1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bạn đã có kiến thức về chăm sóc sức khoẻ bản thân chưa ??? (Những cây thuốc xung quanh chúng ta)

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi binhnguyengiatrang, 01/11/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    DƯA CHUỘT(DƯA LEO)

    [​IMG]
    Công dụng chữa bệnh của Dưa Chuột
    Dưa chuột là một thức ăn rất thông dụng và còn là một vị thuốc có giá trị. Thành phần dinh dưỡng gồm:
    Protein (đạm) 0,8g; glucid (đường) 3,0g; xenlulo (xơ) 0,7g; năng lượng 15 kcalo; canxi 23mg; phospho 27mg; sắt 1mg; natri 13mg; kali 169mg; ( caroten 90mcg; vitamin B1 0,03mg; vitamin C 5,0mg.
    Dưa chuột có tác dụng lọc máu, hòa tan acid uric và các urat, lợi tiểu, an thần nhẹ.
    Y học cổ truyền gọi nó là hồ qua (hoặc hoàng qua), có tính hàn, vị ngọt, ít độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, mát da thịt, lợi tiểu, chữa phù thũng, sưng trướng, chữa kiết lỵ (do nhiệt), đau bụng do ruột bị kích thích; dưa leo còn sử dụng để dưỡng da: đắp ngoài trị da nhờn, nếp nhăn, tàn nhang, nấm ngoài da.
    Chúng ta có thể tham khảo một số bài thuốc sau đây để áp dụng:
    Bài 1: Chữa chứng phù thũng, bụng trướng, tay chân phù
    Dưa leo 150 - 200g. Xắt nhỏ, nấu với một bát giấm nuôi, để vừa sôi là được. Dùng ăn điểm tâm (cả nước lẫn cái). Tác dụng lợi tiểu.
    Bài 2: Chữa trẻ nhỏ đi lỵ mùa nắng
    Dưa leo non 1kg. Rửa sạch, xắt nhỏ, đổ mật mía vào cho xâm xấp, nấu sôi 10 phút, ăn nhiều lần trong 1 - 2 ngày.
    Bài 3: Chữa ngộ độc thức ăn
    Lá dưa leo 100g. Giã nhuyễn, vắt nước uống, gây nôn mửa, tống chất độc ra ngoài.
    Bài 4: Chữa phỏng lửa
    - Cách 1: Dưa leo 2 trái. Xắt nhỏ, giã nhuyễn vắt lấy nước đắp vào chỗ phỏng. Đợi khô, lại đắp nước dưa leo vào, da sẽ không bị rát và bỏng rộp.
    - Cách 2: Dưa leo 3 trái. Hái vào ngày tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 Âm lịch) để dành trong bình trát kín miệng treo ở ngoài hiên, khi dùng lấy dưa giã nát hòa với nước hay dầu mè cho sền sệt, bôi vào vết phỏng, mau lành.
    Bài 5: Chữa chứng "nấm ngoài da"
    Dưa leo 1 trái. Xắt nhỏ, giã nhuyễn, đắp cả nước lẫn cái lên chỗ da bị nấm 20 phút, ngày làm 1 lần, làm liên tục cho đến khi hết. (Rửa sạch và lau khô chỗ da bị nấm trước khi đắp nước dưa leo).
    Bài 6: Dùng bổ tỳ vị, kích thích tiêu hóa
    Dưa leo xào chua ngọt với thịt heo, tôm tươi, cà chua, hành tây... Món ăn này có tác dụng bổ tỳ vị, kích thích tiêu hóa, ăn biết ngon.
    Bài 7: Dùng thanh nhiệt, lợi tiểu, trị mắt đỏ
    Dưa leo trộn gỏi (làm nộm) với cà rốt, tôm tươi, thịt nạc, mè rang, đậu phộng. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, trị mắt đỏ.
    Bài 8: Phối hợp với thuốc để chữa sốt
    Khi dùng thuốc chữa chứng sốt, nên dùng nước ép từ trái dưa leo làm nước giải khát, có tác dụng hỗ trợ cho việc làm hạ thân nhiệt.
    Bài 9: Sử dụng làm mỹ phẩm
    Trị da nhờn: Dưa leo 1 trái, nước 0,5 lít. Thái lát trái dưa. Nấu dưa leo với nước (trong 10 phút) để nước còn nóng, rửa mặt hàng ngày.
    Trị nếp nhăn trên mặt: Dưa leo cắt từng khoanh mỏng, đắp lên vùng da nhăn khoảng 20 phút mỗi ngày (vào buổi tối trước khi đi ngủ).
    Trị tàn nhang: Dưa leo thái mỏng, ngâm trong sữa bò tươi (khoảng 20 phút), rồi lấy nước cốt bôi lên vùng tàn nhang, sau 30 phút rửa mặt bằng nước ấm.
    Dưỡng da mặt: Dưa leo 200g, rửa sạch, bằm nhỏ. Hạnh nhân 50g, rửa sạch, giã nhỏ. Hai thứ trên trộn lẫn, đun sôi 5 phút, để nguội, lấy vải mỏng lọc lấy nước, thêm vào 200ml cồn 900 (loại dùng trong y tế) và 1g tinh dầu hoa hồng. Bôi dung dịch này lên mặt khoảng 10 phút rồi rửa mặt bằng nước ấm.
    Khi dùng dưa leo, nên lưu ý:
    - Vì có tính hàn nên không dùng cho người tỳ vị hư hàn (nhất là trẻ em), thận hư yếu.
    - Do hàm lượng canxi cao, dưa leo có tác dụng tốt với trẻ em chậm lớn, người già. Người huyết áp cao nên dùng (vì làm lợi tiểu).
  2. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Quả trám
    [​IMG]
    Trám là tên gọi ở miền Bắc, Mác cơm (miền Trung), Cà na (miền Nam). Tên chữ Hán trong các sách thuốc: Sơn lãm, cảm lãm, gián quả, thanh quả v.v...
    Trám có 2 loại, phân biệt qua màu vỏ của 2 cây khác nhau:
    - Trám trắng (Canarium album Raeusch) có vỏ màu xanh lục.
    - Trám đen (Canarium nigrum Engl), còn gọi cây bùi vì quả ăn rất bùi, màu tím thẫm.
    Trám dùng làm thức ăn
    a. Quả trám trắng có thể chế biến thành một số món sau:
    - Làm mứt trám, có mùi vị đặc biệt.
    - Ô mai trám (trộn bột gừng, cam thảo).
    - Trám kho cá rô (hoặc cá khác): Bỏ hạt, đập dập, xếp từng lớp trám cách cá vào nồi đất, cho tương vào nấu lửa nhỏ đến khi chín nhừ.
    - Trám muối: Luộc đổ nước chát, tách đôi bỏ hột, cho nước mắm ngon với ít đường ngập trám, để khoảng 5 ngày mới ăn (không dùng muối).
    b. Trám đen chín om: Ðun nước sôi 700C, cho trám vào om đậy kín 20 phút vớt ra, để ráo, bổ dọc quả, bỏ hạt. Khi ăn chấm muối vừng hoặc nước thịt kho tàu, rất bùi.
    Trám dùng làm thuốc: Thường dùng trám trắng. Quả trám vị chua, ngọt bùi, béo, tính ấm (có sách viết lương - hơi hàn) vào 2 kinh phế và vị (có sách viết vào phế và thận); Có tác dụng sinh tân dịch, giải khát, thanh giọng, giải độc cá, giải say rượu mê man, nôn mửa, nhức đầu.
    - Về mùa đông, nếu đêm ngủ thấy khô cổ và ho, gây mất giấc: Dùng ngày 20-30 quả trám trắng (bỏ hột) đập dập nấu nước uống. Có thể thêm gừng, đường hay mật để uống.
    - Viêm họng cấp hay mãn, viêm amiđan, khô cổ, mất tiếng: Dùng trám muối để ngậm hay pha nước uống. Có thể dùng trám tươi để hãm uống.
    - Sốt cao, khô môi miệng, khát nước: Giã quả trám lấy nước uống hàng ngày.
    - Ho khản cổ: Trám tươi 4 quả bỏ hột, giã nát với huyền sâm 10g thái lát. Cho vào nồi đất đổ ngập nước, nấu uống. Có tác dụng tư âm, giáng hỏa, lợi yết hầu, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng.
    - Kiết lỵ ra máu: Trám và ô mai lượng bằng nhau đốt thành tro. Ngày dùng 9g uống với nước cơm.
    - Ngộ độc cua cá (có sách ghi ngộ độc cá nóc): Trám trắng 30g sắc nước uống. Cách này cũng dùng cho trẻ em lên sởi và chữa bệnh hoại huyết.
    - Sâu răng: Quả trám đốt, tán nhỏ, trộn một ít xạ hương bôi vào chỗ đau (Nam dược thần hiệu). Người có thai tránh ngửi mùi xạ hương.
    - Viêm tắc mạch máu: Quả trám trắng luộc ăn cái, uống nước hàng ngày, mỗi ngày 200g. Liệu trình 1-2 tháng.
    - Nẻ da do lạnh (cước), khô nứt môi chảy máu: Trám đốt thành tro, trộn mỡ lợn hoặc dầu thực vật bôi (Nam dược thần hiệu).
    - Làm nước uống sinh tân dịch, chữa ho, thanh nhiệt giải thử, thích hợp cho người luôn cảm thấy miệng khô, hay khạc nước miếng, ôn bệnh nhiệt thịnh, phổi ráo: Trám tươi 5 quả bỏ hột, kim thạch hộc 5g, thái nhỏ, rễ lau 5g thái nhỏ. Mã thầy 5g gọt vỏ, lê gọt vỏ 2 quả, mạch đông 10g. Ngó sen 10 miếng. Tất cả nấu với 2 lít nước bằng lửa nhỏ 1 giờ. Ðể nguội lọc lấy nước uống hàng ngày.
    - Nước thanh nhiệt: Trám tươi 20g bỏ hạt, rễ lau tươi 4 chùm thái nhỏ. Nấu với 0,5 lít nước trong 1/2 giờ, lọc nước uống. Trám tươi có tác dụng thanh phế, lợi hầu, khử hỏa, hóa đàm. Rễ lau thanh can nhiệt, vị nhiệt, sinh tân dịch, khỏi ho. Nên uống nóng.
    - Món ngũ vị: Cam 10g, trám tươi 10g (bỏ hột), ngó sen tươi 120g, mã thầy 150g, gừng tươi 6g. Tất cả đều bỏ vỏ, bỏ hạt, giã nát cho vào vải sạch vắt lấy nước (hoặc ép). Ðây là món uống bảo kiện rất tốt; Tác dụng thanh tân, chỉ khát, giải nhiệt, thanh phế, lợi hậu, trị chứng hay nhổ nước bọt có khi có sợi máu, khó nuốt thức ăn, sưng họng, ho, buồn nôn. Ðây là phương thuốc gia giảm cổ phương "Ngũ tráp ẩm" của ngự y Triệu Văn Khôi dâng lên vua Quang Tự và đã được theo dõi kết quả sau 33 năm.
    - Canh thanh long bạch hổ: Bài thuốc của y gia Vương Mạnh Anh đời Thanh, Trung Quốc. Quả trám tươi (bỏ hột) 15g đập dập, củ cải sống 250g thái nhỏ. Dùng nồi đất ninh. Lấy nước uống thay trà (có thể ăn cái). Phòng chữa bệnh đường hô hấp trên như khi bị cảm cúm.
    - Trà trám: Trám 3 quả, bạng đại hải (đười ươi) 3 hạt, trà xanh 5g, mật ong 20g. Trám đập dập (không hạt) cho vào nồi đất đun 15 phút rồi rót vào cốc đã để sẵn bạng, trà, mật ong. Hãm 10-15 phút chờ nguội bớt. Uống thay trà, dùng điều trị viêm họng khô rát, khản cổ, ho khan.
    - Cao trám: Quả trám trắng bỏ hột, đập dập, đun nhỏ lửa 30 phút, cho đường phèn đun thành cao. Dùng chữa động kinh, pha uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 thìa con.
    - Các tài liệu dân gian còn dùng trám giã vắt lấy nước hoặc sắc uống liều không hạn chế để chữa hóc xương cá. Tuy nhiên cần thận trọng và nên có ý kiến của thầy thuốc chuyên khoa để tránh biến cố đáng tiếc (Có tài liệu chỉ ghi hóc xương cá chứ không dùng cho trường hợp hóc xương khác).
    Theo Tây y, cùi trám có thành phần gồm đạm, béo, đường, một số vitamin (đáng chú ý là vitamin C), các chất khoáng như calci, phốt pho, kali, magne, sắt, kẽm...
  3. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Cây ớt
    [​IMG]
    Ớt là loại cây đã được con người trồng trọt và thu hái từ lâu đời. Với không ít người, ớt là loại gia vị không thể thiếu trong các bữa ăn, giúp làm tăng cảm giác ngon miệng. Nhưng có lẽ ít ai biết ớt còn là một vị thuốc rất quý trong y học cổ truyền.
    Tác dụng chữa bệnh của ớt
    Quả ớt còn có nhiều tên gọi khác nhau như Lạt tiêu, Lạt tử, Ngưu giác tiêu, Hải tiêu... Tên khoa học Capsium frutescens L; Capsium annuum L., thuộc họ Cà Solanaceae. Là một cây nhỏ có thể sống vài năm, thân dưới hóa gỗ. Cây có nhiều cành, nhẵn. Lá mọc so le, hình thuôn dài, đầu nhọn. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả mọc rủ xuống đất, chỉ riêng ở cây ớt chỉ thiên thì quả lại quay lên trời. Có thể được trồng hoặc mọc hoang. Các bộ phận của cây ớt như quả, rễ và lá đã được dùng làm thuốc từ nhiều đời nay.
    Theo y học cổ truyền, ớt có vị cay, nóng. Tác dụng khoan trung, tán hàn, kiện tỳ, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), kháng nham (chữa ung thư...) Nhân dân thường dùng để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn... Ngoài dùng làm thuốc, nhân dân ta còn thường dùng lá ớt nấu canh ăn.
    Nghiên cứu của y học hiện đại cũng thống nhất với y học cổ truyền về tác dụng chữa bệnh của ớt. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc cho thấy quả ớt có rất nhiều ích lợi cho sức khỏe. Trong ớt có chứa một số hoạt chất sau: Capsicain là một Alkaloid chiếm tỷ lệ khoảng 0,05-2%. Cấu trúc hóa học đã được xác định là acid isodexenic vanilylamit, có đặc điểm bốc hơi ở nhiệt độ cao, gây hắt hơi mạnh. Ngoài ra còn có Capsaicin, là hoạt chất gây đỏ, nóng, chỉ xuất hiện khi quả ớt chín, chiếm tỷ lệ từ 0,01-0,1%. Một điều lý thú là Capsaicin có tác dụng kích thích não bộ sản xuất ra chất Endorphin, một chất Morphin nội sinh, có đặc tính như những thuốc giảm đau, đặc biệt có ích cho những bệnh nhân bị viêm khớp mạn tính và các bệnh ung thư. Ngoài ra, ớt còn giúp ngăn ngừa bệnh tim do chứa một số hoạt chất giúp máu lưu thông tốt, tránh được tình trạng đông vón tiểu cầu dễ gây tai biến tim mạch. Ớt còn có tác dụng ngăn ngừa tình trạng huyết áp tăng cao. Một số nghiên cứu cho thấy, những loại ớt vỏ xanh, trái nhỏ có hàm lượng capsaicin nhiều hơn. Ngoài ra, trong quả ớt còn chứa nhiều loại vitamin như vitamin C, B1, B2, acid citric, acid malic, beta caroten...
    Ngoài việc dùng làm thực phẩm, quả ớt còn được nhân dân ta sử dụng làm thuốc chữa bệnh từ ngàn xưa. Trong kho tàng y học dân gian, có không ít bài thuốc quý trong đó có ớt.
    Một số bài thuốc nam công dụng có ớt
    - Chữa rụng tóc do hóa trị liệu: Ớt trái 100g, ngâm với rượu trắng trong 10-20 ngày. Dùng rượu này bôi lên da đầu có tác dụng kích thích mọc tóc.
    - Giảm đau do ung thư, đau khớp: ăn 5-10g ớt mỗi ngày.
    - Chữa ăn uống kém tiêu do ung thư: ớt 100g, hắc đậu xị 100g, tán bột ăn hàng ngày.
    - Chữa ăn uống chậm tiêu: ớt trái dùng làm gia vị, ăn hàng ngày.
    - Chữa đau thắt ngực: ớt trái 2 quả, đan sâm 20g, nghệ đen 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
    - Chữa đau dạ dày do lạnh: ớt trái 1-2 quả, Nghệ vàng 20g, tán bột uống ngày 2-3 lần.
    - Chữa viêm khớp mạn tính: ớt trái 1-2 quả; Dây đau xương, thổ phục linh (củ khúc khắc) mỗi vị 30g. Sắc uống ngày 1 thang.
    - Chữa bệnh chàm (eczema): lá ớt tươi 1 nắm, mẻ chua 1 thìa. Hai thứ giã nhỏ, lấy vải sạch gói lại, đắp lên nơi bị chàm đã rửa sạch bằng nước muối.
    - Chữa tai biến mạch máu não: lá ớt (loại ớt chỉ thiên quả nhỏ) đem giã nhỏ, thêm nước và ít muối, chắt nước cho người bệnh uống, bã đắp vào răng sẽ tỉnh.
    - Chữa rắn rết cắn: lá ớt giã nhỏ, đắp vào nơi bị thương, băng lại. Ngày làm 1-2 lần cho đến khi hết đau, 2-3 giờ là khỏi.
    - Chữa bệnh vẩy nến: Lá ớt cay 1 nắm to (1 nắm chặt tay và đem sao chín nhưng không cháy), tinh tre đằng ngà cạo lấy 1 bát, lá sống đời (lá thuốc bỏng) 7-9 lá, thiên niên kiện khoảng 300g. Tất cả cho vào nồi với 2 lít nước, đun sôi kỹ, uống dần thay nước chè, uống chừng 3 ấm là khỏi.
    - Đau bụng kinh niên: Rễ cây ớt, rễ chanh, rễ hoàng lực, mỗi thứ khoảng 10g. Sao vàng, sắc uống ngày 1 thang.
    - Chữa đau lưng, đau khớp: Ớt chín 15 quả, lá đu đủ 3 cái, rễ chỉ thiên 80g. Tất cả đem giã nhỏ ngâm cồn với tỷ lệ 1/2, dùng để xoa bóp sẽ mau khỏi.
    - Chữa mụn nhọt: Lá ớt giã nát với ít muối, dùng đắp vào nhọt đang mưng mủ sẽ bớt đau nhức, dễ vỡ mủ, mau lành.
    - Chữa khản cổ: Dùng ớt làm thuốc súc miệng (dưới dạng cồn thuốc).
    - Chữa rắn rết cắn: Lá ớt giã nhỏ, đắp vào vết thương cho đến khi hết đau nhức thì bỏ đi.
    Ngày đắp 1-2 lần cho đến khi hết đau. Thường chỉ 15-30 phút thì hết đau.
  4. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Ðu đủ
    [​IMG]
    Ðu đủ còn có tên là Lô hong phlê (Campuchia), Mắc hung (Lào), Phiên mộc. Tên khoa học là Caricapapaya L., thuộc họ đu đủ.
    Là cây trồng phổ biến ở nước ta. Thân thẳng, cao từ 3-7m đôi khi có phân nhánh. Vỏ mang nhiều sẹo của cuống lá. Lá mọc so le ở ngọn cây, phiến lá rộng, to chia làm 6-9 thùy, thùy hình trứng nhọn mép có răng cưa không đều. Cuống lá rỗng và dài 30-50cm. Hoa trắng nhạt hay xanh nhạt. Hoa đực mọc ở kẽ lá thành chùy có cuống rất dài. Hoa cái có tràng dài hơn tràng của hoa đực, mọc thành chùy ở kẽ lá. Quả thịt hình trứng to dài 20-30cm, đường kính 15-20cm. Thịt quả dày, lúc đầu có màu xanh lục, sau ngả màu vàng cam. Trong ruột quả có nhiều hạt to đen bằng hạt tiêu, xung quanh có lớp nhầy.
    Giống đu đủ CO5 (Ấn Ðộ) có hàm lượng 14-15g pagain khô/1 quả, trong khi trước đây chỉ có 3-4g/quả, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ. Tại nước ta được trồng ở khắp nơi nhưng chưa đi vào quy mô công nghệ. Sau khi trồng 8-10 tháng đã có thể bắt đầu thu hoạch, nhưng năng suất cao nhất là từ năm thứ 3 trở đi.
    Trước hết đu đủ là một loại thực phẩm thông dụng:
    Ðu đủ chín có vị thơm ngon, cung cấp nhiều beta caroten (là một tiền chất của vitamin A), vào cơ thể sẽ được chuyển hóa thành vitamin A. Ðây là một loại vi chất dinh dưỡng có vai trò là chất chống oxy hóa mạnh, chống khô mắt, khô da và có tác dụng nhuận tràng, nồng độ đạt 2.100 mcg beta caroten/100g ăn được. Tuy nhiên nhu cầu beta caroten cũng cần vừa phải, nếu ăn quá nhiều, liên tục sẽ dẫn đến thừa và gây vàng da cho trẻ. Thậm chí cả trẻ nhỏ đang bú mẹ, nếu mẹ thừa beta caroten sẽ bài tiết qua sữa sang con và gây vàng da cho trẻ. Rất may là hiện tượng vàng da này sẽ mất nếu giảm lượng beta caroten ăn vào.
    Ðu đủ xanh có nhiều men papain, tác dụng giống như pepsin của dạ dày, nhất là giống Trypsin của tụy trong việc tiêu hóa chất thịt. Ở nước ta, gỏi đu đủ trộn vừng lạc là món ăn rất phổ biến. Ngoài ra người ta còn dùng đu đủ xanh nấu với thịt để chóng nhừ hoặc nấu cháo cùng thông thảo, ý dĩ và móng giò cho các phụ nữ đang cho con bú.
    Ðu đủ còn có tác dụng như một vị thuốc:
    - Hoa đu đủ đực tươi hoặc phơi khô hấp với đường phèn dùng chữa ho, mất tiếng.
    - Nước sắc lá đu đủ dùng giặt vết máu trên vải, rửa vết thương, vết loét. Lá tươi dùng gói thịt gà để khi nấu chóng mềm. Trong lá, quả, hạt đu đủ còn có chất cacpain với tác dụng làm chậm nhịp tim, có người đã dùng làm thuốc chữa tim. Lá đu đủ thái nhỏ trộn với thóc dùng chữa bệnh biếng ăn cho bò, ngựa.
    - Nhựa đu đủ được coi là vị thuốc tẩy giun. Tác dụng trên giun đũa, giun kim và sán lợn nhưng không có tác dụng trên giun móc. Tuy nhiên cần lưu ý nếu cho lợn ăn lá đu đủ để tẩy giun, lợn thường bị xuống cân và khó vỗ trở lại. Nhựa đu đủ còn dùng ngoài chữa chai chân và hột cơm.
    - Rễ đu đủ được dân gian sắc làm thuốc cầm máu.
    Như vậy cây đu đủ rất có ích cho con người, có thể sử dụng được tất cả các phần, từ hoa, lá, rễ cho đến nhựa cây. Ðặc biệt đu đủ còn là nguồn cung cấp vitamin A tự nhiên rất tốt
  5. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Quả sung
    [​IMG]
    Sung là một thứ quả quê mùa và dân dã. Sung có mặt trong những nhà hàng đặc sản với các món: sung muối chua đóng lọ, sung kho cá, sung chấm muối vừng, sung xanh ăn gỏi.
    Công dụng
    Sung có tên khoa học là Ficus glomerata, thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Trong dân gian, quả sung còn được gọi là vô hoa quả, thiên sinh tử, ánh nhật quả, văn tiên quả, phẩm tiên quả, nãi tương quả, mật quả... Theo nghiên cứu hiện đại, quả sung có chứa glucose, saccarose, quinic acid, shikimic acid, oxalic acid, citric acid, malic acid, auxin, các nguyên tố vi lượng như calci, phospho, kali... và một số vitamin như C, B1... Kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm bước đầu cho thấy, quả sung có tác dụng nhuận tràng, hạ huyết áp và phòng chống ung thư.
    Trong y học cổ truyền, quả sung vị ngọt, tính bình, có công dụng kiện tỳ ích vị, nhuận phế lợi hầu, nhuận tràng thông tiện, tiêu thũng giải độc. Thường được dùng để chữa các chứng bệnh như viêm ruột, kiết lỵ, táo bón, trĩ xuất huyết, sa trực tràng, viêm họng, ho, sản phụ thiếu sữa, mụn nhọt lở loét, chán ăn, phong thấp...
    Liều lượng: Uống trong mỗi ngày 30-60g, sắc uống hoặc ăn sống từ 1-2 chùm nhỏ; Dùng ngoài bằng cách thái phiến dán vào huyệt vị châm cứu hay nơi bị bệnh, nấu nước rửa hoặc sấy khô tán bột rắc hay thổi vào vị trí tổn thương.
    Cách dùng
    - Viêm họng:
    1. Sung tươi sấy khô, tán bột rồi lấy một ít bột này thổi vào họng.
    2. Sung tươi gọt vỏ, thái phiến, sắc kỹ lấy nước, cho thêm đường phèn rồi cô nhỏ lửa thành dạng cao, ngậm hàng ngày.
    - Ho khan không có đờm: Sung chín tươi 50-100g gọt bỏ vỏ, đem nấu với 50-100g gạo thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Có thể cho thêm ít nho khô hoặc đường phèn cho dễ ăn.
    - Hen phế quản: Sung tươi lượng vừa đủ, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước cốt uống mỗi ngày 1 lần.
    Viêm loét dạ dày tá tràng: Sung sao khô tán bột, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-9g với nước ấm.
    - Tỳ vị hư nhược, hay rối loạn tiêu hóa: Sung 30g, thái nhỏ, sao hơi cháy, mỗi ngày lấy 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà trong ngày.
    - Kiết lỵ: Sung vài quả (tùy theo tuổi), sắc kỹ lấy nước, chế thêm một chút đường rồi uống. Nếu không có quả sung thì có thể dùng lá sung tươi sắc uống.
    - Táo bón:
    1. Sung tươi 9g sắc uống hàng ngày.
    2. Sung chín ăn mỗi ngày 3-5 quả.
    3. Sung tươi 10 quả rửa sạch bổ đôi, ruột già lợn một đoạn làm sạch thái nhỏ, hai thứ đem hầm nhừ, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
    - Trĩ xuất huyết, sa trực tràng:
    1. Sung tươi 10 quả đem hầm với một đoạn ruột già lợn cho nhừ rồi ăn.
    2. Sung tươi 6g, rễ thị 9g, sắc uống. Nếu không có quả, có thể dùng lá sung sắc lấy nước xông ngâm tại chỗ chừng 30 phút.
    - Sa đì: Sung 2 quả, tiểu hồi hương 9g, sắc uống.
    - Sản phụ thiếu sữa: Sung tươi 120g, móng lợn 500g, hai thứ đem hầm thật nhừ, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Bài này có công dụng bổ khí huyết, hạ nhũ chấp (làm ra sữa) dùng rất tốt cho sản phụ sau sinh suy nhược, khí huyết bất túc, sữa không có hoặc có rất ít.
    - Viêm khớp:
    1. Sung tươi lượng vừa đủ đem hầm với thịt lợn nạc ăn.
    2. Sung tươi 2-3 quả rửa sạch thái vụn rồi tráng với trứng gà ăn.
    - Mụn nhọt, lở loét: Sung chín sao khô, tán bột rồi rắc lên tổn thương. Ðể đạt hiệu quả cao, trước đó có thể ngâm rửa tổn thương bằng nước sắc quả hay lá sung tươi, sau đó lau khô rồi rắc bột thuốc và băng lại.
    Ngoài ra, nhựa của thân cây hay quả sung xanh còn được dân gian dùng để chữa mụn nhọt, bắp chuối và sưng vú. Cách dùng cụ thể như sau: Rửa sạch tổn thương, lau khô, dùng nhựa sung bôi trực tiếp vào nơi bị bệnh, sưng đỏ đến đâu thì bôi đến đó, bôi nhiều lần trong ngày. Ðể tránh bôi nhiều lần, có thể trộn nhựa sung với lá non, giã nát rồi đắp lên chỗ đau. Nếu mụn chưa có mủ thì đắp kín, nếu đã vỡ mủ thì đắp để hở một chỗ bằng hạt ngô. Khi đã có mủ muốn lấy ngòi ra thì giã thêm một củ hành với nhựa sung rồi đắp như trên, để hở miệng. Nếu sưng vú, đắp hở đầu vú.
    Nhựa sung còn dùng để chữa đau đầu: Phết nhựa lên giấy bản rồi dán hai bên thái dương.
    Có thể phối hợp với việc ăn lá sung non hoặc uống nhựa sung với liều 5ml hòa trong nước đun sôi để nguội, uống trước khi đi ngủ.
  6. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    DƯA HẤU
    [​IMG]
    Trước nay, dưa hấu được xem là một trong những loại trái cây hết sức thông dụng của mọi gia đình, đặc biệt khi tiết trời trở nên oi bức, nóng nực. Dưa hấu không những ngon ngọt, dễ ăn mà còn cung cấp cho cơ thể một lượng nước khá lớn, không ít các vitamin và nguyên tố vi lượng quý giá. Hơn nữa, trong y học cổ truyền, cả ruột và vỏ dưa hấu còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.
    Công dụng của dưa hấu
    Giá trị của quả dưa hấu đã được dân gian đúc kết qua câu: "Nhiệt thiên lưỡng khảm qua, dược vật bất dụng qua" (Trời nóng ăn hai quả dưa thì không cần phải uống thuốc) và coi dưa hấu là "Hạ quý thủy quả chi vương" (Vua của trái cây mùa hè). Các y thư cổ như Bản thảo phùng nguyên, Tùy tức cư ẩm thực phổ, Nhật dụng bản thảo... đều cho rằng dưa hấu có công dụng thanh nhiệt giải thử, trừ phiền chỉ khát, lợi tiểu tiện và được dùng để chữa nhiều chứng bệnh như mụn nhọt, viêm loét miệng, phù do viêm thận, tiểu đường, cao huyết áp, lỵ, say nắng, say nóng, giải độc rượu... Thậm chí còn coi dưa hấu có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa tựa như cổ phương trứ danh Bạch hổ thang.
    Cách chế biến điển hình
    - Cách 1: Dưa hấu 1.500g, muối ăn lượng vừa đủ. Dưa rửa sạch, bổ đôi, nạo lấy phần ruột rồi gói vào khăn vải sạch, ép lấy nước; Vỏ dưa cạo bỏ vỏ xanh, thái vụn rồi cũng ép lấy nước (nếu có máy ép thì càng tốt); Hòa hai thứ nước lại với nhau, pha thêm chút muối, dùng làm đồ giải khát. Công dụng: Tiêu phiền, giải độc, làm hết khát. Người bị viêm nhiễm, mụn nhọt, cao huyết áp dùng rất hữu ích.
    - Cách 2: Dưa hấu 1 quả, chuối tiêu 3 quả, mật ong 100g. Rửa sạch dưa, dùng dao cắt ngang dưới núm một miếng để làm nắp, lấy thìa đánh nhuyễn phần ruột đỏ. Chuối bóc vỏ, thái vụn rồi cho cùng mật ong vào trong lòng quả dưa, tiếp tục đánh nhuyễn, đậy nắp, để vào tủ lạnh chừng 3 giờ là dùng được. Ðây là món giải khát thơm ngon, lại giàu chất dinh dưỡng, có công dụng bồi bổ, nhuận tràng, thông tiện. Theo y học cổ truyền, chuối (hương tiêu) vị ngọt, tính mát, có khả năng dưỡng âm nhuận táo, sinh tân dịch và làm hết khát.
    - Cách 3: Dưa hấu 1.500g, mật ong 30g, chanh 100g, rượu hoa quả 50ml. Dưa rửa sạch, dùng máy ép lấy nước rồi vắt chanh và cho mật ong cùng rượu vào quấy đều. Công dụng: Tiêu khát giải thử, sử dụng để giải khát mùa hè rất tốt. Theo y học cổ truyền, chanh vị chua ngọt, tính mát, có công năng sinh tân chỉ khát, thanh nhiệt giải thử, hóa đàm chỉ khái. Dinh dưỡng học cổ truyền thường dùng chanh phối hợp với dưa hấu hoặc nước mía để chế các loại nước giải khát thanh nhiệt trong mùa hè.
    - Cách 4: Dưa hấu 500g, mía 200g, đường phèn 20g. Dưa rửa sạch, bỏ vỏ và hạt, thái miếng; Mía róc vỏ, chẻ nhỏ. Hai thứ cho vào máy ép lấy nước, chế thêm đường phèn, uống hàng ngày. Công dụng: Thanh nhiệt lợi niệu, làm khỏe thận, chống nôn và giải độc rượu. Ðây là loại nước giải khát rất tốt và hấp dẫn, vừa thơm ngon vừa ngọt mát. Theo y học cổ truyền, mía vị ngọt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân chỉ khát, hòa trung nhuận táo, thường được dinh dưỡng học cổ truyền sử dụng cho những bệnh nhân bị các chứng bệnh như say rượu, ho và viêm hầu họng do phế âm hư, nôn và buồn nôn do bệnh lý dạ dày tá tràng, táo bón...
    - Cách 5: Vỏ dưa hấu 150g, khổ qua (mướp đắng) 50g, bí đao 50g. Vỏ dưa hấu gọt bỏ vỏ xanh, thái vụn; Khổ qua và bí đao đều gọt vỏ bỏ ruột rồi thái vụn. Tất cả cho vào máy ép lấy nước, có thể cho thêm chút đường phèn, hòa tan rồi dùng làm nước giải khát. Công dụng: Thanh nhiệt giải thử, trừ phiền chỉ khát; Dùng làm đồ uống mùa hè rất tốt, đặc biệt với những người bị tiểu đường, mụn nhọt, viêm đường tiết niệu, béo phì... Theo y học cổ truyền, khổ qua vị đắng, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải thử, giải độc minh mục. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh khổ qua có khả năng làm hạ đường huyết ở những bệnh nhân bị tiểu đường. Bí đao vị nhạt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt hóa đàm, trừ phiền chỉ khát, lợi thủy tiêu thũng, giúp cơ thể trở nên thon thả, da dẻ tươi sáng.
    - Cách 6: Vỏ dưa hấu 150g, bách hợp 50g, lê 100g, đường phèn 10g. Vỏ dưa gọt bỏ vỏ xanh, bách hợp rửa sạch, lê bỏ vỏ và hạt, tất cả thái vụn, cho vào máy ép lấy nước, hòa đường phèn rồi uống. Công dụng: Thanh nhiệt trừ thử, thanh tâm nhuận phế, giải khát. Theo y học cổ truyền, lê vị ngọt, tính mát, có công năng thanh nhiệt sinh tân, nhuận táo hóa đàm, giải rượu; Thường được dùng cho những người bị sốt cao mất nước, tiểu đường, táo bón, viêm nhiễm đường hô hấp, say rượu... Bách hợp vị ngọt đắng, tính hơi lạnh, có công dụng nhuận phế chỉ khái, thanh tâm an thần; Thường được dùng cho những người bị bệnh đường hô hấp, suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể sau khi bị các bệnh có sốt cao kéo dài.
    - Cách 7: Dưa hấu 6.000g, dứa 500g, đường cát 50g, nước đun sôi để nguội 300ml. Dưa bỏ vỏ và hạt, dứa gọt vỏ thái miếng ngâm với nước muối nhạt trong 1 phút, đem hai thứ ép lấy nước cốt, hòa đường, chế thêm nước rồi làm đồ giải khát. Công dụng: Thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân chỉ khát, kích thích tiêu hóa, được dùng làm nước uống lý tưởng trong mùa hè. Theo y học cổ truyền, dứa vị ngọt chua, tính bình, có công năng thanh nhiệt sinh tân, trừ phiền chỉ khát. Loại quả này có mùi thơm và vị ngọt đặc biệt, được dân gian ca tụng là "Bà chúa của các loại hoa quả".
    Dưa hấu tuy có tác dụng thanh nhiệt giải khát lý tưởng và chữa trị được nhiều bệnh tật, nhưng khi dùng cần lưu ý không nên ăn quá nhiều một lần và nhiều lần trong một ngày, đặc biệt là những người tỳ vị vốn đã hư yếu, hay đau bụng đi lỏng và rối loạn tiêu hóa. Ngoài ra, cũng không nên ăn những quả dưa hấu chưa chín, bị hư do để quá lâu và bị giập nát.
  7. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    mình xin phép up nó lên đầu 1 cái để mọi người cùng đọc
  8. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    HOA NHÀI
    [​IMG]
    * Hoa nhài còn có tên gọi khác như cây hoa lài, là cây thân gỗ thường mọc thành bụi, lá bóng cả hai mặt, phiến lá hình bầu dục hơi trái xoan, mọc đối. Hoa trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây
    Một số bài thuốc Nam thường dùng:
    - Chữa ngoại cảm, phát sốt: Hoa nhài 4 g, chè xanh 10 g, thảo quả 3 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
    - Chữa tiêu chảy: Hoa nhài 6 g, vỏ ổi dộp 8 g, thảo quả 3 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. Uống liên tục 3-5 ngày. Hoặc hoa nhài 10 g, vỏ quả lựu 10 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
    - Chữa mất ngủ: Hoa nhài 10 g, tâm sen 10 g, hạt muồng (quyết minh tử) 12 g (sao đen). Sắc uống ngày một thang chia 3 lần, uống 3-5 ngày liên tục.
    - Chữa nhức đầu, hoa mắt chóng mặt: Hoa nhài 6 g, hoa cúc vàng (kim cúc) 6 g. Hãm uống thay chè.
    - Chữa tăng huyết áp: Hoa nhài 10 g, hoa hòe 10 g, kim cúc 6 g, hoa đại 6 g. Sắc uống ngày một thang.
    - Chữa rôm sảy: Lá nhài 50 g, lá ngải cứu 30 g, lá sài đất 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần. Uống liên tục 3-5 ngày.
    - Chữa mụn nhọt: Hoa nhài 10 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang chia 2-3 lần.
    - Chữa sưng đau do chấn thương: Rễ hoa nhài 12 g, lá thanh táo 12 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang.
  9. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    QUẢ VẢI
    [​IMG]
    * Vải còn gọi là lệ chi, cây vải được trồng nhiều ở nước ta, quả vải thu hoạch vào tháng 5-6, dùng ăn tươi hay sấy khô. Hạt vải (lệ chi hạch) thái mỏng phơi hay sấy khô được dùng làm thuốc.
    Trong hạt vải có tanin, độ tro, chất béo. Theo Ðông y, hạt vải có vị ngọt chát, tính ôn, có tác dụng tán hàn, chữa tiêu chảy ở trẻ em với liều từ 4-8g dưới dạng bột hay sắc uống. Phần áo hạt vải thường gọi là múi vải, thành phần chủ yếu là đường, ngoài ra có vitamin A, B, C; vitamin A và vitamin B chỉ có trong múi vải tươi. Múi vải được dùng để ăn và còn là một vị thuốc trong Ðông y.
    Theo Ðông y, múi vải có vị ngọt chua, tính bình có tác dụng dưỡng huyết, làm hết phiền khát, chữa những bệnh mụn nhọt với liều 10-16g múi vải khô. Ngoài ra người ta còn dùng hoa vải, vỏ thân và rễ cây vải sắc lấy nước dùng súc miệng có thể chữa viêm miệng và đau răng.
    ** Các đơn thuốc dùng múi vải và hạt vải cho một số bệnh sau:
    - Chữa mụn nhọt: Múi vải giã nát với ô mai tạo thành cao đắp lên mụn hoặc lấy 5-7 múi vải giã nát với ít hồ nếp, dàn thành miếng cao dán lên nơi mụn nhọt.
    - Chữa nấc: Vải cả quả đốt thành than, tán bột hòa với nước nóng uống.
    - Chữa đau răng: Vải cả quả thêm ít muối, đốt thành than, nghiền nhỏ, xát vào chỗ răng đau.
    - Chữa tinh hoàn sưng đau: Cách thứ nhất, hạt vải đốt thành than, nghiền nhỏ, hòa với rượu cho uống ngày 4-6g. Cách thứ hai, hạt vải, trần bì, hồi hương, 3 vị bằng nhau, tán nhỏ, ngày uống 4-6g.
    - Có người ăn quả vải sau đó bị nôn nao, nổi mề đay, đau bụng, nôn mửa... Các triệu chứng đó không phải do bản thân quả vải gây ra mà do một loại nấm thường thấy ở những núm quả vải bị dập nát, úng thối gây ra. Vì vậy, người dùng nên cẩn thận, không nên ăn những quả vải đã bị dập nát, thối, hỏng
  10. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Cây lá bỏng
    .[​IMG]
    Cây có tên này vì được dân gian dùng làm thuốc chữa bỏng. Nó còn được gọi là sống đời, lạc địa sinh căn, trường sinh... vì một chiếc lá rụng xuống có thể mọc thành nhiều cây mới.
    Theo Đông y, cây bỏng vị nhạt, hơi chua, tính mát, có tác dụng tiêu sưng, giảm đau, tẩy độc, ra da; thường được dùng chữa vết bỏng, vết thương trầy da loét thịt, viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu, đau mắt đỏ... Có thể dùng lá tươi giã đắp, hoặc giã vắt lấy nước bôi. Lá tươi có thể ăn sống hoặc sắc uống.
    Một số bài thuốc Nam thường dùng:
    - Chữa mụn nhọt chưa có mủ: Lá thuốc bỏng 30 g, lá táo 20 g, lá đại 15 g. Tất cả giã nhỏ, đắp chỗ đau, ngày 1-2 lần.
    - Chữa đi lỵ và bệnh trĩ: Lá thuốc bỏng và rau sam mỗi vị 5-6 g nhai sống hay sắc uống. Nếu lòi dom và lở hậu môn thì nấu nước bồ kết ngâm rửa và giã lá thuốc bỏng đắp ngoài.
    - Chữa lỵ: Lá thuốc bỏng 40 g, cỏ seo gà 20 g, lá mơ lông 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang.
    - Chữa đi ngoài ra máu: Lá thuốc bỏng 30 g, lá trắc bá 10 g sao cháy, cỏ nhọ nồi 10 g, ngải cứu sao cháy 10 g. Sắc uống ngày một thang.
    - Chữa viêm tai giữa cấp tính: Lá thuốc bỏng giã nát, vắt lấy nước nhỏ vào tai.
    - Chữa viêm loét dạ dày: Lá thuốc bỏng ăn sống mỗi ngày 40 g.
    - Chữa nôn ra máu (do bị đánh, bị thương): 7 lá thuốc bỏng giã nát, thêm rượu và đường vào uống trong ngày

Chia sẻ trang này