đại, đoàn cỡ trung thì diễn lớp trên sân khấu trệt trải chiếu, đoàn nhỏ thì hô bài theo lối truyền thống trên sân đất.
    Từ năm 1933 đến năm 1945 tỉnh Bình Ðịnh có trên 10 gánh hát bài chòi nổi tiếng. Các đoàn hát như Tân Xuân của Bốn Trang, Long Vân Bang của Tư Miệt, Ý Chung của Phan Ðình Chi chuyên lưu diễn ở khắp các tỉnh từ Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết đến Di Linh (Lâm Ðồng). Các đoàn khác như gánh Năm Oanh (An Lương, Phù Mỹ), gánh Ông Dần (Hoài Nhơn), Chính Oanh (Kiến Hàng, An Nhơn), Sáu Sơn (Nhạn Tháp, An Nhơn), Ông Lợi (Phước Nghĩa, Tuy Phước), gánh Ðồng Ấu của Ðinh Thảo và Bốn Dân...
    Ðội ngũ diễn viên của bộ môn bài chòi cũng khá hùng hậu, không những nhiều kép nổi tiếng như Ba Huợt, Ba Sinh, Bốn Que (tức Bốn Trang), Tư Liên, Tư Miệt, Năm Oanh, Mười Vạn, Kim Kích... mà còn có nhiều khuôn mặt nữ tài hoa "một thời vang bóng" như đào Nhảy và Dần (Hoài Nhơn), đào Trang và Ðài (An Thái, An Nhơn), đào Sanh và Ðồng (Phước Sơn, Tuy Phước), đào Bình (Phú Tài, Tuy Phước), đào Chung và Liệu (Qui Nhơn), đào Giàu, Ba Danh... Lớp diễn viên mầm non có Văn Bá, Ðinh Thị Bích Hải, Nguyễn Thị Hường, Lê Quí, Ðinh Thái Sơn... đều phát triển tài năng trước tuổi. Về âm nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức Nguyễn Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh (An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu Hoạch... Về kịch bản xuất hiện nhiều tác giả soạn bài chòi truyện như: Trương Ân, Năm Oanh, Sáu Cóc với những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Ðường, Lưu Bình Dương Lễ, Quan Công Phục Huê Dung, Lý Ân Lang Châu...
    Trong thời kỳ này ba thể hình bài chòi đều thịnh hành và không cạnh tranh lấn áp nhau. Bài chòi truyện có một chỗ đứng ở sân khấu phông màn, có rạp che chắn, lưu diễn ở các thị tứ, người xem phải mua vé. Bài chòi lớp tìm đất sống trên sân khấu chiếu khắp các làng mạc miền quê. Bài chòi truyền thống vẫn nở rộ mỗi dịp xuân về.
    THÚ TIÊU KHIỂN TRONG BÀI CHÒI
    Bản chất bài chòi là trò chơi bài của dân gian xen với ca múa do tài anh Hiệu ứng chế đồng thời có sự cộng tác, đối thoại một cách tự nhiên giữa người hô và người tham gia cuộc chơi. Nếu đưa bài chòi lên sân khấu có phông màn tức là xóa bỏ cuộc chơi, bài chòi truyện trở nên hụt hẫng, cần bù đắp vào các điều kiện sau đây mới tạo được không khí hấp dẫn: Sự tích truyện tuy có gay cấn nhưng có hậu mới thỏa mãn người xem. Kịch bản cần cải tiến mới tránh khỏi sự tẻ nhạt nhưng không làm đứt mạch truyền thống, trong đó chất liệu bài chòi phải chiếm tỷ lệ cao, nếu không sẽ bị đồng hóa với các môn nghệ thuật khác, làm thất vọng khán giả.
    Thời ấy có thành ngữ "gánh hát xà bần" để chỉ trích những gánh bài chòi diễn trò hổ lốn đã đưa hát bội, cải lương, chèo, Hồ quảng chen vào quá nửa. Ngoài ra bài chòi truyện cần có đạo diễn thành thạo, tài diễn xuất của nhân vật và giọng ca đúng điệu. Sau nữa, cách trang trí, lối trang phục và sự điều chỉnh ánh sáng rất cần thiết, làm nổi bật cảnh sắc trên sân khấu. Nhưng bài chòi truyền thống, không cần những điều kiện trên, chỉ cần một anh Hiệu tài hoa là đủ rối và tự nó đã đi vào lòng dân tộc nên có sức lôi cuốn " Rủ nhau đi đánh bài chòi, để cho con khóc đến lòi rún ra" (Ca dao). Bởi thế, những người khắt khe lại cho rằng: chơi bài chòi là đánh bạc vì sử dụng bộ bài tới, có cáp tiền và có sự ăn thua nên mới hấp dẫn như vậy. Xin thưa ?okhông?, chơi bài chòi không mang tính cách sát phạt của sòng bài, những người có máu cờ bạc không lấy gì làm thích thú ở cuộc chơi này. Trong lịch sử bài chòi, chưa có ai khuynh gia bại sản vì đam mê trò chơi này, và cũng chưa thấy ai giàu có vì trúng mánh bài chòi.
    Ở bài chòi, ngoài việc thử thời vận, bói hên xui vào dịp đâu năm, người ta còn tìm đến bài chòi để mua vui qua giọng hô, tài ứng đối và lối diễn trò của Hiệu. Vì vậy, đánh bài chòi là một thú tiêu khiển, một hình thức vui chơi nhẹ nhàng, tao nhã, ít tốn kém. Một hội chơi dân gian đã trở thành tập tục vào dịp đầu xuân, mang tính chất khuyến khích sáng tác và duy trì thi ca bình dân.
    Ở các tỉnh miền nam Trung phần, nhất là Bình Ðịnh ngày nay còn lưu lại rất nhiều ca dao qua lối chơi này, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn chương bình dân của nước nhà. Tiếc rằng hội bài chòi và trò chơi truyền thống của nó từ sau năm 1945 đã mai một dần, đến nay hầu như mất hẳn...
    ÐÀO ÐỨC CHƯƠNG
    Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000
    Source: http://www.lebichson.net/Binhdinh/Baichoidaoducchuong.htm

Chia sẻ trang này