1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bạn đã có kiến thức về chăm sóc sức khoẻ bản thân chưa ??? (Những cây thuốc xung quanh chúng ta)

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi binhnguyengiatrang, 01/11/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Cây hoa hướng dương
    [​IMG]
    Tên khác: Còn gọi là hướng dương quỳ tử, thiên quỳ tử, quỳ tử, quỳ hoa tử.
    Tên khoa học: Helianthus annuus L. thuộc họ Cúc Asteraceae.
    Phân bố: Cây có nguồn gốc từ Mexico, hiện tại được trồng khắp nơi ở nước ta.
    Mô tả: Hướng dương là loài cây thảo sống 1 năm, thân to thẳng có lông cứng, thường có đốm, cao 1-3m. Lá to, thường mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình trứng đầu nhọn, phía dưới hình tim, mép có răng cưa, hai mặt đều có lông trắng. Cụm hoa đầu lớn, đường kính 7-20cm, bao chung hình trứng; Hoa hình lưỡi, ngoài màu vàng; các hoa lưỡng tính ở giữa màu tím hồng. Cây ra hoa vào mùa đông, mùa xuân, có quả vào tháng 1-2.
    Tránh nhầm lẫn: Theo sách Từ điển cây thuốc VN: Ở nước ta còn có loài "Hướng dương dại" (còn gọi là "sơn quỳ", tên khoa học là Tithonia diversifolia (Hemsl.) A. Gray., cùng thuộc họ Cúc; cũng là loài cây gốc nhiệt đới châu Mỹ. Cây được nhập trồng, hiện nay mọc hoang dại ở nhiều nơi, từ đồng bằng tới vùng núi, thường thấy ở dọc các đường đi, bãi hoang... Hướng dương dại thường được dùng làm phân xanh, một số nơi lấy lá xát trị ghẻ.
    Thành phần hóa học
    Theo Hiện đại dưỡng sinh bảo kiện trung dược từ điển:
    Hàm lượng dầu béo trong hạt hướng dương khoảng 50%, trong đó linolenic acid chiếm tới 70%. Còn chứa các phospholipid như lecithin, phosphatidylinositol, phosphatidylethanolamine.
    Hàm lượng protein khoảng 20-26%, trong đó các acid amin thiết yếu isoleucine, leucine, lysine, methionine, phenylamine, tryptophan, threonile, valine có tỷ lệ phần trăm gần giống tỷ lệ lý tưởng do WHO kiến nghị, do đó có giá trị dinh dưỡng tương đối cao.
    Ngoài ra còn có các acid hữu cơ như citric acid, tartaric acid, chlorogenic acid, quinic acid, caffeic acid; beta caroten, nhiều loại vitamin và nguyên tố vi lượng. Ðặc biệt, vitamin E có hàm lượng rất cao trong hạt hướng dương (trong 15g có tới 31mg); Hàm lượng Ka-li (K) trong hạt hướng dương còn cao hơn trong chuối tiêu và quít.
    Tác dụng
    Theo Hiện đại dưỡng sinh bảo kiện trung dược từ điển:
    1. Thí nghiệm trên động vật cho thấy, phosphatide trong hạt hướng dương có tác dụng dự phòng đối với chứng cao mỡ máu cấp tính và chứng tăng cholesterol máu mạn tính; nhưng tác dụng điều trị không rõ ràng.
    2. Linolenic acid trong hạt hướng dương có tác dụng chống hình thành huyết khối đối với chuột thí nghiệm, do tăng cường sự hợp thành prostaglandin E nên ức chế sự bám dính tiểu cầu.
    3. Một bộ phận lipoprotein trong hạt hướng dương có chứa những thành phần ức chế tinh hoàn; sử dụng làm nguồn đạm nuôi chuột trong 3 tháng, thấy tinh hoàn teo lại.
    Toàn bộ các bộ phận của cây hướng dương đều được dùng làm thuốc.
    Theo Ðông y: Hạt hướng dương có vị ngọt, tính bình, không độc. Tác dụng tư âm bổ hư, ninh tâm an thần, chỉ lỵ, thấu chẩn. Dùng chữa tinh thần uất ức, thần kinh suy nhược, chán ăn, đau đầu do suy nhược, đi lỵ ra máu, sởi không mọc được.
    Công dụng của các bộ phận khác (theo Trung dược đại từ điển):
    - Vỏ hạt có có thể dùng để chữa tai ù.
    - Hoa hướng dương có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Dùng chữa đầu choáng váng, mặt sưng phù, còn dùng để thúc sinh cho phụ nữ.
    - Khay hạt hướng dương (còn gọi là quỳ phòng, hướng nhật quỳ hoa thác, hướng nhật quỳ hoa bàn) có tác dụng chữa đầu đau, mắt hoa, răng đau, đau dạ dày và bụng, phụ nữ thống kinh, sưng đau lở loét.
    - Lá có tác dụng tăng cường tiêu hóa và chữa cao huyết áp.
    - Lõi thân cành (còn gọi là hướng nhật quỳ ngạnh tâm, hướng nhật quỳ kinh tâm, hướng nhật quỳ nhương) có tác dụng chữa tiểu tiện xuất huyết, tiểu dưỡng chấp, sỏi đường tiết niệu, tiểu tiện khó khăn.
    - Rễ cây hướng dương có tác dụng chữa ngực, sườn và vùng thượng vị đau nhức, thông đại tiểu tiện, chữa đòn ngã chấn thương, mụn nhọt lở loét chảy nước vàng.
    Ứng dụng
    - Chữa ho gà: Dùng lõi thân và cành cây hướng dương 15-30g, giã nát, hãm nước sôi, thêm đường trắng và uống trong ngày (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa cao huyết áp: Dùng lá hướng dương khô 30g (hoặc 60g lá tươi), thổ ngưu tất 30g, sắc nước uống thay trà trong ngày (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa mắt mờ (nhãn mông): Dùng đế hạt hướng dương luộc với trứng gà, ăn trứng gà và uống nước thuốc (Giang Tây Thảo dược thủ sách).
    - Chữa tai ù: Dùng vỏ hạt hướng dương 15g, sắc nước uống thay trà trong ngày (Dân gian thường dụng thảo dược hối biên).
    - Chữa thượng vị đau tức do ăn không tiêu: Dùng rễ cây hoa hướng dương, hạt mùi, tiểu hồi hương; mỗi vị 6-10g, sắc nước uống (Tứ Xuyên trung dược chí).
    - Chữa đau dạ dày, đau bụng: Dùng khay hạt hướng dương 1 cái, dạ dày lợn 1 cái, nấu canh ăn (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa kiết lỵ đại tiện xuất huyết: Dùng hạt hướng dương (đã bóc vỏ) 30g, hãm nước sôi trong 1 tiếng, pha thêm chút đường phèn uống trong ngày (Phúc Kiến dân gian thảo dược).
    - Chữa đại tiện không thông: Dùng rễ cây hoa hướng dương, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa thêm chút mật ong uống; Mỗi lần uống 15-30g, ngày uống 2-3 lần (Tuyền Châu bản thảo).
    - Chữa tiểu nhỏ giọt, ********* đau buốt: Dùng rễ cây hoa hướng dương tươi 30g sắc với nước uống. Chú ý: chỉ đun sôi một vài phút, không nấu quá lâu sẽ mất tác dụng. Hoặc dùng lõi thân và cành cây hướng dương 15g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong nhiều ngày (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa sán khí - tinh hoàn sưng đau: Dùng rễ cây hoa hướng dương 30g, sắc với đường đỏ uống (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa sỏi thận, sỏi đường tiết niệu: Dùng lõi thân cành cây hướng dương một đoạn khoảng 1 mét, cắt ngắn, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong một tuần (Tô Y Trung thảo dược thủ sách).
    - Chữa tiểu dưỡng chấp: Dùng lõi thân và cành cây hướng dương một đoạn khoảng 60cm, rễ rau cần cạn 60g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong nhiều ngày (Tô Y Trung thảo dược thủ sách).
    - Tuyến tiền liệt phì đại (dạng nhiệt tích ở hạ tiêu): Dùng khay hạt hướng dương 1 cái, mật ong lượng thích hợp. Khay hạt thái nhỏ, sắc hai nước, trộn nước đầu và nước hai, thêm mật ong vào cho đủ ngọt. Uống thay trà trong ngày (Thực vật dược dụng chỉ nam).
    - Chữa phụ nữ trước hoặc trong lúc hành kinh bụng dưới đau tức: Dùng khay hạt 30-60g, sắc lấy nước, hòa thêm đường đỏ uống trong ngày (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Chữa viêm tuyến vú: Dùng khay hạt hướng dương, bỏ hết hạt, thái nhỏ, sao vàng, tán thành bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 9-15g, hòa với rượu hoặc nước sôi, khi uống lần thứ nhất ra mồ hôi mới có kết quả (Trung dược đại từ điển).
    - Chữa ung nhọt sưng tấy, lở loét: Dùng khay hạt thiêu tồn tính, nghiền thành bột mịn, hòa với dầu vừng bôi vào chỗ bị bệnh (Giang Tây thảo dược thủ sách).
    - Ngoại thương xuất huyết: Dùng lõi thân và cành cây hướng dương giã nát, đắp vào chỗ chảy máu (Nội Mông Cổ, Trung thảo dược tân y liệu pháp tư liệu tuyển biên).

    - Chữa đau răng:

    (1) Dùng hoa hướng dương phơi hoặc sấy khô, nhồi vào tẩu thuốc lá hoặc nõ điếu cày, hút như thuốc lá hoặc thuốc lào (Dân gian nghiệm phương tuyển biên).
    (2) Dùng khay hạt hướng dương, rễ câu kỷ tử; mỗi thứ 10-15g, luộc với trứng gà, ăn trứng gà và uống nước thuốc (Giang Tây thảo dược thủ sách).
  2. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Cây dâu
    [​IMG]
    Cây dâu trước kia được nhân dân ở nhiều vùng nước ta trồng rất nhiều để chăn nuôi tằm, lấy tơ dệt vải. Ngoài ra dâu còn được dùng làm thuốc chữa bệnh, chất mỹ phẩm bảo vệ da, trái dâu ngâm rượu làm thức uống khai vị.
    Tên khoa học: Morus alba L.
    Tên khác: Mạy môn (dân tộc Thổ); Dâu cang (dân tộc Mèo); Tầm tang.
    Bộ phận dùng
    Sử dụng toàn bộ cây dâu, gồm lá, vỏ, rễ, thân cây và trái dâu.
    Dâu có nhiều tác dụng tốt trong việc chữa bệnh, chưa thấy có phản ứng phụ nào, nhất là trong các sản phẩm bảo vệ da.
    - Lá dâu gọi là Tang diệp (Folium Mori).
    - Vỏ rễ cây dâu gọi là Tang bạch bì (Cortex, Mori radicis).
    - Quả dâu gọi là Tang thầm (Fructus Mori).
    - Cây mọc ký sinh trên cây dâu gọi là Tang ký sinh (Ramulus loranthi).
    - Tổ bọ ngựa trên cây dâu gọi là Tang phiêu tiêu (Ootheca mantidis).
    - Sâu dâu: Con sâu nằm trong thân cây dâu, vốn là ấu trùng của một loại xén tóc.
    - Cây dâu có thể cao 10-15m nếu không thu hái thường xuyên. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hoặc hơi tù. Phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, mép có răng cưa to. Từ cuống lá tỏa ra 3 gân rõ rệt. Hoa đực mọc thành bông, có lá đài, 4 nhị (có khi 3). Hoa cái cũng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả mọc trong các lá đài, màu đỏ, sau đen sẫm, ăn được, còn dùng làm thuốc hoặc ngâm rượu để uống, mùi thơm, vị chua ngọt.
    Các bài thuốc từ cây dâu:
    - Tang bạch bì, tang diệp dùng làm thuốc lợi tiểu trong bệnh thủy thũng, chữa ho lâu ngày, băng huyết, hen phế quản, ho có đờm, sốt, cao huyết áp, giúp sáng mắt. Liều dùng hàng ngày từ 6-18g dưới dạng sắc hay thuốc bột.
    - Tang thầm (quả dâu): Bổ thận, chữa mất ngủ, giúp ăn ngon.
    - Tang phiêu tiêu: Chữa bệnh đường tiết niệu, di tinh, trẻ đái dầm.
    - Sâu dâu: Chữa đau mắt. Liều từ 6-12g, cách uống như trên.
    Chữa ho ra máu: Tang bạch bì 600g ngâm nước vo gạo trong 3 đêm, tước nhỏ. Cho vào 250g gạo sao vàng, tán nhỏ, trộn đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g, chiêu bằng nước cơm.
    Ho lâu năm: Lấy vỏ rễ cây dâu trộn thêm vỏ rễ cây chanh, mỗi thứ 10g, sắc uống trong ngày.
    Chữa động thai, đau bụng: Tang ký sinh 60g, dao (hoặc cao ban long) nướng thơm 20g, ngải diệp 20g, nước 3 bát (600ml) sắc còn 1 bát (200ml). Uống nhiều lần trong ngày.
    Tóc không mọc, tóc bạc: Quả dâu ngâm nước, lọc lấy nước xoa vào đầu.
    Ðặc biệt đối với rụng tóc: Tang bạch bì (vỏ rễ cây dâu) giã dập nhỏ, đun nước sôi 30 phút, lọc lấy nước gội đầu thường xuyên.
    Ngoài ra dâu còn được dùng nhiều trong các loại mỹ phẩm bảo vệ da, như sữa rửa mặt cho phụ nữ, có tác dụng giúp da tươi tắn và mịn màng.
  3. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    RAU MUỐNG
    [​IMG]. Cây rau muống
    [​IMG]. Hoa rau muống
    Rau muống có hai loại trắng và tía, mỗi loại có đặc tính riêng. Cả hai loại có thể trồng trên cạn hoặc dưới nước. Theo y học cổ truyền, rau muống còn là một vị thuốc có thể chữa được nhiều căn bệnh.
    Công dụng của rau muống theo y học cổ truyền
    Theo y học cổ truyền phương Đông, rau muống có vị ngọt, tính hơi lạnh (nấu chín thì giảm lạnh). Vào các kinh can, tâm, đại trường, tiểu trường. Công dụng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, thông đại tiểu tiện, giải tất cả các chất độc xâm nhập vào cơ thể (nấm độc, sắn độc, cá thịt độc, lá ngón, thạch tín (?), khuẩn độc hoặc do côn trùng, rắn rết cắn. Tên chữ Hán là Úng thái, Không tâm thái, Thông thái... Tên khoa học Ipomoea aquatica Forsk, thuộc họ Khoai lang Convolvulaceae.
    Một số cách dùng cụ thể
    Rau muống có nhiều tính năng và tác dụng trong việc phòng và chữa bệnh. Xin giới thiệu một số công dụng cụ thể sau:
    - Thanh nhiệt giải độc mùa hè: Luộc rau muống đúng cách (nước sôi cho ít muối, để sôi lại mới cho rau vào đảo đều), bấm cuống thấy mềm, vớt ra rổ thưa, rải rời cho ráo nước. Chấm tương hoặc nước mắm chanh ớt ăn với cà pháo muối nén. Nước luộc để nguội vắt chanh. Đây là một món ăn bài thuốc dùng cho bà mẹ có thai thiếu sắt, bà mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, người táo bón, tiểu đục, huyết áp cao, nhịp tim nhanh, phòng còi xương cho trẻ (lấy nước luộc rau muống nấu bột).
    - Thanh nhiệt, lương huyết, cầm máu, chữa tâm phiền, chảy máu mũi, lưỡi đỏ rêu vàng, khát nước mát, ù tai chóng mặt: Rau muống 150g, Cúc hoa 12g, nước vừa dùng, đun sôi lửa to 20 phút. Lọc lấy nước uống. Có thể cho thêm chút đường.
    - Đau đầu trong trường hợp huyết áp cao: Khi luộc rau muống cho thêm ít giấm (tuy nhiên không thể dùng thường xuyên, lâu dài để chữa bệnh cao huyết áp thay thuốc đặc hiệu).
    -Chứng kiết lỵ thường xảy ra vào mùa hè thu, ban đầu bị tiêu chảy do thấp nhiệt, sau chuyển sang kiết lỵ - phân có chất nhầy, màu đỏ trắng, đau thắt bụng. Lấy 400g cọng rau muống tươi, thêm một ít vỏ quýt khô để lâu (trần bì) nấu với nhiều nước, để lửa nhỏ trong vài giờ rồi uống.
    - Đau dạ dày, nóng ruột, ợ chua, miệng khô đắng: Rau muống 20g, rau má 20g, rau sam 16g, cỏ mực 20g, vỏ quýt khô 12g. Tất cả sao qua, cho vào ấm, đổ 500ml nước, sắc còn 250ml, chia 2 lần uống lúc đói.
    - Say sắn, ngộ độc sắn (khoai mì): Dùng một nắm rau muống rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống. Hoặc lấy 100g rau muống cắt đoạn, cám gạo tẻ 50g, trộn vào giã nhuyễn, thêm nước cho loãng để uống.
    - Giải các chất độc trong thức ăn (ngộ độc thức ăn): do không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và ngộ độc lá ngón, thạch tín (?). Giã rau muống tươi lấy nước cốt uống ngay. Đây là kinh nghiệm dân gian đã được ghi lại trong nhiều sách thuốc. Ngày nay, ta chỉ nên dùng phương pháp này để sơ cứu tức thời nhằm hạn chế độc tính, sau đó phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu tích cực vì những chất nói trên rất độc và dễ gây tử vong.
    - Các chứng bệnh chảy máu như chảy máu cam, ho nôn ra máu; Tiêu tiểu ra máu, trĩ, lỵ ra máu... Giã rau muống, uống nước cốt hoặc thêm đường hay mật ong.
    - Sản phụ khó sinh: Giã rau muống lấy nước cốt hòa ít rượu cho uống.
    - Khí hư bạch đới: Rau muống cả rễ 500g; Hoa dâm bụt trắng 250g hầm với thịt heo hoặc thịt gà, ăn thịt uống nước.
    - Phù thũng toàn thân do thận, bí tiểu tiện: Rau muống 1 nắm, râu ngô 12g, rễ tranh 12g; Sắc nước uống một lần. Hoặc rau muống 1 bó, rửa sạch, thái nhỏ. Gà vàng (lông vàng, chân vàng, da vàng) một con làm sạch, bỏ lòng, nhồi rau muống vào, hầm nhừ, thêm ít rượu. Khi chín bỏ rau ăn thịt gà. Ăn độ 3 con. Trong sách có dặn cố gắng làm sạch nhưng hạn chế rửa nhiều nước.
    - Đái tháo đường: Rau muống 60g, râu ngô 30g. Nấu nước uống (Dùng rau muống tía tốt hơn rau muống trắng).
    - Quai bị: Rau muống 200-400g luộc kỹ, ăn cả rau lẫn nước. Có thể pha đường vào nước rau.
    - Chứng đẹn trong miệng hoặc lở khóe miệng ở trẻ em: Rau muống tươi 100g, củ hành lá 50g, nấu canh, nêm muối vừa ăn.
    - Lở ngứa, loét ngoài da, zona (giời leo): Ngọn rau muống và lá cây vòi voi rửa thật sạch với ít nước muối, giã nhuyễn đắp lên vết thương.
    - Rắn giun (loài rắn chỉ bằng con giun đất), ong cắn: Lấy rau muống tía 7 cái (?) giã nhuyễn, vắt nước uống, bã đắp vào vết cắn.
    - Rôm sẩy, mẩn ngứa; Sởi, thủy đậu ở trẻ em: Dùng nước nấu rau muống xoa, rửa, tắm.
    Có một tài liệu còn đề cập đến công dụng phòng chữa liệt dương của rau muống. Phải chăng là do vai trò của các acid amin trong rau muống tạo ra, chẳng hạn Arginine với tác dụng tăng NO nội sinh?
    Liên hệ Tây y, vì rau muống giàu caroten, vitamin C, sắt và calci nên ta có thể dùng rau muống khi bị thiếu các chất này.
    Những trường hợp dùng rau muống phải thận trọng
    - Huyết áp thấp; Huyết áp cao, nhịp tim chậm.
    - Suy nhược nặng, hư hàn.
    - Với vết thương, mụn nhọt đang trong quá trình lành, rau muống có thể làm sẹo lồi xấu.
    - Đang uống thuốc Đông y, nếu ăn rau muống sẽ làm giã thuốc, nhất là khi trong thuốc có vị độc cần thiết để chữa bệnh (độc trị độc) và sẽ làm giảm hiệu quả điều trị.
  4. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    NHÂN SÂM
    ( Radix Ginseng) ( phần 1)

    [​IMG]

    Nhân sâm ( Radix Ginseng hay Radix ginseng Sylvestris) là rễ chế phơi sấy khô của cây Nhân sâm ( Panax ginseng C.A.Mey). Có hai loại Nhân sâm:
    Nhân sâm trồng gọi là Viên sâm ( Panax ginseng C.A.Mey forma sativum Chao et Shih.).
    Nhân sâm mọc hoang gọi là Sơn sâm ( Panax Ginseng C.A.Mey forma sylvestre Chao et Shih.).
    Nhân sâm dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh.
    Tính vị qui kinh:
    Vị ngọt hơi đắng, hơi ôn, qui kinh Tỳ Phế.
    Theo các sách cổ:
    Sách Bản kinh: vị ngọt hơi hàn.
    Sách Danh y biệt lục: hơi ôn, không độc.
    Sách Bản thảo bị yếu: thuốc sống ngọt, đắng, hơi lương; thuốc chín ngọt ôn.
    Về qui kinh:
    Sách Bản thảo diễn nghĩa bổ di: nhập thủ thái âm kinh.
    Sách Bản thảo hội ngôn: nhập phế tỳ.
    Sách Dược phẩm hóa nghĩa: nhập tỳ vị phế kinh.
    Thành phần chủ yếu:
    Panaxatriol, panaxadiol, other panoxisdes, panaquilon, panaxin, gensenin, a-panaxin, proto-panaxadiol, protopanaxtriol, panacene, panaxynol, panaenic acid, panose, glucose, fructose, maltose, sucrose, nicotinic acid, riboflavin, thiamine.
    Tác dụng dược lý:
    A.Theo Y học cổ truyền:
    Nhân sâm có tác dụng: đại bổ nguyên khí, bổ tỳ ích phế, chỉ khát, an thần, tăng trí. Chủ trị các chứng khí hư dục thóat, mạch vi dục tuyệt, tỳ khí phế khí hư nhược, tân dịch tổn thương, chứng tiêu khát, khí huyết hư suy, thần chí rối loạn, dương nuy.
    Theo các sách thuốc cổ:
    Sách Bản kinh: " bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách, chỉ kinh quí, trừ tà khí, minh mục, khai tâm ích trí".
    Sách Danh y biệt lục: " điều trung, chỉ tiêu khát, thông huyết mạch.".
    Sách Dược tính bản thảo: " chủ ngũ tạng khí bất túc, ngũ lao thất thương, hư tổn, gầy yếu.bảo trung thủ thần, chủ phế nuy."
    Sách Nhật hoa tử bản thảo: " điều trung trị khí, tiêu thực khai vị".
    Sách Y học khôi nguyên dược loại pháp tượng: " bổ nguyên khí chỉ khát sinh tân dịch".
    Sách Bản thảo cương mục: " Nhân sâm bổ phế khí, phế khí vượng thì khí các tạng khác cũng vượng. Nhân sâm đắc Hoàng kỳ, Cam thảo nãi Cam ôn trừ đại nhiệt, tả âm hỏa, bổ nguyên khí.".
    Sách Trấn nam bản thảo: " trị âm dương bất túc, phế khí hư nhược".
    Sách Bản thảo tân biên: " Nhân sâm dùng phối hợp với các thuốc khác như cần thăng đề gia Thăng ma, Sài hồ; cần hòa trung gia Trần bì, Cam thảo; kiện tỳ gia Bạch linh, Bạch truật; an thần gia Viễn chí, Táo nhân; trị ho gia Bạc hà, Tô diệp; tiêu đờm gia Bán hạ, Bạch giới tử; giáng vị hỏa gia Thạch cao, Tri mẫu; thanh âm hàn gia Phụ tử, Can khương; bài độc gia Cầm liên, Chi tử; hạ thực gia Đại hoàng, Chỉ thực".
    B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
    Nhân sâm có tác dụng gia tăng quá trình ức chế và gia tăng vỏ não, làm hồi phục bình thường khi hai quá trình trên bị rối loạn, saponin Nhân sâm lượng nhỏ chủ yếu làm hưng phấn trung khu thần kinh với lượng lớn có tác dụng ức chế.
    Nhân sâm có tác dụng tăng sức lao động trí óc và chân tay chống mỏi mệt, làm tăng hiệu suất hoạt động tư duy và thể lực. Chống lão hóa, cải thiện chức năng của não ở người lớn tuổi, tăng khả năng tập trung trí tuệ, tăng trí nhớ.
    Nhân sâm giúp cơ thể tăng khả năng thích nghi, khả năng phòng vệ đối với những kích thích có hại, Nhân sâm vừa có thể làm hồi phục huyết áp ở cơ thể choáng do mất máu vừa có thể làm hạ huyết áp ở người huyết áp cao, vừa có thể hạ huyết áp ở người huyết áp cao, vừa có thể chống ACTH làm tuyến thượng thận phì đại, vừa có thể chống corticoit làm teo thượng thận.
    Nhân sâm vừa có thể làm hạ đường huyết cao do ăn uống vừa có thể nâng cao trạng thái đường huyết hạ do insulin gây nên.
    Nhân sâm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, tăng cường khả năng thực bào của hệ tế bào võng nội bì, tăng hiệu suất chuyển hóa của tế bào lâm ba và globulin IgM, do đó mà nâng cao tính miễn dịch của cơ thể. Theo tài liệu Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam, những thí nghiệm của Daugolnikol (1950-1952), Brekman và Phruentov (1954-1957) và Abramow (1953) cũng cho biết Nhân sâm có tác dụng tăng cường sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật.
    Lượng ít dịch Nhân sâm làm tăng lực co bóp tim của nhiều loại động vật, nếu nồng độ cao thì giảm lực co bóp của gian sống của súc vật choáng trên thực nghiệm, đối với động vật suy tuần hoàn cấp do mất máu nhiều, thuốc làm tăng cường độ và tần số co bóp của tim, đối với suy tim tác dụng tăng cường tim của thuốc càng rõ.
    Nhân sâm có tác dụng hưng phấn vỏ tuyến thượng thận, các tác giả cho rằng cơ chế là do thông qua vùng dưới đồi và tuyến yên tiết ra chất ACTH làm tăng cAMP của vỏ tuyến thượng thận. Thân và lá của Nhân sâm cũng có tác dụng hưng phấn hệ tuyến yên - vỏ tuyến thượng thận. Nhân sâm có tác dụng kích thích hocmon sinh dục đực cũng như cái.
    Thuốc có tác dụng hạ đường huyết. Đối với thực nghiệm, đường huyết cao ở chó, thuốc có tác dụng cải thiện trạng thái chung và hạ đường huyết.
    Saponin Nhân sâm làm tăng chuyển hóa lipid, tăng cường sự hợp thành sinh vật học cholesterol và lipoprotein trong gan chuột cống thực nghiệm. Nhưng lúc gây mô hình ( cholesterol) cao trên động vật thì Nhân sâm có tác dụng làm hạ. Nhân sâm có thể ngăn ngừa sự phát sinh cholesterol cao ở thỏ, vì vậy mà ngăn ngừa được sự hình thành xơ mỡ động vật.
    Nhân sâm có khả năng làm giảm tác hại của chất phóng xạ đối với hệ nhân tạo.
    Saponin Nhân sâm Rh2 có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư.
    Nhân sâm có tác dụng bảo vệ gan của thỏ và chuột cống, gia tăng chức năng giải độc của gan, Nhân sâm còn có tác dụng nâng cao thị lực và làm tăng khả năng thích nghi của thị giác đối với bóng tối.
    Độc tính của Nhân sâm: cho chuột nhắt uống bột Nhân sâm gây nhiễm độc cấp, LD50 là trên 5g/kg cân nặng, nếu tiêm thuốc vào dưới da chuột nhắt thì liều độc cấp LD50 là 16,5ml/kg, cho chuột nhắt uống Nhân sâm theo liều lượng 100,250, 500mg/kg liên tục trong 1 tháng và theo dõi nhiễm độc bán cấp không thấy gì thay đổi khác thường ở súc vật thực nghiệm. Theo Kixêlev đã tiêm vào dưới da chuột nhắt 1ml dung dịch Nhân sâm 20% thấy sau 10 - 12 giờ chuột chết với trạng thái mất sắc nhưng cho uống thì độc tính rất ít.
    Sau đây là kết quả nghiên cứu Dược lý của Nhân sâm theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt nam:
    Tác dụng trên hệ thần kinh:Từ xưa tại Trung quốc, người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của Nhân sâm; Lý thời Trân trong sách Bản thảo cương mục ( thế kỷ 16) có ghi: Cho 2 người cùng chạy, một người ngậm Nhân sâm, một người không, sau khi chạy độ 3 - 5 dặm, người không ngậm Nhân sâm thở mạnh, còn người ngậm Nhân sâm thở bình thường.
    Trong các năm 1949 - 1951, tại Liên xô Abramôva thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt lội nước, nhận thấy Nhân sâm có tác dụng làm đỡ mệt. Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận Nhân sâm có tác dụng làm hưng phấn thần kinh trung ương dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác so với thuốc Phenamin tốt hơn. Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của Nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau chuyển động của thần kinh, nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh ( Chu Nhan, Chu kim Hoàng, Trung hoa Y học tạp chí 12,1956).
    Tác dụng trên huyết áp và tim: Các nhà nghiên cứu Liên xô Burkrat, Xakhopov (1947) và Kixêlev ( 1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn Nhân sâm kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu của Nhân sâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% Nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì co bóp tim mạch và số lần co bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng Nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật, liều nhỏ tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị.
    Tác dụng trên hệ hô hấp:Năm 1947, Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0,3 - 0,5ml dung dịch Nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy Nhân sâm hưng phấn hô hấp. Một số nhà nghiên cứu Nhật bản và Trung quốc trước đó tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất Ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm acid panax hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.
    Tác dụng đối với chuyển hóa cơ bản:Năm 1922, hai tác giả Nhạt bản Bộ thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột Nhân sâm và chất tan trong cồn của Nhân sâm ( uống và tiêm) đối với bệnh đường huyết cao nhân tạo trên thỏ đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ đường huyết. Năm 1954 và 1956, một số tác giả Trung quốc cũng xác nhận tác dụng hạ đường huyết của Nhân sâm. Trên lâm sàng Khâu trần Ba ( 1955) nhận thấy nếu dùng Nhân sâm chung với Insulin thì có thể giảm bớt được Insulin, thời gian hạ đường được kéo dài và chữa được bệnh.
    Tác dụng đối với sự sinh trưởng của động vật ( máu lạnh hoặc máu nóng côn trùng):Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng Nhân sâm hoặc các chất lấy từ Nhân sâm trên một số động vật so sánh với số không dùng Sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian ******** của con vật kéo dài, hiện tượng ******** xuất hiện rõ rệt.
    Tác dụng với sức chống đỡ bệnh tật:Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950-1952) , Brekhman và Phruentov ( 1954 - 1957) và Abramow (1953) cho biết Nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với bệnh tật. Theo bài Tình hình nghiên cứu dược lý Nhân sâm dăng trên Tập san Dược học học báo 12,477-484,1965.cho biết Nhân sâm có tác dụng phòng chữa bệnh lóet dạ dày và viêm cơ tim trên thực nghiệm.
    Ứng dụng lâm sàng:
    (Theo Y học Cổ truyền Việt Nam)
  5. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    NHÂN SÂM (phần 2)
    ( Radix Ginseng)
    [​IMG]
    1.Dùng Nhân sâm điều trị cấp cứu trong trường hợp bệnh nguy kịch ( Đông y cho là chứng Vong âm vong dương): khí thóat, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, mạch trầm vi tế hoặc trường hợp chảy máu nhiều, gây chóang ( suy tuần hoàn cấp), dùng Nhân sâm để ích khí cứu thóat, hồi dương cứu nghịch, tùy tình hình chọn các bài:
    Độc sâm thang: Nhân sâm 4 - 12g, chưng cách thủy cho uống, nên uống nhiều lần.
    Sâm phụ thang: Nhân sâm 3 - 6g, Phụ tử chế 4 - 16g, sắc uống 6 lần. Đối với trường hợp dương hư chân tay lạnh ( choáng trụy tim mạch) cần thực hiện Đông tây y kết hợp cấp cứu.
    Cấp cứu trẻ sơ sinh trạng thái nguy kịch: mỗi ngày dùng Hồng sâm thái mỏng 3 - 5g ( tương đương 1g/1kg cân nặng/ 1ngày) cho nước 40 - 50ml chưng 30 phút cho uống cứ 3 giờ 1 lần ( nhỏ giọt vào mồm hoặc cho bằng ống sonde qua mũi), mỗi lần 5ml, 1 liệu trình 4 - 6 ngày dài là 10 ngày có phối hợp Tây y cấp cứu, theo dõi 10 ca đều khỏi, thường sau 2 - 3 lần uống Sâm, các triệu chứng đều được cải thiện trên lâm sàng ( Vương Xích Mai và cộng sự). Theo dõi lâm sàng 30 ca trẻ sơ sinh điều trị bằng nước chưng Hồng sâm ( Tạp chí nghiên cứu Trung thành dược 1987,7:34).
    Dùng Hồng sâm 30g sắc nước cho uống liên tục đồng thời châm Bách hội, 2 kim hướng trước sau, cấp cứu 10 ca choáng do mất máu có tác dụng nâng áp (Tào thuận Minh, Điều trị choáng Tạp chí Trung y 1987,4:13).
    Dùng Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị chế thành thuốc tiêm Sinh mạch (hàm lượng mỗi ml có 0,57g thuốc sống, mỗi lần tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch 2 - 4ml có kết quả tốt đối với nhồi máu cơ tim và chóang do tim ( Y viện Ma khai, Thiên tân, Dịch tiêm Sinh mạch tứ nghịch, Thông tin Trung thảo dược 1972,4:21).
    2.Trị chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy kéo dài do tỳ vị hư nhược, dùng phối hợp với Bạch truật, Bạch linh.
    Tứ quân tử thang: Nhân sâm 4g, Bạch truật 12g, Bạch linh 12g, Cam thảo 4g, sắc uống.
    3.Trị các loại bệnh phổi như hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, tâm phế mạn, dùng bài:
    Nhân sâm định suyễn thang: Nhân sâm 8g ( gói sắc riêng), Thục địa 20g, Thục phụ phiến 12g, Hồ đào nhục 16g, Tắc kè 8g, Ngũ vị tử 8g, sắc uống.
    Nhân sâm Hồ đào thang: Nhân sâm 4g, Hồ đào nhục 12g, saüc uống trị chứng hư suyễn.
    4.Trị bệnh cảm ở người vốn khí hư dùng bài:
    Sâm tô ẩm ( cục phương): Nhân sâm 4g (sắc riêng), Tô diệp 12g, Phục linh 12g, Cát căn 12g, Tiền hồ 4g, Bán hạ ( gừng chế) 4g, Trần bì 4g, Chỉ xác 4g, Cát cánh 4g, Mộc hương 3g ( cho sau), Cam thảo 3g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 2 quả, sắc uống nóng cho ra mồ hôi.
    5.Trị chứng thiếu máu: dùng các bài bổ huyết như Tứ vật thang, Đương qui bổ huyết thang, gia thêm Nhân sâm kết quả tốt hơn.
    6.Trị tiểu đường: thường dùng các thuốc tư bổ thận âm như: Thục địa, Kỷ tử, Thiên môn, Sơn thù nhục, dùng bài:
    Tiêu khát ẩm: Cát lâm sâm 8g ( sắc riêng), Thục địa 24g, Kỷ tử 16g, Thiên môn đông 12g, Sơn thù nhục 12g, Trạch tả 16g, sắc uống.
    Dùng độc vị Nhân sâm uống, theo báo cáo dùng cao lỏng Nhân sâm mỗi lần uống 0,5ml ngày 2 lần, liệu trình tùy tình hình bệnh, nếu bệnh nhẹ kết quả rõ, có thể làm hạ đường huyết 40 - 50mg% ngưng thuốc có thể kéo dài thời gian ổn định trên 2 tuần, đối với thể trung bình tác dụng hạ đường huyết không rõ nhưng triệu chứng chung được cải thiện như khát nước giảm, đỡ mệt mỏi ( Vương Bản Tường, kết quả nghiên cứu Dược lý Nhân sâm - Dược học học báo 1965,7:477, Ứng dụng lâm sàng vị Nhân sâm Y học Cát lâm 1983,5:5).
    7.Trị liệt dương: Báo cáo dùng Nhân sâm trị 27 ca, chức năng tính dục được hồi phục hoàn toàn 15 ca, 9 ca chuyển biến tốt, 3 ca không kết quả. Ngoài ra dùng uống nước chiết xuất 500mg mỗi ngày dùng để trị các trường hợp: Liệt dương , tảo tiết, phóng tinh yếu, tính dục giảm đều có kết quả nhất định ( Vương Bản Tường, Ứng dụng lâm sàng vị Nhân sâm, Cát lâm Y học 1983,5:54).
    8.Trị cao huyết áp và xơ mỡ động mạch: Các tác giả Liên xô dùng cồn 20% Nhân sâm, mỗi lần 20 giọt, ngày 2 lần, đối với các chứng huyết áp cao, xơ mỡ động mạch, đau thắt tim, thần kinh tim và hở van tim, đều có kết quả nhất định như cảm giác dễ chịu, bớt khó thở, bớt đau thắt tim, bớt đau đầu, ngủ tốt, điện áp sóng T và R được nâng cao. ngưng thuốc 6 - 9 tháng, bệnh tình vẫn ổn định ( Vương Bản Tường, Ứng dụng lâm sàng vị Nhân sâm Cát lâm Y học 1983,5:54).
    Nhân sâm có tác dụng làm giảm mỡ trong máu ở người già nhất là đối với Triglicerid 80% người được thí nghiệm cảm thấy thể lực và trí lực đều tăng, 54% mất ngủ được cải thiện, 40% chứng tinh thần trầm cảm giảm, rối loạn sắc tố da ở người già được cải thiện, bớt rụng tóc.
    9.Dùng trị chứng suy thượng thận ( Addison): do Nhân sâm có tác dụng kháng lợi niệu nên ảnh hưởng tới chuyển hóa của nước muối như Hocmon vỏ thượng thận gluco-cocticoit.
    Theo báo cáo của Vương Bản Tường theo dõi 18 ca, bệnh nhân Addison cho uống cồn chiết xuất thân lá Nhân sâm 20% ( tương đương 0,5g thuốc sống/1ml ); liều 20 - 30ml ngày uống 3 lần và tăng dần liều đến 150 - 300ml mỗi ngày.
    Liệu trình bình quân 121 ngày. Sau điều trị, bệnh nhân lên cân, huyết áp được nâng lên, lực nắm bàn tay mạnh hơn, đường huyết lên, natri huyết thanh tăng. Thử nghiệm nước cocticoit và ACTH đều được cải thiện, giảm lắng đọng sắc tố ở da, đối với bệnh nhân sớm và ở giai đoạn bù trừ có kết quả tốt, có thể hồi phục khả năng bù trừ, cần dùng kết hợp với cocticoit có giảm liều ( Báo Y học Cát lâm 1983,5:54).
    10.Dùng trị tỳ hư trẻ em: Theo báo cáo của Từ Hỷ Mai dùng Hồng sâm chữa cho 10 trẻ em nằm viện có các triệu chứng đần độn, ra mồ hôi, sắc mặt tái nhợt, vàng bủng. Đã được điều trị theo phác đồ chung gia Hồng sâm theo liều:
    Trẻ em dưới 3 tuổi: Hồng sâm 3g sắc được 30ml.
    Trẻ em trên 3 tuổi: sắc lấy 60ml gia thêm đường mía, chia 2 lần uống trong ngày, một liệu trình 7 - 14 ngày.
    Thuốc có tác dụng làm trẻ em ăn ngon, hết mồ hôi, lên cân, sắc mặt tươi hơn ( theo báo Y dược Trùng khánh 1984,6:41).
    11.Trị bệnh động mạch vành: Theo báo cáo của Dụ Hương Quần dùng Tiểu Hồng sâm chế thành dịch, tiêm hàm lượng 200mg/2ml/1ống; dùng 6 - 10ml thuốc trộn với 40ml gluco 10% tiêm tĩnh mạch, ngày 1 - 2 lần. Tác giả theo dõi 31 ca: Đau thắt tim có kết quả 93,54%, điện tâm đồ được cải thiện 76,66% đối với loạn nhịp tim cũng có tác dụng nhất định ( Báo Y học An huy 1988,3:51).
    12.Trị chứng giảm bạch cầu: Chiết xuất Saponin từ thân, rễ, lá Nhân sâm chế thành viên, mỗi lần dùng 50 - 100mg, ngày uống 2 - 3 lần. Trị 38 ca hạ bạch cầu do hóa liệu, tỷ lệ kết quả 87%, trên súc vật thực nghiệm cũng chứng minh thuốc có tác dụng tăng bạch cầu rõ và có khả năng kích thích chức năng tạo máu ( theo báo nghiên cứu phòng trị Ung thư 1987,3:149).
    13.Trị viêm gan cấp: Theo báo cáo của các học giả Liên xô, uống cao lỏng Nhân sâm có khả năng làm cho chức năng gan hồi phục nhanh hơn và làm giảm khả năng bệnh chuyển thành mạn tính ( theo báo Cát lâm Y học 1983, 5:54).
    Liều lượng thường dùng và chú ý lúc dùng:
    Liều: 3 - 15g có khi dùng đến 40g, tùy loại và mục đích dùng.
    Ví dụ:
    - Dùng làm thuốc bổ trị thiếu máu, trung khí hư hoặc âm hư, dùng Cát lâm sâm 3 - 6g hoặc Sâm Triều tiên 2 - 4g.
    dùng để trị cường tim như trường hợp mất nước, suy tim, lượng
    - Dùng nhiều hơn Cát lâm sâm 12 - 20g, sâm Triều tiên 4 - 8g.
    - Dùng để cấp cứu nguyên khí hư thóat, mất máu nhiều, Cát lâm sâm dùng 20 - 40g, sâm Triều tiên 20 - 30g.
    Trường hợp dùng bình thường để tăng sức thì 5 - 7 ngày uống 1 lần Nhân sâm 6 - 8g là được. Dùng Nhân sâm cần chú ý thể tạng người dùng, nếu là người hàn thì nên dùng phối hợp với thuốc tính ấm như Can khương, nếu là tạng nhiệt thì nên phối hợp với thuốc mát như Mạch môn, Sinh địa. Lúc dùng dạng thuốc sắc nên sắc riêng, nhỏ lửa rồi hòa chung với thuốc uống, dùng dạng bột mỗi lần 0,5 - 1g, ngày 1 - 2 lần.
    Nhân sâm do vùng đất cây mọc, phương pháp bào chế và bộ phận dùng khác nhau mà dược lực có khác. Thường thì Sâm mọc hoang và sống lâu năm là tốt nhất nhưng đắt và hiếm, dùng loại trồng thì có nhiều và rẻ. Sâm mọc ở Cát lâm, Liêu ninh ( Trung quốc) và Sâm Triều tiên là tốt. Hồng sâm tính ôn dùng tốt đối với dương khí hư.

    Lúc dùng Sâm cần chú ý:
    Không dùng Sâm đối với chứng thực nhiệt.
    Theo sách Bản thảo kinh tập chú: thì "Nhân sâm phản Lê lô, ố Tạo giác": không nên cùng dùng.
    Theo sách Dược đối thì: " Nhân sâm úy Ngũ linh chi" nhưng trong nhiều bài thuốc có hai vị cùng dùng có tác dụng ích khí hoạt huyết không phát hiện gây độc nên sách Dược điển ( Trung quốc) năm 1985 không có cấm dùng chung.
    Theo sách Bản thảo tập yếu ghi: " Nhân sâm úy La bạc" nên trong thời gian uống Nhân sâm, không nên ăn Củ Cải và không nên uống trà để tránh giảm hiệu lực của thuốc. Nếu uống Nhân sâm mà đầy tức bụng, khó chịu có thể dùng La bạc tử giải độc ( La bạc tử sắc uống).
    Lúc dùng Nhân sâm để bớt nóng có thể phối hợp Mạch môn, Sinh địa; để bớt đầy tức thì phối hợp với Trần bì, Sa nhân.
    Nhân sâm rất ít độc: uống cồn Nhân sâm 3% 100ml chỉ cảm giác khó chịu nhẹ, nếu uống 200ml hoặc lượng lớn bột Nhân sâm có thể bị trúng độc, sẽ nổi ban đỏ, ngứa, đau đầu, chóng mặt, sốt và xuất huyết. Xuất huyết là nhiễm độc cấp của Nhân sâm. Ở nước ngoài có báo cáo 1 ca chết vì uống 500ml cồn Nhân sâm và 1 em bé chết do uống nhiều nước sắc Nhân sâm.
    Cuống Nhân sâm ( Nhân sâm lô) không có tác dụng gây nôn như sách cổ đã ghi: có người dùng 1 lần 50g cũng không bị nôn ( Báo Trung y Bắc kinh 1986,1:30). Theo báo cáo của Vương Ngọc Hoa thuộc công ty Dược liệu tỉnh Hà bắc cho những bệnh nhân ở phòng khám mắc các bệnh tiểu đường, liệt dương, huyết áp thấp, mất ngủ, cường giáp, bạch cầu và huyết sắc tố thấp, uống Hồng sâm lô mỗi người mỗi ngày 5 - 10g độc vị hoặc gia vào thang thuốc ngâm rượu, sắc uống, nhai hoặc uống bột, uống liên tục từ 3 - 60 ngày. Đã theo dõi 3500 lần người trong đó có 1500 lần người uống độc vị, tổng lượng mỗi người dùng Sâm lô 100 - 700g mà không có ai nôn, còn những triệu chứng bệnh lý được cải thiện rõ rệt, chứng minh Sâm lô cũng có tác dụng chữa bệnh như Nhân sâm. Nghiên cứu dược lý thực nghiệm cũng chứng minh thành phần hóa học các loại của cả hai đều giống nhau, còn phát hiện hàm lượng các thành phần hóa học ở cuống Sâm lại cao hơn ở rễ Sâm.
    Giới thiệu bài thuốc giải độc Nhân sâm của Lưu trường Giang gồm: La bạc tử 25g, Sài hồ, Hương phụ, Mạch đông, Thiên đông, Ngũ vị tử, Viễn chí, Câu đằng, Cam thảo sống ( mỗi thứ 15g), Đại táo 5 quả, sắc uống ngày 1 thang ( đã dùng trị 61 ca nhiễm độc Nhân sâm đều khỏi - Báo Trung y Giang tô 1988,9:16).
    (Theo Y học Cổ truyền Việt Nam)
  6. 1285ruoitrau

    1285ruoitrau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2006
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    0
    Các bác ơi, cho em hỏi luôn về tác dụng của tỏi với.
    Em rất hay ăn sống lúc đang ăn cơm, với số lượng nhiều. Mọi người bảo ăn như vậy thì bục dạ dày mất. Không biết đây có phải là sự thật không. Mà liều lượng cần dùng là như thế nao, mong mọi người chỉ rõ
  7. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Hôm rồi Mod Box này treo nick mình 1 tuần--->đau.Mình không phụcNh­­­ưng chẳng sao, miễn là vẫn sinh hoạt với mọi người là zui rồi.hôm nay up lên để chào mọi người.
  8. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Gửi bạn 1285ruoitrau!
    Mình có nói đến công dụng của tỏi trong mục này rồi bạn chịu khó đọc tham khảo nhé!Ăn tỏi rất tốt cho sức khoẻ (đặc biệt là tỏi sống), hằng ngày mỗi bữa bạn nên ăn 2-3 nhánh tỏi nhé! nhớ ăn xong phải đánh răng hoặc ăn kẹo cao su để khử mùi nhé ko ế vợ đó
  9. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Mào gà hoa đỏ
    [​IMG]
    Còn có tên gọi là kê quan hoa, mồng gà... Là cây thảo thân đứng, cóp mầu đỏ. Cum hoa xòe ra hình quạt hoặc hình vại, có mầu đỏ. Mọc nhiều nơi trong nước, được nhân dân ta trồng để làm cảnh và dùng hoa, hạt, toàn cây... làm thuốc chữa bệnh.
    Theo Ðông y, mào gà đỏ có vị ngọt, tính mát. Có tác dụng tiêu viêm, cầm máu.
    Một số bài thuốc nam thường dùng trong dân gian:
    Chữa chảy máu cam: hoa mào gà đỏ 20g, hoa hòa 10g, cỏ nhọ nồi 20g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa ho ra máu: hoa mào gà đỏ 15g, lá huyết dụ 20g sao cháy, lá trắc báo 20g, sao cháy, cỏ nhọ nồi 20g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa tiêu chảy: hoa mào gà 10g, vỏ dộp cây ổi 8g, vỏ quả lựu 10g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa rong kinh: hoa mào gà 20g, ngải cứu 20g sao cháy. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa lỵ lâu ngày: hoa mào gà 20g, cỏ seo gà 20g, lá mơ lông 20g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa khí hư: hoa mào gà 20g, rễ cây bấn 20g, bồ công anh 20g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa sốt xuất huyết: hoa mào gà 20g, lá trắc bá sao đen 20g, hoa hòe sao đen 15g, ké đầu ngựa 15g, lá dâu 20g. Sắc uống ngày một thang.
    Chữa viêm đường tiết niệu (đái buốt, đái rắt): hoa mào gà 20g, bồ công anh 20g, mã đề 20g, râu ngô 15g, rau má 20g. Sắc uống ngày một thang.
  10. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    up lên cái để anh em cung tham khảo cho ý kiến

Chia sẻ trang này