1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về Khế ước xã hội - Jean Jacques Rousseau

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 11/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    6. BÀN VỀ LUẬT
    Với công ước xã hội, chúng ta làm cho cơ thể chính trị tồn tại và có một đời sống. Ta lại phải lấy việc lập pháp để làm cho cơ thể chính trị có vận động và có ý chí; vì điều khoản đầu tiên làm cho cơ thể chính trị hình thành và cố kết chưa phải là điều khoản làm cho nó được bảo toàn.
    Sự vật tốt lành và hợp với trật tự là do bản chất của nó, chứ không phụ thuộc vào các công ước giữa người với người.Tất cả công lý là tự Trời mà ra. Trời là nguồn gốc của công lý. Nhưng nếu ta, biết tiếp nhận công lý từ Trời thì ta chẳng cần đến Chính phủ và luật pháp nữa. Tất nhiên là có một công lý phổ thông toát ra từ lý trí; nhưng công lý đó muốn được chấp nhận nhận phải có đi có lại. Xem xét các sự vật một cách phàm tục, ta thấy dường như thiên nhiên đã qui đinh rằng luật công bằng không ăn nhằm gì với con người. Pháp luật chỉ làm tốt cho kẻ ác và làm xấu cho người đứng đắn. Anh ta tôn trọng luật pháp đối với mọi người, nhưng mọi người lại không tôn trọng luật pháp với anh ta. Vậy phải có những công ước và những đạo luật để gắn liền quyền hạn và nghĩa vụ, đưa công lý về với đối tượng của nó.
    Trong trạng thái tự nhiên, mọi cái đều là chung cho mọi người, tôi chẳng phải làm gì cho những người mà tôi không hứa hẹn gì với họ. Tôi chỉ nhận làm cho người khác cái gì mà tôi thấy bổ ích cho tôi. Trong trạng thái dân sự thì không thể, ở đây mọi quyền đều do luật qui đinh.
    Vậy rốt cuộc luật lệ là gì ? Chừng nào người ta còn gắn cho chữ luật những ý niệm siêu hình thì người ta cứ việc luận giải mà không cần phải hiểu thấu; và khi người ta nói về qui luật tự nhiên thi người ta chẳng biết gì hơn về luật của Nhà nước.
    Trên kia tôi đã nói không có gì là ý chí chung trên một đối tượng cá nhân. Đối tượng cá nhân ấy có thể là trong Nhà nước hoặc ngoài Nhà nước. Nếu ở ngoài Nhà nước thì một ý chí khác với cá nhân anh không thể lấy chí chung đối với anh được. Nếu đối tượng cá nhân đó là ở trong Nhà nước, thì y chí chung dẫu là khác với ý riêng của anh, vẫn là ý chí chung đối với anh. Lúc đó hình thành một quan hệ giữa một bên là cá nhân, bên kia là toàn thể trừ cá nhân ấy. Nhưng toàn thể bớt đi một cá nhân thì không còn là toàn thế nữa, và mối quan hệ trên đây chỉ là giữa hai bên không đều nhau; ý chí bên này không thể là ý chí chung cho cả bên kia được.
    Khi toàn dân qui định một điều gì cho toàn dân thì họ chỉ xem xét đến toàn thể, nếu hình thành mối quan hệ thì phải là quan hệ giữa toàn thể trên một cách nhìn này với toàn thể trên một cách nhìn khác; cái toàn thể không hề bị chia tách ra. Như vậy chất liệu để xây dựng là chất liệu chung, cũng như ý chí xây dựng là ý chí chung. Cái đó tôi gọi là luật. Khi tôi nói luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người (ND), tôi hiểu rằng luật coi tất cả thần dân là một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động, không coi con người như một cá nhân hoặc như một hành động riêng lẻ. Luật có thể qui đinh rằng sẽ có một số đặc quyền, nhưng không nói rõ đặc quyền cho một cá nhân cụ thể nào. Luật cũng có thể chia công dân làm nhiều hạng, nhưng không chỉ định cụ thể người nọ người kia là thuộc hạng này hay hạng khác. Luật có thể qui đinh việc thành lập chính phủ và hệ thống cấp bậc, nhưng không cử ra một ông vua hay chỉ định ra một gia tộc nào là hoàng gia. Tóm lại mọi chức năng liên quan đến đối tượng cá nhân không phải là chức năng của quyền lực lập pháp.
    Trên tư tưởng này ta sẽ thấy rằng không nên hỏi ai là người làm ra luật, vì luật là những điều khoản của ý chí chung. Cũng không nên hỏi vị nguyên thủ có đứng trên luật không, vì ông ta cũng chỉ là một thành viên của Nhà nước. Cũng không nên hỏi luật có thể nào bất công chăng, vì không ai lại bất công với chính bản thân mình. Cũng không nên hỏi ta được tự do và phải tuân theo luật như thế nào, vì luật chỉ là ghi lại ý chí của ta mà thôi.
    Ta cũng lấy rằng luật lệ thống nhất cái tổng thể của ý chí với tổng thể của đối tượng. Cái mà một người, vô luận chức tước gì, ra lệnh cho lột cá nhân làm, không phải là luật. Ngay cái mà cơ quan quyền lực tối cao ra lệnh cho một đối tượng cá nhân cũng không phải luật, mà chỉ là một nghị định. Nó không phải việc của cơ quan tối cao mà của cá nhân pháp quan.
    Vậy nước cộng hòa là tất cả những nước nào do luật trị vì bất kể trị vì dưới hình thức nào. Luật trị vì tức là lợi ích chung trị vì. Cái chung là một cái gì đó khá quan trọng.Tất cả những chính phủ chính đáng đều là chính phủ cộng hòa [5*]. Sau đây tôi sẽ giải thích chính phủ là gì.
    Luật chỉ là những điều kiện chính thức của việc tập hợp dân sự. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật (ND) . Chỉ những người họp thành xã hội mới có quyền xử lý các điều kiện xã hội. Nhưng người ta xử lý nó như thế nào? Phải chăng đó là một cuộc thảo luận chung, theo một sáng kiến nhất thời ? Cơ thể chính tri có một bộ máy nào để công bố ý chí chung hay không ? Ai sẽ làm cho cơ quan đó có được sự nhìn xa cần thiết để soạn thành các luật và cồng bố
  2. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    7. BÀN VỀ NGƯỜI LẬP PHÁP
    Muốn tìm ra chung quy tắc xã hội tốt nhất thích hợp với quốc gia thì phải có một trí tuệ ưu việt. Trí tuệ ấy thấy rõ mọi ham muốn của con người mà không thiên về một ham muốn nào. Trí tuệ ấy không dính líu tới bản chất của từng người nhưng am hiểu nó thật tường tận. Hạnh phúc của trí tuệ ấy không phụ thuộc vào chúng ta, nhưng vẫn muốn chăm lo hạnh phúc cho ta. Trí tuệ ấy xây dựng một sự nghiệp cao cả, lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ ở thế kỷ sau [6*] Nếu thế thì phải là thần thánh mới đem lại luật pháp cho con người được.
    Trên đây là cách luận giải của Caligula trong hành động thực tế của ông. Còn Platon (25) thì ứng dụng điều trên đây vào luật học để đinh nghĩa con người dân sự và con người vương giả trong cuốn sách "Bàn về trị vì" (du Règne) của ông. Nhưng nếu một ông vua lớn là người hiếm có, thi nhà lập pháp lớn sẽ là người như thế nào nữa kia. Ông vua chỉ làm theo mô hình của nhà lập pháp. Nhà lập pháp là kĩ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy.
    Montesquieu (26) nói : "Khi xã hội mới hình thành, thủ lĩnh các nước cộng hòa tạo nên thể chế và sau đó chính thể chế lại đào tạo nên các thủ lĩnh của nền cộng hòa" .
    Ai dám đứng ra xây dựng chế độ cho cả một dân tộc. Người đó phải cảm thấy mình ở tư thế làm biến đổi tính chất con người, cải tạo được từng cá nhân, còn bản thân ông ta là một tổng thể hoàn chỉnh và đơn độc, là bộ phận của một tổng thể lớn hơn; người đó phải cảm thấy mình ở tư thế cải biến cấu trúc loài người để tăng cường nó, thay đổi sự tồn tại chỉ có ý nghĩa tinh thần và cục bộ bằng một sự tồn tại vật chất độc lập, mà mỗi người chúng ta đều được thiên nhiên ban cho. Tóm lại, người lập pháp đó rút đi sức mạnh vốn có trong mỗi người, rồi thay nó bằng một sức mạnh khác, sức mạnh mới này mỗi khi vận đụng nó thì phải có sự giúp đỡ của người đồng loại.
    Như vậy, sức mạnh tự nhiên bi mất đi, bị hủy bỏ đi bao nhiêu thì sức mạnh mới thu được càng lớn lên và lâu bền bấy nhiêu, cơ chế xã hội càng vững chắc và hoàn chỉnh bấy nhiêu. Nếu mỗi công dân không là gì cả, và chỉ có thể là một cái gì nhờ tất cả mọi người mà tồn tại, thì sức mạnh thu được của tất cả mọi người phải bằng hoặc lớn hơn tổng số sức mạnh tự nhiên của mọi cá nhân cộng lại.
    Có thể nói rằng lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức thạnh tập thể có thể đạt tới (ND). Người lập pháp, về tất cả mọi phương diện là một người phi thường trong quốc gia; phi thường chẳng những do thiên tài mà chính là do được sử dụng nữa. Người lập pháp quyết không phải một vị pháp quan hay một quốc vương. Việc sử dụng nhà lập pháp không đưa vào trong hiến pháp, nhưng việc sử dụng đó lại tạo lập ra nền cộng hòa. Đó là một chức năng đặc biệt và cao cả, không giống với chức năng của một con người cụ thể, bởi vì ai đã truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh cho pháp luật cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất công, sẽ không tránh khỏi tình trạng các quan điểm cá nhân làm mờnhạt sự trong sáng của tác phẩm. Khi Lycurgue đưa pháp luật về cho tổ quốc, việc đầu tiên là ông xóa bỏ ngôi vua. Điều đó đã thành một tập quán lớn của các thành bang Hi Lạp khi họ trao quyền lập pháp cho một người ngoại lai. Các nước cộng hòa hiện đại trên đất Ý thường học theo tập quán này. Nước Cộng hòa Genève cũng làm thế, và thấy thế là tốt [7*].
    La Mã đến thời cực thịnh thì bắt đầu quy vào cho một số người có quyền lập pháp và quyền cai trị tối cao; từ đó nảy sinh các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và Nhà nước La Mã cổ đại bước dần vào chỗ suy vong.
    Tuy nhiên, các vị trong hàng thập đại pháp quan La Mã không được phép thông qua một đạo luật nào quy đinh quyền hạn của họ. Họ nói với dân chúng rộng: "Những điều chúng tôi đề nghị chỉ biến thành luật chừng nào dân chúng đồng ý. Hỡi công dân La Mã, các bạn hãy làm ra luật để bảo đảm lấy hạnh phúc của mình.
    Vậy người chấp pháp không nền có quyền lập pháp (ND) và dân chúng dầu muốn cũ ng không thể trao quyền lập pháp cho người chấp pháp. Vì theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhãn phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc rằng ý chí cá nhân tự nó phù hợp với với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý chí cá nhân dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng.
    Tôi đã nói điều trên đây, nhưng nhắc lại cũng không thừa. Như vậy ta thấy trong công trình lập pháp có hai điều dường như mâu thuẫn nhau. Một thiết chế vượt lên trên sức mạnh con người, và thực hiện thiết chế đó là một quyền uy không là cái gì hết.
    Còn một điều rắc rối nữa đáng được lưu ý: Các nhà thông thái muốn nói với người tầm thường bằng ngôn ngữ bình dân cũng chưa chực được người ta hiểu mình. Có hàng ngàn thứ tư tưởng không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân. Những vấn đề quá khái quát, những đối tượng quá xa xôi đều ở ngoài tầm nhận thức của con người bình dân là những người thường chỉ thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi là những người riêng của mình, khó mà nhận ra các điều lợi do các luật đúng đắn mang lại, thông qua sự tước bỏ những quyền cá nhân của họ. Muốn cho một dân tộc đang hình thành được hưởng những phương châm chính trị tốt đẹp và tuân theo luật cơ bản của lý trí quốc gia thì phải lộn ngược kết quả làm nguyên nhân: Đầu óc xã hội là do thể chế tạo ra đã chủ trì thể chế đó. Con người trước khi làm ra luật đã phải là con người đo luật đào tạo nên.
    Vậy thì người lập pháp không thể dùng sức mạnh cũng như lý lẽ; ông ta phải nhờ đến một thứ quyền uy khác, có thể chinh phục người ta mà không dùng đến bạo lực, có thể thuyết phục người ta mà không cần phải nói lý lẽ.
    Cho nên ta thấy rằng qua mọi thời đại thủ lĩnh quốc gia đều phải nhờ đến sự can thiệp của Trời. Họ gắn cho Trời sự thông thái của chính họ, để dân chúng phải phục tùng luật pháp Nhà nước y như phục tùng các quy luật tự nhiên vậy. Trong khi thừa nhận quyền lực của Trời để tạo ra con người, tạo ra thành bang và tuân thần Trời một cách tự do, thì dân chúng cũng tự nguyện mang lấy cái tròng phúc lợi công cộng của luật pháp.
    Cái lý lẽ cao siêu ấy vượt lên trên tầm của con người bình thường, chính là lý lẽ mà người lập pháp gán cho thần thánh để dùng quyền lực siêu nhân lung lạc trì tuệ dân chúng [8*].
    Nhưng không phải ai cũng có thể làm cho thần thánh lên tiếng và được tin theo trong khi họ tuyên xưng mình là kẻ diễn đạt ý Trời. Tâm hồn cao cả của người lập pháp chính là điều kỳ diệu xác nhận chức năng của ông ta.
    Để ép dân chúng, người khắc mệnh lệnh lên đó, hoặc mượn lời sấm truyền, hoặc vờ vĩnh làm chuyện mua bán bí mật với thần thánh; hoặc dựng lên những con vật biết nói vào tai dân, hoặc tìm ra những biện pháp thô bạo khác. Những kẻ ấy chỉ biết tập hợp một cách ngẫu nhiên những người không phương hướng, chứ không thể nào xây dựng được một đất nước vững bền. Sự nghiệp rởm của họ sẽ tiêu tan sau khi họ chết. Mọi thứ uy tín giả tạo chỉ làm ra những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác mới tạo nên những mối liên hệ vững bền. Luật Do Thái (28) luôn có thể bị thay thế, luật của con trai Ismael (29) thì đã trị vì phân nửa thế giới trong mười thế kỷ, cho đến nay còn được các bậc vĩ nhân truyền tụng.
    Những đầu óc bè phái mù quáng, kiêu căng coi các bậc vĩ nhân như bọn bịp đời, còn các nhà chính khánh đúng đắn thì thán phục tài năng lớn lao và thể chế vững bền mà các vĩ nhân đã dựng nên.
    Qua những điều được trình bày trên đây, xin chớ kết luận như Warburton ( 30 ) rằng chính trị và tôn giáo có chung một đối tượng; mà nên kết luận rằng trong nguồn gốc dân tộc, tôn giáo là công cụ của chính trị và chính trị cũng là công cụ của tôn giáo.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [6*]. Một dân tộc chỉ trở nên nổi tiếng khi cơ quan lập pháp của dân tộc ấy bắt đầu suy thoái. Người ta không rõ cơ chế lập pháp của Lycurgue (xem chú thích ở 21 - ND) đưa lại hạnh phúc cho nhân dân thành bang Sperte trong vòng mấy thế kỷ nó mới bị đặt thành vấn đề trong các thành bang khác ở Hy Lạp.
    [7*]. Nếu cho rằng Calvin (27) chỉ là một nhà thần học thì chưa hiểu dúng tài năng rộng lớn của ông. Ông đã góp nhiều công lao trong việc soạn thảo các pháp lệnh sáng suốt. Trong tôn giáo của ta ngày nay được dựa vào một số điều cách mạng như tình yêu tồ quốc, yêu tự do, mãi mãi soi sáng lòng ta, chính là nhờ ở con người vĩ dại này.
    [8*]. Machiavel nói: "Eversmente mai non fu alcuno ordinatore di leggi straordinane in un popomo, che non ricorresse a Dio, perche altrimeuti non sarrebero accettate; perche sono molyi beni conosciuti da uno prudente, i quali non hanno in e regguoni de potergli persusdere ad altrui". (Discorai sopre fito Livis. tib.I, CXL (Câu latinh trên nghĩa là:" Thật ra không có một nhà làm luật đặc cách của bắt cứ dân tộc nào mà không chạy tới cầu khẩn Trời. Không làm thế thì họ không được ohầp nhận. Có nhiều phước lành mà các thánh hiểu rõ, nhưng người thường không tin vào đó được vì nó không hiển nhiên (Lời giảng trong tập kỷ I - Tito Uvo. Quyển I, chương 11) .
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:06 ngày 11/04/2004
  3. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    7. BÀN VỀ NGƯỜI LẬP PHÁP
    Muốn tìm ra chung quy tắc xã hội tốt nhất thích hợp với quốc gia thì phải có một trí tuệ ưu việt. Trí tuệ ấy thấy rõ mọi ham muốn của con người mà không thiên về một ham muốn nào. Trí tuệ ấy không dính líu tới bản chất của từng người nhưng am hiểu nó thật tường tận. Hạnh phúc của trí tuệ ấy không phụ thuộc vào chúng ta, nhưng vẫn muốn chăm lo hạnh phúc cho ta. Trí tuệ ấy xây dựng một sự nghiệp cao cả, lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ ở thế kỷ sau [6*] Nếu thế thì phải là thần thánh mới đem lại luật pháp cho con người được.
    Trên đây là cách luận giải của Caligula trong hành động thực tế của ông. Còn Platon (25) thì ứng dụng điều trên đây vào luật học để đinh nghĩa con người dân sự và con người vương giả trong cuốn sách "Bàn về trị vì" (du Règne) của ông. Nhưng nếu một ông vua lớn là người hiếm có, thi nhà lập pháp lớn sẽ là người như thế nào nữa kia. Ông vua chỉ làm theo mô hình của nhà lập pháp. Nhà lập pháp là kĩ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy.
    Montesquieu (26) nói : "Khi xã hội mới hình thành, thủ lĩnh các nước cộng hòa tạo nên thể chế và sau đó chính thể chế lại đào tạo nên các thủ lĩnh của nền cộng hòa" .
    Ai dám đứng ra xây dựng chế độ cho cả một dân tộc. Người đó phải cảm thấy mình ở tư thế làm biến đổi tính chất con người, cải tạo được từng cá nhân, còn bản thân ông ta là một tổng thể hoàn chỉnh và đơn độc, là bộ phận của một tổng thể lớn hơn; người đó phải cảm thấy mình ở tư thế cải biến cấu trúc loài người để tăng cường nó, thay đổi sự tồn tại chỉ có ý nghĩa tinh thần và cục bộ bằng một sự tồn tại vật chất độc lập, mà mỗi người chúng ta đều được thiên nhiên ban cho. Tóm lại, người lập pháp đó rút đi sức mạnh vốn có trong mỗi người, rồi thay nó bằng một sức mạnh khác, sức mạnh mới này mỗi khi vận đụng nó thì phải có sự giúp đỡ của người đồng loại.
    Như vậy, sức mạnh tự nhiên bi mất đi, bị hủy bỏ đi bao nhiêu thì sức mạnh mới thu được càng lớn lên và lâu bền bấy nhiêu, cơ chế xã hội càng vững chắc và hoàn chỉnh bấy nhiêu. Nếu mỗi công dân không là gì cả, và chỉ có thể là một cái gì nhờ tất cả mọi người mà tồn tại, thì sức mạnh thu được của tất cả mọi người phải bằng hoặc lớn hơn tổng số sức mạnh tự nhiên của mọi cá nhân cộng lại.
    Có thể nói rằng lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức thạnh tập thể có thể đạt tới (ND). Người lập pháp, về tất cả mọi phương diện là một người phi thường trong quốc gia; phi thường chẳng những do thiên tài mà chính là do được sử dụng nữa. Người lập pháp quyết không phải một vị pháp quan hay một quốc vương. Việc sử dụng nhà lập pháp không đưa vào trong hiến pháp, nhưng việc sử dụng đó lại tạo lập ra nền cộng hòa. Đó là một chức năng đặc biệt và cao cả, không giống với chức năng của một con người cụ thể, bởi vì ai đã truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh cho pháp luật cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất công, sẽ không tránh khỏi tình trạng các quan điểm cá nhân làm mờnhạt sự trong sáng của tác phẩm. Khi Lycurgue đưa pháp luật về cho tổ quốc, việc đầu tiên là ông xóa bỏ ngôi vua. Điều đó đã thành một tập quán lớn của các thành bang Hi Lạp khi họ trao quyền lập pháp cho một người ngoại lai. Các nước cộng hòa hiện đại trên đất Ý thường học theo tập quán này. Nước Cộng hòa Genève cũng làm thế, và thấy thế là tốt [7*].
    La Mã đến thời cực thịnh thì bắt đầu quy vào cho một số người có quyền lập pháp và quyền cai trị tối cao; từ đó nảy sinh các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và Nhà nước La Mã cổ đại bước dần vào chỗ suy vong.
    Tuy nhiên, các vị trong hàng thập đại pháp quan La Mã không được phép thông qua một đạo luật nào quy đinh quyền hạn của họ. Họ nói với dân chúng rộng: "Những điều chúng tôi đề nghị chỉ biến thành luật chừng nào dân chúng đồng ý. Hỡi công dân La Mã, các bạn hãy làm ra luật để bảo đảm lấy hạnh phúc của mình.
    Vậy người chấp pháp không nền có quyền lập pháp (ND) và dân chúng dầu muốn cũ ng không thể trao quyền lập pháp cho người chấp pháp. Vì theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhãn phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc rằng ý chí cá nhân tự nó phù hợp với với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý chí cá nhân dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng.
    Tôi đã nói điều trên đây, nhưng nhắc lại cũng không thừa. Như vậy ta thấy trong công trình lập pháp có hai điều dường như mâu thuẫn nhau. Một thiết chế vượt lên trên sức mạnh con người, và thực hiện thiết chế đó là một quyền uy không là cái gì hết.
    Còn một điều rắc rối nữa đáng được lưu ý: Các nhà thông thái muốn nói với người tầm thường bằng ngôn ngữ bình dân cũng chưa chực được người ta hiểu mình. Có hàng ngàn thứ tư tưởng không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân. Những vấn đề quá khái quát, những đối tượng quá xa xôi đều ở ngoài tầm nhận thức của con người bình dân là những người thường chỉ thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi là những người riêng của mình, khó mà nhận ra các điều lợi do các luật đúng đắn mang lại, thông qua sự tước bỏ những quyền cá nhân của họ. Muốn cho một dân tộc đang hình thành được hưởng những phương châm chính trị tốt đẹp và tuân theo luật cơ bản của lý trí quốc gia thì phải lộn ngược kết quả làm nguyên nhân: Đầu óc xã hội là do thể chế tạo ra đã chủ trì thể chế đó. Con người trước khi làm ra luật đã phải là con người đo luật đào tạo nên.
    Vậy thì người lập pháp không thể dùng sức mạnh cũng như lý lẽ; ông ta phải nhờ đến một thứ quyền uy khác, có thể chinh phục người ta mà không dùng đến bạo lực, có thể thuyết phục người ta mà không cần phải nói lý lẽ.
    Cho nên ta thấy rằng qua mọi thời đại thủ lĩnh quốc gia đều phải nhờ đến sự can thiệp của Trời. Họ gắn cho Trời sự thông thái của chính họ, để dân chúng phải phục tùng luật pháp Nhà nước y như phục tùng các quy luật tự nhiên vậy. Trong khi thừa nhận quyền lực của Trời để tạo ra con người, tạo ra thành bang và tuân thần Trời một cách tự do, thì dân chúng cũng tự nguyện mang lấy cái tròng phúc lợi công cộng của luật pháp.
    Cái lý lẽ cao siêu ấy vượt lên trên tầm của con người bình thường, chính là lý lẽ mà người lập pháp gán cho thần thánh để dùng quyền lực siêu nhân lung lạc trì tuệ dân chúng [8*].
    Nhưng không phải ai cũng có thể làm cho thần thánh lên tiếng và được tin theo trong khi họ tuyên xưng mình là kẻ diễn đạt ý Trời. Tâm hồn cao cả của người lập pháp chính là điều kỳ diệu xác nhận chức năng của ông ta.
    Để ép dân chúng, người khắc mệnh lệnh lên đó, hoặc mượn lời sấm truyền, hoặc vờ vĩnh làm chuyện mua bán bí mật với thần thánh; hoặc dựng lên những con vật biết nói vào tai dân, hoặc tìm ra những biện pháp thô bạo khác. Những kẻ ấy chỉ biết tập hợp một cách ngẫu nhiên những người không phương hướng, chứ không thể nào xây dựng được một đất nước vững bền. Sự nghiệp rởm của họ sẽ tiêu tan sau khi họ chết. Mọi thứ uy tín giả tạo chỉ làm ra những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác mới tạo nên những mối liên hệ vững bền. Luật Do Thái (28) luôn có thể bị thay thế, luật của con trai Ismael (29) thì đã trị vì phân nửa thế giới trong mười thế kỷ, cho đến nay còn được các bậc vĩ nhân truyền tụng.
    Những đầu óc bè phái mù quáng, kiêu căng coi các bậc vĩ nhân như bọn bịp đời, còn các nhà chính khánh đúng đắn thì thán phục tài năng lớn lao và thể chế vững bền mà các vĩ nhân đã dựng nên.
    Qua những điều được trình bày trên đây, xin chớ kết luận như Warburton ( 30 ) rằng chính trị và tôn giáo có chung một đối tượng; mà nên kết luận rằng trong nguồn gốc dân tộc, tôn giáo là công cụ của chính trị và chính trị cũng là công cụ của tôn giáo.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [6*]. Một dân tộc chỉ trở nên nổi tiếng khi cơ quan lập pháp của dân tộc ấy bắt đầu suy thoái. Người ta không rõ cơ chế lập pháp của Lycurgue (xem chú thích ở 21 - ND) đưa lại hạnh phúc cho nhân dân thành bang Sperte trong vòng mấy thế kỷ nó mới bị đặt thành vấn đề trong các thành bang khác ở Hy Lạp.
    [7*]. Nếu cho rằng Calvin (27) chỉ là một nhà thần học thì chưa hiểu dúng tài năng rộng lớn của ông. Ông đã góp nhiều công lao trong việc soạn thảo các pháp lệnh sáng suốt. Trong tôn giáo của ta ngày nay được dựa vào một số điều cách mạng như tình yêu tồ quốc, yêu tự do, mãi mãi soi sáng lòng ta, chính là nhờ ở con người vĩ dại này.
    [8*]. Machiavel nói: "Eversmente mai non fu alcuno ordinatore di leggi straordinane in un popomo, che non ricorresse a Dio, perche altrimeuti non sarrebero accettate; perche sono molyi beni conosciuti da uno prudente, i quali non hanno in e regguoni de potergli persusdere ad altrui". (Discorai sopre fito Livis. tib.I, CXL (Câu latinh trên nghĩa là:" Thật ra không có một nhà làm luật đặc cách của bắt cứ dân tộc nào mà không chạy tới cầu khẩn Trời. Không làm thế thì họ không được ohầp nhận. Có nhiều phước lành mà các thánh hiểu rõ, nhưng người thường không tin vào đó được vì nó không hiển nhiên (Lời giảng trong tập kỷ I - Tito Uvo. Quyển I, chương 11) .
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:06 ngày 11/04/2004
  4. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    8. DÂN CHÚNG
    Trước khi dựng lâu đài lớn, nhà kiến trúc thăm dò xem đất có chịu nổi trọng lượng của lâu đài hay không. Nhà lập hiến thông minh không bắt tay ngay vào việc soạn luật, trước đó ông xem xét dân chúng là người tiếp nhận luật có thích ứng được với luật không (ND) : Vì thế mà Platon đã từ chối không soạn thảo luật cho dân Arcadie (31) và dân Cyrène (32) , vì biết họ là dân giàu có, không thể chịu nổi sự bình đẳng. Cũng do vậy mà ở Crète (33) có luật tốt mà lại có nhiều người ác, vì vua (Minos) (34) chỉ đưa một dân tộc tội lỗi vào trật tự.
    Trên trái đất có hàng ngàn dân tộc đã nổi bật lên, nhưng chưa bao giờ có được luật pháp tốt. Một số dân tộc khác đã từng có luật pháp tốt nhưng chỉ được một thời gian ngắn.
    Phần lớn các dân tộc cũng như con người, chỉ dễ bảo khi còn trẻ tuổi,về già càng khó uốn nắn. Một khi phong tục tập quán đã bắt rễ sâu, muốn thay đổi nó thì thật nguy hiểm và vô hiệu; dân chúng không chịu nổi ngay khi người ta động đến những cái xấu xa của họ để giúp cho họ tiễu trừ cál xấu ấy, chẳng khác gì những con bệnh đần độn và nhút nhát thường sợ hãi khi trông thấy bác sĩ.
    Nói như thế không có nghĩa là các dân tộc không thể có lúc trẻ lại. Người ta đôi khi vì mắc bệnh mà quên hết quá khứ. Các dân tộc cũng có thời kỳ cách mạng sôi động, khủng hoảng dữ dội gây ra kinh hoàng, nhưng rồi người ta quên đi. Được kích thích bằng những cuộc nội chiến, Nhà nước thoát khỏi tay thần chết lại phục hưng từ đống tro tàn, lấy lại sức sống của thời trai trẻ. Đó là những trường hợp của thành bang Sparte thời Lycurgue. Đó là trường hợp của La Mã dưới triều đại các vua Tarquins (35). Đó cũng là trường hợp của Hà Lan và Thụy Sỹ trong thời đại chúng ta ngày nay, sau khi các bạo chúa đã bị trừ khử .
    Nhưng các trường hợp như trên là hiếm có . Trong các quốc gia ngoại lệ đó, lý trí luôn luôn thể biện trong hiến pháp độc đáo của họ. Ngay các quốc gia này cũng không thể có được hai lần hồi sinh như thế, vì họ chỉ tự do khi còn dã man, chứ đã tiến lên văn minh rồi thì khó lập lại tự do. Lúc này những sự rối loạn có thể phá hủy quốc gia mà các cuộc cách mạng cũng không thể nào tái tạo quốc gia được; khi xiềng xích bị cách mạng phá tung thì quốc gia cũng đã rã rời từng mảng và không tồn tại nữa. Lúc này quốc gia cần có một người chủ, chứ không phải một người giải- phóng. Các dân tộc tự do hãy nhớ lấy châm ngôn này : "Người ta có thể giành lấy tự do, chứ không sao giờ vớt vát lại tự do đã mất" (ND).
    Tuổi trẻ không phải là thời thơ ấu. Các quốc gia cũng như con người, đều có một thời trai trẻ, hoặc tuổi trưởng thành khi mà quốc gia đã biết khép mình vào luật. Nhưng sự trưởng thành của một dân tộc không phải lúc nào cũng dễ nhận ra và nếu người ta báo trước thì nó sẽ không đến đâu ! Một số dân tộc khi mới hình thành đã có khả năng tiếp thu trật tự; và có dân tộc qua hàng chục thế kỷ vẫn chưa tiếp thu nổi trật tự.Người Nga sẽ không bao giờ thực sự văn minh, vì họ đã từng vào nếp quá sớm. Vua Pierre (36) có tài bắt chước chứ không có tài sáng tạo. Người có tài năng phải sáng tạo và làm ra tất cả từ hai bàn tay không. Một vài việc vua Pierre làm cũng là tốt đẹp; nhưng phần lớn các việc khác thì đều bi lệch lạc đi cả. Ông ta chỉ thấy dân tộc mình dã man, mà không hề thấy rằng dân Nga chưa đủ chín muồi để tiến tới văn minh. Ông muốn khai hóa nước Nga, nhưng chỉ đưa nước Nga vào những cuộc chinh chiến. Ông muốn được như người Đức, người Anh, nhưng lại bắt đầu với người Nga. Người Nga vốn chưa được giỏi giang như thế, nhưng ông cứ khăng khăng thuyết phục họ rằng họ đã từng giỏi giang; cho nên ông đã ngăn cản thần dân không đạt được cái đích mà họ có thể đến. Thật giống như một anh gia sư người Pháp cố dạy cho học trò mình thành nhà thông thái, nhưng khi nó lớn lên nó lại chẳng ra quái gì. Đế quốc Nga muốn thống trị cả Châu âu, nhưng rồi nó lại chỉ thống trị mình nó. Người Tartares (37) đã từng chiếm được nước Nga và các nước Châu âu; quá trình này xem ra tất yếu. Hết thảy vua chúa Châu âu dường như đã cùng hành động nhịp nhàng để thúc đẩy nhanh quá trình xâm lược này.
  5. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    8. DÂN CHÚNG
    Trước khi dựng lâu đài lớn, nhà kiến trúc thăm dò xem đất có chịu nổi trọng lượng của lâu đài hay không. Nhà lập hiến thông minh không bắt tay ngay vào việc soạn luật, trước đó ông xem xét dân chúng là người tiếp nhận luật có thích ứng được với luật không (ND) : Vì thế mà Platon đã từ chối không soạn thảo luật cho dân Arcadie (31) và dân Cyrène (32) , vì biết họ là dân giàu có, không thể chịu nổi sự bình đẳng. Cũng do vậy mà ở Crète (33) có luật tốt mà lại có nhiều người ác, vì vua (Minos) (34) chỉ đưa một dân tộc tội lỗi vào trật tự.
    Trên trái đất có hàng ngàn dân tộc đã nổi bật lên, nhưng chưa bao giờ có được luật pháp tốt. Một số dân tộc khác đã từng có luật pháp tốt nhưng chỉ được một thời gian ngắn.
    Phần lớn các dân tộc cũng như con người, chỉ dễ bảo khi còn trẻ tuổi,về già càng khó uốn nắn. Một khi phong tục tập quán đã bắt rễ sâu, muốn thay đổi nó thì thật nguy hiểm và vô hiệu; dân chúng không chịu nổi ngay khi người ta động đến những cái xấu xa của họ để giúp cho họ tiễu trừ cál xấu ấy, chẳng khác gì những con bệnh đần độn và nhút nhát thường sợ hãi khi trông thấy bác sĩ.
    Nói như thế không có nghĩa là các dân tộc không thể có lúc trẻ lại. Người ta đôi khi vì mắc bệnh mà quên hết quá khứ. Các dân tộc cũng có thời kỳ cách mạng sôi động, khủng hoảng dữ dội gây ra kinh hoàng, nhưng rồi người ta quên đi. Được kích thích bằng những cuộc nội chiến, Nhà nước thoát khỏi tay thần chết lại phục hưng từ đống tro tàn, lấy lại sức sống của thời trai trẻ. Đó là những trường hợp của thành bang Sparte thời Lycurgue. Đó là trường hợp của La Mã dưới triều đại các vua Tarquins (35). Đó cũng là trường hợp của Hà Lan và Thụy Sỹ trong thời đại chúng ta ngày nay, sau khi các bạo chúa đã bị trừ khử .
    Nhưng các trường hợp như trên là hiếm có . Trong các quốc gia ngoại lệ đó, lý trí luôn luôn thể biện trong hiến pháp độc đáo của họ. Ngay các quốc gia này cũng không thể có được hai lần hồi sinh như thế, vì họ chỉ tự do khi còn dã man, chứ đã tiến lên văn minh rồi thì khó lập lại tự do. Lúc này những sự rối loạn có thể phá hủy quốc gia mà các cuộc cách mạng cũng không thể nào tái tạo quốc gia được; khi xiềng xích bị cách mạng phá tung thì quốc gia cũng đã rã rời từng mảng và không tồn tại nữa. Lúc này quốc gia cần có một người chủ, chứ không phải một người giải- phóng. Các dân tộc tự do hãy nhớ lấy châm ngôn này : "Người ta có thể giành lấy tự do, chứ không sao giờ vớt vát lại tự do đã mất" (ND).
    Tuổi trẻ không phải là thời thơ ấu. Các quốc gia cũng như con người, đều có một thời trai trẻ, hoặc tuổi trưởng thành khi mà quốc gia đã biết khép mình vào luật. Nhưng sự trưởng thành của một dân tộc không phải lúc nào cũng dễ nhận ra và nếu người ta báo trước thì nó sẽ không đến đâu ! Một số dân tộc khi mới hình thành đã có khả năng tiếp thu trật tự; và có dân tộc qua hàng chục thế kỷ vẫn chưa tiếp thu nổi trật tự.Người Nga sẽ không bao giờ thực sự văn minh, vì họ đã từng vào nếp quá sớm. Vua Pierre (36) có tài bắt chước chứ không có tài sáng tạo. Người có tài năng phải sáng tạo và làm ra tất cả từ hai bàn tay không. Một vài việc vua Pierre làm cũng là tốt đẹp; nhưng phần lớn các việc khác thì đều bi lệch lạc đi cả. Ông ta chỉ thấy dân tộc mình dã man, mà không hề thấy rằng dân Nga chưa đủ chín muồi để tiến tới văn minh. Ông muốn khai hóa nước Nga, nhưng chỉ đưa nước Nga vào những cuộc chinh chiến. Ông muốn được như người Đức, người Anh, nhưng lại bắt đầu với người Nga. Người Nga vốn chưa được giỏi giang như thế, nhưng ông cứ khăng khăng thuyết phục họ rằng họ đã từng giỏi giang; cho nên ông đã ngăn cản thần dân không đạt được cái đích mà họ có thể đến. Thật giống như một anh gia sư người Pháp cố dạy cho học trò mình thành nhà thông thái, nhưng khi nó lớn lên nó lại chẳng ra quái gì. Đế quốc Nga muốn thống trị cả Châu âu, nhưng rồi nó lại chỉ thống trị mình nó. Người Tartares (37) đã từng chiếm được nước Nga và các nước Châu âu; quá trình này xem ra tất yếu. Hết thảy vua chúa Châu âu dường như đã cùng hành động nhịp nhàng để thúc đẩy nhanh quá trình xâm lược này.
  6. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    9. TIẾP THEO
    Thiên nhiên đã hạn định cấu trúc của con người bình thường. Vượt quá hạn định ấy, con người sẽ thành ông khổng lồ hoặc thằng lùn tí hon. Một quốc gia cũng vậy. Quá lớn thì khó cai trị; quá nhỏ thì khó duy trì.
    Trong mọi cơ thể đều có một lực tối đa không nên vượt qua. Thường khi cơ thể chính trị lớn phình ra lại khó đạt tới cái lực tối đa ấy. Mối liên hệ xã hội càng được mở ra thì càng lỏng lẻo; và nói chung, tính theo tỉ lệ thì một nước nhỏ mạnh hơn một nước lớn.
    Hàng nghìn lý lẽ chứng minh cho điều trên đây. Trước hết, khoảng cách lớn thì cai trị vất vả, giống như cầm cái sào để nâng một vật, sào càng dài vật ấy càng như nặng thêm. Các đơn vị thuộc nhiều mức độ khác nhau thì việc cai trị càng lủng củng. Dân trong mỗi thị trấn đóng góp cho thị trấn mình, lại còn phải đóng góp cho quận, tỉnh, rồi đóng góp cho các cấp trên tỉnh, cho lãnh địa vương hầu; càng lên cao nhu cầu càng lớn, đè lên đầu người dân đáng thương trên cùng đến Nhà nước tối cao đè lên tất cả. Bấy nhiêu gánh nặng tiếp theo nhau làm kiệt sức thần dân. Tưởng đâu nhiều cấp là hay, hóa ra lại dở, không bằng chỉ có một cấp. Còn những nguồn dự trữ phòng khi bất trắc , nếu nước lớn, khi cần đến, huy động cho được thì Nhà nước đã lâm nguy mất rồi. Chưa hết, Nước lớn thì Chính phủ khó mà sát sao, nhạy bén trong việc thi hành luật . pháp, ngăn chặn tội phạm, uốn nắn sai lầm, phòng ngừa nổi loạn ở các vùng xa xôi. Mặt khác, nước lớn thì dân chúng kém thân gần thủ lĩnh, vì họ ít khi tiếp xúc với thủ lĩnh. Tổ quốc đối với họ là cả một thế giới bao la. Đồng bào đối với họ phần đông là người xa lạ, những pháp lệnh như nhau khó mà phù bợp với các tỉnh khác nhau về phong tục và khí hậu. Luật lệ mỗi nơi một khác thì gây ra rối loạn, lẫn lộn giữa dân chúng các vùng. Họ sống dưới quyền chung của một thủ lĩnh, liên hệ nhau, đi lại, cưới hỏi nhau, nhưng luật lệ khác nhau thì họ chẳng còn biết cơ ngơi của mình tốt xấu ra làm sao nữa.
    Trong một quốc gia rộng lớn, tài năng thường bị chôn vùi, đức hạnh bị xao nhãng, tội lỗi không bi trừng phạt. Người thì lắm hạng, chẳng hiểu biết nhau, mà cái guồng cai trị cứ quây họ vào làm một. Các thủ lĩnh bận công việc túi bụi, tự mình chẳng nhìn thấy gì nữa, phải để cho bọn thơ lại điều hành quốc gia, cuối cùng chỉ lo tìm biện pháp nắm quyền lực tối cao mà đã hết tháng hết năm, còn đâu thời gian để giải quyết công việc công cộng, còn đâu sức lực để chăm lo hạnh phúc nhân dân. Có chăng thì chỉ đủ sức để ngăn dân chúng đừng đòi hỏi quá nhiều. Cơ thể quá lớn so với cấu trúc bị trĩu xuống và bị đè bẹp dưới trọng lượng của chính nó.
    Mặt khác, Nhà nước phải tạo cho mình một cơ sở để có được sự vững chắc, chống được những chán động, chế ngự được các lực phản kháng; vì mọi dân tộc đều có một lực li tâm , với lực này các dân tộc tác động lẫn nhau bằng các khuynh hướng bành trướng sang nước láng giềng, giống như những luồng xoáy của Deseartes (38). Các dân tộc yếu có nguy cơ bị nuốt chửng và không một dân tộc nào có thể bảo tồn trọn vẹn khi đặt mình vào với mọi dân tộc trong một thế cân bằng mà áp lực ở hai phía gần như tương đương nhau.
    Có đủ lý do để tính chuyện bành trướng ra cũng như tính chuyện co lại tự vệ; và không phải nhà chính khách theo khuynh hướng tự vệ quốc gia là kém tài năng. Có thể nói chung rằng các lý do bành trướng mang tính chất ngoại diện và tương đối, phải phụ thuộc vào các lý do tự vệ có tính chất nội tại và tuyệt đối. Điều quan trọng đầu tiên là phải tìm cho ra một cấu trúc lành mạnh, và ta nên dựa vào tính năng động do một nền cai trị tốt đẹp nhiều hơn là dựa vào những tài nguyên do một lãnh thổ rộng lớn.
    Ta còn thấy những quốc gia được cấu trúc dưới dạng tất yếu phải bành trướng, phải chinh phục các nước khác thì mới tồn tại được. Có lẽ họ rất tự hào về nhu cầu bành trướng khoái trá đó; nhưng nhu cầu này vừa tạo ra sự vĩ đại của họ lại vừa là lý do tất yếu đẩy họ đến suy vong.
  7. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    9. TIẾP THEO
    Thiên nhiên đã hạn định cấu trúc của con người bình thường. Vượt quá hạn định ấy, con người sẽ thành ông khổng lồ hoặc thằng lùn tí hon. Một quốc gia cũng vậy. Quá lớn thì khó cai trị; quá nhỏ thì khó duy trì.
    Trong mọi cơ thể đều có một lực tối đa không nên vượt qua. Thường khi cơ thể chính trị lớn phình ra lại khó đạt tới cái lực tối đa ấy. Mối liên hệ xã hội càng được mở ra thì càng lỏng lẻo; và nói chung, tính theo tỉ lệ thì một nước nhỏ mạnh hơn một nước lớn.
    Hàng nghìn lý lẽ chứng minh cho điều trên đây. Trước hết, khoảng cách lớn thì cai trị vất vả, giống như cầm cái sào để nâng một vật, sào càng dài vật ấy càng như nặng thêm. Các đơn vị thuộc nhiều mức độ khác nhau thì việc cai trị càng lủng củng. Dân trong mỗi thị trấn đóng góp cho thị trấn mình, lại còn phải đóng góp cho quận, tỉnh, rồi đóng góp cho các cấp trên tỉnh, cho lãnh địa vương hầu; càng lên cao nhu cầu càng lớn, đè lên đầu người dân đáng thương trên cùng đến Nhà nước tối cao đè lên tất cả. Bấy nhiêu gánh nặng tiếp theo nhau làm kiệt sức thần dân. Tưởng đâu nhiều cấp là hay, hóa ra lại dở, không bằng chỉ có một cấp. Còn những nguồn dự trữ phòng khi bất trắc , nếu nước lớn, khi cần đến, huy động cho được thì Nhà nước đã lâm nguy mất rồi. Chưa hết, Nước lớn thì Chính phủ khó mà sát sao, nhạy bén trong việc thi hành luật . pháp, ngăn chặn tội phạm, uốn nắn sai lầm, phòng ngừa nổi loạn ở các vùng xa xôi. Mặt khác, nước lớn thì dân chúng kém thân gần thủ lĩnh, vì họ ít khi tiếp xúc với thủ lĩnh. Tổ quốc đối với họ là cả một thế giới bao la. Đồng bào đối với họ phần đông là người xa lạ, những pháp lệnh như nhau khó mà phù bợp với các tỉnh khác nhau về phong tục và khí hậu. Luật lệ mỗi nơi một khác thì gây ra rối loạn, lẫn lộn giữa dân chúng các vùng. Họ sống dưới quyền chung của một thủ lĩnh, liên hệ nhau, đi lại, cưới hỏi nhau, nhưng luật lệ khác nhau thì họ chẳng còn biết cơ ngơi của mình tốt xấu ra làm sao nữa.
    Trong một quốc gia rộng lớn, tài năng thường bị chôn vùi, đức hạnh bị xao nhãng, tội lỗi không bi trừng phạt. Người thì lắm hạng, chẳng hiểu biết nhau, mà cái guồng cai trị cứ quây họ vào làm một. Các thủ lĩnh bận công việc túi bụi, tự mình chẳng nhìn thấy gì nữa, phải để cho bọn thơ lại điều hành quốc gia, cuối cùng chỉ lo tìm biện pháp nắm quyền lực tối cao mà đã hết tháng hết năm, còn đâu thời gian để giải quyết công việc công cộng, còn đâu sức lực để chăm lo hạnh phúc nhân dân. Có chăng thì chỉ đủ sức để ngăn dân chúng đừng đòi hỏi quá nhiều. Cơ thể quá lớn so với cấu trúc bị trĩu xuống và bị đè bẹp dưới trọng lượng của chính nó.
    Mặt khác, Nhà nước phải tạo cho mình một cơ sở để có được sự vững chắc, chống được những chán động, chế ngự được các lực phản kháng; vì mọi dân tộc đều có một lực li tâm , với lực này các dân tộc tác động lẫn nhau bằng các khuynh hướng bành trướng sang nước láng giềng, giống như những luồng xoáy của Deseartes (38). Các dân tộc yếu có nguy cơ bị nuốt chửng và không một dân tộc nào có thể bảo tồn trọn vẹn khi đặt mình vào với mọi dân tộc trong một thế cân bằng mà áp lực ở hai phía gần như tương đương nhau.
    Có đủ lý do để tính chuyện bành trướng ra cũng như tính chuyện co lại tự vệ; và không phải nhà chính khách theo khuynh hướng tự vệ quốc gia là kém tài năng. Có thể nói chung rằng các lý do bành trướng mang tính chất ngoại diện và tương đối, phải phụ thuộc vào các lý do tự vệ có tính chất nội tại và tuyệt đối. Điều quan trọng đầu tiên là phải tìm cho ra một cấu trúc lành mạnh, và ta nên dựa vào tính năng động do một nền cai trị tốt đẹp nhiều hơn là dựa vào những tài nguyên do một lãnh thổ rộng lớn.
    Ta còn thấy những quốc gia được cấu trúc dưới dạng tất yếu phải bành trướng, phải chinh phục các nước khác thì mới tồn tại được. Có lẽ họ rất tự hào về nhu cầu bành trướng khoái trá đó; nhưng nhu cầu này vừa tạo ra sự vĩ đại của họ lại vừa là lý do tất yếu đẩy họ đến suy vong.
  8. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    10. TIẾP THEO
    Người ta có thể đo một cơ thể chính tri bằng hai cách: bằng tầm rộng lãnh thổ và bằng số dân. Giữa hai cách đo này có mối liên hệ đáng để tìm ra độ lớn của quốc gia.
    Con người làm nên quốc gia, và đất nuôi sống con người. Mối tương quan ở đây là đất đủ đề nuôi sống dân, và số dân vừa với khả năng cung ứng của đất. Qua tỉ lệ giữa đất và người có thể tìm ra mức tối đa về lực lượng của một nhóm dân chúng nhất định. Nếu đất quá rộng, việc trông nom sẽ tốn kém; trồng tỉa không hết, sản phẩm dư thừa; đó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh tự vệ. Nếu đất đai không đủ, Nhà nước phải dòm ngó sang đất láng giềng, đó sẽ là nguyên nhân các cuộc chiến tranh tấn công. Dân tộc nào ở vào vị trí chỉ sống bằng thương mại và chiến tranh lần hồi, thì bản thân dân tộc ấy là yếu; họ phải dựa vào láng giềng, trông chờ các biến cố, nên chỉ có được cuộc sống bấp bênh, ngắn ngủi hoặc là họ phải chinh phục nước ngoài để thay đổi tình thế, hoặc là họ bị người ta chinh phục và sống chẳng ra gì. Họ chỉ có thể tồn tại tự do nhờ nhỏ bé hoặc nhờ lớn mạnh.
    Khó mà tính được một tỉ lệ cố định giữa đất đai và số dân như thế nào là thỏa đáng; vì chất đất, độ phì nhiêu, đặc tính sản phàm. Ảnh hưởng khí hậu mỗi nơi một khác; mà con người cũng chẳng giống nhau. Các xứ phì nhiêu dân tiêu thụ ít, các xứ cằn cỗi dân tiêu thụ nhiều lại phải nhìn đến số phụ nữ trong nước để lxem khả ,năng phát triển dân số ra sao. Nhà lập pháp căn cứ vào số dân để định đoạt tổ chức, không chỉ nhìn vào tình trạng hiện tại mà phải dự kiến cả dân số tương lai. Cuối cùng, có hàng nghìn trường hợp biến thiên về địa điểm cho phép hoặc bắt buộc người ta phải bao chiếm thêm những đất đai tưởng chừng không cần thiết.
    Ở miền núi người ta cần khoảng rộng, vì sản phẩm tự nhiên như rừng cây, lũng cỏ đòi hỏi ít lao động; lại nhiều phụ nữ hơn ở đồng bằng độ dốc lớn, vùng trồng trọt chẳng có bao lăm.
    Trái lại, ở miền ven biển, người ta thường sống chen chúc vì nghề đánh cá có thể bổ sung phần lớn sản phẩm trên mặt đất; người ta phải sống tập trung để đủ sức chống giặc biển; và cũng dễ di tản số dân thừa sang các thuộc địa khác.
    Muôn xây dựng một dân tộc, ngoài các điều kiện lớn trên, phải thêm một điều kiện quyết định, không có nó thì mọi điều kiện khác đều vô nghĩa; đó là : con người phải được hưởng hòa bình và phồn vinh (ND)
    Thời điểm chỉnh đốn quốc gia cũng như thời điểm chỉnh đốn một quân đội, chinh là lúc mà khả năng kháng cự của cơ thể quốc gia xuống thấp nhất, dễ bị phá hủy nhất. Trong tình trạng hết sức lộn xộn người ta kháng cự còn khá hơn là trong tình trạng giao thời, khi mỗi người chỉ nghĩ đến vị trí của mình mà không lo đến nguy cơ chung. Một cuộc chiến tranh, một cơn đói kém, một cuộc nổi loạn vào thời điểm khủng hoảng này thì quốc gia nhất đinh bị đảo lộn .
    Cũng có những chính phủ ra đời trong cơn bão táp, nhưng đó là những chính phủ phá hoại quốc gia. Những kẻ thoán đoạt thường tạo ra hoặc chọn đúng thời cơ rối ren như thế, lợi dụng sự sợ hãi của mọi người, để thông qua các đạo luật phá hoại, mà dân chúng không thể tiếp nhận nếu họ ở trong trạng thái bình thản.
    Cách chọn thời điểm xây dựng quốc gia là một điều rõ rệt nhất để phân biệt thủ thuật của nhà lập pháp chấn chỉnh với bọn thoán đoạt ranh ma.
    Vậy dân tộc nào thì thích hợp với chế độ lập pháp ? Đó là những dân tộc đã có mối liên hệ tập hợp về nguồn gốc, về lợi quyền và công ước, nhưng chưa phải mang gông cùm của pháp luật bao giờ. Những dân tộc chưa có phong tục và tín ngưỡng bắt rễ quá sâu. Những dân tộc không sợ bi xâm lấn bất ngờ, không xung khắc với các dân tộc láng giêng, và đủ sức đương đầu với từng nước hoặc đủ sức giúp nước này chống lại sự xâm lấn của người khác. Những dân tộc mà mỗi thành viên đều có thể được mọi người biết đến, nhưng không một ai bị buộc phải gánh vác công việc nặng quá sức mình. Những dân tộc không cần phải nhờ đến dân tộc khác, và các dân tộc khác cũng không cần nhờ đến họ [9*]. Những dân tộc không nghèo cũng không giàu, có thể tự túc cho mình được. Cuối cùng là những dân tộc kết hợp được tính cứng vững của một dân tộc lâu đời với tính dễ bảo của một dân tộc mới mẻ.
    Trong công trình lập pháp, cái khó ở chỗ xây dựng thì ít mà ở chỗ phá hủy thì nhiều hơn. Điều làm cho các nhà lập pháp ít khi thành công là họ khó tìm ra cái giản dị của thiên nhiên gắn liền với các nhu cầu của xã hội. Thật khó mà qui tụ tất cả các điều kiện nói trên; vì vậy rất ít thấy những nhà nước thật hoàn chỉnh.
    Ở châu Âu còn có một xứ sở đủ điều kiện lập pháp, đó là xứ Corse (39) . Nhân dân xứ này đã biết giành lại tự do với giá cao và bằng tinh thần kiên trì. Họ đã xứng đáng có được một người lãnh đạo sáng suốt bày vẽ cho họ bảo vệ tự do. Tôi cảm thấy được rằng một ngày kia hòn đảo nhỏ bẻ này sẽ làm cho châu Âu kinh ngạc.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [9*]. Nếu hai nước gần nhau mà nuớc A phải nhờ vả nước B thì tình thế rất gay go cho nước A và rất nguy hiểm cho nước B. Mọi quốc gia thông minh trong cảnh ngộ dó sẽ cố sức giúp cho nước A mau thoát khối tình trạng phụ thuộc. Nước cộng hoà Thlascala chịu cảnh nô lệ trong đế quốc Mexique, thà chịu ăn nhạt chứ không mua muối của người Mexique, ngay cả cho không cũng không lấy. Các nhà thông thái trong dân tộc Thlasaca thầy rõ cái bẫy che giấu trong việc cho muối thoải mái ấy. Họ giữ được tự do; và chính là cái quốc gia nhỏ bé ấy, nằm trong đế quốc to lớn kia đã trở thành công cụ làm suy vong đế quốc Mexique.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:13 ngày 11/04/2004
  9. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    10. TIẾP THEO
    Người ta có thể đo một cơ thể chính tri bằng hai cách: bằng tầm rộng lãnh thổ và bằng số dân. Giữa hai cách đo này có mối liên hệ đáng để tìm ra độ lớn của quốc gia.
    Con người làm nên quốc gia, và đất nuôi sống con người. Mối tương quan ở đây là đất đủ đề nuôi sống dân, và số dân vừa với khả năng cung ứng của đất. Qua tỉ lệ giữa đất và người có thể tìm ra mức tối đa về lực lượng của một nhóm dân chúng nhất định. Nếu đất quá rộng, việc trông nom sẽ tốn kém; trồng tỉa không hết, sản phẩm dư thừa; đó sẽ là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh tự vệ. Nếu đất đai không đủ, Nhà nước phải dòm ngó sang đất láng giềng, đó sẽ là nguyên nhân các cuộc chiến tranh tấn công. Dân tộc nào ở vào vị trí chỉ sống bằng thương mại và chiến tranh lần hồi, thì bản thân dân tộc ấy là yếu; họ phải dựa vào láng giềng, trông chờ các biến cố, nên chỉ có được cuộc sống bấp bênh, ngắn ngủi hoặc là họ phải chinh phục nước ngoài để thay đổi tình thế, hoặc là họ bị người ta chinh phục và sống chẳng ra gì. Họ chỉ có thể tồn tại tự do nhờ nhỏ bé hoặc nhờ lớn mạnh.
    Khó mà tính được một tỉ lệ cố định giữa đất đai và số dân như thế nào là thỏa đáng; vì chất đất, độ phì nhiêu, đặc tính sản phàm. Ảnh hưởng khí hậu mỗi nơi một khác; mà con người cũng chẳng giống nhau. Các xứ phì nhiêu dân tiêu thụ ít, các xứ cằn cỗi dân tiêu thụ nhiều lại phải nhìn đến số phụ nữ trong nước để lxem khả ,năng phát triển dân số ra sao. Nhà lập pháp căn cứ vào số dân để định đoạt tổ chức, không chỉ nhìn vào tình trạng hiện tại mà phải dự kiến cả dân số tương lai. Cuối cùng, có hàng nghìn trường hợp biến thiên về địa điểm cho phép hoặc bắt buộc người ta phải bao chiếm thêm những đất đai tưởng chừng không cần thiết.
    Ở miền núi người ta cần khoảng rộng, vì sản phẩm tự nhiên như rừng cây, lũng cỏ đòi hỏi ít lao động; lại nhiều phụ nữ hơn ở đồng bằng độ dốc lớn, vùng trồng trọt chẳng có bao lăm.
    Trái lại, ở miền ven biển, người ta thường sống chen chúc vì nghề đánh cá có thể bổ sung phần lớn sản phẩm trên mặt đất; người ta phải sống tập trung để đủ sức chống giặc biển; và cũng dễ di tản số dân thừa sang các thuộc địa khác.
    Muôn xây dựng một dân tộc, ngoài các điều kiện lớn trên, phải thêm một điều kiện quyết định, không có nó thì mọi điều kiện khác đều vô nghĩa; đó là : con người phải được hưởng hòa bình và phồn vinh (ND)
    Thời điểm chỉnh đốn quốc gia cũng như thời điểm chỉnh đốn một quân đội, chinh là lúc mà khả năng kháng cự của cơ thể quốc gia xuống thấp nhất, dễ bị phá hủy nhất. Trong tình trạng hết sức lộn xộn người ta kháng cự còn khá hơn là trong tình trạng giao thời, khi mỗi người chỉ nghĩ đến vị trí của mình mà không lo đến nguy cơ chung. Một cuộc chiến tranh, một cơn đói kém, một cuộc nổi loạn vào thời điểm khủng hoảng này thì quốc gia nhất đinh bị đảo lộn .
    Cũng có những chính phủ ra đời trong cơn bão táp, nhưng đó là những chính phủ phá hoại quốc gia. Những kẻ thoán đoạt thường tạo ra hoặc chọn đúng thời cơ rối ren như thế, lợi dụng sự sợ hãi của mọi người, để thông qua các đạo luật phá hoại, mà dân chúng không thể tiếp nhận nếu họ ở trong trạng thái bình thản.
    Cách chọn thời điểm xây dựng quốc gia là một điều rõ rệt nhất để phân biệt thủ thuật của nhà lập pháp chấn chỉnh với bọn thoán đoạt ranh ma.
    Vậy dân tộc nào thì thích hợp với chế độ lập pháp ? Đó là những dân tộc đã có mối liên hệ tập hợp về nguồn gốc, về lợi quyền và công ước, nhưng chưa phải mang gông cùm của pháp luật bao giờ. Những dân tộc chưa có phong tục và tín ngưỡng bắt rễ quá sâu. Những dân tộc không sợ bi xâm lấn bất ngờ, không xung khắc với các dân tộc láng giêng, và đủ sức đương đầu với từng nước hoặc đủ sức giúp nước này chống lại sự xâm lấn của người khác. Những dân tộc mà mỗi thành viên đều có thể được mọi người biết đến, nhưng không một ai bị buộc phải gánh vác công việc nặng quá sức mình. Những dân tộc không cần phải nhờ đến dân tộc khác, và các dân tộc khác cũng không cần nhờ đến họ [9*]. Những dân tộc không nghèo cũng không giàu, có thể tự túc cho mình được. Cuối cùng là những dân tộc kết hợp được tính cứng vững của một dân tộc lâu đời với tính dễ bảo của một dân tộc mới mẻ.
    Trong công trình lập pháp, cái khó ở chỗ xây dựng thì ít mà ở chỗ phá hủy thì nhiều hơn. Điều làm cho các nhà lập pháp ít khi thành công là họ khó tìm ra cái giản dị của thiên nhiên gắn liền với các nhu cầu của xã hội. Thật khó mà qui tụ tất cả các điều kiện nói trên; vì vậy rất ít thấy những nhà nước thật hoàn chỉnh.
    Ở châu Âu còn có một xứ sở đủ điều kiện lập pháp, đó là xứ Corse (39) . Nhân dân xứ này đã biết giành lại tự do với giá cao và bằng tinh thần kiên trì. Họ đã xứng đáng có được một người lãnh đạo sáng suốt bày vẽ cho họ bảo vệ tự do. Tôi cảm thấy được rằng một ngày kia hòn đảo nhỏ bẻ này sẽ làm cho châu Âu kinh ngạc.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [9*]. Nếu hai nước gần nhau mà nuớc A phải nhờ vả nước B thì tình thế rất gay go cho nước A và rất nguy hiểm cho nước B. Mọi quốc gia thông minh trong cảnh ngộ dó sẽ cố sức giúp cho nước A mau thoát khối tình trạng phụ thuộc. Nước cộng hoà Thlascala chịu cảnh nô lệ trong đế quốc Mexique, thà chịu ăn nhạt chứ không mua muối của người Mexique, ngay cả cho không cũng không lấy. Các nhà thông thái trong dân tộc Thlasaca thầy rõ cái bẫy che giấu trong việc cho muối thoải mái ấy. Họ giữ được tự do; và chính là cái quốc gia nhỏ bé ấy, nằm trong đế quốc to lớn kia đã trở thành công cụ làm suy vong đế quốc Mexique.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:13 ngày 11/04/2004
  10. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    11. CÁC HỆ THỐNG LẬP PHÁP KHÁC NHAU
    Nếu tìm xem điều tốt nhất cho tất cả mọi người, và đỉnh cao nhất của hệ thống lập pháp là cái gì, ta sẽ thấy điều đó qui gọn vào hai mục tiêu :Tự do và bình đẳng.
    Tự do: Vì cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì cơ thể quốc gia giảm sút sức lực bấy nhiẽu.
    Bình đẳng. Vì không có bình đẳng thì không thể nào có tự do được.
    Tôi đă nói tự do đây chỉ là tự do dân sự, còn về bình đẳng thì không nên hiểu là mọi mức độ quyền lực về tài sản đều phải tuyệt đối ngang nhau. Theo tôi, quyền lực phải đứng trên mọi bạo lực. Quyền lực chỉ thể hiện theo cấp bậc và theo luật pháp; còn tài sản thời không nên để một công dân nào giàu đến mức có thể mua một công dân khác; và không một công dân nào nghèo đến nỗi phải tự bán mình [10*].
    Muốn thế thì phía các người giàu hạn chế của cải và trái khoản, phía người nghèo nên hạn chế tính tằn tiện và lòng thèm khát.
    Sự bình đẳng này là điều tưởng tượng hão huyền không thể có trong thực tế.Nhưng nếu không tránh được sự lạm dụng thì ta có nên tìm cách điều tiết và hạn chế lạm dụng không ? Chính là vì lực của các vật luôn luôn có khuynh hướng phá bỏ sự đồng đều, còn lực của luật pháp luôn luôn nhằm bảo trì sự đồng đều (ND) .
    Nhưng các mục tiêu chung nói trên của một thể chế tốt đẹp là Tự do và Bình đẳng sẽ tùy theo hoàn cảnh mỗi nước mà đổi khác do tình huống quốc gia và tính cách dân chúng mỗi nước không giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ tự chọn lấy thể chế thích hợp riêng của mình.
    Nếu nước các bạn quá hẹp, dân sống chen chúc, đất đai cằn cỗi, thì các bạn nên làm công nghiệp hoặc nghệ thuật để lấy sản phẩm vãn hóa và kỹ nghệ đổi lấy lương thực thực phẩm mà bạn thiếu. Trái lại, nếu các bạn có những cánh đồng phì nhiêu, đất đai rộng rãi nhưng dân cư thưa thớt, thì các bạn nên chăm lo nông nghiệp, khiến dân số tăng nhanh; mặt khác nên lánh xa nghệ thuật, là cái nghề chỉ qui tụ một ít dân tộc vào một vài điểm và làm cho quốc gia thưa thớt dân cư[11*].
    Ví phỏng nước các bạn có những bờ biển kéo đài và thuận tiện, các bạn hãy chuyên việc đóng tàu, chăm nghề buôn bán và hàng hải để có một quốc gia xán lạn, tuy là ngắn ngủi.
    Ví phỏng bờ biển nước bạn toàn là mỏm đá lô nhô không khai thác gì được, thì các bạn hãy chịu sống hoang dã, ăn cá để sống, các bạn sẽ được yên tĩnh và chắc chắn là hạnh phúc.
    Tóm lại, ngoài những phương châm chung mà tất cả đều phải theo, mỗi dân tộc có một sự nghiệp riêng, nó quy định nên cách sống riêng và khiến cho chế độ lập pháp phải phù hợp với cách sồng đó.
    Chính vì vậy mà ngày xưa dân tộc Hébreux cũng như ngày nay dân tộc Ả Rập lấy tôn giáo làm một mục tiêu chính. Dân Athène chuộng văn học, dân Carthage và Tyr chuộng buôn bán, dân Rhodes thạo nghề hàng hải, người Sparte thạo chiến chinh, người La Mã chú trọng đức hạnh. Tác giả sách "Tinh thần của các luật pháp" (40) đã đưa ra hàng loạt ví dụ chứng minh nhà lập pháp phải có nghệ thuật như thế nào để hướng thể chế đúng theo mục tiêu của nó.
    Điều làm cho thể chế của một nước vững vàng, bền chặt thật sự chính là nó phải luôn luôn tôn trọng sự thỏa đáng, luôn luôn làm cho luật pháp và các quan hệ tự nhiên gặp nhau một cách hài hòa trên những điểm nhất định. Luật pháp đặt ra chỉ là để bảo đảm, hỗ trợ và điều chỉnh những quan hệ tự nhiên. Nếu nhà lập pháp nhận thức sai và các mục tiêu, nắm lấy một thứ nguyên tắc trái với nguyên tác tự nhiên của sự vật, khiến cho các mục tiêu chồng chéo nhau, cái thì nhằm vào phục tùng, cái thì nhằm vào tự do; mục tiêu này nhằm vào sự giàu có, mục tiêu kia lại nhằm tăng dân số, cái này nhằm vào hòa bình, cái kia nhằm vào chinh phạt... thì chúng ta sẽ thấy pháp luật mặc nhiên bị suy yếu, thể chế bị hư hỏng, nước nhà không ngừng chao đảo cho đến khi bị đổi thay hoặc bại hoại; và khi đó quy luật tự nhiên không ai cưỡng nổi sẽ ngự trị hoàn toàn.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [10*]. Muốn cho Nhà nước có sức chịu đựng, hai cực giàu nghèo nên xích lại nhau càng gần càng tốt, để khỏi phiền toái vì hai hiện tượng tự nhiên (giàu nghèo) này vẫn không thể tách rời nhau, đều trở ngại cho phúc lợi xã hội. Từ phía giàu nảy sinh bọn tội phạm của chuyên chế; từ phía nghèo nảy sinh các nhà chuyên chế. Việc buôn bán quyền tự do công cộng luôn luôn diễn ra giữa hai loại người này. Một bên mua tự do, bên kia bán tự do.
    [11*]. Hầu tước d''Argenson nói: Một vài ngành ngoại thương chỉ đem lại lợi ích giả tạo cho quốc gia; nó làm giàu cho một số cá nhân, hoặc một số thành thị, còn toàn bộ quốc gia chẳng được gì, và dàn chúng cũng chỉ như cũ thôi.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:12 ngày 11/04/2004

Chia sẻ trang này