1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về Khế ước xã hội - Jean Jacques Rousseau

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 11/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    11. CÁC HỆ THỐNG LẬP PHÁP KHÁC NHAU
    Nếu tìm xem điều tốt nhất cho tất cả mọi người, và đỉnh cao nhất của hệ thống lập pháp là cái gì, ta sẽ thấy điều đó qui gọn vào hai mục tiêu :Tự do và bình đẳng.
    Tự do: Vì cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì cơ thể quốc gia giảm sút sức lực bấy nhiẽu.
    Bình đẳng. Vì không có bình đẳng thì không thể nào có tự do được.
    Tôi đă nói tự do đây chỉ là tự do dân sự, còn về bình đẳng thì không nên hiểu là mọi mức độ quyền lực về tài sản đều phải tuyệt đối ngang nhau. Theo tôi, quyền lực phải đứng trên mọi bạo lực. Quyền lực chỉ thể hiện theo cấp bậc và theo luật pháp; còn tài sản thời không nên để một công dân nào giàu đến mức có thể mua một công dân khác; và không một công dân nào nghèo đến nỗi phải tự bán mình [10*].
    Muốn thế thì phía các người giàu hạn chế của cải và trái khoản, phía người nghèo nên hạn chế tính tằn tiện và lòng thèm khát.
    Sự bình đẳng này là điều tưởng tượng hão huyền không thể có trong thực tế.Nhưng nếu không tránh được sự lạm dụng thì ta có nên tìm cách điều tiết và hạn chế lạm dụng không ? Chính là vì lực của các vật luôn luôn có khuynh hướng phá bỏ sự đồng đều, còn lực của luật pháp luôn luôn nhằm bảo trì sự đồng đều (ND) .
    Nhưng các mục tiêu chung nói trên của một thể chế tốt đẹp là Tự do và Bình đẳng sẽ tùy theo hoàn cảnh mỗi nước mà đổi khác do tình huống quốc gia và tính cách dân chúng mỗi nước không giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ tự chọn lấy thể chế thích hợp riêng của mình.
    Nếu nước các bạn quá hẹp, dân sống chen chúc, đất đai cằn cỗi, thì các bạn nên làm công nghiệp hoặc nghệ thuật để lấy sản phẩm vãn hóa và kỹ nghệ đổi lấy lương thực thực phẩm mà bạn thiếu. Trái lại, nếu các bạn có những cánh đồng phì nhiêu, đất đai rộng rãi nhưng dân cư thưa thớt, thì các bạn nên chăm lo nông nghiệp, khiến dân số tăng nhanh; mặt khác nên lánh xa nghệ thuật, là cái nghề chỉ qui tụ một ít dân tộc vào một vài điểm và làm cho quốc gia thưa thớt dân cư[11*].
    Ví phỏng nước các bạn có những bờ biển kéo đài và thuận tiện, các bạn hãy chuyên việc đóng tàu, chăm nghề buôn bán và hàng hải để có một quốc gia xán lạn, tuy là ngắn ngủi.
    Ví phỏng bờ biển nước bạn toàn là mỏm đá lô nhô không khai thác gì được, thì các bạn hãy chịu sống hoang dã, ăn cá để sống, các bạn sẽ được yên tĩnh và chắc chắn là hạnh phúc.
    Tóm lại, ngoài những phương châm chung mà tất cả đều phải theo, mỗi dân tộc có một sự nghiệp riêng, nó quy định nên cách sống riêng và khiến cho chế độ lập pháp phải phù hợp với cách sồng đó.
    Chính vì vậy mà ngày xưa dân tộc Hébreux cũng như ngày nay dân tộc Ả Rập lấy tôn giáo làm một mục tiêu chính. Dân Athène chuộng văn học, dân Carthage và Tyr chuộng buôn bán, dân Rhodes thạo nghề hàng hải, người Sparte thạo chiến chinh, người La Mã chú trọng đức hạnh. Tác giả sách "Tinh thần của các luật pháp" (40) đã đưa ra hàng loạt ví dụ chứng minh nhà lập pháp phải có nghệ thuật như thế nào để hướng thể chế đúng theo mục tiêu của nó.
    Điều làm cho thể chế của một nước vững vàng, bền chặt thật sự chính là nó phải luôn luôn tôn trọng sự thỏa đáng, luôn luôn làm cho luật pháp và các quan hệ tự nhiên gặp nhau một cách hài hòa trên những điểm nhất định. Luật pháp đặt ra chỉ là để bảo đảm, hỗ trợ và điều chỉnh những quan hệ tự nhiên. Nếu nhà lập pháp nhận thức sai và các mục tiêu, nắm lấy một thứ nguyên tắc trái với nguyên tác tự nhiên của sự vật, khiến cho các mục tiêu chồng chéo nhau, cái thì nhằm vào phục tùng, cái thì nhằm vào tự do; mục tiêu này nhằm vào sự giàu có, mục tiêu kia lại nhằm tăng dân số, cái này nhằm vào hòa bình, cái kia nhằm vào chinh phạt... thì chúng ta sẽ thấy pháp luật mặc nhiên bị suy yếu, thể chế bị hư hỏng, nước nhà không ngừng chao đảo cho đến khi bị đổi thay hoặc bại hoại; và khi đó quy luật tự nhiên không ai cưỡng nổi sẽ ngự trị hoàn toàn.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [10*]. Muốn cho Nhà nước có sức chịu đựng, hai cực giàu nghèo nên xích lại nhau càng gần càng tốt, để khỏi phiền toái vì hai hiện tượng tự nhiên (giàu nghèo) này vẫn không thể tách rời nhau, đều trở ngại cho phúc lợi xã hội. Từ phía giàu nảy sinh bọn tội phạm của chuyên chế; từ phía nghèo nảy sinh các nhà chuyên chế. Việc buôn bán quyền tự do công cộng luôn luôn diễn ra giữa hai loại người này. Một bên mua tự do, bên kia bán tự do.
    [11*]. Hầu tước d''Argenson nói: Một vài ngành ngoại thương chỉ đem lại lợi ích giả tạo cho quốc gia; nó làm giàu cho một số cá nhân, hoặc một số thành thị, còn toàn bộ quốc gia chẳng được gì, và dàn chúng cũng chỉ như cũ thôi.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 23:12 ngày 11/04/2004
  2. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    12. PHÂN LOẠI CÁC LUẬT
    Muốn xếp đặt cái tổng thể, làm cho các sự vật có được một hình thức tốt nhất, thì cần phải xem xét nhiều mối quan hệ khác nhau.
    1) Trước tiên phải xem xét hoạt động của toàn bộ cơ thể tác động vào toàn bộ cơ thể như thế nào; tức là xét quan hệ giữa cái chung với cái chung, giữa cơ quan quyền lực tối cao với toàn bộ quốc gia. Mối quan hệ này, bao gồm những quan hệ của các yếu tố trung gian mà chúng ta sẽ xem xét sau.
    Các luật điều chỉnh mối quan hệ chung nói trên gọi là luật chính trị, cũng gọi là luật cơ bản. Nếu luật cơ bản là sáng suốt, trong mỗi nước chỉ có thể có một cách duy nhất để sắp xếp mối quan hệ chung, thì nhân dân là người tìm ra cách sắp xếp đó nhất định sẽ ủng hộ luật cơ bản.
    Nhưng nếu trật tự chung được sắp xếp tồi tệ thì ai còn thừa nhận các điếu sắp xếp ấy là luật cơ bản nữa!
    Vả lại, vì mọi lý do, nhân dân luôn luôn có quyền thay đổi pháp luật, ngay cả những điều luật tốt cũng vậy. Có ai cấm một người muốn tự làm đau mình.
    2) Mối quan hệ thứ hai là quan hệ giữa các thành viên với nhau, hoặc quan hệ giữa các thành viên với toàn bộ cơ thể xã hội. Mối quan hệ này có thể xem là rất nhỏ mà cũng có thể xem là rất lớn, bởi lẽ mỗi một công dân có thể là hoàn toàn tự do đốii với các công dân khác, mà cũng có thể là hoàn toàn phụ thuộc vào thành bang. Cả hai trạng thái đó đều do những biện pháp như nhau tạo nên; vì chỉ có sức mạnh của Nhà nước làm nên tự do của các thành viên trong quốc gia. Từ mối quan hệ thứ hai này nảy sinh các luật dân sự.
    3) Còn có một loại quan hệ thứ ba là quan hệ giữa con người và luật pháp. Khi có kẻ không chấp hành nghĩa vụ, cưỡng lại luật pháp thì phải thiết lập ra luật hình sự. Đây là một thứ luật đặc biệt, có ý nghĩa là sự trừng phạt của mọi người đối với kẻ vi phạm.
    4) Gắn liền với ba loại luật nói trên, có một loại thứ tư quan trọng hơn cả. Luật này không khắc lên đá, lên đồng, mà khắc vào lòng công dân, tạo nên hiến pbáp chân chính của quốc gia. Luật này mỗi ngày lại có thêm sức mới; khi các thứ luật khác đâ già cỗi hoặc tắt ngấm thì luật này thắp cho nó lại sáng lên, hoặc bổ sung, thay thế nó duy trì cả dân tộc trong tinh thần thể chế, lẳng lặng đưa sức mạnh của thói quen thay vào sức mạnh của quyền uy. Luật thứ tư này chính là phong tục tập quán, nói chung là dư luận nhân dân.
    Đây là bộ phận mà chính sách của ta không biết đến, nhưng mọi cái khác đều phải tùy thuộc vào nó. Đây là bộ phận mà nhà lập pháp lớn phải thầm lặng quan tâm nghiên cứu trong khi họ tỏ ra dường như chỉ hạn chế trong các điều luật lệ cụ thể.
    Luật pháp cụ thế chỉ là cái đỉnh vòm của cái cửa cổng, phong tục tập quán phát sinh muộn hơn, tạo thành cái khóa cửa không gì có thể lay chuyển nổi.
    Trong bốn loại luật pháp nói trên, chủ đề nghiên cứu của tôi chỉ liên quan đến loại thứ nhất: các luật chính trị, luật cấu tạo nên hình thức cơ bản của nền cai trị quốc gia.
  3. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    12. PHÂN LOẠI CÁC LUẬT
    Muốn xếp đặt cái tổng thể, làm cho các sự vật có được một hình thức tốt nhất, thì cần phải xem xét nhiều mối quan hệ khác nhau.
    1) Trước tiên phải xem xét hoạt động của toàn bộ cơ thể tác động vào toàn bộ cơ thể như thế nào; tức là xét quan hệ giữa cái chung với cái chung, giữa cơ quan quyền lực tối cao với toàn bộ quốc gia. Mối quan hệ này, bao gồm những quan hệ của các yếu tố trung gian mà chúng ta sẽ xem xét sau.
    Các luật điều chỉnh mối quan hệ chung nói trên gọi là luật chính trị, cũng gọi là luật cơ bản. Nếu luật cơ bản là sáng suốt, trong mỗi nước chỉ có thể có một cách duy nhất để sắp xếp mối quan hệ chung, thì nhân dân là người tìm ra cách sắp xếp đó nhất định sẽ ủng hộ luật cơ bản.
    Nhưng nếu trật tự chung được sắp xếp tồi tệ thì ai còn thừa nhận các điếu sắp xếp ấy là luật cơ bản nữa!
    Vả lại, vì mọi lý do, nhân dân luôn luôn có quyền thay đổi pháp luật, ngay cả những điều luật tốt cũng vậy. Có ai cấm một người muốn tự làm đau mình.
    2) Mối quan hệ thứ hai là quan hệ giữa các thành viên với nhau, hoặc quan hệ giữa các thành viên với toàn bộ cơ thể xã hội. Mối quan hệ này có thể xem là rất nhỏ mà cũng có thể xem là rất lớn, bởi lẽ mỗi một công dân có thể là hoàn toàn tự do đốii với các công dân khác, mà cũng có thể là hoàn toàn phụ thuộc vào thành bang. Cả hai trạng thái đó đều do những biện pháp như nhau tạo nên; vì chỉ có sức mạnh của Nhà nước làm nên tự do của các thành viên trong quốc gia. Từ mối quan hệ thứ hai này nảy sinh các luật dân sự.
    3) Còn có một loại quan hệ thứ ba là quan hệ giữa con người và luật pháp. Khi có kẻ không chấp hành nghĩa vụ, cưỡng lại luật pháp thì phải thiết lập ra luật hình sự. Đây là một thứ luật đặc biệt, có ý nghĩa là sự trừng phạt của mọi người đối với kẻ vi phạm.
    4) Gắn liền với ba loại luật nói trên, có một loại thứ tư quan trọng hơn cả. Luật này không khắc lên đá, lên đồng, mà khắc vào lòng công dân, tạo nên hiến pbáp chân chính của quốc gia. Luật này mỗi ngày lại có thêm sức mới; khi các thứ luật khác đâ già cỗi hoặc tắt ngấm thì luật này thắp cho nó lại sáng lên, hoặc bổ sung, thay thế nó duy trì cả dân tộc trong tinh thần thể chế, lẳng lặng đưa sức mạnh của thói quen thay vào sức mạnh của quyền uy. Luật thứ tư này chính là phong tục tập quán, nói chung là dư luận nhân dân.
    Đây là bộ phận mà chính sách của ta không biết đến, nhưng mọi cái khác đều phải tùy thuộc vào nó. Đây là bộ phận mà nhà lập pháp lớn phải thầm lặng quan tâm nghiên cứu trong khi họ tỏ ra dường như chỉ hạn chế trong các điều luật lệ cụ thể.
    Luật pháp cụ thế chỉ là cái đỉnh vòm của cái cửa cổng, phong tục tập quán phát sinh muộn hơn, tạo thành cái khóa cửa không gì có thể lay chuyển nổi.
    Trong bốn loại luật pháp nói trên, chủ đề nghiên cứu của tôi chỉ liên quan đến loại thứ nhất: các luật chính trị, luật cấu tạo nên hình thức cơ bản của nền cai trị quốc gia.
  4. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    QUYỂN THỨ BA
    Trước khi nói đến các hình thức chính phủ khác nhau, ta hãy định nghĩa chính xác cái từ "Chính phủ" mà xưa nay chưa ai giải thích thật đúng đắn.
    1. CHÍNH PHỦ NÓI CHUNG
    Xin nói trước với độc giả rằng chương này cần phải được thật nghiêm túc; vì tôi không có tài làm sáng tỏ vấn đề đối với kẻ nào không muốn chăm chú tìm hiểu.
    Mỗi hành động tự do đều có hai nguyên nhân tạo sinh ra nó. Một nguyên nhân thường và một nguyên nhân vật lý.
    Nguyên nhân thường tức là ý chí thúc đẩy người ta hành động. Nguyên nhân vật lý tức là cái lực tác động thành việc làm. Khi tôi đi đến một cái đích, trước hết phải là do tôi muốn tới đó; mặt khác phải có đôi chân đưa tôi tới đích. Người bại liệt đang muốn chạy và người nhanh nhẹn không muốn chạy, cả hai đều ở yên một chỗ như nhau.
    Cơ thể chính trị cũng có những động lực như thế: sức mạnh và ý chí. Một cái gọi là quyền lực lập pháp; cái kia gọi là quyền lực hành pháp. Không có cái gì tự làm hoặc phải làm mà không dựa vào thứ quyền lực ấy.
    Ta đã thấy quyền lực lập pháp thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về nhân dân mà thôi. Trái lại, quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung như quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến những điều khoản cụ thể, không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc của cơ quan quyền lực tối cao, mà mọi cử chỉ cần phải là những đạo luật.
    Vậy thì lực lượng công cộng phải có một nhân viên đứng ra tập hợp các sức mạnh, biến nó thành việc làm theo đúng hướng của ý chí chung, phục vụ cho mối liên hệ của quốc gia và của cơ quan quyền lực tối cao, tạo nên trong con người công cộng ấy một thứ liên hệ giống như trong con người thường, liên hệ giữa linh hồn với thể xác. Đó là cái lẽ khiến cho trong một quốc gia phải có chính phủ.
    Chớ lẫn lộn chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao. Chính phủ chỉ là các bộ của nhà nước mà thôi .
    Vậy chính phủ là gì ?
    Chính phủ là một cơ thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như tự do chính trị.
    Các thành viên trong cơ thể trung gian này gọi là pháp quan hoặc các vua, tức là những người cai trị. Toàn bộ cơ thể trung gian này thì gọi là "Chính phủ"(41). Như vậy điều luật bắt nhân dân phải phục tùng chính phủ không phải là một khế ước (contrat). Ai nghĩ như vậy đều rất có lý.
    Cơ thể trung gian này chỉ là một ủy viên hội; một cơ quan thực hành, trong đó các viên chức thực hiện những điều mà cơ quan quyền lực tối cao ủy thác, cơ quan quyền lực tối cao có thể hạn chế, sửa đổi, hoặc thu hồi quyền hành của các viên chức đó. Hủy bỏ quyền hành pháp là trái với bản chất của cơ thể xã hội do đó trái với mục đích của cộng đông xã hội.
    Tên gọi sự thực hiện quyền hành pháp theo đúng luật là "Chính phủ", hoặc là "Cơ quan cai trị tối cao". Con người hoặc tổ chức được uỷ thác làm việc cai trị ấy thì gọi là "vị nguyên thủ" hoặc "pháp quan".
    Trong chính phủ có các lực trung gian quan hệ với nhau, bao gồm cả quan hệ giữa cơ quan quyền lực tối cao với quốc gia. Có thể trình bày quan hệ này thành quan hệ giữa các cực trong một chuỗi tỷ lệ, mà tỷ lệ trung bình là chính phủ. Chính phủ nhận mệnh lệnh của cơ quan quyền lực tối cao, truyền tới dân chúng. Muốn cho quốc gia giữ được thế cân bằng thì các bên đều phải được đền đáp; một bên là công việc và quyền lực của chinh phủ, một bên là công việc và quyền lực của công dân, vừa là chủ nhân vừa là thần dân của chính phủ; hai bên chính phủ và công dân đều phải được đền đáp ngang nhau.
    Chuỗi tỷ lệ nói trên rõ ràng là có ba mức độ: cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ (pháp quan) và công dân (thần dân). Nếu một trong ba mức độ này bị xấu đi thì chuỗi tỷ lệ sẽ mất cân đối.
    Nếu cơ quan quyền lực tối cao (vốn làm chức năng lập pháp muốn trực tiếp cai trị hoặc các pháp quan (vốn làm chức năng hành pháp) lại muốn đứng ra ban bố luật; hoặc các thần dân lại không muốn phục tùng, thì lập tức nước nhà xảy ra lộn xộn; sức mạnh và ý chí không tác động hài hòa; đất nước sẽ sa vào tình trạng chuyên chế hoặc vô chính phủ.
    Cuối cùng do mỗi chuỗi tỷ lệ chỉ có thể có, được một tỷ lệ trung bình, cho nên trong một nước cũng chỉ có thể tồn tại một chính phủ tốt mà thôi. Nhưng do hàng ngàn biến thiên có thể làm thay đổi các quan hệ trong một dân tộc cho nên chẳng những nhiều loại chính phủ sẽ thích hợp với nhiều loại nước khác nhau mà ngay trong một nước cũng có thể có nhiều loại chính phủ tốt thích hợp với nhiều giai đoạn khác nhau.
    Để có được ý niệm rõ rệt về các mối quan hệ giữa hai cực, tôi xin lấy ví dụ về dân số là một thứ quan hệ dễ diễn giải hơn.
    Giả định một nước có mười nghìn công dân. Ở đây cơ quan quyền lực tối cao chỉ được coi như một cơ thể tiêu biểu cho tập thể; nhưng mỗi con người, với tư cách thần dân thì được coi như một cá nhân. Như vậy cơ quan quyền lực tối cao tỷ lệ với thần dân là mười nghìn so với một, nghĩa là mỗi thần dân chỉ có một phần mười nghìn quyền lực tối cao, mặc dầu anh ta phải đem hết mình phục tùng quyền lực tối cao. Nếu số dân cuả nước đó tăng lên thành một trăm nghìn thì tình trạng của thần dân vẫn không thay đổi, mỗi người đều gánh chịu toàn toàn bộ hệ thống luật pháp của nước nhà; nhưng tỉ trọng là phiếu của họ bi tụt xuống, chỉ còn một phần trăm nghìn, tức là mười lần nhỏ hơn trước. Như vậy, thần dân bao giờ cũng chỉ là con số một, mà cơ quan quyền lực tối cao thì tỉ trọng tăng lên theo số dân. Thế là: Nước càng lớn, tự do càng giảm.
    Khi tôi nói một tỉ lệ tăng lên thì tôi hiểu rằng tỉ lệ đó càng xa mức quân bình. Như vậy tỉ lệ càng lớn theo khái niệm toán học thì mức so sánh càng tụt đi theo khái niệm thông thường. Trong khái niệm toán học, tỉ lệ được tính theo số lượng, đo bằng trị số. Trong khái niệm thông thường tỉ lệ được tính bằng lối so sánh và ước lượng theo mức độ quân bình.
    Nếu ý chí cá nhân kém gắn bó với ý chí tập thể, tức là phong tục tập quán xa lạ với luật pháp, thì lực đàn áp sẽ phải tăng lên. Vậy một chính phủ muốn tốt thì phải mạnh tương ứng với mức tăng của dân số. Mặt khác quốc gia phình lên, quan lại càng có khuynh hướng và phương tiện để lạm dụng quyền uy, thì chính phủ càng phải có thêm lực để chế ngự dân chúng; và cơ quan quyền lực tối cao phải có thêm lực để chế ngự chính phủ. Ở đây tôi không nói về một lực tuyệt đối mà chỉ nói về cái lực tương đối của các bộ phận trong quốc gia.
    Từ đó ta thấy rằng quan hệ giữa ba mức độ nối tiếp nhau, giữa cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ, và dân chúng, không phải là một ý niệm tuỳ tiện, mà là hệ quả tất yếu, rút từ trong bản chất của cơ thể chính trị. Từ đó lại thấy thêm rặt g trong hai cực thì cực dân chúng, với tính cách thần dân, là cực cố định, thể hiện sự thống nhất. Mỗi lần quyền lợi chung (của hai cực) tăng hoặc giảm thì quyền lợi đơn phương (của một cực) cũng tăng hoặc giảm tương ứng, do đó vế trung gian cũng thay đổi . Thế là đủ để thấy rõ rằng không có một cấu trúc chính phủ nào là tuyệt đối, là duy nhất; mà có thể có mấy loại chính phủ khác nhau, tương ứng với bấy nhiêu cỡ quốc gia lớn nhỏ khác nhau.
    Nếu có ai giễu cợt lối phân tích trên đây mà bảo rằng cứ việc khai căn số dân thì đã tìm ra tỷ lệ trung bình để tổ chức bộ máy chính phủ của một nước. Tôi xin trả lời rằng tôi chỉ lấy số dân làm một ví dụ; những tỉ lệ mà tôi nói ở đây không đơn thuần đo bằng số người, mà nói chung là đo bằng số lượng của hành động. Số lượng này hình thành bằng vô vàn lý do; vả lại muốn dùng ít lời lẽ khi giải thích, tôi phải mượn thuật ngữ toán học. Tuy nhiên tôi không quên rằng sự chính xác toán học không dùng để tính toán các số lượng tinh thần được (ND).
    Chính phủ là nhỏ, mà cơ thể chính trị chứa đựng chính phủ là lớn. Đó là một con người tinh thần có những năng khiếu nhất định, chủ động như cơ quan quyền lực tối cao; thụ động như quốc gia, và người ta có thể phân giải con người tinh thần ấy thành nhiều mối quan hệ giống nhau, tạo ra một cấp độ mới, rồi một cấp độ mới nữa nằm trong cấp độ trước, theo như cấp độ của hệ thống toà án; cứ thế phân giải mãi cho đến các cấp độ trung bình không thể phân giải thêm lữa, tức là đến chỗ chỉ còn một thủ lĩnh tối cao, một pháp quan duy nhất trong bậc thang cấp độ đó, khác nào sự thống nhất của dãy số lẻ với dãy số nguyên.
    Xin đừng bôi rối về chuyện có nhiêu cấp độ như trên. Ta hãy thỏa thuận coi chính phủ như một cơ thể mới trông cơ thể quốc gia, khác với dân chúng, và khác với cơ quan quyền lực tố cao, làm cơ thể trung gian giữa hại cực đó.
    Bởi sự khác biệt chủ yếu giữa hai cơ thể nói trên mà quốc gia mới tồn tại do tự bản thân nó, và chính phủ thì tồn tại do cơ quan quyền lực tối cao, cho nên ý chí cao nhất của chính phủ phải là ý chí chung, phải là luật. Sức ạnh của chính phủ chỉ là sức mạnh công cộng qui tụ vào nó. Nếu chính phủ muốn tùy tiện xì ra một hành động chuyền quyền thì mối quan hệ toàn cục sẽ bắt đầu lơi lỏng. Cuối cùng, nếu như chính phủ có ý chí riêng mạnh hơn cả ý chí của cơ quan quyền lực tối cao, rồi sử dụng lực lượng mình nắm trong tay để thực hiện ý chí riêng ấy, thì một nước sẽ có hai cơ quan quyền lực tối cao, một cơ quan cao trong luật, và một cơ quan tối cao trong thực tế. Lúc đó sự thống nhất xã hội sẽ tan rã, cơ thể chính tri sẽ tàn lụi.
    Tuy nhiên, muốn cho cơ thể chính phủ có một đời sống thực tế khác với cơ thể quốc gia; muốn cho mọi thành viên chính phủ có thể hoạt động hài hòa, đáp ứng được mục đích chân chính của nó, thì chính phủ phải có "cái tôi" cụ thể, có sự nhạy cảm chung của mọi thành viên, có một lực lượng, một ý chí riêng, nhằm tự bảo tồn mình. Đời sống thực tế của chính phủ đòi hỏi phải lập các hội đồng, các đoàn tư vấn, phải có quyền định đoạt, xử lý, có các quyền hạn, các chức vị, của chế độ ưu tiên giành riêng cho bộ máy chính phủ, khiến điều kiện sinh hoạt của các pháp quan phải được vẻ vang tương ứng với sự khó nhọc của họ.
    Khó khăn là ở cách xếp đặt toàn bộ những cái bên dưới chính phủ; sắp xếp thế nào để nó không làm hỏng mất cấu trúc chung mà vẫn khẳng định được bản thân nó; làm thế nào cho chính phủ luôn luôn phân biệt được lực lượng chính phủ để bảo tồn chính phủ với lực lượng công cộng nhằm bảo tồn quốc gla. Nói tóm lại sắp xếp thế nào để luôn luôn có thể sẵn sàng hy sinh chính phủ vì nhân dân chứ không phải hy sinh nhân dân vì chính phủ(ND).
    Ngoài ra, tuy cơ thể nhân tạo của chính phủ là sản phẩm của một cơ thể nhân tạo khác; tuy rằng chính phủ có một đời sống phụ thuộc, vay mượn, nhưng điều đó không ngăn cản chính phủ hoạt động một cách nhanh nhẹn, như một con người khoẻ mạnh. Cuốl cùng, chính phủ tuy không tách rời hẳn mục đích cấu tạo ra nó, vẫn giữ một khoảng cách nhất đinh so với mục đích, tùy theo phương thức cấu tạo ra nó.
    Từ những điều khác biệt nói trên nảy sinh các mối quan hệ mà chính phủ phải có đối với cơ thể quốc gia, tùy theo những quan hệ cá biệt và bất thường, mà quốc gia phải phụ thuộc vào đó.
    Nếu như mối quan hệ ấy bi hư hỏng thì thường khi ta thấy một chính phủ tốt nhất cũng trở thành chính phủ tồi tệ nhất.
  5. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    QUYỂN THỨ BA
    Trước khi nói đến các hình thức chính phủ khác nhau, ta hãy định nghĩa chính xác cái từ "Chính phủ" mà xưa nay chưa ai giải thích thật đúng đắn.
    1. CHÍNH PHỦ NÓI CHUNG
    Xin nói trước với độc giả rằng chương này cần phải được thật nghiêm túc; vì tôi không có tài làm sáng tỏ vấn đề đối với kẻ nào không muốn chăm chú tìm hiểu.
    Mỗi hành động tự do đều có hai nguyên nhân tạo sinh ra nó. Một nguyên nhân thường và một nguyên nhân vật lý.
    Nguyên nhân thường tức là ý chí thúc đẩy người ta hành động. Nguyên nhân vật lý tức là cái lực tác động thành việc làm. Khi tôi đi đến một cái đích, trước hết phải là do tôi muốn tới đó; mặt khác phải có đôi chân đưa tôi tới đích. Người bại liệt đang muốn chạy và người nhanh nhẹn không muốn chạy, cả hai đều ở yên một chỗ như nhau.
    Cơ thể chính trị cũng có những động lực như thế: sức mạnh và ý chí. Một cái gọi là quyền lực lập pháp; cái kia gọi là quyền lực hành pháp. Không có cái gì tự làm hoặc phải làm mà không dựa vào thứ quyền lực ấy.
    Ta đã thấy quyền lực lập pháp thuộc về nhân dân và chỉ có thể thuộc về nhân dân mà thôi. Trái lại, quyền hành pháp không thể thuộc về cái chung như quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên quan đến những điều khoản cụ thể, không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản hoặc của cơ quan quyền lực tối cao, mà mọi cử chỉ cần phải là những đạo luật.
    Vậy thì lực lượng công cộng phải có một nhân viên đứng ra tập hợp các sức mạnh, biến nó thành việc làm theo đúng hướng của ý chí chung, phục vụ cho mối liên hệ của quốc gia và của cơ quan quyền lực tối cao, tạo nên trong con người công cộng ấy một thứ liên hệ giống như trong con người thường, liên hệ giữa linh hồn với thể xác. Đó là cái lẽ khiến cho trong một quốc gia phải có chính phủ.
    Chớ lẫn lộn chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao. Chính phủ chỉ là các bộ của nhà nước mà thôi .
    Vậy chính phủ là gì ?
    Chính phủ là một cơ thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như tự do chính trị.
    Các thành viên trong cơ thể trung gian này gọi là pháp quan hoặc các vua, tức là những người cai trị. Toàn bộ cơ thể trung gian này thì gọi là "Chính phủ"(41). Như vậy điều luật bắt nhân dân phải phục tùng chính phủ không phải là một khế ước (contrat). Ai nghĩ như vậy đều rất có lý.
    Cơ thể trung gian này chỉ là một ủy viên hội; một cơ quan thực hành, trong đó các viên chức thực hiện những điều mà cơ quan quyền lực tối cao ủy thác, cơ quan quyền lực tối cao có thể hạn chế, sửa đổi, hoặc thu hồi quyền hành của các viên chức đó. Hủy bỏ quyền hành pháp là trái với bản chất của cơ thể xã hội do đó trái với mục đích của cộng đông xã hội.
    Tên gọi sự thực hiện quyền hành pháp theo đúng luật là "Chính phủ", hoặc là "Cơ quan cai trị tối cao". Con người hoặc tổ chức được uỷ thác làm việc cai trị ấy thì gọi là "vị nguyên thủ" hoặc "pháp quan".
    Trong chính phủ có các lực trung gian quan hệ với nhau, bao gồm cả quan hệ giữa cơ quan quyền lực tối cao với quốc gia. Có thể trình bày quan hệ này thành quan hệ giữa các cực trong một chuỗi tỷ lệ, mà tỷ lệ trung bình là chính phủ. Chính phủ nhận mệnh lệnh của cơ quan quyền lực tối cao, truyền tới dân chúng. Muốn cho quốc gia giữ được thế cân bằng thì các bên đều phải được đền đáp; một bên là công việc và quyền lực của chinh phủ, một bên là công việc và quyền lực của công dân, vừa là chủ nhân vừa là thần dân của chính phủ; hai bên chính phủ và công dân đều phải được đền đáp ngang nhau.
    Chuỗi tỷ lệ nói trên rõ ràng là có ba mức độ: cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ (pháp quan) và công dân (thần dân). Nếu một trong ba mức độ này bị xấu đi thì chuỗi tỷ lệ sẽ mất cân đối.
    Nếu cơ quan quyền lực tối cao (vốn làm chức năng lập pháp muốn trực tiếp cai trị hoặc các pháp quan (vốn làm chức năng hành pháp) lại muốn đứng ra ban bố luật; hoặc các thần dân lại không muốn phục tùng, thì lập tức nước nhà xảy ra lộn xộn; sức mạnh và ý chí không tác động hài hòa; đất nước sẽ sa vào tình trạng chuyên chế hoặc vô chính phủ.
    Cuối cùng do mỗi chuỗi tỷ lệ chỉ có thể có, được một tỷ lệ trung bình, cho nên trong một nước cũng chỉ có thể tồn tại một chính phủ tốt mà thôi. Nhưng do hàng ngàn biến thiên có thể làm thay đổi các quan hệ trong một dân tộc cho nên chẳng những nhiều loại chính phủ sẽ thích hợp với nhiều loại nước khác nhau mà ngay trong một nước cũng có thể có nhiều loại chính phủ tốt thích hợp với nhiều giai đoạn khác nhau.
    Để có được ý niệm rõ rệt về các mối quan hệ giữa hai cực, tôi xin lấy ví dụ về dân số là một thứ quan hệ dễ diễn giải hơn.
    Giả định một nước có mười nghìn công dân. Ở đây cơ quan quyền lực tối cao chỉ được coi như một cơ thể tiêu biểu cho tập thể; nhưng mỗi con người, với tư cách thần dân thì được coi như một cá nhân. Như vậy cơ quan quyền lực tối cao tỷ lệ với thần dân là mười nghìn so với một, nghĩa là mỗi thần dân chỉ có một phần mười nghìn quyền lực tối cao, mặc dầu anh ta phải đem hết mình phục tùng quyền lực tối cao. Nếu số dân cuả nước đó tăng lên thành một trăm nghìn thì tình trạng của thần dân vẫn không thay đổi, mỗi người đều gánh chịu toàn toàn bộ hệ thống luật pháp của nước nhà; nhưng tỉ trọng là phiếu của họ bi tụt xuống, chỉ còn một phần trăm nghìn, tức là mười lần nhỏ hơn trước. Như vậy, thần dân bao giờ cũng chỉ là con số một, mà cơ quan quyền lực tối cao thì tỉ trọng tăng lên theo số dân. Thế là: Nước càng lớn, tự do càng giảm.
    Khi tôi nói một tỉ lệ tăng lên thì tôi hiểu rằng tỉ lệ đó càng xa mức quân bình. Như vậy tỉ lệ càng lớn theo khái niệm toán học thì mức so sánh càng tụt đi theo khái niệm thông thường. Trong khái niệm toán học, tỉ lệ được tính theo số lượng, đo bằng trị số. Trong khái niệm thông thường tỉ lệ được tính bằng lối so sánh và ước lượng theo mức độ quân bình.
    Nếu ý chí cá nhân kém gắn bó với ý chí tập thể, tức là phong tục tập quán xa lạ với luật pháp, thì lực đàn áp sẽ phải tăng lên. Vậy một chính phủ muốn tốt thì phải mạnh tương ứng với mức tăng của dân số. Mặt khác quốc gia phình lên, quan lại càng có khuynh hướng và phương tiện để lạm dụng quyền uy, thì chính phủ càng phải có thêm lực để chế ngự dân chúng; và cơ quan quyền lực tối cao phải có thêm lực để chế ngự chính phủ. Ở đây tôi không nói về một lực tuyệt đối mà chỉ nói về cái lực tương đối của các bộ phận trong quốc gia.
    Từ đó ta thấy rằng quan hệ giữa ba mức độ nối tiếp nhau, giữa cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ, và dân chúng, không phải là một ý niệm tuỳ tiện, mà là hệ quả tất yếu, rút từ trong bản chất của cơ thể chính trị. Từ đó lại thấy thêm rặt g trong hai cực thì cực dân chúng, với tính cách thần dân, là cực cố định, thể hiện sự thống nhất. Mỗi lần quyền lợi chung (của hai cực) tăng hoặc giảm thì quyền lợi đơn phương (của một cực) cũng tăng hoặc giảm tương ứng, do đó vế trung gian cũng thay đổi . Thế là đủ để thấy rõ rằng không có một cấu trúc chính phủ nào là tuyệt đối, là duy nhất; mà có thể có mấy loại chính phủ khác nhau, tương ứng với bấy nhiêu cỡ quốc gia lớn nhỏ khác nhau.
    Nếu có ai giễu cợt lối phân tích trên đây mà bảo rằng cứ việc khai căn số dân thì đã tìm ra tỷ lệ trung bình để tổ chức bộ máy chính phủ của một nước. Tôi xin trả lời rằng tôi chỉ lấy số dân làm một ví dụ; những tỉ lệ mà tôi nói ở đây không đơn thuần đo bằng số người, mà nói chung là đo bằng số lượng của hành động. Số lượng này hình thành bằng vô vàn lý do; vả lại muốn dùng ít lời lẽ khi giải thích, tôi phải mượn thuật ngữ toán học. Tuy nhiên tôi không quên rằng sự chính xác toán học không dùng để tính toán các số lượng tinh thần được (ND).
    Chính phủ là nhỏ, mà cơ thể chính trị chứa đựng chính phủ là lớn. Đó là một con người tinh thần có những năng khiếu nhất định, chủ động như cơ quan quyền lực tối cao; thụ động như quốc gia, và người ta có thể phân giải con người tinh thần ấy thành nhiều mối quan hệ giống nhau, tạo ra một cấp độ mới, rồi một cấp độ mới nữa nằm trong cấp độ trước, theo như cấp độ của hệ thống toà án; cứ thế phân giải mãi cho đến các cấp độ trung bình không thể phân giải thêm lữa, tức là đến chỗ chỉ còn một thủ lĩnh tối cao, một pháp quan duy nhất trong bậc thang cấp độ đó, khác nào sự thống nhất của dãy số lẻ với dãy số nguyên.
    Xin đừng bôi rối về chuyện có nhiêu cấp độ như trên. Ta hãy thỏa thuận coi chính phủ như một cơ thể mới trông cơ thể quốc gia, khác với dân chúng, và khác với cơ quan quyền lực tố cao, làm cơ thể trung gian giữa hại cực đó.
    Bởi sự khác biệt chủ yếu giữa hai cơ thể nói trên mà quốc gia mới tồn tại do tự bản thân nó, và chính phủ thì tồn tại do cơ quan quyền lực tối cao, cho nên ý chí cao nhất của chính phủ phải là ý chí chung, phải là luật. Sức ạnh của chính phủ chỉ là sức mạnh công cộng qui tụ vào nó. Nếu chính phủ muốn tùy tiện xì ra một hành động chuyền quyền thì mối quan hệ toàn cục sẽ bắt đầu lơi lỏng. Cuối cùng, nếu như chính phủ có ý chí riêng mạnh hơn cả ý chí của cơ quan quyền lực tối cao, rồi sử dụng lực lượng mình nắm trong tay để thực hiện ý chí riêng ấy, thì một nước sẽ có hai cơ quan quyền lực tối cao, một cơ quan cao trong luật, và một cơ quan tối cao trong thực tế. Lúc đó sự thống nhất xã hội sẽ tan rã, cơ thể chính tri sẽ tàn lụi.
    Tuy nhiên, muốn cho cơ thể chính phủ có một đời sống thực tế khác với cơ thể quốc gia; muốn cho mọi thành viên chính phủ có thể hoạt động hài hòa, đáp ứng được mục đích chân chính của nó, thì chính phủ phải có "cái tôi" cụ thể, có sự nhạy cảm chung của mọi thành viên, có một lực lượng, một ý chí riêng, nhằm tự bảo tồn mình. Đời sống thực tế của chính phủ đòi hỏi phải lập các hội đồng, các đoàn tư vấn, phải có quyền định đoạt, xử lý, có các quyền hạn, các chức vị, của chế độ ưu tiên giành riêng cho bộ máy chính phủ, khiến điều kiện sinh hoạt của các pháp quan phải được vẻ vang tương ứng với sự khó nhọc của họ.
    Khó khăn là ở cách xếp đặt toàn bộ những cái bên dưới chính phủ; sắp xếp thế nào để nó không làm hỏng mất cấu trúc chung mà vẫn khẳng định được bản thân nó; làm thế nào cho chính phủ luôn luôn phân biệt được lực lượng chính phủ để bảo tồn chính phủ với lực lượng công cộng nhằm bảo tồn quốc gla. Nói tóm lại sắp xếp thế nào để luôn luôn có thể sẵn sàng hy sinh chính phủ vì nhân dân chứ không phải hy sinh nhân dân vì chính phủ(ND).
    Ngoài ra, tuy cơ thể nhân tạo của chính phủ là sản phẩm của một cơ thể nhân tạo khác; tuy rằng chính phủ có một đời sống phụ thuộc, vay mượn, nhưng điều đó không ngăn cản chính phủ hoạt động một cách nhanh nhẹn, như một con người khoẻ mạnh. Cuốl cùng, chính phủ tuy không tách rời hẳn mục đích cấu tạo ra nó, vẫn giữ một khoảng cách nhất đinh so với mục đích, tùy theo phương thức cấu tạo ra nó.
    Từ những điều khác biệt nói trên nảy sinh các mối quan hệ mà chính phủ phải có đối với cơ thể quốc gia, tùy theo những quan hệ cá biệt và bất thường, mà quốc gia phải phụ thuộc vào đó.
    Nếu như mối quan hệ ấy bi hư hỏng thì thường khi ta thấy một chính phủ tốt nhất cũng trở thành chính phủ tồi tệ nhất.
  6. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    2. NGUYÊN TẮC CẤU TẠO CÁC HÌNH THỨC CHÍNH PHỦ
    Muốn trình bày nguyên nhân của những sự khác biệt trên kia, ta cần phải phân biệt vị nguyên thủ với chính phủ, cũng như tôi đã phân biệt Nhà nước với cơ quan quyền lực tối cao.
    Bộ máy quan lại có thể bao gồm một số nhiều hay ít nhân viên. Chúng ta đã nói rằng dân số càng tăng thì tỉ trọng của cơ quan quyền lực tối cao so với thần dân càng lớn. Ta lại có thể nói y như thế trong tỉ lệ tương quan giữa chính phủ với quan lại.
    Lực tổng quát của chính phủ là lực của quốc gia; điều đó không thay đổi. Nếu chính phủ càng dùng nhiều lực để tác động lên các nhân viên chính phủ thì phần lực còn lại để tác động vào dân chúng càng giảm đi.
    Vậy quan lại càng đông, chính phủ càng yếu(ND). Đây là một châm ngôn cơ bản, cần giải thích thật rõ ràng. Ta có thể thấy trong con người một vị quan lại có ba ý chí khác nhau: Một là ý chí cá nhân của ông ta, chỉ nhằm mưu sự thành đạt cho bản thân mình. Hai là ý chí chung của cả lớp quan lại, chỉ liên quan đến sự thành đạt của chính phủ; có thể coi đó là ý chí tập thể chung của cả chính phủ, đồng thời là ý chí riêng của một bộ phận (chính phủ) trong toàn thể quốc gia. Ba là ý chí dân tộc hay ý chí tối cao, đây là ý chí chung, chung cho quốc gia như một tổng thể, và chung cho cả chính phủ như một bộ phận.
    Trong chế độ lập pháp hoàn hảo, ý chí riêng hoặc ý chí cá nhân phải là số không; ý chí tập thể của chính phủ phải là rất phụ thuộc, do đó ý chí chung, ý chí tố cao luôn luôn phải là ý chí bao trùm, làm mực thước duy nhất cho ý chí khác.
    Nếu theo trật tự tự nhiên tbì khác hẳn; các loại ý chí như trên rất linh hoạt, cơ hồ qui tụ vào làm một; ý chí chung luôn luôn là yếu nhất, rồi đến ý chí nhóm yếu thứ hai; và ý chí cá nhân mạnh hơn cả. Trong bộ máy chính phủ, mỗi chức viên trước hết là bản thân cá nhân anh ta, sau đó là một quan lại, cuối cùng một là một công dân.
    Bậc thang ý chỉ theo trật tự tự nhiên trái ngược hẳn với nhu cầu của trật tự xã hội.
    Đặt vấn đề như trên, ta thấy rằng chính phủ phải do một người nắm, ý chí riêng của người đó với ý chí cơ thể chính phủ hoàn toàn nhập lại, nên nó có một cường độ rất cao. Thế mà việc vận dụng lực là tùy thuộc vào cường độ của ý chí, mà lực tuyệt đối của chinh phủ thì không thay đổi, cho nên chính phủ năng động nhất sẽ là chính phủ của một người.
    Trái lại, nếu ta nhập chính phủ với quyền lực lập pháp làm một, coi chính phủ như cơ quan quyền lực tối cao, coi mỗi công dân như một pháp quan; lúc đô ý chí bộ phận đồng nhất với ý chí toàn thể vẫn không linh hoạt hơn, khiến cho ý chí cá nhân được tác động với tất cả sức mạnh của nó. Như vậy chính phủ sẽ kém linh hoạt, vì lực tương đối của nó đã ở mức thấp nhất, trong khi lực tuyệt đối của nó vẫn không đổi.
    Những mối quan hệ như trên là không chốl cãi được. Càng xem xét ta càng phải khẳng định như thế. Ví dụ: ta thấy rằng vị pháp quan trong cơ thể chính phủ năng nổ hơn người công dân trong cơ thể quốc gia, cho nên ý chí cá nhân trong hoạt động của chính phủ có ảnh hưởng nhiều hơn là trong hoạt động của quốc gia, vì mỗi ông quan đều được giao một chức vụ trong chính phủ, còn mỗi công dân tách rời ra thì chẳng có chức vụ gì trong quốc gia cả. Mặt khác quốc gia càng rộng lớn thêm thì lực lượng thực tế của quốc gia càng tăng, trong khi đó số lượng pháp quan không tăng thì chính phủ cũng không có thêm lực lượng thực tế, cho nên một khi quốc gia rộng lớn thêm thì lực lượng tương đối hay tính linh hoạt của chính phủ sẽ giảm bớt, bất kể lực tuyệt đối hoặc lực lượng thực tế của chính phủ có tăng hay không.
    Chắc chắn là công tác càng giao cho nhiều người thì càng chậm xong, làm ăn quá thận trọng thì khó phát tài to, vì bỏ qua mất cơ hội, và bàn cãi nhiều thì thường hỏng việc.
    Trên kia tôi đã chứng minh quan lại càng đông, chính phủ càng lỏng lẻo, và dân số càng lớn thì lực đàn áp càng phải tăng. Vậy thì tỷ lệ giữa quan lại với chính phủ phải nghịch với tỉ lệ giữa thần dân với cơ quan quyền lực tối cao; do đó quốc gia càng lớn chinh phủ càng phải chặt chẽ, cũng như dân chúng càng nhiều lên thì số quan lại cai trị càng phải giảm bớt đi.
    Ở đây tôi chỉ nói về lực tương đối của chính phủ chứ không nói về sự đúng đắn của nó. Số pháp quan càng đông thì ý chí bộ phận của chính phủ càng gắn với ý chí toàn bộ; trái lại, nếu chỉ có một vị pháp quan duy nhất thì ý chí bộ phận chỉ là ý chí cá nhân. Như vậy được về mặt này thì mất về mặt khác; và nghệ thuật của nhà lập pháp là biết đặt đúng chỗ để ý chí và lực lượng của chính phủ luôn luôn tương đương nhau, phối hợp với nhau có lợi cho quốc gia nhiều nhất.
  7. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    2. NGUYÊN TẮC CẤU TẠO CÁC HÌNH THỨC CHÍNH PHỦ
    Muốn trình bày nguyên nhân của những sự khác biệt trên kia, ta cần phải phân biệt vị nguyên thủ với chính phủ, cũng như tôi đã phân biệt Nhà nước với cơ quan quyền lực tối cao.
    Bộ máy quan lại có thể bao gồm một số nhiều hay ít nhân viên. Chúng ta đã nói rằng dân số càng tăng thì tỉ trọng của cơ quan quyền lực tối cao so với thần dân càng lớn. Ta lại có thể nói y như thế trong tỉ lệ tương quan giữa chính phủ với quan lại.
    Lực tổng quát của chính phủ là lực của quốc gia; điều đó không thay đổi. Nếu chính phủ càng dùng nhiều lực để tác động lên các nhân viên chính phủ thì phần lực còn lại để tác động vào dân chúng càng giảm đi.
    Vậy quan lại càng đông, chính phủ càng yếu(ND). Đây là một châm ngôn cơ bản, cần giải thích thật rõ ràng. Ta có thể thấy trong con người một vị quan lại có ba ý chí khác nhau: Một là ý chí cá nhân của ông ta, chỉ nhằm mưu sự thành đạt cho bản thân mình. Hai là ý chí chung của cả lớp quan lại, chỉ liên quan đến sự thành đạt của chính phủ; có thể coi đó là ý chí tập thể chung của cả chính phủ, đồng thời là ý chí riêng của một bộ phận (chính phủ) trong toàn thể quốc gia. Ba là ý chí dân tộc hay ý chí tối cao, đây là ý chí chung, chung cho quốc gia như một tổng thể, và chung cho cả chính phủ như một bộ phận.
    Trong chế độ lập pháp hoàn hảo, ý chí riêng hoặc ý chí cá nhân phải là số không; ý chí tập thể của chính phủ phải là rất phụ thuộc, do đó ý chí chung, ý chí tố cao luôn luôn phải là ý chí bao trùm, làm mực thước duy nhất cho ý chí khác.
    Nếu theo trật tự tự nhiên tbì khác hẳn; các loại ý chí như trên rất linh hoạt, cơ hồ qui tụ vào làm một; ý chí chung luôn luôn là yếu nhất, rồi đến ý chí nhóm yếu thứ hai; và ý chí cá nhân mạnh hơn cả. Trong bộ máy chính phủ, mỗi chức viên trước hết là bản thân cá nhân anh ta, sau đó là một quan lại, cuối cùng một là một công dân.
    Bậc thang ý chỉ theo trật tự tự nhiên trái ngược hẳn với nhu cầu của trật tự xã hội.
    Đặt vấn đề như trên, ta thấy rằng chính phủ phải do một người nắm, ý chí riêng của người đó với ý chí cơ thể chính phủ hoàn toàn nhập lại, nên nó có một cường độ rất cao. Thế mà việc vận dụng lực là tùy thuộc vào cường độ của ý chí, mà lực tuyệt đối của chinh phủ thì không thay đổi, cho nên chính phủ năng động nhất sẽ là chính phủ của một người.
    Trái lại, nếu ta nhập chính phủ với quyền lực lập pháp làm một, coi chính phủ như cơ quan quyền lực tối cao, coi mỗi công dân như một pháp quan; lúc đô ý chí bộ phận đồng nhất với ý chí toàn thể vẫn không linh hoạt hơn, khiến cho ý chí cá nhân được tác động với tất cả sức mạnh của nó. Như vậy chính phủ sẽ kém linh hoạt, vì lực tương đối của nó đã ở mức thấp nhất, trong khi lực tuyệt đối của nó vẫn không đổi.
    Những mối quan hệ như trên là không chốl cãi được. Càng xem xét ta càng phải khẳng định như thế. Ví dụ: ta thấy rằng vị pháp quan trong cơ thể chính phủ năng nổ hơn người công dân trong cơ thể quốc gia, cho nên ý chí cá nhân trong hoạt động của chính phủ có ảnh hưởng nhiều hơn là trong hoạt động của quốc gia, vì mỗi ông quan đều được giao một chức vụ trong chính phủ, còn mỗi công dân tách rời ra thì chẳng có chức vụ gì trong quốc gia cả. Mặt khác quốc gia càng rộng lớn thêm thì lực lượng thực tế của quốc gia càng tăng, trong khi đó số lượng pháp quan không tăng thì chính phủ cũng không có thêm lực lượng thực tế, cho nên một khi quốc gia rộng lớn thêm thì lực lượng tương đối hay tính linh hoạt của chính phủ sẽ giảm bớt, bất kể lực tuyệt đối hoặc lực lượng thực tế của chính phủ có tăng hay không.
    Chắc chắn là công tác càng giao cho nhiều người thì càng chậm xong, làm ăn quá thận trọng thì khó phát tài to, vì bỏ qua mất cơ hội, và bàn cãi nhiều thì thường hỏng việc.
    Trên kia tôi đã chứng minh quan lại càng đông, chính phủ càng lỏng lẻo, và dân số càng lớn thì lực đàn áp càng phải tăng. Vậy thì tỷ lệ giữa quan lại với chính phủ phải nghịch với tỉ lệ giữa thần dân với cơ quan quyền lực tối cao; do đó quốc gia càng lớn chinh phủ càng phải chặt chẽ, cũng như dân chúng càng nhiều lên thì số quan lại cai trị càng phải giảm bớt đi.
    Ở đây tôi chỉ nói về lực tương đối của chính phủ chứ không nói về sự đúng đắn của nó. Số pháp quan càng đông thì ý chí bộ phận của chính phủ càng gắn với ý chí toàn bộ; trái lại, nếu chỉ có một vị pháp quan duy nhất thì ý chí bộ phận chỉ là ý chí cá nhân. Như vậy được về mặt này thì mất về mặt khác; và nghệ thuật của nhà lập pháp là biết đặt đúng chỗ để ý chí và lực lượng của chính phủ luôn luôn tương đương nhau, phối hợp với nhau có lợi cho quốc gia nhiều nhất.
  8. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    3. PHÂN LOẠI CHÍNH PHỦ
    Ở chương trên ta đã thấy các hình thức chính phủ theo số lượng thành viên trong đó. Ở đây chúng ta xem xét thêm sự phân loại chính phủ.
    Trước hết, cơ quan quyền lực tối cao có thể phó thác việc quản lý chính phủ cho toàn dân hoặc cho đại bộ phận dân chúng; như vậy sẽ có nhiều cóng dân - pháp quan hơn là số công dân thường. Ta gọi hình thức chính phủ này là "dân chủ".
    Cũng có thể là cơ quan quyền lực tối cao rút hẹp chính phủ vào trong tay một nhóm nhỏ, như vậy sẽ có nhiều công dân thường hơn là số pháp quan. Hình thức chính phủ này gọi là "quí tộc".
    Cuối cùng cơ quan quyền lực tối cao có thể tập trung quyền cai trị của chính phủ vào trong tay một pháp quan duy nhất; còn mọi pháp quan khác chỉ có quyền hạn cá nhân. Hình thức chính phủ thứ ba này gọi là "quân chủ".
    Có ba hình thức chinh phủ kể trên, ít ra là hai hình thức đầu, đều nhạy cảm và có tầm hoạt động rộng rãi. Hình thức dân chủ có thể bao quát được toàn dân, hẹp nhất cũng bao quát được một nửa dân số. Hình thức quí tộc bao quát được từ một nửa đến một số ít dân chúng. Hình thức quân chủ cũng nhạy bén một mức độ nào đó. Thành bang Sparte thường xuyên có hai vua theo hiến pháp và đế quốc La Mã có tới tám vua một lúc, mà không ai coi đó là tình trạng đế quốc bi chia cắt.
    Có một điểm chung mà hình thức trước trùng hợp với hình thức sau; đó là chính phủ cả ba hình thức cai trị nói trên đều nhạy bén tương ứng với các khuôn khổ, khác nhau của quốc gia với dân số đông hay ít.
    Xin nói thêm rằng cùng một chính phủ mà có thể chia làm mấy bộ phận, mỗi bộ phận cai trì một cách khác nhau. Nhập cả ba hình thức lại có thể tìm ra nhiều hình thức hỗn hợp; và mỗi hình thức hỗn hợp lại có thể nhân lên với ba hình thức cai trị đơn thuần nói trên.
    Thời đại nào người ta cũng tranh luận về hình thức cai trị của chính phủ, mà không phán đoán được rằng mỗi hình thức chỉ tốt trong trường hợp nhất định, và xấu trong những trường hợp khác.
    Nếu số quan lại tối cao tỷ lệ nghịch với số công dân trong nước, thì ta có thể khái quát chung lại là: chính phủ dân chủ thích hợp với nước nhỏ, chính phủ quí tộc hợp với nước vừa và chính phủ quân chủ hợp với nước lớn (ND). Đó là qui luật rút ra từ nguyên lý. Nhưng làm sao mà tính được vô vàn trường hợp ngoại lệ, nảy sinh những hình thức chính phủ hỗn hợp khác nhau.
  9. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    3. PHÂN LOẠI CHÍNH PHỦ
    Ở chương trên ta đã thấy các hình thức chính phủ theo số lượng thành viên trong đó. Ở đây chúng ta xem xét thêm sự phân loại chính phủ.
    Trước hết, cơ quan quyền lực tối cao có thể phó thác việc quản lý chính phủ cho toàn dân hoặc cho đại bộ phận dân chúng; như vậy sẽ có nhiều cóng dân - pháp quan hơn là số công dân thường. Ta gọi hình thức chính phủ này là "dân chủ".
    Cũng có thể là cơ quan quyền lực tối cao rút hẹp chính phủ vào trong tay một nhóm nhỏ, như vậy sẽ có nhiều công dân thường hơn là số pháp quan. Hình thức chính phủ này gọi là "quí tộc".
    Cuối cùng cơ quan quyền lực tối cao có thể tập trung quyền cai trị của chính phủ vào trong tay một pháp quan duy nhất; còn mọi pháp quan khác chỉ có quyền hạn cá nhân. Hình thức chính phủ thứ ba này gọi là "quân chủ".
    Có ba hình thức chinh phủ kể trên, ít ra là hai hình thức đầu, đều nhạy cảm và có tầm hoạt động rộng rãi. Hình thức dân chủ có thể bao quát được toàn dân, hẹp nhất cũng bao quát được một nửa dân số. Hình thức quí tộc bao quát được từ một nửa đến một số ít dân chúng. Hình thức quân chủ cũng nhạy bén một mức độ nào đó. Thành bang Sparte thường xuyên có hai vua theo hiến pháp và đế quốc La Mã có tới tám vua một lúc, mà không ai coi đó là tình trạng đế quốc bi chia cắt.
    Có một điểm chung mà hình thức trước trùng hợp với hình thức sau; đó là chính phủ cả ba hình thức cai trị nói trên đều nhạy bén tương ứng với các khuôn khổ, khác nhau của quốc gia với dân số đông hay ít.
    Xin nói thêm rằng cùng một chính phủ mà có thể chia làm mấy bộ phận, mỗi bộ phận cai trì một cách khác nhau. Nhập cả ba hình thức lại có thể tìm ra nhiều hình thức hỗn hợp; và mỗi hình thức hỗn hợp lại có thể nhân lên với ba hình thức cai trị đơn thuần nói trên.
    Thời đại nào người ta cũng tranh luận về hình thức cai trị của chính phủ, mà không phán đoán được rằng mỗi hình thức chỉ tốt trong trường hợp nhất định, và xấu trong những trường hợp khác.
    Nếu số quan lại tối cao tỷ lệ nghịch với số công dân trong nước, thì ta có thể khái quát chung lại là: chính phủ dân chủ thích hợp với nước nhỏ, chính phủ quí tộc hợp với nước vừa và chính phủ quân chủ hợp với nước lớn (ND). Đó là qui luật rút ra từ nguyên lý. Nhưng làm sao mà tính được vô vàn trường hợp ngoại lệ, nảy sinh những hình thức chính phủ hỗn hợp khác nhau.
  10. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    4. CHÍNH PHỦ DÂN CHỦ
    Người làm ra luật biết rõ hơn ai hết cách thực hiện và giải thích luật. Dường như không có một hiến pháp nào tốt hơn là để quyền hành pháp gắn liền với quyền lập pháp. Nhưng theo cách này chi chính phủ sẽ !ệch lạc trên một vài phương diện; vì những cái phải phân biệt sẽ không còn phân biệt nữa; người cầm đầu chinh phủ với cơ quan quyền lực tối cao sẽ chỉ là một người, sẽ hình thành một thứ chính phủ không có chính phủ,
    Người làm ra luật lại đứng ra thi hành luật thì không tốt; cũng như cơ thể dân tộc phải chuyển cách nhìn tổng quát của nó thành cách nhìn cá biệt là điều không tốt; không gì nguy hiểm hơn là để lợi ích tư túi ảnh hưởng vào công việc chung và người lập pháp bị sa đọa vì cách nhìn tư túi thì còn tồi tệ hơn cả chính phủ lạm dụng luật pháp (ND). Lúc đó quốc gia sẽ bị biến chất, mọi thứ cải cách đều không thể thực hiện.
    Một dân tộc không bao giờ lạm dụng chính phủ cũng sẽ không lạm dụng quyền độc lập của mình. Một dân tộc luôn luôn được cai trị tốt thì không cần phải bị cai trị nữa.
    Nếu hiểu thuật ngữ "dân chủ" một cách thật chuẩn mực thì ta sẽ thấy từ trước chưa bao giờ có dân chủ, và sau này cũng sẽ không bao giờ có dân chủ thật sự. Số đông đứng ra cai trị và số ít bị cai trị thì thật là trái ngược với trật tự thiên nhiên. Ta không thể tưởng tượng rằng cả dân tộc luôn họp lại để bàn cãi liên miên về công việc chung. Như vậy không nào lập ra được các ủy ban để làm việc, nếu không thay đổi hình thức cai trị.
    Có thể xác định trên nguyên tắc rằng khi các chức năng của chính phủ được phân phối cho nhiều cơ quan hành pháp đảm đương thì sê có một số ít cơ quan sớm muộn sẽ giành được uy thế lớn, do công việc của họ dễ giải quyết hơn các cơ quan khác.
    Mặt khác một chính phủ như thế làm sao mà tương ứng đi các sự việc phức tạp khó kết hợp. Trước hết, nước rất nhỏ thì dân chúng dể tập hợp, mỗi công dân có thể biết tất cả các công dân khác. Hai là, phong tục tập quán giản dị thì có thể lường trước các công việc và các cuộc tranh luận gai góc. Sau nữa, giữa các hạng người, giữa các mức độ tài sản phải có sự binh đẳng cao độ; nếu không thế thì không duy trì được lâu dài tình trạng bình đẳng trong các loại quyền hạn và quyền uy. Cuối cùng, phải rất ít hoặc không có sự xa hoa, vi xa hoa là do nhiều của cải, và muốn xa hoa phải giàu có. Cái xa hoa làm hư hỏng cả người giàu và người nghèo; giàu hư hỏng vì chiếm hữu, nghèo hư hỏng vì thêm khát; cái tệ xa hoa bán rẻ tổ quốc vì sự mềm yếu hoặc vì tính kiêu căng; nó tước mất công dân của nước nhà bằng cách làm cho người này phải nô lệ người khác và tất cả dân chúng thì nô lệ theo dư luận.
    Do đó một tác giả nổi tiếng đã lấy đức hạnh làm nguyên tắc cho chế độ cộng hòa; vì mọi điều kiện dân chủ nói trên không thể tồn tại nếu không có đức hạnh. Nhưng ông ta đã quá chú ý đến sự phân biệt đức hạnh với tội lỗi, nên đôi khi ông thiểu công bằng, đôi khi thiếu sáng suốt, ông không thấy rằng quyền uy tối cao thì ở đâu cũng thế, và đức hạnh đã là nguyên tắc thì phải có trong mọi quốc gia được tổ chức tốt, tùy theo hình thức chính phủ ở mỗi nước mà đức hạnh tồn tại với mức độ nhiều hoặc ít mà thôi.
    Xin nói thêm rằng chính phủ dân chủ hay chính phủ nhân dần đã phải chịu cảnh xáo động và nội chiến hơn bất cứ loại chính phủ nào, vì trong chế độ dân chủ người ta luôn luôn đòi hỏi mãnh liệt phải thay đổi hình thức, người ta cần nhiêu can đảm để giữ lấy quyền dân chủ đã giành được. Trong chế độ dân chủ, người công dân phải có sức mạnh và tính kiên trì, phải tâm niệm mỗi ngày câu nói nổi tiếng của một vị tỉnh trưởng[1*] đức hạnh trong cuộc hội thảo Tây Ban Nha: Malo pariculoaam lirbertelem quam quietum servilium (42).
    Ví phỏng có một dân tộc "nhà trời" thì chấc là họ được cai trị dân chủ thật sự; chứ một hình thức chính phủ hoàn hảo đến thế thì không đáng cho con người trần gian được hưởng.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [1*]. tỉnh trưởng tỉnh Pozenenie, quận công xứ Lorraine, thân sinh ra vua Tây Ban Nha.

Chia sẻ trang này