1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bạn đã có kiến thức về chăm sóc sức khoẻ bản thân chưa ??? (Những cây thuốc xung quanh chúng ta)

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi binhnguyengiatrang, 01/11/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    Cho mình hỏi về mấy loại cây cỏ:
    - cây nhọ nồi: toàn bị bắt uống lúc bị sôt
    - cây cối xay
    - cây cỏ xước
    - cây lá mắt trâu
    Mấy cây này ngày xưa mình bị sốt hay bị nhiệt đều đc mẹ đi hái về cho uống.
  2. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Nhọ nồi
    [​IMG]
    Tên khoa học: Eclipta prostrata L. họ Cúc (Asteraceae).

    Tên khác: Cỏ mực ?" Hạn liên thảo ?" Yerbadetaja Herb (Anh).
    Bộ phận dùng: Cả cây nhọ nồi bỏ rễ (Herba Ecliptae).
    Đã được ghi vào DĐVN (1983) và DĐTQ (1963) (1997).
    - Mô tả: Cỏ nhọ nồi mọc thẳng đứng, có thể cao tới 80cm, thân đỏ tím có lông cứng, sờ nháp. Lá mọc đối, có lông ở 2 mặt, phiến lá hình mũi mác nhỏ. Hoa tự hình đầu, màu trắng, mọc ở đầu cành hay kẽ lá. Cây vò ra biến thành màu đen hoặc khi bấm có nước màu đen chảy ra nên gọi tên như vậy.
    Cỏ nhọ nồi mọc hoang khắp nơi, trong nước ta, ở những chỗ ẩm thấp.
    -Thu hái chế biến: Thu hái vào mùa hạ, khi lá cây đang tươi tốt, cắt lấy phần trên mặt đất, loại bỏ tạp chất và lá úa, đem phơi khô. Dùng tươi thì thu hái quanh năm.
    Cỏ nhọ nồi ít mùi, vị nhạt, hơi mặn.
    Loại cỏ nhọ nồi khô màu xanh lục, thân dài, lá to, non không lẫn tạp chất là tốt.
    Thủy phần dưới 13p100.
    Tỷ lệ vụn nát (qua cây số 36) dưới 8p100.
    -Thành phần hóa học: Hoạt chất của cỏ nhọ nồi hiện nay chưa rõ. Trong cỏ nhọ nồi có một ít tinh dầu, tanin, chất đắng, caroten và một alcaloid gọi là Ecliptin. Có tài liệu ghi là có nicotin và một chất gọi là wedelolacton.
    -Công dụng: Theo Đông y, hạn liên thảo vị ngọt chua, tính mát, vào 2 kinh Can, Thận.
    Có tác dụng bổ thận âm, khỏe gân xương, là mát máu, cầm máu.
    Dùng chữa các chứng bệnh can thận kém, nôn ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, ỉa đái ra máu, lỵ ra máu, yếu răng, người sớm bị bạc tóc, chảy máu dưới da.
    -Liều dùng: 5 ?" 10g. Sắc uống. Dùng tươi thì giã lấy nước uống. Dùng ngoài da chữa mụn nhọt, sưng tấy, chảy máu, giã đắp lên chỗ đau.
    Thí nghiệm dược láy đã chứng minh tác dụng cầm máu của cỏ nhọ nồi giống như viatmin K, chống lại tác dụng của cumarin, tăng tỷ lệ prothrombin toàn phần, giảm thời gian Quick rõ rệt, tăng trương lực của tử cung góp phần chống chảy máu, nhưng cũng có thể gây sẩy thai, không gây tăng huyết áp, không làm giãn mạch.
    **Lưu ý: Người tỳ, vỵ hư hàn ỉa chảy phân sống không nên dùng.

    Bài thuốc:
    Bài số 1: Toa thuốc căn bản (Viện Y học dân tộc cổ truyền Việt Nam) giải độc, bồi dưỡng cơ thể, điều hòa. Chữa các chứng bệnh người lớn, trẻ em bốn mùa cảm mạo, nóng sốt, nhức đầu, ho hen, ăn không tiêu, gan yếu, táo bón, máu kém lưu thông:
    Rễ cỏ tranh 8g
    Ké đầu ngựa 8g
    Lá mơ tam thể 8g
    Gừng sống 2g

    Rau má 8g
    Củ sả 2g
    Cỏ nhọ nồi 8g
    Vỏ quít 4g
    Cỏ màn trầu 8g
    Cam thảo nam 8g

    Bài số 2: Chữa đái ra máu:
    Cỏ nhọ nồi 30g
    Cả cây mã đề 30g
    Cả 2 thứ còn tươi rửa sạch, giã, ép lấy nước uống (say máy sinh tố), chữa cảm sốt nóng, ho, viêm họng.
    Bài số 3: Chữa phụ nữ chảy máu tử cung:
    Cỏ nhọ nồi 15g
    Lá trắc bá 15g
    Sắc uống.
    Dùng ngoài da: Cỏ nhọ nồi tươi rửa sạch, giã (xay) ép lấy nước (nếu khô thì tán bột), bảo đảm vệ sinh vô trùng: đắp lên vết thương chảy máu do chấn thương.Thợ nề dùng cỏ nhọ nồi tươi xoa xát lên chân tay tránh tác hại của vôi ăn da.
    Bảo quản: Khô, mát, tránh làm nát vụn.

    (Theo sách)

    Ngoài ra còn sử dụng cây nhọ nồi dùng vào việc chữa các bênh khác:
    Chữa khạc ra máu: Lấy 60g cây nhọ nồi, 40 g rễ cỏ tranh cộng với một ít thịt lợn nạc, cho vào nồi ninh nhừ lấy nước uống.

    Chữa chảy máu cam: Cỏ nhọ nồi 20 g, hoa hoè sao đen 20 g, 16 g cam thảo đất, sắc lấy nước uống mỗi ngày một thang.

    Chữa tiêu chảy ra máu: Đặt cây nhọ nồi lên một miếng ngói rồi sấy khô, sau đó cây nhọ nồi đã khô thành bột. Mỗi lần uống 6 g bột nhọ nồi với nước cháo.
    Chữa viêm họng: 20 g nhọ nồi, 20 g bồ công anh, 12 g củ rẻ quạt, 16 g kim ngân hoa, 16 g cam thảo đấy, sắc lấy nước uống. Uống mỗi ngày một thang.
    Chữa sốt cao: 20 g cây nhọ nồi, 20 g sài đấy, 20 g củ sắn dây, 16 g cây cối xay, 12 g ké đầu ngựa, 16 g cam thảo đất, sắc lấy nước uống mỗi ngày một thang.

    Chữa mề đay: Lấy cây nhọ nồi, rau diếp cá, lá xương sông, lá huyết dụ, lá khế, lá dưa chuột, lá nhài, lá cải trời rồi giã nát, cho nước vào rồi vắt lấy nước uống. Bã còn lại dùng để xoa, đắp vào chỗ sưng.

    Chữa mộng tinh: Cây nhọ nồi sấy khô, tán nhỏ, uống mỗi lần 8 g với nước cơm, hoặc dùng 30 g sắc lấy nước uống.

    Chữa sốt xuất huyết nhẹ: Cỏ nhọ nồi, rau sam, sài đất, huyền sâm, mạch môn, ngưu tất, mỗi thứ 15 g sắc lấy nước uống ngày một thang.

    Chữa sốt phát ban: Mỗi ngày sắc 60 g nhọ nồi rồi lấy nước uống. Ngày 1 thang, chia 2 - 4 lần trong ngày.
    Được binhnguyengiatrang sửa chữa / chuyển vào 09:00 ngày 07/03/2007
  3. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0

    VỪNG ĐEN
    - Tên khoa học là Sesamum indicum
    - Tên gọi khác: Vừng là tên gọi ở miền Bắc, miền Nam gọi là mè, ; Đông y gọi là Chi ma, Hồ ma, Hồ ma nhân.
    100g Vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.
    Dầu vừng làm từ vừng trắng ; nó có 40% acid béo nhiều nối đôi, 40% acid béo một nối đôi, 18% acid béo bão hoà. Tỷ lệ 4.4.1 đạt tiêu chuẩn vì yêu cầu lý thuyết là mỗi thứ 1/3, nhưng trong thức ăn hàng ngày thường có acid béo bão hoà ; dầu vừng ít acid béo bão hoà, phối hợp chung thành mỗi thứ 1/3. Như vậy ăn dầu vừng tốt hơn dầu dưà, dầu cọ. Dầu vừng để lâu không bị ôi?" Trước khi chiên rán thức ăn cần để ráo nước vì những hạt nước làm cho dầu bắn tung toé dễ bị phỏng. Để tránh tai nạn, hãy cho vào hạt muối vào chảo dầu, đợi khi muối tan hãy cho thức ăn vào, dầu sẽ không bắn lên nữa. Đây là bí quyết cuả các bà nội trợ, chưa được lý giải thoả đáng.
    Để làm muối vừng, cần rang nóng cho thơm rồi gĩa vỡ hạt vừng, dầu vừng ứa ra sẽ thơm ngon hơn, tuy nhiên ca dao lại có câu:
    "Vò thì vò đỗ vò vừng,
    Như đây với đó xin đừng vò nhau.
    "
    100mg Vừng đen sinh 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g lipid, 18g glucid, 780ng photpho, 620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin, phytin, cholin.
    Đông y dùng Vừng đen làm thuốc. Nó có vị ngọt, tính bình, không độc. Nó có tác dụng bổ ích can thận, dưỡng huyết, khu phong, nhuận tràng, bổ ngũ tạng, tăng khí lực, làm sáng mắt, phát triển bắp thịt, bổ ích tinh tủy. Mặc dù phân tích hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận nên vừng đen bổ thận.
    Y học dân gian cho rằng nước sắc lá và rễ vừng đen bôi lên đầu làm tóc mọc tốt và đen hơn.
    Hoa vừng đen vò nát đắp lên mắt làm dịu sưng đỏ.
    Hạt vừng được dùng làm nhiều ?oMón ăn-bài thuốc?:
    1- Đơn giản nhất là món Cháo mè đen ghi trong Thọ thân dưỡng lão tân thư. Cháo này thơm ngon, ngọt bùi. Nó là món ăn bổ dưỡng với dủ ba nhón thực phẩm chính là protein, lipid, glucid. Cháo này ghi trong sách Thọ thân dưỡng lão tân thư với lý do:
    ·Người gìa yếu răng, nuốt hay bị sặc, ăn cháo thật hợp lý.
    ·Vừng đen quân bình các chất bổ dưỡng
    ·Người gìa âm suy, tân dịch suy giảm.Vừng đen bổ âm, sinh tân dịch.
    ·Người gia thường bị táo bón, vừng làm phân trơn nhuận do bổ âm và có chất dầu, nghĩa là trị táo bón cả gốc lẫn ngọn. (xemgiải thích ở đoạn dưới)
    2- Chè mè đen gồm mè đen, bột sắn dây, đường. Bài này bổ âm, giải nhiệt.
    3- Tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu. Giản tiện hơn là luộc lá dâu non rồi chấm với vừng. Đây là bài thuốc bổ âm an toàn và công hiệu. Món ăn này nhuận trường êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc nhuận trường kích thích (lô hội = đảm nha, rễ Nhàu, Muồng?). Táo bón có nhiều nguyên nhân:
    ·Thực phẩm thiếu chất xơ
    ·Gan tiết ít mật
    ·Ruột lười hoạt động, ít hoạt động cơ bắp.
    · Không có thói quen đi cầu hàng ngày
    ·Âm suy, cơ thể khô ráo.
    Thuốc nhuận trường kích thích làm ruột co bóp ; dùng dài hạn có thể bị lờn. Điều nên làm là thay đổi thực đơn và tăng cường rau quả, vận động nhiều hơn, bổ âm và tân dịch. Tang ma hoàng nhuận trường với cơ chế:
    ·Cả hai đều bổ âm, sinh tân dịch
    ·Chất dầu cuả vừng làm phân trơn nhuận.
    ·Dầu vừng làm tăng tiết mật.
    ·Lá dâu kích thích nhu động ruột, làm cho phân không đóng tảng.
    ·Bài này trị bệnh táo bón cả gốc lẫn ngọn.
    Một số tài liệu ghi rằng bài này trị được cao huyết áp,nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại..đó là những chứng do âm hư và can thận hư.
    4- Cháo mè-khoai mỡ làm giảm cholesterol và ngưà xơ động mạch với cơ chế sau đây:
    ·Khoai mỡ khoá hoạt tính cuả cholesterol trong mật và thực phẩm để bài xuất theo phân.
    ·Mè đen kích thích gan tiết mật, giảm cholesterol-huyết.
    ·Bệnh tim mạch có nguồn gốc sâu xa là âm suy. Mè đen và khoai mỡ đều bổ âm.
    4- Tăng tiết mật, ngưà sỏi mật.
    * Dầu mè làm tăng tiết mật.
    ·Licithin cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật.
    ·Chúng ta biết rằng một trong các nguyên nhân chính gây sỏi thận do cholesterol trong mật quá mức bão hoà nên kết tinh. Lecithin cuả vừng giúp nhũ hoá cholesterol nên không tạo sỏi. Dđồng thời vừng làm tăng tiết mật nên có khả năng đẩy sỏi nhỏ vào ruột.
    4- Món ăn-bài thuốc lợi sữa. Mè đen rang cho vào canh mướp.Cả hai vị đều lợi sữa. Mè đen làm tăng khẩu vị món canh mướp.
    5- Dầu mè trị viêm nướu răng. Thành phần không xà phòng hoá trong dầu mè có khả năng chống viêm nha chu.
    6- Bổ xương và trị thoái hoá khớp.
    - Vừng có liên quan gì đến xương đâu mà bảo bổ xương ?
    - 100g vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Trên lý thuyết là vừng có nhiều calci hơn các thực phẩm thực vật khác. Tuy nhiên ít ai ăn 100g vừng cho nên bảo vừng bổ xương có quá đáng không ?
    - Mè den bổ thận mà thận chủ cốt tuỷ cho nên bảo thận bổ xương cũng không sai.
    - Có người cho rằng vừng chống thoái hoá khớp là điều cần xét lại.
    - Khớp xương tiếp nối hai đầu xương. Khớp gồm một màng bao bọc quanh đầu xương, sụn mềm và chất nhầy. Thoái hoá khớp có thể do mô sụn bị mài mòn mà không tái tạo, cũng có thể do thiếu chất nhày. Thoái hoá khớp có những biểu hiện: đau tại khớp, sưng, hoạt động khó khăn, cứng khớp vào buổi sáng khi mới ngủ dậy. Thoái hoá khớp liên quan đếns ự lão hoá, do giảm tốc độ sinh chondrocyte và giảm chất nhầy.
    - Thảo nào các cụ bảo nhau: hết nhớt, khô nhớt rồi !
    - Vừng cải thiện sự thoái hoá khớp với cơ chế:
    ·Chống lão hoá.Mangan cuả vừng tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase (SOD), một enzym quan trọng trong quá trình oxyd hoá. Bên cạnh đó, selenium là co-enzym cuả glutathion peroxydase cũng phong toả gốc tự do, chống lão hoá.
    ·Mangan còn tham gia tái tạo khung sụn.
    ·Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin cho dịch khớp.
    ·Vừng đen đi vào thận nên bổ ích xương tủy.
    7- Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận) gồm:Hồ ma nhân, Hạnh nhân, Hậu phác, Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược. Bài này nhuận trường thông tiện. Trị táo bón kéo dài, táo bón do lão suy
    Giải phương như sau:
    ·Hồ ma nhân: nhuận tràng, thông tiện.
    ·Hạnh nhân: giáng khí nhuận tràng.
    ·Thược dược dưỡng âm hoà can.
    ·Chỉ thực tán kết.
    ·Hậu phác tiêu thực
    ·Đại hoàng thông hạ. Bài này dùng ít Đại hoàng.

    Theo http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com
  4. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0

    VỪNG ĐEN
    [​IMG]
    - Tên khoa học là Sesamum indicum
    - Tên gọi khác: Vừng là tên gọi ở miền Bắc, miền Nam gọi là mè, ; Đông y gọi là Chi ma, Hồ ma, Hồ ma nhân.
    100g Vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.
    Dầu vừng làm từ vừng trắng ; nó có 40% acid béo nhiều nối đôi, 40% acid béo một nối đôi, 18% acid béo bão hoà. Tỷ lệ 4.4.1 đạt tiêu chuẩn vì yêu cầu lý thuyết là mỗi thứ 1/3, nhưng trong thức ăn hàng ngày thường có acid béo bão hoà ; dầu vừng ít acid béo bão hoà, phối hợp chung thành mỗi thứ 1/3. Như vậy ăn dầu vừng tốt hơn dầu dưà, dầu cọ. Dầu vừng để lâu không bị ôi?" Trước khi chiên rán thức ăn cần để ráo nước vì những hạt nước làm cho dầu bắn tung toé dễ bị phỏng. Để tránh tai nạn, hãy cho vào hạt muối vào chảo dầu, đợi khi muối tan hãy cho thức ăn vào, dầu sẽ không bắn lên nữa. Đây là bí quyết cuả các bà nội trợ, chưa được lý giải thoả đáng.
    Để làm muối vừng, cần rang nóng cho thơm rồi gĩa vỡ hạt vừng, dầu vừng ứa ra sẽ thơm ngon hơn, tuy nhiên ca dao lại có câu:
    "Vò thì vò đỗ vò vừng,
    Như đây với đó xin đừng vò nhau.
    "
    100mg Vừng đen sinh 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g lipid, 18g glucid, 780ng photpho, 620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin, phytin, cholin.
    Đông y dùng Vừng đen làm thuốc. Nó có vị ngọt, tính bình, không độc. Nó có tác dụng bổ ích can thận, dưỡng huyết, khu phong, nhuận tràng, bổ ngũ tạng, tăng khí lực, làm sáng mắt, phát triển bắp thịt, bổ ích tinh tủy. Mặc dù phân tích hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận nên vừng đen bổ thận.
    Y học dân gian cho rằng nước sắc lá và rễ vừng đen bôi lên đầu làm tóc mọc tốt và đen hơn.
    Hoa vừng đen vò nát đắp lên mắt làm dịu sưng đỏ.
    Hạt vừng được dùng làm nhiều ?oMón ăn-bài thuốc?:
    1- Đơn giản nhất là món Cháo mè đen ghi trong Thọ thân dưỡng lão tân thư. Cháo này thơm ngon, ngọt bùi. Nó là món ăn bổ dưỡng với dủ ba nhón thực phẩm chính là protein, lipid, glucid. Cháo này ghi trong sách Thọ thân dưỡng lão tân thư với lý do:
    ·Người gìa yếu răng, nuốt hay bị sặc, ăn cháo thật hợp lý.
    ·Vừng đen quân bình các chất bổ dưỡng
    ·Người gìa âm suy, tân dịch suy giảm.Vừng đen bổ âm, sinh tân dịch.
    ·Người gia thường bị táo bón, vừng làm phân trơn nhuận do bổ âm và có chất dầu, nghĩa là trị táo bón cả gốc lẫn ngọn. (xemgiải thích ở đoạn dưới)
    2- Chè mè đen gồm mè đen, bột sắn dây, đường. Bài này bổ âm, giải nhiệt.
    3- Tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu. Giản tiện hơn là luộc lá dâu non rồi chấm với vừng. Đây là bài thuốc bổ âm an toàn và công hiệu. Món ăn này nhuận trường êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc nhuận trường kích thích (lô hội = đảm nha, rễ Nhàu, Muồng?). Táo bón có nhiều nguyên nhân:
    ·Thực phẩm thiếu chất xơ
    ·Gan tiết ít mật
    ·Ruột lười hoạt động, ít hoạt động cơ bắp.
    · Không có thói quen đi cầu hàng ngày
    ·Âm suy, cơ thể khô ráo.
    Thuốc nhuận trường kích thích làm ruột co bóp ; dùng dài hạn có thể bị lờn. Điều nên làm là thay đổi thực đơn và tăng cường rau quả, vận động nhiều hơn, bổ âm và tân dịch. Tang ma hoàng nhuận trường với cơ chế:
    ·Cả hai đều bổ âm, sinh tân dịch
    ·Chất dầu cuả vừng làm phân trơn nhuận.
    ·Dầu vừng làm tăng tiết mật.
    ·Lá dâu kích thích nhu động ruột, làm cho phân không đóng tảng.
    ·Bài này trị bệnh táo bón cả gốc lẫn ngọn.
    Một số tài liệu ghi rằng bài này trị được cao huyết áp,nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại..đó là những chứng do âm hư và can thận hư.
    4- Cháo mè-khoai mỡ làm giảm cholesterol và ngưà xơ động mạch với cơ chế sau đây:
    ·Khoai mỡ khoá hoạt tính cuả cholesterol trong mật và thực phẩm để bài xuất theo phân.
    ·Mè đen kích thích gan tiết mật, giảm cholesterol-huyết.
    ·Bệnh tim mạch có nguồn gốc sâu xa là âm suy. Mè đen và khoai mỡ đều bổ âm.
    4- Tăng tiết mật, ngưà sỏi mật.
    * Dầu mè làm tăng tiết mật.
    ·Licithin cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật.
    ·Chúng ta biết rằng một trong các nguyên nhân chính gây sỏi thận do cholesterol trong mật quá mức bão hoà nên kết tinh. Lecithin cuả vừng giúp nhũ hoá cholesterol nên không tạo sỏi. Dđồng thời vừng làm tăng tiết mật nên có khả năng đẩy sỏi nhỏ vào ruột.
    4- Món ăn-bài thuốc lợi sữa. Mè đen rang cho vào canh mướp.Cả hai vị đều lợi sữa. Mè đen làm tăng khẩu vị món canh mướp.
    5- Dầu mè trị viêm nướu răng. Thành phần không xà phòng hoá trong dầu mè có khả năng chống viêm nha chu.
    6- Bổ xương và trị thoái hoá khớp.
    - Vừng có liên quan gì đến xương đâu mà bảo bổ xương ?
    - 100g vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Trên lý thuyết là vừng có nhiều calci hơn các thực phẩm thực vật khác. Tuy nhiên ít ai ăn 100g vừng cho nên bảo vừng bổ xương có quá đáng không ?
    - Mè den bổ thận mà thận chủ cốt tuỷ cho nên bảo thận bổ xương cũng không sai.
    - Có người cho rằng vừng chống thoái hoá khớp là điều cần xét lại.
    - Khớp xương tiếp nối hai đầu xương. Khớp gồm một màng bao bọc quanh đầu xương, sụn mềm và chất nhầy. Thoái hoá khớp có thể do mô sụn bị mài mòn mà không tái tạo, cũng có thể do thiếu chất nhày. Thoái hoá khớp có những biểu hiện: đau tại khớp, sưng, hoạt động khó khăn, cứng khớp vào buổi sáng khi mới ngủ dậy. Thoái hoá khớp liên quan đếns ự lão hoá, do giảm tốc độ sinh chondrocyte và giảm chất nhầy.
    - Thảo nào các cụ bảo nhau: hết nhớt, khô nhớt rồi !
    - Vừng cải thiện sự thoái hoá khớp với cơ chế:
    ·Chống lão hoá.Mangan cuả vừng tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase (SOD), một enzym quan trọng trong quá trình oxyd hoá. Bên cạnh đó, selenium là co-enzym cuả glutathion peroxydase cũng phong toả gốc tự do, chống lão hoá.
    ·Mangan còn tham gia tái tạo khung sụn.
    ·Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin cho dịch khớp.
    ·Vừng đen đi vào thận nên bổ ích xương tủy.
    7- Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận) gồm:Hồ ma nhân, Hạnh nhân, Hậu phác, Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược. Bài này nhuận trường thông tiện. Trị táo bón kéo dài, táo bón do lão suy
    Giải phương như sau:
    ·Hồ ma nhân: nhuận tràng, thông tiện.
    ·Hạnh nhân: giáng khí nhuận tràng.
    ·Thược dược dưỡng âm hoà can.
    ·Chỉ thực tán kết.
    ·Hậu phác tiêu thực
    ·Đại hoàng thông hạ. Bài này dùng ít Đại hoàng.

    Theo http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com
  5. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0

    Chanh
    [​IMG]
    Chanh là loại cây được trồng lâu đời ở khắp mọi miền đất nước, cho quả quanh năm. Chanh là sản vật của các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Quả và lá chanh là gia vị hết sức thân quen của nhiều dân tộc. Mọi bộ phận của cây chanh đều được dùng làm thuốc chữa bệnh bốn mùa.
    Dịch quả có vị chua, tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu thực, chống viêm. Chanh vị cực toan, cho nên mỗi lần không dùng nhiều, kể cả khi dùng ngoài hay uống trong. Không ăn chanh để giảm béo. Bốn mùa chúng ta đều có thể dùng chanh. Nhưng nói chung dịch chanh dùng tốt nhất vào mùa hè - thu. Mùa hè tác dụng khử tiêu thực. Mùa thu thuộc phế kim khắc can mộc, phế khắc can nên cần tăng chất chua.
    Do tính hàn của dịch quả chanh nên tránh dùng trong trường hợp có hàn chứng như cảm hàn.
    Chanh có vị chua nên cả Đông và Tây y đều chống chỉ định trong trường hợp có viêm loét đường tiêu hóa.
    Vỏ quả chanh : có vị the, cay, tính ấm, vào 3 kinh can, tỳ, phế. Có tác dụng lý khí tiêu thực, hóa đờm, chữa chứng ăn không tiêu, bụng đau đầy trướng, nôn mửa. Vỏ có tính ôn nên có thể dùng quả chanh cắt khoanh lấy cả vỏ lẫn dịch cho uống nóng để giải cảm như thả vào nước trà nóng.
    Lá chanh : dùng làm lá xông giải cảm, lá non giã đắp rốn trẻ em bí đái, trướng bụng. Lá chanh ăn với thịt gà luộc ăn thơm và dễ tiêu do có nhiều tinh dầu.
    Rễ: chữa ho. Rễ chanh cùng hạt chanh, phèn chua, gừng chữa rắn cắn.
    Hạt chanh: Tẩy giun, chữa rắn cắn, chữa ho ở trẻ em. Ép lấy dầu làm xà phòng.
    Vỏ thân: Làm thuốc bổ, giúp tiêu hóa tốt.
    Theo Tây y: vỏ quả chanh có tác dụng tiêu thực, tăng nhu động ruột, gây trung tiện, khử đờm. Phần xốp trắng của vỏ cầm tiêu chảy do có pectin, vỏ còn chứa canxipectat và flavonoit tăng miễn dịch, chống xơ vữa mạch máu. Cành non và lá có tinh dầu thơm mát dùng sản xuất nước hoa, kem bôi da.
    Acid citric có nhiều nhất trong chanh so với các loại quả, hợp với canxi thành dung dịch hòa tan, có ích cho người bị tăng huyết áp, chữa sắc tố da trên mặt nên cũng dùng làm mỹ phẩm.
    Chanh làm thức ăn uống
    - Nước chanh đường uống giải nhiệt mùa hè. Nếu cho ít vỏ, ít bạc hà càng ngon, càng tốt. Không uống lúc đói và trước khi đi ngủ.
    - Vắt vào nước rau muống luộc, các thức ăn như nước phở, bún, mắm tôm, nước mắm, muối rất hấp dẫn và bổ.
    - Vắt lên trứng luộc thái miếng, các món cá, thêm ngon bổ.
    - Thái lát cho vào cốc nước trà, (có cả vỏ) thanh nhiệt và trừ đàm.
    - Ăn chanh khi lên cơn thèm rượu, thuốc lá để cai rượu, thuốc lá.
    - Kẹo chanh, rượu chanh, mứt chanh tiện dùng nhưng không tốt bằng chanh tươi.
    - Mắm tôm cho chanh sủi bọt mới là mắm tôm loại ngon nhiều đạm.
    - Luộc ốc dùng lá chanh để thơm và bớt lạnh.
    - Chanh muối dầm nước uống đã được sản xuất công nghiệp gần như chanh tươi.
    Chanh làm thuốc
    - Chữa cảm cúm viêm họng: Nước chanh cô mật o­ng.
    - Chữa đau đầu: Cắt lát chanh với một ít vôi dán vào hai thái dương chữa đau đầu.
    - Côn trùng đốt: Nhỏ hay đắp chanh lên chỗ bị đốt.
    - Đau nửa đầu: Dùng chanh cả vỏ áp lên trán rồi phủ khăn mặt lên. Khi cảm thấy nóng thì bỏ ra hoặc cho bệnh nhân ngâm chân vào nước có vắt chanh.
    - Đau nhức mỏi chân: Xoa xát nhẹ chanh vào nơi nhức.
    - Loét niêm mạc lưỡi: Chanh, bột sắn dây mỗi thứ 12g, đường 20g, nước đun sôi 150ml. Uống nóng 1-2 lần/ngày.
    - Ho ra máu: Chanh 3 quả, mật mía 30ml, nước 750ml sắc còn 1/3. Lấy chanh ra thái nhỏ cho vào nước sắc trộn. Uống nước ngày 1 lần, uống 3 ngày liền, ăn bã.
    - Chín mé: Chanh 1 quả, khoét lỗ vừa ngón tay hay chân cho ít muối nướng cho nóng, để ấm cho ngón tay hay chân vào buộc lại.
    - Lợm giọng đầy hơi: Quả vắt hết nước, thái miếng nhào mật. Ăn ngày 3 quả.
    Chanh làm mỹ phẩm
    Dùng chanh làm chất se da, làm khít lỗ chân lông, làm da căng mịn. Đặc biệt đối với da nhờn nên dùng loãng và kèm xoa bóp. Người Nhật tắm với bột chanh tăng cường tuần hoàn cho da hồng mịn.
    - Gội đầu bằng chanh thơm mượt tóc, sạch gầu. Rửa mặt bằng nước pha loãng chanh sẽ trắng da, cho vào bồn ngâm tắm sạch thơm da, khử độc, mùa hè tốt cho trẻ, trừ rôm sẩy.
    - Chế mặt nạ trị da nhờn:
    Công thức 1: 2 thìa canh cám gạo, 2 thìa canh bột kiều mạch, 2-3 giọt chanh, nước ấm đủ làm nhão. Công thức 2: Nghiền nhuyễn hạt hạnh nhân, quả dưa chuột, với 2-3 giọt chanh cho quánh. Trước khi đắp mặt nạ, rửa sạch mặt. Đắp khoảng 15-30 phút. Sau đó rửa lại nước mát cho sạch.
    - Dị ứng phấn trang điểm: Hạt chanh tươi nghiền mịn hòa với nước đun sôi để nguội xoa lên mặt cho đến khi khỏi.
    Thanh khiết môi trường: Dùng quả chanh nguyên nhất là loại có mùi thơm để trong phòng vài quả sẽ có tác dụng điều tiết không khí. Để vỏ chanh trong tủ lạnh cũng khử được mùi hôi (cho vào túi ni lông).
    Để dưỡng sinh theo mùa, bạn hãy dùng chanh là đắc sách trong mùa hè.

    Nguồn: Báo Sức khỏe và Đời sống

  6. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Lâu nay bận quá ko có dịp vô đây, tạm thời up lên để anh em cùng xem nhé.Có gì mạo phạm xin tha thứ
  7. ngaythu_8

    ngaythu_8 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/01/2006
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Topic của bạn thực sự ý nghĩa và bổ ích ,mình cũng đang nghiên cứu những vị cây , bài thuốc hay để đưa vào món ăn hàng ngày giúp người thân vừa ngon miệng vừa khoẻ mạnh
    Cho mình hỏi về hạt ý dĩ với nhé , tính và công dụng của nó
  8. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    Ý DĨ NHÂN
    [​IMG][​IMG]
    [​IMG]
    1. Tên dược:
    Semen coicis.
    2. Tên thực vật:
    Coix lachryma - jobi L var ma yuen (Roman).
    3. Tên thường gọi:
    Coix seed (ý dĩ nhân)
    4. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến:
    Hạt của quả thu hái vào mùa thu, loại bỏ vỏ cứng của quả.
    5. Tính vị:
    Ngọt hoặc không vị và hơi hàn.
    6. Qui kinh:
    Tỳ, vị và phế.
    7. Công năng:
    Trừ thấp và tăng chuyển hoá nước, bổ tỳ, thanh nhiệt và loại mủ.
    8. Chỉ định và phối hợp:
    - Tỳ kém biểu hiện như phù, thiểu niệu hoặc ỉa chảy: Dùng phối hợp ý dĩ nhân với trạch tả và bạch truật.
    - Thấp nhiệt giai đoạn đầu do các bệnh về sốt mà các yếu tố bệnh lý là do khí: Dùng phối hợp ý dĩ nhân với hoạt thạch, trúc diệp và thông thảo dưới dạng tam nhân thang.
    - Tính thấp nhiệt hoặc ứ khí huyết biểu hiện như áp xe phổi và áp xe ruột: Dùng phối hợp ý dĩ nhân với đông qua nhân, vĩ kinh và táo nhân dưới dạng vĩ kinh thang để dùng cho áp xe phổi có ho, đờm và mủ. Dùng phối hợp ý dĩ nhân với bại tương thảo để trị áp xe ruột
    9. Liều dùng:
    10-30g.
    10. Thận trọng và chống chỉ định:
    Để làm thuốc bổ và kiện tỳ, ý dĩ nhân phải dùng dưới dạng rán khô.
  9. binhnguyengiatrang

    binhnguyengiatrang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2006
    Bài viết:
    746
    Đã được thích:
    0
    cho mình up thêm 1 lần nữa
  10. ngaythu_8

    ngaythu_8 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/01/2006
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    2
    Cảm ơn bạn rất nhiều về bài viết về hạt ý dĩ .
    Mẹ mình bị bệnh tiểu đường đã nhiều năm nay
    Không hiểu sao hạt này có công dụng hạ đường huyết kinh khủng , mình chỉ nghe nói hạt ý dĩ có tác dụng bổ thận đã nấu cháo cho mẹ ăn , không ngờ hết cả tiêu khát ,nhưng đường huyết hạn quá nên chẳng dám nấu cho mẹ ăn nữa

Chia sẻ trang này