1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về các loại máy MIG hiện đang được sử dụng trên thế giới

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vnmajor, 05/11/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nokopro

    nokopro Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/02/2009
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    30
    PHẦN 2: MIG-31D, PHIÊN BẢN MANG & BẮN TÊN LỬA CHỐNG VỆ TINH - MIG-31M, THẾ HỆ MIG-31 THỨ HAI
    MIG-31D - PHIÊN BẢN LÀM NHIỆM VỤ TIÊU DIỆT VỆ TINH CỦA MIG-31
    Vào cuối thập niên 1980, Mikoyan phát triển một phiên bản mới của Mig-31 để chuyên làm nhiệm vụ tiêu diệt vệ tinh và được gọi là Mig-31D. Có hai mẫu được sản xuất để tiến hành các thử nghiệm trước khi kế hoạch bị hủy bỏ. Lý do kế hoạch Mig-31D bị hủy bỏ được cho là bởi năm 1988 Reagan, TT Mỹ khi đó, buộc phải hủy bỏ kế hoạch tương tự trên F-15 do các trở ngại không thể vượt qua về mặt kỹ thuật gây nên sự trì hoãn các thử nghiệm và khiến ngân sách tăng lên không thể kiểm soát được.
    Song song với Mig-31D, Vympel cũng nghiên cứu phát triển một loại tên lửa tiêu diệt vệ tinh loại có thể gắn và bắn trên Mig-31D
    Các đặc điểm của Mig-31D:
    1 - Kết cấu khung sường được làm nhẹ hơn và vững chắc hơn để máy bay có thể đạt trần bay tối đa cao cũng như mang được một quả tên lửa lớn dưới bụng
    2 - Gốc cánh chính được mở rộng và kéo dài về phía trước để cải thiện góc bay giới hạn.
    3 - Hai cánh đứng hình tam giác được gắn vào đầu hai cánh chính để tăng độ ổn định cho máy bay khi mang và phóng tên lửa tại độ cao lớn.
    4 - Súng 23mm 6 nòng Gsh-23-6 bị bỏ đi để giảm trọng lượng.
    5 - Mặt dưới thân máy bay được trang bị một mấu cứng trung tâm có thể mang được tên lửa chống vệ tinh của Vympel.
    6 - Radar Zaslon được thay thế bằng một radar đặc biệt có thể quét thẳng về bên trên. Hệ thống kiểm soát bắn cũng là loại mới tương thích với tên lửa chống vệ tinh Vympel.
    7 - Mig-31D được thiết kế để có thể phóng tên lửa tại độ cao 17km ở vận tốc 3,000km/h để tối đa hóa tầm bắn của tên lửa.
    8 - Tên lửa có thể được máy bay cảnh báo báo sớm và chỉ huy trên không Beriev A-50 cập nhật dữ liệu và điều chỉnh đường bay trong pha phóng.
    Các cấu tạo khác biệt của Mig-31D
    [​IMG]
    Cách Mig-31D mang tên lửa tiêu diệt vệ tinh Vympel dưới bụng.
    [​IMG]
    Máy bay Beriev A-50
    [​IMG]
    Cuối thập niên 1990, một liên doanh giữa Nga và Kazakhstan được thành lập. Liên doanh này có tên Ishim chuyên cung cấp cho khách hàng dịch vụ đưa các vệ tinh nhỏ lên quỹ đạo thấp của trái đất. Nó cũng sử dụng kỹ thuật tương tự như cách Mig-31D mang và phóng tên lửa diệt vệ tinh. Nếu so sánh về kỹ thuật thì việc đưa một vệ tinh nhỏ vào tầng quỹ đạo thấp dễ hơn nhiều kỹ thuật bắn hạ vệ tinh.
    Một máy bay Mig-31 hoán cải, được gọi là Mig-31I (Ishim) sẽ mang một tên lửa đẩy chứa một vệ tinh cỡ nhỏ. Tại độ cao và tốc độ phù hợp, tên lửa này sẽ được phóng lên với sự trợ giúp và kiểm soát hành trình bay của máy bay Beriev A-50.
    Nó được cho là có khả năng mang và phóng một tên lửa đẩy có khả năng đưa một vệ tinh nặng 100kg lên quỹ đạo có tầm cao 200km.
    Mig-31I với tên lửa đẩy mang vệ tinh
    [​IMG]
    [​IMG]
    Sơ đồ một vụ phóng vệ tinh với sự trợ giúp và kiểm soát của Beriev A-50.
    Mig-31I phóng tên lửa
    [​IMG]
    Với sự trợ giúp và kiểm soát của Beriev A-50 để đưa vệ tinh lên quỹ đạo định trước
    [​IMG]
  2. nokopro

    nokopro Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/02/2009
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    30
    MIG-31M - THẾ HỆ THỨ HAI CỦA MIG-31
    [​IMG]
    Giữa thập niên 1980, Mikoyan lại bắt đầu cho ra đời thế hệ thứ hai của Mig-31 và được gọi là Mig-31M. Mục đích của Mikoyan là nhằm được duyệt để sản xuất loại máy bay này cung cấp cho không quân Soviet thay thế cho Mig-31 thế hệ đầu tiên nên khung sườn cũng như đặc điểm khí động của nó được thiết kế mới với các trang bị điện tử hoàn toàn mới thay vì chỉ là bản nâng cấp từ Mig-31 thế hệ đầu tiên.
    Điều này là rất dễ hiểu và cũng tương tự như trong kinh doanh. Nếu anh muốn khách hàng thay thế sản phẩm cũ và mua thêm sản phẩm mới của anh thì thế hệ sản phẩm tiếp theo phải có các tính năng mới mà sản phẩm cũ không có, không thể hoặc khó thể nâng cấp lên được. Mig-31M là một trường hợp như thế.
    Chỉ tiếc rằng Mig-31M đã "sinh" nhầm thời, khi mà "bà mẹ" Liên Xô đã cạn kiệt bầu sữa khiến chi chỉ có 7 mẫu Mig-31M được hoán đổi và sản xuất.
    CÁC ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT & KHÁC BIỆT CỦA MIG-31M SO VỚI MIG-31A/B/BS
    HỆ THỐNG TRANG THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ / CẢM BIẾN / ĐIỀU KHIỂN MỚI
    1 - Radar mới có tên Zaslon-M, phiên bản nâng cấp từ radar Zaslon-A trang bị cho Mig-31 thế hệ trước.
    - Nó có đường kính antenna là 1.2m so với đường kính 1.1m của radar cũ.
    - Nó được cho là có năng lực vận hành cao hơn từ 50 - 100% so với radar Zaslon cũ
    - Tầm tìm kiếm mục tiêu có diện tích phản xạ radar 16m2 (tương đương với Su-27 hay F-15 có mang vũ khí) là 400km, gấp đôi so với 200km của radar cũ.
    - Nó có thể bắt bám 24 mục tiêu và dẫn bắn tấn công 6 mục tiêu trong số đó cùng lúc.
    - Có thể dẫn bắn tên lửa R-37 để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung Pershing - 1 &2 (MGM - 31A/B/C/D) của Mỹ.
    Xin lưu ý là hiện nay có hai luồng ý kiến khác nhau về đường kính của radar Zaslon-A và Zaslon-M. Luồng ý kiến thứ nhất, chiếm đại đa số nói chúng có kích thước 1.2m / 1.4m. Luồng ý kiến thứ hai, chiếm số ít, nói chúng có kích thước 1.1m / 1.2m. Tôi cũng không chắc là cái nào chính xác nhưng tôi theo ý kiến thứ hai bởi chúng được tạp chí Jane''''s, một tạp chí quân sự có uy tín của Anh, công bố.
    2 - Cảm biến hồng ngoại IRST mới
    - Năng lực vận hành và tầm tìm kiếm cao hơn loại 8TP/TK trên Mig-31 cũ
    - Được tích hợp thêm đo lường laze
    - Cảm biến này đươc gắn ở vị trí tương tự như Mig-31 cũ nhưng là loại có thể thu được vào hoàn toàn trong thân thay vì chỉ một phần như Mig-31 cũ. Riêng về điểm này cũng có sự trái ngược về thông tin. Nhiều nguồn nói nó là loại được gắn cố định bên ngoài và không thể thu vào được (fixed and non-retractable), nguồn khác lại nói nó là loại có thể đẩy ra / thu vào hoàn toàn (fully retractable). Riêng bản thân tôi thì cho rằng ý kiến thứ hai chính xác hơn bởi khi quan sát rất nhiều bức hình của Mig-31M trưng bày. Ở vị trí gắn IRST, chúng ta không thấy bất kỳ thiết bị nào nhô ra giống như ở Mig-31 cũ cả. Điều này khiến ta có thể kết luận là nó là loại thu vào hoàn toàn.
    IRST loại thu vào một phần trên Mig-31A/B/BS đời cũ
    [​IMG]
    Ta không thấy tương tự trên Mig-31M => Nó được thu vào hoàn toàn.
    [​IMG]
    IRST được đẩy ra ngoài khi Mig-31M làm nhiệm vụ
    [​IMG]
    3 - Buồng lái hoàn toàn mới
    - Mig-31 được trang bị buồng lái kính mới cho cả phi công lái máy bay ngồi trước và phi công dẫn đường và vận hành vũ khí ngồi sau.
    - Buồng lái phía sau được trang bị 4 màn hình hiển thị màu đa chức năng.
    - Buồng lái phía sau không được trang bị hệ thống điều khiển máy bay. Điều này có thể xuất phát từ việc tất cả 500 Mig-31 cũ đều có thể dùng để huấn luyện và vì thế Mig-31M có thể tiết kiệm không gian cho hệ thống hiển thị và kiểm soát vũ khí.
    Xin lưu ý là hình ảnh và thông tin về buồng lái của Mig-31M trên mạng đa phần là bị nhầm lẫn với buồng lái của Mig-31BM. Thậm chí trang Airware.ru còn đưa nhầm hình buồng lái của Mig-31A/B/BS trong phần giới thiệu về Mig-31M.
    Buồng lái phía trước của Mig-31M
    [​IMG]
    Buồng lái phía sau của Mig-31M với 4 màn hình màu hiển thị đa năng.
    [​IMG]
    4 - Mig-31 được gắn sẵn ở trên 2 đầu cánh chính thiết bị gây nhiễu điện tử dạng khí động, loại sau này được sử dụng gắn trên Su-30 / 35,
    4 - Mig-31M cũng được trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh và một số trang thiết bị điện tử tiên tiến nhất thời bấy giờ. Chúng chưa bao giờ được công bố công khai cả.
    2 pod gây nhiễu điện tử gắn sẵn trên 2 đầU cánh
    [​IMG]
    Loại này sau này được gắn cho Su-30 và Su-35 của Nga
    [​IMG]
    HỆ THỐNG KHUNG SƯỜN MỚI
    Mig-31M được trang bị khung sườn mới chắc khỏe hơn rất nhiều so với khung sườn của Mig-31 cũ . Khung sườn chắc khỏe đã góp phần vào hai sự khác biệt lớn sau của Mig-31M so với Mig-31 cũ:
    1 - Tải trọng cất cánh tối đa (MTOF) là 52 tấn, tăng 6 tấn so với 46 tấn của Mig-31 cũ.
    2 - 6 giá treo vũ khí hạng nặng gắn chìm dưới thân, tăng 2 giá so với 4 của Mig-31 cũ. Điều này nghe thì tưởng là đơn giản nhưng xét về mặt kỹ thuật thì không đơn giản chút nào.
    Việc có thể gắn thêm 2 quả tên lửa đối không hạng nặng, khoảng 500kg một quả, cộng với hệ thống giá treo và thu-đẩy cơ khí hạng nặng dành cho tên lửa này, khoảng 150kg, chưa kể sức ép không khí lên tên lửa khi Mig-31 bay ở vận tốc Mach 2.5 nữa đòi hỏi khung sườn của thân máy bay phải được thiết kế lại nhằm gia tăng độ vững chắc.
    Một ví dụ đơn giản tương tự đó là Mig-29SMT. Dù cho nó là phiên bản đóng mới hay nâng cấp thì cơ bản vẫn dựa trên khung sườn Mig-29 thế hệ đầu tiên và vì thế nó chỉ có thể gắn tối đa 3 mấu cứng dưới cánh thay vì 4 như các Mig-29K/KUB, Mig-29M/M2 hay Mig-35.
    Việc tăng số giá treo tên lửa dưới thân cũng là nhằm đáp ứng đòi hỏi của KQ Soviet về việc tăng số mục tiêu tối đa có thể tiêu diệt cho một lần xuất kích của Mig-31M
    Mig-31m với 6 R-37 xếp thành 2 hàng 3 dưới bụng
    [​IMG]
    ĐỘNG CƠ MỚI Nhằm đáp ứng đòi hỏi của việc tăng MTOF, Mig-31M được gắn loại động cơ mới D-30F-6M, nâng cấp từ động cơ D-30F-6 trang bị trên Mig-31 cũ. Nó có lực đẩy tối đa là 16.5 tấn, tăng 1 tấn so với 15.5 tấn của động cơ D-30F-6.
    KHÁC BIỆT VỀ KHÍ ĐỘNG HỌC & CÁC ĐẶC ĐIỂM BÊN NGOÀI
    1 - Cánh được thiết kế lại:
    - Gốc cánh được kéo dài về phía trước để cải thiện tính khí động của máy bay như góc bay giới hạn AoA và làm giảm tình trạng bị mất lực nâng trên cánh. Gốc cánh của chiếc Mig-31D ở phần trước cũng chính là làm theo thiết kế của Mig-31M này
    - Vì gốc cánh đã được cải tiến nên thành cánh của Mig-31M cũng nhỏ và thấp hơn ở Mig-31 cũ,
    - Hai đầu cánh với cánh đứng tam giác nhỏ, được gắn trên hai pod gây nhiễu điện tử dạng tròn, để cải thiện độ ổn định của máy bay tại tốc độ và độ cao lớn
    2 - Mũi máy bay được làm to hơn để chứa vừa radar Zaslon-M và được làm dốc xuống thêm 7 độ để cải thiện tầm nhìn cho phi công.
    3 - Kính chắn gió buồng lái là loại đúc liền 1 miếng thay vì ghép từ 3 miếng như Mig-31 cũ giúp phi công cải thiện tầm nhìn.
    4 - Nắp buồng lái sau chỉ có 2 ô cửa kính nhỏ để giảm bớt ánh sáng lọt vào buồng lái giúp phi công tập trung hơn vào 4 màn hình hiển thị đa năng.
    5 - Cần tiếp dầu trên không được gắn vào mạn phải mũi máy bay thay vì mạn trái như Mig-31 cũ
    6 - Sống lưng phía sau buồng lái được làm to và mập hơn để lấy không gian cho các trang thiết bị điện tử mới củng như thêm 300 lít nhiên liệu
    Các điểm khác biệt trên Mig-31m so với các Mig-31 cũ
    [​IMG]
    Buồng lái sau với 2 ô cửa nhỏ
    [​IMG]
    Cần tiếp dầu được đưa qua mạn phải
    [​IMG]
    HỆ THỐNG VŨ KHÍ MỚI
    Tên lửa đối không mới Mig-31M được trang bị các loại tên lửa mới so với Mig-31 cũ. Đó là tên lửa tầm xa R-37 và tên lửa tầm trung R-77.
    TÊN LỬA TẦM XA R-37
    Tên lửa R-37 được thiết kế dành riêng cho Mig-31M để bảo đảm các tính năng sau:
    1 - Sải cánh ngắn hơn sải cánh của tên lửa R-33 cũ và cánh cũngcó thể gấp vào được để Mig-31M có thể mang tối đa 6 tên lửa R-37 chia thành 2 hàng 3 ở các giá treo khí động dưới thân.
    2 - Tầm bắn xa hơn: Nó có tầm bắn hiệu quả là 300km, gấp 2 - 3 lần loại R-33 cũ. Năm 1995, Nga đã bắn thử thành công một tên lửa R-37 từ Mig-31 tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 300km.
    Nên lưu ý rằng F-14D, phiên bản tiên tiến nhất của dòng họ F-14 Wildcat của Mỹ, chỉ có thể tiêu diệt một mục tiêu ở khoảng cách tối đa là 180km bằng tên lửa AIM-154 Phoenix, loại tên lửa đối không tầm xa nhất của Mỹ trước kia.
    3 - Hệ thống dẫn đường pha giữa của hành trình là quán tính với dữ liệu mục tiêu được cập nhật từ Mig-31, pha cuối của hành trình là radar chủ động trên đầu tên lửa.
    4 - Thiết kế khí động của R-37 là kiểu "không ổn định" khiến nó dễ dàng nhào lộn hơn R-33 để tăng cao khả năng đánh trúng các mục tiêu có tính thao diễn cao như các máy bay chiến đấu thế hệ 4 / 4+ / 5.
    5 - Tầm bắn xa hơn nhưng trọng lượng và kích thước tương đương với tên lửa R-33 cũ.
    Cần phải nói thêm một chút là R-37 ra đời không phải là nhằm mục đích thay thế tên lửa R-33 như đa số các nguồn đăng tải, ít nhất vào thời điểm đó. Hiện nay có một quan niệm tồn tại phổ biến cho rằng tên lửa đối không dẫn đường pha cuối bằng radar chủ động, như các tên lửa R-37 và R-77, tốt hơn là bằng radar bán chủ động, như các tên lửa R-33 và R-27.
    Quan niệm này không sai nhưng không phải là chính xác hoàn toàn. Tốt hơn hay không còn do cách sử dụng tên lửa và tính chất của từng loại mục tiêu cụ thể. Tôi sẽ phân tích ưu-nhược kỹ hơn của từng kiểu dẫn đường trong một dịp khác sau khi loạt bài về Mig kết thúc nên chỉ nói ngắn gọn thế này.
    Với các mục tiêu là tên lửa hành trình bay thấp có RCS nhỏ cỡ 0.1m2 hoặc các mục tiêu tuy có tính thao diễn kém nhưng lại có hệ thống phòng vệ phối hợp và khả năng gây nhiễu và đánh lừa cực mạnh các loại tên lửa đối phương như B-52, B-1, B-2, RS-71, U-2, máy bay AEW&C và máy bay tiếp dầu thì kiểu dẫn đường pha cuối bằng radar bán chủ động sẽ tốt và chính xác hơn là kiểu radar chủ động. Điều này là bởi việc đánh lừa và gây nhiễu một radar nhỏ giản lược gắn trên đầu tên lửa dễ dàng hơn rất rất nhiều lần so với làm điều tương tự với loại radar cực mạnh và thông minh như Zaslon.
    Chính vì thế, xu hướng của một số loại tên lửa đối không hiện đại ngày nay là có thể sử dụng cả hai kiểu dẫn đường ở pha cuối: Radar bán chủ động hay radar chủ động tùy thuộc vào kinh nghiệm của phi công cũng như căn cứ vào từng tình huống và mục tiêu cụ thể.
    R-37
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Radar trên đầu tên lửa R-37
    [​IMG]
    So với bộ tiếp nhận sóng radar dội ra từ mục tiêu bị Zaslon khóa trên đầu tên lửa R-33
    [​IMG]
    TÊN LỬA TẦM TRUNG R-77:
    - Mig-31M có thể mang thêm 4 tên lửa R-77 ở dưới 2 cánh. R-77 có tầm bắn tối đa khoảng 90km. Nó dùng kiểu dẫn đường ở pha cuối là radar chủ động cũng như khả năng nhào lộn ở tải trọng 12g khiến nó rất phù hợp để tấn công mục tiêu là máy bay chiến đấu có tính năng thao diễn cao.
    - R-77, cùng với R-37, là bổ sung hoàn hảo cho Mig-31M trong việc đánh chặn tất cả các dạng và loại mục tiêu trên không.
    2 R-77 dưới mỗi cánh của Mig-31M
    [​IMG]
    Radar trên đầu của R-77
    [​IMG]
    Với tính chất của các nhiệm vụ, Mig-31M không cần thiết hoặc chẳng bao giờ phải sử dụng đến súng nên khẩu 23mm 6 nòng Gsh-23-6 đã bị bỏ đi để giảm trọng lượng.
    Súng và thùng đạn 260 viên được tháo ra giúp máy bay nhẹ hơn khoảng 200kg
    [​IMG]
    Được nokopro sửa chữa / chuyển vào 18:09 ngày 30/07/2009
  3. VasilyTran

    VasilyTran Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/10/2008
    Bài viết:
    900
    Đã được thích:
    167
    Xin hỏi bác RF là tại sao 4 cánh cuối của một số loại tên lửa lại nằm ngang
  4. nokopro

    nokopro Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/02/2009
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    30
    Không biết có phải là bạn đề cập đến cánh điều khiển của tên lửa R-77 và SS-21 Tochka hay không nhưng nếu đúng là nó thì tôi xin trả lời như thế này.
    R-77
    [​IMG]
    Kiểu cánh này thực chất vẫn sử dụng nguyên lý điều khiển và kiểm sóat bằng bề mặt (surface control). Tuy nhiên thay vì sử dụng một mặt phẳng lớn, nó sử dụng nhiều mặt phẳng nhỏ được đặt song song với nhau và kết hợp lại nhìn giống một tấm lưới như bạn thấy ở cánh đuôi tên lửa R-77 hay SS-21 Tochka.
    Kiểu cánh này có ưu điểm là giúp tên lửa thao diễn, nói nôm na là nhào lộn và thay đổi đường bay và góc bay đột ngột, tốt và nhanh nhẹn hơn.
    Tuy nhiên kiểu thiết kế này có nhược điểm là khiến tên lửa có diện tích phản xạ radar mặt trước lớn hơn so với kiểu thiết kế cánh một mặt phẳng.
    Cánh dạng một mặt phẳng lớn của tên lửa AIM-120
    [​IMG]
    Cánh dạng nhiều mặt phẳng nhỏ song song của R-77
    [​IMG]
    Được nokopro sửa chữa / chuyển vào 21:54 ngày 30/07/2009
  5. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Khi nào bác viết về bản Mig 31 xuất khẩu thì thống kê cả giá thành cho bọn em xem với nhé
  6. mig1000

    mig1000 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/06/2008
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    2.587
    Cho đến nay không có thông tin về giá cho bản xuất khẩu MIG-31E, toàn thông tin vỉa hè thôi (mà cũng ít và không thống nhất). Thực tế chưa có nước nào ngoài 2 nước SNG +Nga (hình như vậy) sở hữu cả.
    Được mig1000 sửa chữa / chuyển vào 16:14 ngày 31/07/2009
  7. terminaterx300

    terminaterx300 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/04/2006
    Bài viết:
    2.245
    Đã được thích:
    1
    con MIG-31 này thuộc loại bay siêu cao và siêu nhanh kiểu của SR-71 "Trym Đen", chứ không phải sinh ra để dog fight nên trang thiết bị toàn là loại phục vụ cho không tiền ngoài tầm nhìn từ rất xa và để thịt những con mồi bự bự như AWAC hay máy bay tiếp nhiên liệu rồi té thật nhanh,để lại đám lâu la cho đàn em thịt
  8. hehe890609

    hehe890609 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/06/2009
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Anh chị cho em hỏi tại sao người ta lại làm thêm 2 tấm nhỏ hướng xuống dưới ở dưới 2 động cơ của máy bay? Nó có tác dụng gì ạ? Em thấy ở cả máy bay mig và su đều có, mig 21 cũng có.
  9. hehe890609

    hehe890609 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/06/2009
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    0
    Cho em hỏi nữa là có loại máy bay mà cánh đuôi nằm ngang được đặt ở phía dưới thấp cánh đuôi đứng, ngang thân máy bay. Có loại máy bay thì cánh đuôi ngang lại nằm trên đình của cánh đuôi đứng như ở máy bay Beriev A 50 ở trên. Lúc nào thì người ta đặt cánh đuôi ngang nằm dưới, lúc nào đặt nằm trên ạ? Đặt nằm trên thì có lợi gì ạ?
    Được hehe890609 sửa chữa / chuyển vào 18:55 ngày 02/08/2009
  10. convitbuoc

    convitbuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2008
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    918
    Hầu hết các cánh đuôi của máy bay không nằm cùng mặt phẳng với cánh chính. Nguyên nhân là dòng khí sau khi đi qua mặt trên cánh chính bị tăng tốc nếu chạm vào cánh sau sẽ gia tăng lực cản một cách không cần thiết. Không những thế, phương của dòng khí thay đổi dù là nhỏ ở những mức vận tốc khác nhau sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cánh đuôi và độ ổn định chung của máy bay. Vi thế, cánh đuôi thường được đặt cao hơn mặt phảng cánh chính từ 20cm trở lên.
    Đối với các máy bay cách đây trên 30 năm như IL 62?vvv. Cánh đuôi còn đặt trên đầu mút của đuôi để gia tăng khoảng cách giữa chúng và tâm trọng lực của máy bay nhằm giảm lực cản và tiết kiệm nhiên liệu (với cùng một lục, khoảng cách xa hơn sẽ cho moment lớn hơn -> cần diện tích cánh đuôi nhỏ hơn -> lực cản nhỏ hơn)
    Kiểu thiết kế này hiện nay không được sử dụng bởi thiết kế cánh đuôi trên khiến cấu trúc chịu lực của đuôi phải lớn hơn và nặng hơn.

Chia sẻ trang này