1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về công thành và thủ thành trong lịch sử quân sự Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi muvlc, 21/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. muvlc

    muvlc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    2
    Một cổng thành HN lúc đã lọt vào tay quân Pháp
    [​IMG]
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Thành luỹ thế này chả trách thất thủ sớm. Mấy cái thành như Nam Định, Hải Dương thì dùng bộ binh thường cũng đánh được, chưa cần tới pháo.
    Ảnh đầu của bác muvlc có phải thành HN không vậy, có cái cột cờ giống ở HN ghê. Cái cuối là Cửa Nam thì phải.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 23:35 ngày 24/11/2006
  3. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Cái đầu đúng là thành Bắc Ninh bác Chiangshan ạ. Cái cuối là Cửa Bắc năm 1873, Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất. Lần này chưa có vết đạn.
    Ảnh của bác muvlc đẹp quá, lần đầu tiên em được xem những bức ảnh rõ đến như vậy.
  4. Thanglongtelecom

    Thanglongtelecom Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    1.575
    Đã được thích:
    0
    Chũ (Yên Thế - Bắc Giang chăng)
  5. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Các bác tán ghê quá, em vào tí.
    Trước hết, phải nói có hai điều kiện cần và đủ để tồn tại thành luỹ:
    1. Phải có đô thị: Cái này việt nam không có. Dân Việt cổ sống ở các làng. Thăng Long xưa chỉ gồm nơi vua chúa ở. Các đô thị được gọi là lớn chỉ đếm trên đầu ngón tay: Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Gia Định. Trong đó chỉ có Thăng Long là lịch sử tương đối dài. Còn chỉ toàn vài trăm năm trở lại đây, và được ghi chép khi người Tây đến. Riêng Thăng Long thì cái phần dân cư của nó, tức 36 phố phường ấy, theo tôi đồ rằng thì nó chỉ có vào thời Trịnh. Trước đó không thấy ghi chép. Trong khi đó, Roma, Luân Đôn, Trường An đều có lịch sử ít nhất là 2000 năm, dân cư lúc đông đúc đều khoảng 6 con số 0.
    2. Phải có chiến tranh: Dân ta toàn tự hào lịch sử VN anh hùng. Nhưng thực ra so với Tây, Tàu thì mức độ chiến tranh của ta không đáng con số lẻ của họ. KN HBTrưng 1 năm, Lý Nam Đế 5 năm, Phùng Hưng 7 năm, Mai Thúc loan cũng chỉ vài năm. Còn các cuộc khác thì không đáng để tính. Sau này kháng chiến cũng vậy, chống Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều chỉ đưới 1 năm là thắng lợi khải hoàn. Cá biệt chỉ có chống Minh, mất 20 năm. Trịnh Nguyễn Phân tranh 300 năm thật đấy, nhưng chiến tranh thật sự chỉ loanh quanh luỹ Thầy. Không đáng tính. Gộp cả lại có được đến 100 năm không. Trong khi đó ở Tây: 1500 năm Roma hầu như không lúc nào bình yên. Ở Tàu, mỗi thời loạn lạc đều kéo dài vài trăm năm: Xuân Thu, Chiến Quốc, Nam Bắc Triều, Ngũ Đại Thập Quốc .v.v... mức độ chiến tranh thì cực kỳ ác liệt.
    Vậy thì VN xây thành để làm gì. Luỹ tre làng đủ rồi. Đủ để táng vỡ đầu trai làng bên cạnh mà vẫn ra vào ngắm gái làng bên được. Khi có sự thì ta rút lên núi, xây thành làm gì???
  6. muvlc

    muvlc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    2
    Theo tôi, có một lý do quan trọng khiến VN không có các cuộc phòng thủ thành trì lâu dài: các thành VN thường có diện tích nhỏ, cái được bảo vệ trong phạm vi tường thành chỉ là dinh thự làm việc, kho tàng... chứ không có dân cư mấy. Cho nên, binh lính giữ thành ít có tinh thần quyết tử giữ thành để bảo vệ nhân dân (có dân trong thành đâu mà bảo vệ). Khi cảm thấy không ổn là quân phòng thủ sẵn sàng rút lui luôn.
    Trước hợp tiêu biểu là thành Tây Đô của nhà Hồ, tường cao hào sâu, kho tàng đầy đủ, nhưng tất cả những gì có trong thành chỉ thuộc về triều đình, không phải là sinh mạng của người dân cần được bảo vệ trước gươm đao kẻ thù. Trong khi bản thân triều Hồ chưa tạo được sự gắn bó sống chết giữa binh lính với triều đình, lính phòng thủ thành lại canh cánh nỗi niềm gia đình, vợ con ở bên ngoài không có ai bảo vệ. Cho nên số phận của toà thành kiên cố bậc nhất trong lịch sử quân sự phong kiến nước ta hẩm hiu là thế. Ngược lại, khi quân khởi nghĩa Lam Sơn vây lại Tây Đô, quân Minh lại chống giữ thành rất hăng và có hiệu quả, là vì giữ thành là giữ sinh mạng của chính mình.
  7. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    hình như trận Pháp công thành Hà Nội lần 1 của Hoàng Diệu thì có sách Tây ghi rằng dân chúng Hà Nội (hay Tàu?) chỉ ra đứng xem, vì họ vốn ghét nhà Nguyễn lâu rồi!!
    Mà quân Pháp công thành thì ngoài đại bác bắn còn dùng lính công binh đặt chất nổ cho đổ thành thì phải!!
  8. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Bác nói vậy lại không ổn rồi. 2 sĩ quan Pháp đều bị giết ở Hà Nội đấy (Cầu Giấy). Khi Pháp đánh thành, phía ta có gần 50.000 quân, nhưng mà đánh không lại. Trận HN trên wiki có tả đấy:
    Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng 4.000 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế.
    Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần Phủ Hoàng Hữu Xung, Đề Đốc Lê Văn Trinh, Bố Chánh Phan Văn Tuyển, Án Sát Tôn Thức Bá và lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.
    Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thơ, yêu sách 3 điều:
    Phá các tao tác phòng thủ trong thành
    Giải giới binh lính.
    Đúng 8 giờ các vị tổng đốc tuần phủ, bố chính, án sát và chánh, phó lãnh binh phải thân đến trình diện tại dinh đại tá. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại.
    Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội[3].
    Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo giặc và thông báo tình hình trong thành Hà Nôi cho Pháp. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng Đốc Hà Ninh.
    Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu[4]. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng.
    Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung[5], dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.
    Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 50 tuổi.
  9. X_3winofall

    X_3winofall Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.209
    Đã được thích:
    1
    đánh đấm íu quá
    truớc đây coi những trang sử về giai đoạn này mà thấy nhục quá.
    Giặc có vài trăm thằng, mình cả chục ngàn lính, thế mà để nó tung hoành tác quái. Ít ra cũng phải đánh đấm được như quân Thái Bình hay chí ít là cỡ quân Thanh chứ...
  10. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Em nghĩ nói vậy cũng chưa đúng. Quân Pháp tấn công Hà Nội vào ngày 20 tháng 11 năm 1873 còn mãi tới ngày ngày 21 tháng 12, tại Cầu Giấy Gác ni ê (Francis Garnier) bị quân Cờ Đen phục kích, trùm cờ rồi dùng giáo đâm chết. Còn Ri vi e (Henri Rivière) thì phải 10 năm sau, ngày 19 tháng 5 năm 1883, để đáp lại chiến thư của Lưu Vĩnh Phúc (10 tháng 5), đã cùng 550 quân kéo lên Phủ Hoài. Đến Cầu giấy thì bị quân Cờ Đen phục kích. Ri vi e chết. Lão này trước đây Pháp đặt bia tưởng niệm ở Thủ Lệ.

Chia sẻ trang này