1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về Khế ước xã hội - Jean Jacques Rousseau

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 11/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    4. CHÍNH PHỦ DÂN CHỦ
    Người làm ra luật biết rõ hơn ai hết cách thực hiện và giải thích luật. Dường như không có một hiến pháp nào tốt hơn là để quyền hành pháp gắn liền với quyền lập pháp. Nhưng theo cách này chi chính phủ sẽ !ệch lạc trên một vài phương diện; vì những cái phải phân biệt sẽ không còn phân biệt nữa; người cầm đầu chinh phủ với cơ quan quyền lực tối cao sẽ chỉ là một người, sẽ hình thành một thứ chính phủ không có chính phủ,
    Người làm ra luật lại đứng ra thi hành luật thì không tốt; cũng như cơ thể dân tộc phải chuyển cách nhìn tổng quát của nó thành cách nhìn cá biệt là điều không tốt; không gì nguy hiểm hơn là để lợi ích tư túi ảnh hưởng vào công việc chung và người lập pháp bị sa đọa vì cách nhìn tư túi thì còn tồi tệ hơn cả chính phủ lạm dụng luật pháp (ND). Lúc đó quốc gia sẽ bị biến chất, mọi thứ cải cách đều không thể thực hiện.
    Một dân tộc không bao giờ lạm dụng chính phủ cũng sẽ không lạm dụng quyền độc lập của mình. Một dân tộc luôn luôn được cai trị tốt thì không cần phải bị cai trị nữa.
    Nếu hiểu thuật ngữ "dân chủ" một cách thật chuẩn mực thì ta sẽ thấy từ trước chưa bao giờ có dân chủ, và sau này cũng sẽ không bao giờ có dân chủ thật sự. Số đông đứng ra cai trị và số ít bị cai trị thì thật là trái ngược với trật tự thiên nhiên. Ta không thể tưởng tượng rằng cả dân tộc luôn họp lại để bàn cãi liên miên về công việc chung. Như vậy không nào lập ra được các ủy ban để làm việc, nếu không thay đổi hình thức cai trị.
    Có thể xác định trên nguyên tắc rằng khi các chức năng của chính phủ được phân phối cho nhiều cơ quan hành pháp đảm đương thì sê có một số ít cơ quan sớm muộn sẽ giành được uy thế lớn, do công việc của họ dễ giải quyết hơn các cơ quan khác.
    Mặt khác một chính phủ như thế làm sao mà tương ứng đi các sự việc phức tạp khó kết hợp. Trước hết, nước rất nhỏ thì dân chúng dể tập hợp, mỗi công dân có thể biết tất cả các công dân khác. Hai là, phong tục tập quán giản dị thì có thể lường trước các công việc và các cuộc tranh luận gai góc. Sau nữa, giữa các hạng người, giữa các mức độ tài sản phải có sự binh đẳng cao độ; nếu không thế thì không duy trì được lâu dài tình trạng bình đẳng trong các loại quyền hạn và quyền uy. Cuối cùng, phải rất ít hoặc không có sự xa hoa, vi xa hoa là do nhiều của cải, và muốn xa hoa phải giàu có. Cái xa hoa làm hư hỏng cả người giàu và người nghèo; giàu hư hỏng vì chiếm hữu, nghèo hư hỏng vì thêm khát; cái tệ xa hoa bán rẻ tổ quốc vì sự mềm yếu hoặc vì tính kiêu căng; nó tước mất công dân của nước nhà bằng cách làm cho người này phải nô lệ người khác và tất cả dân chúng thì nô lệ theo dư luận.
    Do đó một tác giả nổi tiếng đã lấy đức hạnh làm nguyên tắc cho chế độ cộng hòa; vì mọi điều kiện dân chủ nói trên không thể tồn tại nếu không có đức hạnh. Nhưng ông ta đã quá chú ý đến sự phân biệt đức hạnh với tội lỗi, nên đôi khi ông thiểu công bằng, đôi khi thiếu sáng suốt, ông không thấy rằng quyền uy tối cao thì ở đâu cũng thế, và đức hạnh đã là nguyên tắc thì phải có trong mọi quốc gia được tổ chức tốt, tùy theo hình thức chính phủ ở mỗi nước mà đức hạnh tồn tại với mức độ nhiều hoặc ít mà thôi.
    Xin nói thêm rằng chính phủ dân chủ hay chính phủ nhân dần đã phải chịu cảnh xáo động và nội chiến hơn bất cứ loại chính phủ nào, vì trong chế độ dân chủ người ta luôn luôn đòi hỏi mãnh liệt phải thay đổi hình thức, người ta cần nhiêu can đảm để giữ lấy quyền dân chủ đã giành được. Trong chế độ dân chủ, người công dân phải có sức mạnh và tính kiên trì, phải tâm niệm mỗi ngày câu nói nổi tiếng của một vị tỉnh trưởng[1*] đức hạnh trong cuộc hội thảo Tây Ban Nha: Malo pariculoaam lirbertelem quam quietum servilium (42).
    Ví phỏng có một dân tộc "nhà trời" thì chấc là họ được cai trị dân chủ thật sự; chứ một hình thức chính phủ hoàn hảo đến thế thì không đáng cho con người trần gian được hưởng.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [1*]. tỉnh trưởng tỉnh Pozenenie, quận công xứ Lorraine, thân sinh ra vua Tây Ban Nha.
  2. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    5. CHÍNH PHỦ QUÝ TỘC
    Ở đây chúng ta có hai con người tinh thần khác nhau: Chính phủ và cơ quan quyền lực tối cao; cho nên cũng có hai ý chí chung; một ý chí chung của toàn bộ công dân, và một ý chí chung của các thành viên bộ máy cai trị. Như vậy, mặc dù chính phủ có thể thi hành các chính sách đôi nội theo ý mình, mà vẫn không thể nhân danh cơ quan quyền lực tối cao để nói chuyện với dân chúng, tức là chính phủ không thể nhân danh toàn dân được. Xin chớ quên điều này.
    Các xã hội đầu tiên đã từng được cai trị theo phương thức quí tộc. Những người cầm đầu các thị tộc cùng nhau bàn giải công việc chung. Lớp người trẻ sẵn sàng nhường bước trước uy tín của các cụ già nhiều kinh nghiệm. Do đó mà có các tên gọi như "đạo trưởng" "cổ nhân", "trưởng lão" "bô lão" v.v... Các bộ lạc mông muội ở Nam Mỹ ngày nay vẫn còn tự cai trị như thế và họ được cai trị rất tốt.
    Nhưng dần dần sự bất bình đẳng trong thể chế vượt lên trên sự bất bình đẳng trong tự nhiên, cái giàu và cái mạnh[2*] được coi trọng hơn tuổi tác; tầng lớp quí tộc được bầu cử ra; cuốl cùng quyền lực được chuyển tay cùng với tài sản từ đời cha sang đời con; hình thành những gia tộc quí phái, chính phủ trở thành bộ máy gia truyền; và người ta thấy những vị "trưởng lão", "bô lão" chỉ có hai mươi tuổi.
    Như vậy, có ba loại chính phủ quí tộc: loại tự nhiên, loại bầu cử, và loại gia truyền. Loại thứ nhất chỉ thích hợp với các dân tộc giản đơn; loại thứ ba tồi tệ nhất; loại thứ hai là tốt nhất, đó là loại chính phủ quí tộc chính cống.
    Chính phủ quí tộc bầu cử có cái hay là hai quyền lập pháp và hành pháp được tách bạch ra, và các nhân viên chính phủ được chọn lọc qua bầu cử. Với một chính phủ nhân dân thì mọi công dân sinh ra đã là pháp quan; nhưng ở đây, với chính phủ quí tộc thì số pháp quan bị hạn chế trong một ít người, họ chỉ trở thành pháp quan sau khi được bầu cử[3*]. Phương pháp bầu cử làm cho lòng trung thành, trí sáng suốt và kinh nghiệm trở thành những bảo đảm mới cho con người được cai trị một cách thông minh.
    Hơn nữa, trong chính phủ quí tộc bầu cử, các hội đồng được thành lập một cách thuận lợi, công việc được bàn bạc chóng vánh, được thực hiện một cách cần mẫn và trong trật tự; uy tín quốc gia ở ngoài nước do các vị trưởng lão có uy tín bảo vệ thì hơn là do hàng trăm kẻ tầm thường không tên tuổi.
    Tóm lại, trật tự tốt nhất và hợp tự nhiên nhất là để cho các người thông thái cai trị dân chúng. Ta có thề tin chắc rằng họ cai trị vì lợi ích dân chúng chứ không phải vì lợi ích bản thân họ.
    Chẳng cần phải thêm số người thẩm quyền lên cho nhiều một cách vô ích. Cái mà một trăm người chọn lọc làm được tốt thì không nên giao cho hai vạn người làm, nhưng phải nhận thấy rằng trong trường hợp này lợi ích cơ thể sẽ bắt đầu tác động, nó điều khiển lực lượng công cộng của toàn dân kém đi chứ không được đúng theo qui tắc của ý chí chung như trong thể chế dân chủ . Dưới thề chế quí tộc bầu cử không tránh khỏi tình trạng quyền lực hành pháp sẽ có lúc bị giảm sút phần nào do một khuynh hướng tất yếu , gây tổn thương đến hiệu lực của luật, tức là của quyền lập pháp.
    Tính toán sao cho thỏa đáng, thì ta thấy chính phủ quí tộc không hợp với một nước quá nhỏ, một dân tộc quá giản đơn và chất phác, đến mức việc hành pháp trực tiếp thể hiện ngay lập tức ý chí chung như trong một thể chế dân chủ tốt. Mặt khác chính phủ quí tộc cũng không hợp với một nước quá lớn, đến mức các thủ lĩnh địa phương có thể tách khỏi thủ lĩnh tối cao, mỗi người độc lập làm chủ một phương.
    Nhưng nếu chính phủ quí tộc đòi hỏi ít đức hạnh hơn là chính phủ nhân dân, thì cũng cần một số đức hạnh nhất định. Nó đòi hỏi người giàu phải có chừng mực và người nghèo phải biết yên phận. Ở đây sự bình đẳng tuyệt đố bị hạn chế. Ngay ở thành bang Sparte thời xưa cũng không có được bình đẳng tuyệt đối.
    Nếu hình thức chính phủ quí tộc bao gồm sự bất bình đẳng tài sản một mức nào đó, thì chính là để cho một số người có thể dành hết thời gian của mình vào việc điều hành công tác chung, chứ không phải như Aristote dự tính là để cho người giàu được ưu thế hơn. Trái lại, vẫn cần phải xóa bỏ sự bất bình đẳng, phải giáo dục cho dân chúng thấy rằng trong các giá trị con người còn có những cái quan trọng hơn cả sự giàu có.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [2*].Ngày xưa người ta dùng từ "tối ưu" (optimate) không phải với nghĩa "hay hơn cả" mà với nghĩa "mạnh hơn cả".
    [3*].Điều rất quan trọng là phải dùng luật để điều chỉnh hình thức bầu cử pháp quan. Nếu để mặc cho vị nguyên thủ chọn người thì không tránh khỏi rơi vào thể loại chính phủ quí tộc gia truyền, giống như nền cộng hòa ở Venise và Berne. Nền cộng hòa Venise từ lâu đã thành một quốc gia tan rã: còn nền cộng hòa Berne thì vẫn duy trì được nhờ sự khôn khéo của vị trượng lão; đó là một ngoại lệ vẻ vang nhưng khá nguy hiểm.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 16:28 ngày 21/04/2004
  3. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    5. CHÍNH PHỦ QUÝ TỘC
    Ở đây chúng ta có hai con người tinh thần khác nhau: Chính phủ và cơ quan quyền lực tối cao; cho nên cũng có hai ý chí chung; một ý chí chung của toàn bộ công dân, và một ý chí chung của các thành viên bộ máy cai trị. Như vậy, mặc dù chính phủ có thể thi hành các chính sách đôi nội theo ý mình, mà vẫn không thể nhân danh cơ quan quyền lực tối cao để nói chuyện với dân chúng, tức là chính phủ không thể nhân danh toàn dân được. Xin chớ quên điều này.
    Các xã hội đầu tiên đã từng được cai trị theo phương thức quí tộc. Những người cầm đầu các thị tộc cùng nhau bàn giải công việc chung. Lớp người trẻ sẵn sàng nhường bước trước uy tín của các cụ già nhiều kinh nghiệm. Do đó mà có các tên gọi như "đạo trưởng" "cổ nhân", "trưởng lão" "bô lão" v.v... Các bộ lạc mông muội ở Nam Mỹ ngày nay vẫn còn tự cai trị như thế và họ được cai trị rất tốt.
    Nhưng dần dần sự bất bình đẳng trong thể chế vượt lên trên sự bất bình đẳng trong tự nhiên, cái giàu và cái mạnh[2*] được coi trọng hơn tuổi tác; tầng lớp quí tộc được bầu cử ra; cuốl cùng quyền lực được chuyển tay cùng với tài sản từ đời cha sang đời con; hình thành những gia tộc quí phái, chính phủ trở thành bộ máy gia truyền; và người ta thấy những vị "trưởng lão", "bô lão" chỉ có hai mươi tuổi.
    Như vậy, có ba loại chính phủ quí tộc: loại tự nhiên, loại bầu cử, và loại gia truyền. Loại thứ nhất chỉ thích hợp với các dân tộc giản đơn; loại thứ ba tồi tệ nhất; loại thứ hai là tốt nhất, đó là loại chính phủ quí tộc chính cống.
    Chính phủ quí tộc bầu cử có cái hay là hai quyền lập pháp và hành pháp được tách bạch ra, và các nhân viên chính phủ được chọn lọc qua bầu cử. Với một chính phủ nhân dân thì mọi công dân sinh ra đã là pháp quan; nhưng ở đây, với chính phủ quí tộc thì số pháp quan bị hạn chế trong một ít người, họ chỉ trở thành pháp quan sau khi được bầu cử[3*]. Phương pháp bầu cử làm cho lòng trung thành, trí sáng suốt và kinh nghiệm trở thành những bảo đảm mới cho con người được cai trị một cách thông minh.
    Hơn nữa, trong chính phủ quí tộc bầu cử, các hội đồng được thành lập một cách thuận lợi, công việc được bàn bạc chóng vánh, được thực hiện một cách cần mẫn và trong trật tự; uy tín quốc gia ở ngoài nước do các vị trưởng lão có uy tín bảo vệ thì hơn là do hàng trăm kẻ tầm thường không tên tuổi.
    Tóm lại, trật tự tốt nhất và hợp tự nhiên nhất là để cho các người thông thái cai trị dân chúng. Ta có thề tin chắc rằng họ cai trị vì lợi ích dân chúng chứ không phải vì lợi ích bản thân họ.
    Chẳng cần phải thêm số người thẩm quyền lên cho nhiều một cách vô ích. Cái mà một trăm người chọn lọc làm được tốt thì không nên giao cho hai vạn người làm, nhưng phải nhận thấy rằng trong trường hợp này lợi ích cơ thể sẽ bắt đầu tác động, nó điều khiển lực lượng công cộng của toàn dân kém đi chứ không được đúng theo qui tắc của ý chí chung như trong thể chế dân chủ . Dưới thề chế quí tộc bầu cử không tránh khỏi tình trạng quyền lực hành pháp sẽ có lúc bị giảm sút phần nào do một khuynh hướng tất yếu , gây tổn thương đến hiệu lực của luật, tức là của quyền lập pháp.
    Tính toán sao cho thỏa đáng, thì ta thấy chính phủ quí tộc không hợp với một nước quá nhỏ, một dân tộc quá giản đơn và chất phác, đến mức việc hành pháp trực tiếp thể hiện ngay lập tức ý chí chung như trong một thể chế dân chủ tốt. Mặt khác chính phủ quí tộc cũng không hợp với một nước quá lớn, đến mức các thủ lĩnh địa phương có thể tách khỏi thủ lĩnh tối cao, mỗi người độc lập làm chủ một phương.
    Nhưng nếu chính phủ quí tộc đòi hỏi ít đức hạnh hơn là chính phủ nhân dân, thì cũng cần một số đức hạnh nhất định. Nó đòi hỏi người giàu phải có chừng mực và người nghèo phải biết yên phận. Ở đây sự bình đẳng tuyệt đố bị hạn chế. Ngay ở thành bang Sparte thời xưa cũng không có được bình đẳng tuyệt đối.
    Nếu hình thức chính phủ quí tộc bao gồm sự bất bình đẳng tài sản một mức nào đó, thì chính là để cho một số người có thể dành hết thời gian của mình vào việc điều hành công tác chung, chứ không phải như Aristote dự tính là để cho người giàu được ưu thế hơn. Trái lại, vẫn cần phải xóa bỏ sự bất bình đẳng, phải giáo dục cho dân chúng thấy rằng trong các giá trị con người còn có những cái quan trọng hơn cả sự giàu có.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [2*].Ngày xưa người ta dùng từ "tối ưu" (optimate) không phải với nghĩa "hay hơn cả" mà với nghĩa "mạnh hơn cả".
    [3*].Điều rất quan trọng là phải dùng luật để điều chỉnh hình thức bầu cử pháp quan. Nếu để mặc cho vị nguyên thủ chọn người thì không tránh khỏi rơi vào thể loại chính phủ quí tộc gia truyền, giống như nền cộng hòa ở Venise và Berne. Nền cộng hòa Venise từ lâu đã thành một quốc gia tan rã: còn nền cộng hòa Berne thì vẫn duy trì được nhờ sự khôn khéo của vị trượng lão; đó là một ngoại lệ vẻ vang nhưng khá nguy hiểm.
    Được roseline sửa chữa / chuyển vào 16:28 ngày 21/04/2004
  4. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    6. CHÍNH PHỦ QUÂN CHỦ
    Từ đầu tới giờ chúng ta coi chính phủ như một con người tinh thần tập thể, con người thống nhất bởi sức mạnh của pháp luật, và được ủy thác với tư cách là quyền lực hành pháp. Đến đây, chúng ta hãy xem xét cái quyền lực thống nhất ấy nằm trong tay một con người thật bằng xương bằng thịt; chỉ một mình ông ta có quyền sắp xếp mọi việc theo luật pháp. Con người này được gọi là nhà vua hoặc hoàng đế.
    Khác với mọi hình thức cai trị kể trên, mà con người tập thể đóng vai trò của một cá nhân. Ở đây một cá nhân đóng vai trò con người tập thể. Ở đây sự thống nhất tinh thần trong chính phủ đồng thời là một sự thống nhất vật lý. Mọi cơ năng của luật pháp thống nhất trong cơ thể chính phủ, đã phát huy bao nhiêu khả năng, thì ở đây nó trở thành thống nhất một cách hoàn toàn, và cũng phát huy bấy nhiêu khả năng.
    Như vậy ý chí cá nhân của dân chúng và ý chí của chính phủ, sức mạnh công cộng của quốc gia và sức mạnh riêng của chính phủ đều qui về một mối, chuyển theo một nguyên động lực. Mọi cơ năng của bộ máy đêu nằm trong một bàn tay. Tất cả hướng theo một mục đích. Không hề có những vận động ngược chiều triệt tiêu tác dụng của nhau. Không thể nghĩ ra một cấu trúc nào trong đó chỉ cần dùng chút ít cố gắng cũng tạo ra được một hoạt động mạnh mẽ đến như thế. Nhà vật lý Archimède (43) lặng lẽ ngồi trên bờ, nhẹ nhàng kéo chiếc thuyền lớn theo chiều sóng vỗ, đó là hình ảnh một vị hoàng đế khéo léo đang cai quản quốc gia rộng lớn từ trong cung điện của mình. Ông làm cho tất cả đều chuyển động trong khi bản thân ông thì dường như đứng im.
    Nhưng, nếu không có một thứ chính phủ nào hiệu nghiệm hơn loại chính phủ quân chủ này, thì một kiểu khác cũng không có một thứ chính phủ nào mà ý chí cá nhãn lại có tầm rộng lớn và khống chế mọi ý chí khác một cách dễ dàng đến thế. Mọi cái đều đi theo một mục đích. Thật như vậy đấy. Nhưng cái đích ấy phải đâu là cái được dân chúng hoan nghênh. Ngay sức mạnh của chinh phủ cũng thường quay lại làm tổn thương sức mạnh của đất nước.
    Các ông vua đều muốn chuyên chế; và từ xa người ta đã kêu to lên với họ rằng muốn chuyên chế được thì biện pháp hay nhất là hãy làm cho dân chúng yêu vua (ND). Phương châm này thật là đẹp và thật là đúng. Tiếc thay trong các triều đình người ta thường bất chấp và chế giễu phương châm đó.
    Sức mạnh tạo ra bằng lòng thương yêu của dân chúng là sức mạnh lớn nhất. Nhưng sức mạnh này thật là tạm thời và có điều kiện; chẳng bao giờ các vị hoàng đế lại vừa lòng với sức mạnh ấy. Các ông vua mạnh nhất thường muốn làm ác mà vẫn giữ nguyên địa vị độc tôn. Nếu nhà thuyết khách nói với vua rằng sức dân là sức vua, quyền lợi lớn nhất của vua là dân được ấm no, đông đúc, mạnh khoẻ, thì các vị hoàng đế cũng thừa biết rằng điều đó không phải là đúng đối với họ.
    Quyền lợi cá nhân của vua trước hết là dân phải hèn yếu, đáng khinh và không bao giờ có thể chống lại được vua.
    Giả định rằng thần dân luôn luôn cúi rạp phục tùng, lúc đó quyền lợi của vua sẽ là sự cường thịnh của dân; vì sức mạnh ấy khiến cho các nước láng giềng phải vì nể vua. Nhưng quyền lợi này vẫn chỉ là thứ yếu và phụ thuộc; cho nên các vị hoàng đế chỉ thích nghe câu châm ngôn thứ hai, vì nó có lợi trực tiếp cho họ. Đó là câu của Samuel (44) nói với người Hébreux (45), điều mà Machiavel (46) đã chứng minh rất rõ. Machiavel giả đò khuyên vua chúa, nhưng thật ra ông đã nêu những bài học lớn thật sự cho nhân dân. Cuốn sách "Ông Hoàng" (Le Prince) của ông chính là cuốn sách của các nền cộng hòa[4*].
    Chúng ta đã thấy rằng trong mối tương quan chung thì chính phủ quân chủ chỉ thích hợp với các nước lớn, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu loại chính phủ này.
    Sự cai quản công cộng càng nhiều thì quan hệ giữa chính phủ với thần dân càng lỏng lẻo và càng đi gần tới chỗ bình đẳng, đến mức bình đẳng như trong chế độ dân chủ. Mối quan hệ giữa chính phủ và thần dân càng tăng lên, càng bớt lỏng lẻo, chừng nào mà chính phủ co hẹp lại, tự siết chặt lại, siết chắc đến mức tối đa tức là chính phủ nằm gọn trong tay một cá nhân. Lúc này có một khoảng cách rất lớn giữa nhân dân với chính phủ: thiếu mất những mối dây liên hệ. Để tạo nên những mối dây liên hệ cần thiết này phải có các trật tự trung gian, phải có các hoàng thân, các quan lớn, các nhà qúi tộc để bù vào chỗ trống đó, tất cả những cấp bậc trật tự trung gian này không thích hợp với một nhà nước nhỏ bé, vì nước nhỏ thì các cấp trung gian sẽ không sống nổi.
    Nhưng nếu nước lớn là khó cai trị, thì để cho một người cai trị lại càng khó mà cai trị cho tốt; và khi hoàng đế giao quyền cho các vị công hầu thay thế mình để cai trị thì sẽ rối rắm biết bao.
    Khuyết tật chủ yếu và tất yếu của một chính phủ quân chủ là không bao giờ tiếng nói công cộng của nhân dân được đưa lên tới hàng tối cao (ND). Ở hàng tối cao này đáng lẽ phải có những người học vấn, tài năng, thì thường khi lại là những kẻ quấy rối, thạo lừa đảo, khéo âm mưu. Chúng chỉ là những tài năng nhỏ mọn, một khi giành được địa vị chúng sẽ bộc lộ những điều xuẩn ngốc. Khuyết điểm này làm cho chế độ quân chủ thua hẳn chế độ dân chủ.
    Dân chúng chọn lựa thi ít nhầm lẫn hơn một ông vua chọn lựa. Cho nên hiếm thấy một người cầm đầu chính phủ cộng hòa mà lại ngốc nghếch, cũng như hiếm thấy một ông quan xứng đáng trong trêu đình của nhà vua. Nếu ngẫu nhiên có một người xứng đáng, đủ tài cầm cân nảy mực trong một chế độ dân chủ, giữa cái mớ quan lại cạo giấy, thì cũng khó mà tìm ra nguồn gốc của ông ta. Đó sẽ là sự kiện quan trọng đánh dấu cả một giai đoạn lịch sử quốc gia vậy.
    Muốn cho một nước quân chủ được cai trị tốt, thì chiều rộng của quốc gia phải đo ngang với tài năng của đức vua trị vì.
    Chinh phục thì dễ hơn là quản lý. Với một đòn bẩy cứng có thể dùng ngón tay mà làm rung chuyển hoàn cầu; nhưng giữ cho trái đất quay một cách ổn định phải có nhiều đôi vai của thần Herecule.
    Đối với một nước lớn vừa phải thôi, thì ông vua bao giờ cũng là bé nhỏ. Nếu tầm rộng lớn của quốc gia chưa xứng với tài trí bao la của ông vua- đấy là trường hợp rất họa hoằn-, thì đất nước vẫn không được cai trị tốt đâu; bởi vì vua cứ theo tầm nhìn bao la của mình mà quên mất lợi ích thường ngày của dân chúng. Ông vua tài trí đó cũng không làm cho dân chúng bớt khổ hơn là một ông vua kém cỏi làm khổ dân vì sự dốt nát của mình.
    Dưới chế độ quân chủ dường như là đất nước cứ phải phình rộng ra hoặc co hẹp lại tùy theo tài năng của mỗi đời vua. Thật ra đất nước phải có biên giới cố định, người cai trị phải có tài năng đúng chuẩn thì mọi việc mới tránh khỏi lủng củng.
    Điều bất lợi rõ rệt nhất của loại chính phủ một người này là chế độ kế vị cha truyền con nối. Nhược điểm này liên quan đến hai nhược điểm khác. Vua chết đi, phải lập ngay vua mới, thế là có một quãng giao thời nguy hiểm đầy sóng gió. Dân chúng thì chẳng quan tâm gì lắm và vẫn giữ tính chất bình di trọn vẹn như xưa; nhưng các bè đảng mưu toan lập tức xen vào công việc. Kẻ đã được người ta bán nước cho thường không đem nước mà bán lại lần nữa. Hắn sẽ bóp nặn bọn yếu hèn để bù vào món tiền mà người ta lấy của hắn khi bán nước cho hắn. Sớm muộn rồi mọi thứ trong cái nền cai trị này đều có thể dùng tiền mà mua được cả. Cảnh "bình yên" khi đất nước có vua lại còn tồi tệ hơn cảnh hỗn loạn trong buổi giao thời.
    Người ta đã làm gì để phòng ngừa khuyết tật này? Người ta biến ngai vàng thành một vật cha truyền con nối. Người ta đặt ra lệ luật ngăn chặn sự tranh ngôi khi vua chết, bằng cách chỉ định người phụ chính; lấy cái bất tiện trong việc phụ chính để thay cho sự bất lợi trong việc đặt vua mới. Người ta thích cái vẻ êm thấm bề ngoài hơn là một nền cai trị thông minh. Thà đem bọn nhóc con hoàng tử kì quặc và ngốc nghếch lên ngôi còn hơn là chọn tìm một ông vua anh minh. Người ta chẳng nghĩ rằng làm như thế để tránh rủi ro trong buổi giao thời chính là tự mình chống lại mọi điều may mắn.
    Khi vua cha Denys (48) mắng hoàng tử về một hành động bỉ ổi, Denys con đã trả lời sắc sảo: "Chính ông đã làm gương cho tôi đó! Ông nội tôi ngày xưa có phải là vua đâu!" [5*].
    Dưới chế độ dân chủ, tất cả đều nhằm tước bỏ lý trí và sự thông minh của con người được đặt lên ngôi trị vì thiên hạ. Người ta hết sức quan tâm dạy cho các hoàng tử nắm được nghệ thuật trị vì. Nhưng hình như dạy dỗ cũng chẳng ích gì. Họ bắt đầu dạy các hoàng tử phải vâng lời, dễ bảo. Các bậc minh quân được lịch sử ca ngợi thường không được dạy về cách trị vì. Trị vì là một khoa học mà người ta không bao giờ tiếp thu được khi đã học nó quá nhiều; và người ta nắm được nghệ thuật trị vì trong khi phục tùng nhiều hơn là trong khi chỉ huy. (Nam utilissium idem ac breviscimus bonarum male rumque rerum detectus cogitare quid aut nolueris sub alio principe, sut volueris) [6*] (49) .
    Tính không kiên định của chính phủ quân chủ gây ra nhiều điều lủng củng. Nó xử lý công việc khi thì bằng kế hoạch này khi thì bằng kế hoạch nọ, tùy theo tính nết của mỗi đời vua, hoặc tùy theo bọn người được vua ủy thác. Nó không thể theo đuổi một mục đích nào ổn định, cũng không thể có một phương châm hành động lâu bền. Nhà nước cứ chao đảo từ phương châm này sang phương châm nọ, từ dự án nọ sang dự án kia. Điều này không thể xảy ra với một chính phủ dân chủ mà thủ lĩnh luôn luôn nhất quán. Nhìn chung người ta thấy rằng một triều đình thường lắm mưu ma chước quĩ, và trong một nghị viện thì lắm trí thông minh (ND). Các nhà nước cộng hòa đi tới đích theo những quan điểm nhất quán và liên tục. Trái lại, trong cung đình thì mỗi lần nổi dậy là một lần thay đổi phương châm. Thói thường của tất cả các quan thượng thư và hầu hết các ông vua là đảo lại công việc ngược chiều với người trước mình.
    Từ điều lủng cũng nói trên rút ra một lối ngụy biện quen thuộc của chính trị quân chủ: họ gắn cho chính phủ những đặc điểm của gia đình, trong đó vua quan là cha, dân là con cái - sai lầm này đã bị loại bỏ rồi - họ lại còn gắn cho pháp quan mọi đức tính cần có và các vua là người hoàn hảo bậc nhất. Do đó họ cho rằng chính phủ quân chủ là tốt hơn tất cả các loại chính phủ khác. Vì nó là mạnh nhất, không ai chối cãi được. Muốn cho chính phủ quân chủ trở thành tối ưu thì chỉ còn thiếu một điều duy nhất là ý chí của bộ máy nhà nước phải phù hợp hơn nữa với ý chí thần dân.
    Nhưng, nếu vua là một con người hiếm có [7*] như Platon (50) nói: thế thì thiên nhiên và số phận đã ban thưởng tài năng hiếm có cho vua được mấy lần? Giáo dục hoàng gia xưa nay chỉ làm hư hỏng các hoàng tử; tại sao cứ phải hy vọng vào những người kế vị được đào tạo để đưa lên ngai vàng?
    Chẳng qua người ta chỉ lạm dụng, đánh lộn sòng khái niệm "chính phủ quân chủ" với khái niệm "minh quân". Muốn hiểu chính phủ quân chủ là cái gì thì phải xét đến các ông vua ác hoặc có khuyết tật, bởi vì chính những kẻ ấy mới leo lên ngai vàng và chính ngai vàng làm cho họ thành tồi tệ.
    Những kẻ dựng nên nhà nước quân chủ không lạ gì những khuyết tật kể trên, nhưng họ có bối rối đâu. Bài thuốc chữa bệnh của họ là truyền bảo cho dân chúng: "Hãy cứ lặng lẽ mà phục tùng. Khi Trời giận dữ thì Trời phái vua ác xuống trị vì, dân gian hãy ráng mà chịu đựng hình phạt của Thượng đế".
    Lời thuyết giáo thật là thánh thiện! Nhưng tôi cho rằng nên đưa câu ấy vào cuốn sách chính trị thì hơn là đưa lên bục giảng của mục sư.
    Ta sẽ nói gì khi một bác sĩ hứa hẹn với người bệnh về phép lạ của Chúa. Tất cả nghệ thuật của anh ta chỉ là khuyên con bệnh chịu khó chờ đợi mà thôi.
    Ai chẳng biết rằng gặp phải chính phủ tồi tệ thì mình chịu vậy; nhưng vấn đề đặt ra sẽ là: Phải tìm ra một chính phủ tốt.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [4*]. Machiavel là một người lương thiện, một công dân tốt. Nhưng ông bị trói buộc vào gia đình Médicis (47). Do sức ép của quốc gia mà ông phải ngụy trang lòng yêu tự do của mình. Trong cuốn sách "Ông Hoàng", ông chọn một tên thật đáng ghét làm nhân vật chính. Chỉ một điều đó đủ chứng tỏ ý tứ kín đáo của ông. Các phương ngôn ông nêu ra trong sách "Ông Hoàng" trái ngược hẳn với những điều ông viết trong tập: "Bài giảng về Titeux Lives" và tập "Lịch sử xứ Florence". Điều đó chứng tỏ rằng các bạn đọc của nhà chính khách sâu sắc này chỉ là những người hời hợt và hư hỏng. Triều đinh La Mã đã cấm đọc sách của ông. Tôi tin rằng ông đã miêu tả cái triều đình ấy thật rõ nét.
    [5*]. xem Plutarque: "Danh ngôn các vua chúa và tướng lĩnh" - Mục 22.
    [6*]. in oivili (Nói theo kiểu dân sự- ND)
    [7*]. xem Tacite: "Lịch sử", t.I - tr.16 .
  5. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    6. CHÍNH PHỦ QUÂN CHỦ
    Từ đầu tới giờ chúng ta coi chính phủ như một con người tinh thần tập thể, con người thống nhất bởi sức mạnh của pháp luật, và được ủy thác với tư cách là quyền lực hành pháp. Đến đây, chúng ta hãy xem xét cái quyền lực thống nhất ấy nằm trong tay một con người thật bằng xương bằng thịt; chỉ một mình ông ta có quyền sắp xếp mọi việc theo luật pháp. Con người này được gọi là nhà vua hoặc hoàng đế.
    Khác với mọi hình thức cai trị kể trên, mà con người tập thể đóng vai trò của một cá nhân. Ở đây một cá nhân đóng vai trò con người tập thể. Ở đây sự thống nhất tinh thần trong chính phủ đồng thời là một sự thống nhất vật lý. Mọi cơ năng của luật pháp thống nhất trong cơ thể chính phủ, đã phát huy bao nhiêu khả năng, thì ở đây nó trở thành thống nhất một cách hoàn toàn, và cũng phát huy bấy nhiêu khả năng.
    Như vậy ý chí cá nhân của dân chúng và ý chí của chính phủ, sức mạnh công cộng của quốc gia và sức mạnh riêng của chính phủ đều qui về một mối, chuyển theo một nguyên động lực. Mọi cơ năng của bộ máy đêu nằm trong một bàn tay. Tất cả hướng theo một mục đích. Không hề có những vận động ngược chiều triệt tiêu tác dụng của nhau. Không thể nghĩ ra một cấu trúc nào trong đó chỉ cần dùng chút ít cố gắng cũng tạo ra được một hoạt động mạnh mẽ đến như thế. Nhà vật lý Archimède (43) lặng lẽ ngồi trên bờ, nhẹ nhàng kéo chiếc thuyền lớn theo chiều sóng vỗ, đó là hình ảnh một vị hoàng đế khéo léo đang cai quản quốc gia rộng lớn từ trong cung điện của mình. Ông làm cho tất cả đều chuyển động trong khi bản thân ông thì dường như đứng im.
    Nhưng, nếu không có một thứ chính phủ nào hiệu nghiệm hơn loại chính phủ quân chủ này, thì một kiểu khác cũng không có một thứ chính phủ nào mà ý chí cá nhãn lại có tầm rộng lớn và khống chế mọi ý chí khác một cách dễ dàng đến thế. Mọi cái đều đi theo một mục đích. Thật như vậy đấy. Nhưng cái đích ấy phải đâu là cái được dân chúng hoan nghênh. Ngay sức mạnh của chinh phủ cũng thường quay lại làm tổn thương sức mạnh của đất nước.
    Các ông vua đều muốn chuyên chế; và từ xa người ta đã kêu to lên với họ rằng muốn chuyên chế được thì biện pháp hay nhất là hãy làm cho dân chúng yêu vua (ND). Phương châm này thật là đẹp và thật là đúng. Tiếc thay trong các triều đình người ta thường bất chấp và chế giễu phương châm đó.
    Sức mạnh tạo ra bằng lòng thương yêu của dân chúng là sức mạnh lớn nhất. Nhưng sức mạnh này thật là tạm thời và có điều kiện; chẳng bao giờ các vị hoàng đế lại vừa lòng với sức mạnh ấy. Các ông vua mạnh nhất thường muốn làm ác mà vẫn giữ nguyên địa vị độc tôn. Nếu nhà thuyết khách nói với vua rằng sức dân là sức vua, quyền lợi lớn nhất của vua là dân được ấm no, đông đúc, mạnh khoẻ, thì các vị hoàng đế cũng thừa biết rằng điều đó không phải là đúng đối với họ.
    Quyền lợi cá nhân của vua trước hết là dân phải hèn yếu, đáng khinh và không bao giờ có thể chống lại được vua.
    Giả định rằng thần dân luôn luôn cúi rạp phục tùng, lúc đó quyền lợi của vua sẽ là sự cường thịnh của dân; vì sức mạnh ấy khiến cho các nước láng giềng phải vì nể vua. Nhưng quyền lợi này vẫn chỉ là thứ yếu và phụ thuộc; cho nên các vị hoàng đế chỉ thích nghe câu châm ngôn thứ hai, vì nó có lợi trực tiếp cho họ. Đó là câu của Samuel (44) nói với người Hébreux (45), điều mà Machiavel (46) đã chứng minh rất rõ. Machiavel giả đò khuyên vua chúa, nhưng thật ra ông đã nêu những bài học lớn thật sự cho nhân dân. Cuốn sách "Ông Hoàng" (Le Prince) của ông chính là cuốn sách của các nền cộng hòa[4*].
    Chúng ta đã thấy rằng trong mối tương quan chung thì chính phủ quân chủ chỉ thích hợp với các nước lớn, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu loại chính phủ này.
    Sự cai quản công cộng càng nhiều thì quan hệ giữa chính phủ với thần dân càng lỏng lẻo và càng đi gần tới chỗ bình đẳng, đến mức bình đẳng như trong chế độ dân chủ. Mối quan hệ giữa chính phủ và thần dân càng tăng lên, càng bớt lỏng lẻo, chừng nào mà chính phủ co hẹp lại, tự siết chặt lại, siết chắc đến mức tối đa tức là chính phủ nằm gọn trong tay một cá nhân. Lúc này có một khoảng cách rất lớn giữa nhân dân với chính phủ: thiếu mất những mối dây liên hệ. Để tạo nên những mối dây liên hệ cần thiết này phải có các trật tự trung gian, phải có các hoàng thân, các quan lớn, các nhà qúi tộc để bù vào chỗ trống đó, tất cả những cấp bậc trật tự trung gian này không thích hợp với một nhà nước nhỏ bé, vì nước nhỏ thì các cấp trung gian sẽ không sống nổi.
    Nhưng nếu nước lớn là khó cai trị, thì để cho một người cai trị lại càng khó mà cai trị cho tốt; và khi hoàng đế giao quyền cho các vị công hầu thay thế mình để cai trị thì sẽ rối rắm biết bao.
    Khuyết tật chủ yếu và tất yếu của một chính phủ quân chủ là không bao giờ tiếng nói công cộng của nhân dân được đưa lên tới hàng tối cao (ND). Ở hàng tối cao này đáng lẽ phải có những người học vấn, tài năng, thì thường khi lại là những kẻ quấy rối, thạo lừa đảo, khéo âm mưu. Chúng chỉ là những tài năng nhỏ mọn, một khi giành được địa vị chúng sẽ bộc lộ những điều xuẩn ngốc. Khuyết điểm này làm cho chế độ quân chủ thua hẳn chế độ dân chủ.
    Dân chúng chọn lựa thi ít nhầm lẫn hơn một ông vua chọn lựa. Cho nên hiếm thấy một người cầm đầu chính phủ cộng hòa mà lại ngốc nghếch, cũng như hiếm thấy một ông quan xứng đáng trong trêu đình của nhà vua. Nếu ngẫu nhiên có một người xứng đáng, đủ tài cầm cân nảy mực trong một chế độ dân chủ, giữa cái mớ quan lại cạo giấy, thì cũng khó mà tìm ra nguồn gốc của ông ta. Đó sẽ là sự kiện quan trọng đánh dấu cả một giai đoạn lịch sử quốc gia vậy.
    Muốn cho một nước quân chủ được cai trị tốt, thì chiều rộng của quốc gia phải đo ngang với tài năng của đức vua trị vì.
    Chinh phục thì dễ hơn là quản lý. Với một đòn bẩy cứng có thể dùng ngón tay mà làm rung chuyển hoàn cầu; nhưng giữ cho trái đất quay một cách ổn định phải có nhiều đôi vai của thần Herecule.
    Đối với một nước lớn vừa phải thôi, thì ông vua bao giờ cũng là bé nhỏ. Nếu tầm rộng lớn của quốc gia chưa xứng với tài trí bao la của ông vua- đấy là trường hợp rất họa hoằn-, thì đất nước vẫn không được cai trị tốt đâu; bởi vì vua cứ theo tầm nhìn bao la của mình mà quên mất lợi ích thường ngày của dân chúng. Ông vua tài trí đó cũng không làm cho dân chúng bớt khổ hơn là một ông vua kém cỏi làm khổ dân vì sự dốt nát của mình.
    Dưới chế độ quân chủ dường như là đất nước cứ phải phình rộng ra hoặc co hẹp lại tùy theo tài năng của mỗi đời vua. Thật ra đất nước phải có biên giới cố định, người cai trị phải có tài năng đúng chuẩn thì mọi việc mới tránh khỏi lủng củng.
    Điều bất lợi rõ rệt nhất của loại chính phủ một người này là chế độ kế vị cha truyền con nối. Nhược điểm này liên quan đến hai nhược điểm khác. Vua chết đi, phải lập ngay vua mới, thế là có một quãng giao thời nguy hiểm đầy sóng gió. Dân chúng thì chẳng quan tâm gì lắm và vẫn giữ tính chất bình di trọn vẹn như xưa; nhưng các bè đảng mưu toan lập tức xen vào công việc. Kẻ đã được người ta bán nước cho thường không đem nước mà bán lại lần nữa. Hắn sẽ bóp nặn bọn yếu hèn để bù vào món tiền mà người ta lấy của hắn khi bán nước cho hắn. Sớm muộn rồi mọi thứ trong cái nền cai trị này đều có thể dùng tiền mà mua được cả. Cảnh "bình yên" khi đất nước có vua lại còn tồi tệ hơn cảnh hỗn loạn trong buổi giao thời.
    Người ta đã làm gì để phòng ngừa khuyết tật này? Người ta biến ngai vàng thành một vật cha truyền con nối. Người ta đặt ra lệ luật ngăn chặn sự tranh ngôi khi vua chết, bằng cách chỉ định người phụ chính; lấy cái bất tiện trong việc phụ chính để thay cho sự bất lợi trong việc đặt vua mới. Người ta thích cái vẻ êm thấm bề ngoài hơn là một nền cai trị thông minh. Thà đem bọn nhóc con hoàng tử kì quặc và ngốc nghếch lên ngôi còn hơn là chọn tìm một ông vua anh minh. Người ta chẳng nghĩ rằng làm như thế để tránh rủi ro trong buổi giao thời chính là tự mình chống lại mọi điều may mắn.
    Khi vua cha Denys (48) mắng hoàng tử về một hành động bỉ ổi, Denys con đã trả lời sắc sảo: "Chính ông đã làm gương cho tôi đó! Ông nội tôi ngày xưa có phải là vua đâu!" [5*].
    Dưới chế độ dân chủ, tất cả đều nhằm tước bỏ lý trí và sự thông minh của con người được đặt lên ngôi trị vì thiên hạ. Người ta hết sức quan tâm dạy cho các hoàng tử nắm được nghệ thuật trị vì. Nhưng hình như dạy dỗ cũng chẳng ích gì. Họ bắt đầu dạy các hoàng tử phải vâng lời, dễ bảo. Các bậc minh quân được lịch sử ca ngợi thường không được dạy về cách trị vì. Trị vì là một khoa học mà người ta không bao giờ tiếp thu được khi đã học nó quá nhiều; và người ta nắm được nghệ thuật trị vì trong khi phục tùng nhiều hơn là trong khi chỉ huy. (Nam utilissium idem ac breviscimus bonarum male rumque rerum detectus cogitare quid aut nolueris sub alio principe, sut volueris) [6*] (49) .
    Tính không kiên định của chính phủ quân chủ gây ra nhiều điều lủng củng. Nó xử lý công việc khi thì bằng kế hoạch này khi thì bằng kế hoạch nọ, tùy theo tính nết của mỗi đời vua, hoặc tùy theo bọn người được vua ủy thác. Nó không thể theo đuổi một mục đích nào ổn định, cũng không thể có một phương châm hành động lâu bền. Nhà nước cứ chao đảo từ phương châm này sang phương châm nọ, từ dự án nọ sang dự án kia. Điều này không thể xảy ra với một chính phủ dân chủ mà thủ lĩnh luôn luôn nhất quán. Nhìn chung người ta thấy rằng một triều đình thường lắm mưu ma chước quĩ, và trong một nghị viện thì lắm trí thông minh (ND). Các nhà nước cộng hòa đi tới đích theo những quan điểm nhất quán và liên tục. Trái lại, trong cung đình thì mỗi lần nổi dậy là một lần thay đổi phương châm. Thói thường của tất cả các quan thượng thư và hầu hết các ông vua là đảo lại công việc ngược chiều với người trước mình.
    Từ điều lủng cũng nói trên rút ra một lối ngụy biện quen thuộc của chính trị quân chủ: họ gắn cho chính phủ những đặc điểm của gia đình, trong đó vua quan là cha, dân là con cái - sai lầm này đã bị loại bỏ rồi - họ lại còn gắn cho pháp quan mọi đức tính cần có và các vua là người hoàn hảo bậc nhất. Do đó họ cho rằng chính phủ quân chủ là tốt hơn tất cả các loại chính phủ khác. Vì nó là mạnh nhất, không ai chối cãi được. Muốn cho chính phủ quân chủ trở thành tối ưu thì chỉ còn thiếu một điều duy nhất là ý chí của bộ máy nhà nước phải phù hợp hơn nữa với ý chí thần dân.
    Nhưng, nếu vua là một con người hiếm có [7*] như Platon (50) nói: thế thì thiên nhiên và số phận đã ban thưởng tài năng hiếm có cho vua được mấy lần? Giáo dục hoàng gia xưa nay chỉ làm hư hỏng các hoàng tử; tại sao cứ phải hy vọng vào những người kế vị được đào tạo để đưa lên ngai vàng?
    Chẳng qua người ta chỉ lạm dụng, đánh lộn sòng khái niệm "chính phủ quân chủ" với khái niệm "minh quân". Muốn hiểu chính phủ quân chủ là cái gì thì phải xét đến các ông vua ác hoặc có khuyết tật, bởi vì chính những kẻ ấy mới leo lên ngai vàng và chính ngai vàng làm cho họ thành tồi tệ.
    Những kẻ dựng nên nhà nước quân chủ không lạ gì những khuyết tật kể trên, nhưng họ có bối rối đâu. Bài thuốc chữa bệnh của họ là truyền bảo cho dân chúng: "Hãy cứ lặng lẽ mà phục tùng. Khi Trời giận dữ thì Trời phái vua ác xuống trị vì, dân gian hãy ráng mà chịu đựng hình phạt của Thượng đế".
    Lời thuyết giáo thật là thánh thiện! Nhưng tôi cho rằng nên đưa câu ấy vào cuốn sách chính trị thì hơn là đưa lên bục giảng của mục sư.
    Ta sẽ nói gì khi một bác sĩ hứa hẹn với người bệnh về phép lạ của Chúa. Tất cả nghệ thuật của anh ta chỉ là khuyên con bệnh chịu khó chờ đợi mà thôi.
    Ai chẳng biết rằng gặp phải chính phủ tồi tệ thì mình chịu vậy; nhưng vấn đề đặt ra sẽ là: Phải tìm ra một chính phủ tốt.
    --------------------------------------------------------------------------------------
    [4*]. Machiavel là một người lương thiện, một công dân tốt. Nhưng ông bị trói buộc vào gia đình Médicis (47). Do sức ép của quốc gia mà ông phải ngụy trang lòng yêu tự do của mình. Trong cuốn sách "Ông Hoàng", ông chọn một tên thật đáng ghét làm nhân vật chính. Chỉ một điều đó đủ chứng tỏ ý tứ kín đáo của ông. Các phương ngôn ông nêu ra trong sách "Ông Hoàng" trái ngược hẳn với những điều ông viết trong tập: "Bài giảng về Titeux Lives" và tập "Lịch sử xứ Florence". Điều đó chứng tỏ rằng các bạn đọc của nhà chính khách sâu sắc này chỉ là những người hời hợt và hư hỏng. Triều đinh La Mã đã cấm đọc sách của ông. Tôi tin rằng ông đã miêu tả cái triều đình ấy thật rõ nét.
    [5*]. xem Plutarque: "Danh ngôn các vua chúa và tướng lĩnh" - Mục 22.
    [6*]. in oivili (Nói theo kiểu dân sự- ND)
    [7*]. xem Tacite: "Lịch sử", t.I - tr.16 .
  6. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    7. NHỮNG HÌNH THỨC CHíNH PHỦ HỖN HỢP
    Nói đúng ra, không hề có chính phủ theo một loại đơn thuần, một thủ lĩnh duy nhất cũng phải có các quan lại dưới quyền. Một chính phủ nhân dân cũng phải có người cầm đầu Như vậy, trước sự phân phối quyền lực hành pháp luôn luôn phải có những cấp bậc từ lớn đến nhỏ; đôi khi cấp trên phải phụ thuộc vào cấp dưới, đôi khi cấp dưới phải phụ thuộc vào cấp trên.
    Có lúc sự phân phối đồng đều khiến cho các cấp bậc liên tiếp nhau đều phụ thuộc lẫn nhau như trong chính phủ nước Anh. Cũng có lúc quyền lực của mỗi bộ phận đều độc lập với nhau, nhưng đều không hoàn chỉnh, như ở Ba Lan. Hình thức này không tốt, vì không có thống nhất ít trong chính phủ, quốc gia thiếu sự liên hệ chặt chẽ.
    Vậy so sánh một chính phủ đơn thuần với một chính phủ hỗn hợp thì chính phủ nào hay hơn? Câu hỏi làm xao động trong giới chính khách. Trả lời câu hỏi này thì phải tách bạch ra như tôi đã phán tích ở các chương trên.
    Chính phủ đơn thuần là tốt hơn khi nó là đơn thuần thật sự Nhưng khi quyền lực hành pháp không phụ thuộc vào quyền lực lập pháp thì chính phủ có nhiều quan hệ với quyền lực tối cao hơn là quan hệ với dân chúng, phải sửa lại sự chênh lệch đó bằng cách chia chính phủ ra; như vậy mỗi bộ phận chính phủ sẽ không có đủ quyền lực đối với thần dân, và tổng thể chính phủ sẽ kém phần mạnh mẽ trong quan hệ với quyền lực tối cao.
    Người ta còn ngăn ngừa điều bất lợi nói trên bằng cách đặt một số pháp quan trung gian; chính phủ vẫn nguyên vẹn, không bị phân chia, pháp quan điều hòa quyền lập pháp với quyền hành pháp và giữ quyền hạn của mình một cách tương ứng. Trường hợp này không phải là chính phủ hỗn hợp mà là chính phủ dung hòa.
    Người ta có thể dùng những biện pháp tương tự để sửa những điều bất lợi khác. Khi chính phủ quá yếu, họ lập ra các cơ quan hành pháp để tập trung quyền lực. Cách này được ứng dụng với tất cả các chính phủ dân chủ. Biện pháp phân chia chính phủ như trên là để làm cho chính phủ (quân chủ) yếu bớt đi, còn trong trường hợp này phân chia chinh phủ (dân chủ) là để tăng cường khả năng của chính phủ. Các dạng chính phủ đơn thuần thì mạnh hoặc yếu đến mức tối đa, dạng chính phủ hỗn hợp thì giữ sức mạnh ở mức trung bình.
  7. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    7. NHỮNG HÌNH THỨC CHíNH PHỦ HỖN HỢP
    Nói đúng ra, không hề có chính phủ theo một loại đơn thuần, một thủ lĩnh duy nhất cũng phải có các quan lại dưới quyền. Một chính phủ nhân dân cũng phải có người cầm đầu Như vậy, trước sự phân phối quyền lực hành pháp luôn luôn phải có những cấp bậc từ lớn đến nhỏ; đôi khi cấp trên phải phụ thuộc vào cấp dưới, đôi khi cấp dưới phải phụ thuộc vào cấp trên.
    Có lúc sự phân phối đồng đều khiến cho các cấp bậc liên tiếp nhau đều phụ thuộc lẫn nhau như trong chính phủ nước Anh. Cũng có lúc quyền lực của mỗi bộ phận đều độc lập với nhau, nhưng đều không hoàn chỉnh, như ở Ba Lan. Hình thức này không tốt, vì không có thống nhất ít trong chính phủ, quốc gia thiếu sự liên hệ chặt chẽ.
    Vậy so sánh một chính phủ đơn thuần với một chính phủ hỗn hợp thì chính phủ nào hay hơn? Câu hỏi làm xao động trong giới chính khách. Trả lời câu hỏi này thì phải tách bạch ra như tôi đã phán tích ở các chương trên.
    Chính phủ đơn thuần là tốt hơn khi nó là đơn thuần thật sự Nhưng khi quyền lực hành pháp không phụ thuộc vào quyền lực lập pháp thì chính phủ có nhiều quan hệ với quyền lực tối cao hơn là quan hệ với dân chúng, phải sửa lại sự chênh lệch đó bằng cách chia chính phủ ra; như vậy mỗi bộ phận chính phủ sẽ không có đủ quyền lực đối với thần dân, và tổng thể chính phủ sẽ kém phần mạnh mẽ trong quan hệ với quyền lực tối cao.
    Người ta còn ngăn ngừa điều bất lợi nói trên bằng cách đặt một số pháp quan trung gian; chính phủ vẫn nguyên vẹn, không bị phân chia, pháp quan điều hòa quyền lập pháp với quyền hành pháp và giữ quyền hạn của mình một cách tương ứng. Trường hợp này không phải là chính phủ hỗn hợp mà là chính phủ dung hòa.
    Người ta có thể dùng những biện pháp tương tự để sửa những điều bất lợi khác. Khi chính phủ quá yếu, họ lập ra các cơ quan hành pháp để tập trung quyền lực. Cách này được ứng dụng với tất cả các chính phủ dân chủ. Biện pháp phân chia chính phủ như trên là để làm cho chính phủ (quân chủ) yếu bớt đi, còn trong trường hợp này phân chia chinh phủ (dân chủ) là để tăng cường khả năng của chính phủ. Các dạng chính phủ đơn thuần thì mạnh hoặc yếu đến mức tối đa, dạng chính phủ hỗn hợp thì giữ sức mạnh ở mức trung bình.
  8. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    8. KHÔNG PHẢI HÌNH THỨC CHÍNH PHỦ NÀO CŨNG THÍCH HỢP VỚI MỌI QUỐC GIA
    Tự do không phải là kết quả của mọi khí hậu. Tự do cũng không phải vừa tầm với mọi dân tộc. Càng suy nghĩ về nguyên lý trên đây của Montesquieu càng thấy có lý. Càng chối cãi ta càng gặp những trường hợp chứng minh nguyên lý đó là đúng.
    Trong mọi thứ chính phủ trên đời này, con người công cộng chỉ tiêu dùng mà không sản xuất gì hết. Từ đâu mà có những thứ tiêu dùng cho con người công cộng đó ? Từ lao động của các thành viên quốc gia. Đó là phần thặng dư của những cá nhân sản xuất các thứ cần thiết cho công chúng.
    Suy rộng ra, ta thấy nhà nước dân sự chỉ có thể tồn tại chừng nào mà lao động của con người sản xuất có thể làm ra dư thừa hơn mức họ cần dùng.
    Nhưng phần thặng dư nói trên không phải ở nước nào cũng như nhau cả. Nước này thặng dư khá nhiều, nước kia chẳng được mấy tý, nước khác chẳng có chút nào, lại có nước bị thâm hụt.
    Điều này tuỳ thuộc ở khí hậu, đất đai, ở tính chất của sản xuất, ở sức mạnh của dân cư, ở nhu cầu tiêu dùng nhiều hay ít, và ở nhiều thứ khác cấu tạo nên sức tiêu dùng.
    Mặt khác, không phải mỗi chính phủ đều cùng một bản chất như nhau. Có chính phủ ngốn ngấu nhiều, có chính phủ tiêu pha ít thôi. Những sự khác nhau về mặt này lại dựa trên một nguyên tắc khác. Sự đóng góp càng xa nguồn thì lại càng tốn kém. Không thể đo gánh nặng đóng góp bằng số lượng thuế khoá, mà phải đo bằng con đường chu chuyển của đóng góp; thuế khoá rút từ người sản xuất rồi trở lại tay người sản xuất như thế nào. Nếu con đường chu chuyển này mà nhanh, gọn thì bất kể đóng góp nhiều hay ít, dân sự luôn giàu có tài chính quốc gia luôn trôi chảy. Trái lại, nếu con đường chu chuyển này tồi tệ, dân chúng góp tay ít nhưng chẳng thu về được gì mãi rồi kiệt quệ; nhà nước không giàu lên được, dân thì ăn mày, trộm cắp.
    Vậy chính phủ càng xa dân thì gánh nặng của dân càng tăng lên. Cho nên trong chế độ dân chủ gánh nặng đóng góp của dân là nhẹ, trong chế độ quí tộc thì nặng hơn một mức, và nặng nề nhất là trong chế độ quân chủ . Chế đô quân chủ chỉ thích hợp với những nước lớn và giàu, chế độ qui tộc với các nước vừa phải, chế độ dân chủ với các nước nhỏ và nghèo.
    Cho nên càng suy nghĩ về vấn đề này ta càng thấy sự khác biệt giữa nhà nước tự do với nhà nước quân chủ. Trong nhà nước tự do tất cả đều được dùng cho lợi ích công cộng, trong các loại nhà nước khác thì lợi ích công cộng và lợi ích tư nhân bù trừ lẫn nhau, phía này tăng lên thì phía kia giảm xuống; trong chế độ quân chủ đáng lẽ cai trị dân để cho dân sung sướng thì các vua chúa chuyên chế chỉ làm cho dân nghèo khổ để dễ bề cai trị .
    Trong mỗi vung khí hậu, thiên nhiên đã qui đinh nên có hình thức chính phủ nào và tính chất dân chúng nên như thế nào để thích hợp với khí hậu vùng đó.
    Những nơi khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, sản phẩm không xứng với lao động, thì nên bỏ hoang, hoặc để cho dân man rợ ở. Những nơi làm ăn chỉ vừa đủ tiêu dùng thì nên để cho dân bán khai ở; các vùng này chưa thể ứng dụng một chế độ chính trị nào. Những nơi có thể làm ăn dư dật chút ít thì thích hợp với dân tự do. Những nơi đất phì nhiêu, làm ít thu hoạch nhiều, nên được cai trị theo chế độ quân chủ, dùng thói xa hoa của vua chúa để tiêu phí cho hết cái dư dật của thần dân; vì phần thặng dư lao động ấy do chính phủ tiêu xài thì hơn là để cho tư nhân sử dụng.
    Tôi biết những trường hợp ngoại lệ; nhưng cả những ngoại lệ ấy cũng chứng minh qui luật là sớm muộn rồi sẽ có những cuộc cách mạng để đưa sự vật vào qui củ theo trật tự thiên nhiên.
    Cần luôn luôn phân biệt các qui luật phổ biến với các nguyên nhân cá biệt có thể điều chỉnh bớt hiệu quả của qui luật. Nếu tất cả vùng Nam đều có những nước cộng hoà, và tất cả vùng Bắc đều có những nước quân chủ, thì dường như qui luật chung không đúng theo ảnh hưởng của khí hậu :xứ nóng hợp với chế độ quân chủ, xứ lạnh hợp với chế độ bán khai, và các xứ ôn đới trung gian thích hợp với những thể chế tốt hơn.
    Tôi còn thấy rằng trong khi chấp nhận nguyên tắc, người ta vẫn có thể bàn cãi về cách vận dụng. Ví dụ: xứ lạnh cũng có những vùng rất phì nhiêu, và phương Nam ầm áp cũng có nơi cằn cỗi. Điều khó lý giải này chỉ khó với những ai không chịu xem xét toàn diện. Xin nói là phải tính đến những quan hệ về lao động, về lực lượng, về sức tiêu thụ, v.v..
    Giả định có hai vùng đất đai ngang nhau, nhưng vùng A năng suất năm, vùng B năng suất mười. Nếu dân cư vùng A tiêu thụ bốn mà vùng B tiêu thụ chín, thì phần thặng dư của vùng A là một phần năm, mà của vùng B thì là một phần mười. Tỉ lệ giữa hai vùng về số thặng dư ngược lại với tỷ lệ về năng suất. Vùng đất năng suất năm lại tạo ra một khối thặng dư gấp đôi vùng đất năng suất mười. Nhưng ở đây không có vấn đề về khối sản phẩm gấp đôi; và tôi không tin rằng có kẻ nào lại dám nói độ phì nhiêu chung của xứ lạnh cao bằng độ phì nhiêu chung của xứ nóng.
    Vả lại, nếu giả định có sự bằng nhau về tỷ lệ phì nhiêu nói chung như trên, ở nước Anh cũng ngang như ở Sicile. Ở Ba Lan cũng như ở Ai Cập, thiên về phía Nam, ta có châu Phi và Ấn Độ; thiên về phía Bắc chẳng còn gì nữa. Ví phỏng độ phì nhiêu thật là ngang nhau, thì vẫn có sự chênh lệch về canh tác. Ở Sicile chỉ cần gãi đất lên, ở Anh phải cày bừa cẩn thận. Vậy ở đâu phải bỏ ra nhiều lao động trên một sản phẩm thì ở đó phần thặng dư tất phải ít hơn.
    Ngoài ra, nên nhớ rằng dân xứ nóng tiêu thụ ít hơn dân xứ lạnh. Khí hậu xứ nóng buộc người ta phải ăn uống thanh đạm để giữ được sức khoẻ. Người Châu Âu sang ở xứ nóng mà muốn ăn uống như khi ở nước mình thì chỉ chết vì kiết lỵ hay táo bón. Chardin (51) viết: "So với người châu Phi thì chúng ta là những con vật ăn tươi nuốt sóng như chó sói. Có người nói dân Ba Tư ăn uống thanh đạm vì đất đai của họ ít trồng trọt. Tôi cho rằng người Ba Tư ít trồng trọt vì họ chẳng ăn uống bao lăm. Nếu cái tính thanh đạm là hậu quả của tình trạng đói kém thì chỉ người nghèo mới ăn uống thanh đạm thôi chứ; hoặc tùy theo mỗi tính giàu, nghèo mà sức ăn phải khác nhau chứ. Ở đây cái nết thanh đạm là chung cho mọi người, khắp cả nước. Họ còn tự hào về nếp uống thanh đạm, và họ kiêu hãnh về nước da của người Ba Tư đẹp hơn người theo đạo Gia-tô nhiều. Thật vậy, dân Ba Tư có nước da mịn màng, còn như dân Arménie ở Châu Âu thì da thô, nâu, thân thể ục ịch".
    Càng đến gần vùng xích đạo càng thấy dân chúng sống đơn giản. Hầu như họ rất ít ăn thịt. Gạo, bắp, khoai, kê là thức ăn hàng ngày của họ. Ở Ba Tư có hàng triệu người khẩu phần ăn hàng ngày chưa tới một xu. Ngay ở Châu Âu ta cũng thấy khẩu phần ăn của dân vùng Bắc khác dân vùng Nam. Một bữa ăn của người Đức có thể bằng tám bữa của người Tây Ban Nha. Trong các nước mà người ta thích ăn uống thì cái nết xa hoa cũng thể hiện ngay trong sự ăn uống. Người Anh chưng lên bàn ăn toàn những món thịt. Người Ý thì bày biện thanh lịch, chỉ đường ngọt với hoa thơm.
    Trong cái mặc cũng có sự khác biệt như thế. Những nơi khí hậu thay đổi đột ngột người ta mặc tốt và giản dị. Trái lại có nơi người ta mặc chỉ để chưng diện, ham lòe loẹt hơn là thực dụng; đối với họ mặc quần áo là để tỏ sự xa hoa. Ở Naples (52) các bạn thấy người ta dạo chơi hằng ngày trên đồi Pauxilippe (53) với bộ cánh màu vàng rực rỡ nhưng chân trần không bít tất.
    Về kiến trúc cũng vậy. Nếu không sợ gió bão phá hỏng thì người ta xây dựng thật nguy nga. Người Paris và Luân Đôn ở chỉ cốt cho ấm và đủ tiện nghi. Người Madrid tạo những phòng khách thật choáng lộn, các cửa sổ mở toang, nhưng họ ngủ trong ổ như ổ chuột.
    Thức ăn ở các xứ nóng có nhiều chất, vừa ngon vừa bổ. Đây là điều khác biệt thứ ba, không thể không ảnh hưởng tới việc mặc. Tại sao ở Ý người ta ăn nhiều rau. Vì rau ở Ý rất tốt, nhiều chất bổ và ngon miệng. Ở Pháp rau không được ngon và bổ, nên không được coi trọng trên các bàn ăn; thế mà trồng rau cũng chiếm khá nhiều đất đai và lao động. Lúa mì ở Barbarie (54) không ngon như ở Pháp, nhưng có nhiều chất bột; lúa mì ở Pháp lại có năng suất cao hơn các xứ phía Bắc.
    Từ điểm này ta có thể rút ra các mức độ khác nhau một cách tương tự từ vùng xích đạo tới vùng bấc cực. Các xứ phương Bắc, cùng một lượng sản phẩm mà rút ra được ít thực phẩm hơn các xứ phương Nam, phải chăng đó là một sự thiệt thòi.
    Ngoài mấy nhận xét kể trên, tôi có thể nói thêm một điều nữa, là các xứ nóng còn ít dân cư hơn xứ lạnh, nhưng lại có khả năng nuôi sống nhiều người hơn xứ lạnh. Điều này tạo thêm lợi thế và sự dư dật cho chế độ quân chủ; đất rộng, người thưa thì khó vận động cách mạng khó mà gặp gỡ, bàn tính với nhau một cách nhanh chóng và bí mật, chính phủ dễ tìm cách khám phá, ngăn cản cắt đường liên lạc của các tổ chức cách mạng.
    Nhưng một nước dân cư đông, ở chen chúc thì chính phủ khó mà làm chuyện lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Các thủ lĩnh bàn tính công việc một cách an toàn trong cơ quan cũng như thủ tướng bàn việc trong nội các, và dân chúng dễ tập hợp trên quảng trường cũng như quân đội dễ tập hợp trong các phố.
    Lợi thế của chính phủ quân chủ là ở khả năng hoạt động tầm xa. Nhờ lập ra các điểm tựa mà sức mạnh của chính phủ tăng lên như những chiếc đòn bẩy[8*]. Còn sức mạnh của dân chúng thì trái lại nó chỉ tác động khi dân ở tập trung. Sức mạnh ấy sẽ bốc hơi và mất đi khi ở thưa thớt, giống như thuốc súng rải ra trên mặt đất, chỉ có thể cháy từng hạt một. Các nước thưa dân cư cũng là chỗ thích hợp cho chế độ độc tài giống như loài ác thú chỉ ngự trị ở những vùng hoang dã.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [8*]. Điều này trái với điều tôi đã trình bày ở trên (Chương 9- Quyển 2) về những điều bất lợi của một nước lớn. Đó là lúc phân tích quyền uy của chính phủ đối với các thành viên chính phủ. Còn ở đây nói về sức mạnh cuả chính phủ dể chống lại dân chúng; chính phủ có điểm tựa để đàn áp nhân dân ở xa, chứ không phải để đối phó trực tiếp với các thành viên chính phủ. Đòn bẩy dài chỉ mạnh đối với điểm xa, mà yếu đối với điểm gần.
  9. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    8. KHÔNG PHẢI HÌNH THỨC CHÍNH PHỦ NÀO CŨNG THÍCH HỢP VỚI MỌI QUỐC GIA
    Tự do không phải là kết quả của mọi khí hậu. Tự do cũng không phải vừa tầm với mọi dân tộc. Càng suy nghĩ về nguyên lý trên đây của Montesquieu càng thấy có lý. Càng chối cãi ta càng gặp những trường hợp chứng minh nguyên lý đó là đúng.
    Trong mọi thứ chính phủ trên đời này, con người công cộng chỉ tiêu dùng mà không sản xuất gì hết. Từ đâu mà có những thứ tiêu dùng cho con người công cộng đó ? Từ lao động của các thành viên quốc gia. Đó là phần thặng dư của những cá nhân sản xuất các thứ cần thiết cho công chúng.
    Suy rộng ra, ta thấy nhà nước dân sự chỉ có thể tồn tại chừng nào mà lao động của con người sản xuất có thể làm ra dư thừa hơn mức họ cần dùng.
    Nhưng phần thặng dư nói trên không phải ở nước nào cũng như nhau cả. Nước này thặng dư khá nhiều, nước kia chẳng được mấy tý, nước khác chẳng có chút nào, lại có nước bị thâm hụt.
    Điều này tuỳ thuộc ở khí hậu, đất đai, ở tính chất của sản xuất, ở sức mạnh của dân cư, ở nhu cầu tiêu dùng nhiều hay ít, và ở nhiều thứ khác cấu tạo nên sức tiêu dùng.
    Mặt khác, không phải mỗi chính phủ đều cùng một bản chất như nhau. Có chính phủ ngốn ngấu nhiều, có chính phủ tiêu pha ít thôi. Những sự khác nhau về mặt này lại dựa trên một nguyên tắc khác. Sự đóng góp càng xa nguồn thì lại càng tốn kém. Không thể đo gánh nặng đóng góp bằng số lượng thuế khoá, mà phải đo bằng con đường chu chuyển của đóng góp; thuế khoá rút từ người sản xuất rồi trở lại tay người sản xuất như thế nào. Nếu con đường chu chuyển này mà nhanh, gọn thì bất kể đóng góp nhiều hay ít, dân sự luôn giàu có tài chính quốc gia luôn trôi chảy. Trái lại, nếu con đường chu chuyển này tồi tệ, dân chúng góp tay ít nhưng chẳng thu về được gì mãi rồi kiệt quệ; nhà nước không giàu lên được, dân thì ăn mày, trộm cắp.
    Vậy chính phủ càng xa dân thì gánh nặng của dân càng tăng lên. Cho nên trong chế độ dân chủ gánh nặng đóng góp của dân là nhẹ, trong chế độ quí tộc thì nặng hơn một mức, và nặng nề nhất là trong chế độ quân chủ . Chế đô quân chủ chỉ thích hợp với những nước lớn và giàu, chế độ qui tộc với các nước vừa phải, chế độ dân chủ với các nước nhỏ và nghèo.
    Cho nên càng suy nghĩ về vấn đề này ta càng thấy sự khác biệt giữa nhà nước tự do với nhà nước quân chủ. Trong nhà nước tự do tất cả đều được dùng cho lợi ích công cộng, trong các loại nhà nước khác thì lợi ích công cộng và lợi ích tư nhân bù trừ lẫn nhau, phía này tăng lên thì phía kia giảm xuống; trong chế độ quân chủ đáng lẽ cai trị dân để cho dân sung sướng thì các vua chúa chuyên chế chỉ làm cho dân nghèo khổ để dễ bề cai trị .
    Trong mỗi vung khí hậu, thiên nhiên đã qui đinh nên có hình thức chính phủ nào và tính chất dân chúng nên như thế nào để thích hợp với khí hậu vùng đó.
    Những nơi khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, sản phẩm không xứng với lao động, thì nên bỏ hoang, hoặc để cho dân man rợ ở. Những nơi làm ăn chỉ vừa đủ tiêu dùng thì nên để cho dân bán khai ở; các vùng này chưa thể ứng dụng một chế độ chính trị nào. Những nơi có thể làm ăn dư dật chút ít thì thích hợp với dân tự do. Những nơi đất phì nhiêu, làm ít thu hoạch nhiều, nên được cai trị theo chế độ quân chủ, dùng thói xa hoa của vua chúa để tiêu phí cho hết cái dư dật của thần dân; vì phần thặng dư lao động ấy do chính phủ tiêu xài thì hơn là để cho tư nhân sử dụng.
    Tôi biết những trường hợp ngoại lệ; nhưng cả những ngoại lệ ấy cũng chứng minh qui luật là sớm muộn rồi sẽ có những cuộc cách mạng để đưa sự vật vào qui củ theo trật tự thiên nhiên.
    Cần luôn luôn phân biệt các qui luật phổ biến với các nguyên nhân cá biệt có thể điều chỉnh bớt hiệu quả của qui luật. Nếu tất cả vùng Nam đều có những nước cộng hoà, và tất cả vùng Bắc đều có những nước quân chủ, thì dường như qui luật chung không đúng theo ảnh hưởng của khí hậu :xứ nóng hợp với chế độ quân chủ, xứ lạnh hợp với chế độ bán khai, và các xứ ôn đới trung gian thích hợp với những thể chế tốt hơn.
    Tôi còn thấy rằng trong khi chấp nhận nguyên tắc, người ta vẫn có thể bàn cãi về cách vận dụng. Ví dụ: xứ lạnh cũng có những vùng rất phì nhiêu, và phương Nam ầm áp cũng có nơi cằn cỗi. Điều khó lý giải này chỉ khó với những ai không chịu xem xét toàn diện. Xin nói là phải tính đến những quan hệ về lao động, về lực lượng, về sức tiêu thụ, v.v..
    Giả định có hai vùng đất đai ngang nhau, nhưng vùng A năng suất năm, vùng B năng suất mười. Nếu dân cư vùng A tiêu thụ bốn mà vùng B tiêu thụ chín, thì phần thặng dư của vùng A là một phần năm, mà của vùng B thì là một phần mười. Tỉ lệ giữa hai vùng về số thặng dư ngược lại với tỷ lệ về năng suất. Vùng đất năng suất năm lại tạo ra một khối thặng dư gấp đôi vùng đất năng suất mười. Nhưng ở đây không có vấn đề về khối sản phẩm gấp đôi; và tôi không tin rằng có kẻ nào lại dám nói độ phì nhiêu chung của xứ lạnh cao bằng độ phì nhiêu chung của xứ nóng.
    Vả lại, nếu giả định có sự bằng nhau về tỷ lệ phì nhiêu nói chung như trên, ở nước Anh cũng ngang như ở Sicile. Ở Ba Lan cũng như ở Ai Cập, thiên về phía Nam, ta có châu Phi và Ấn Độ; thiên về phía Bắc chẳng còn gì nữa. Ví phỏng độ phì nhiêu thật là ngang nhau, thì vẫn có sự chênh lệch về canh tác. Ở Sicile chỉ cần gãi đất lên, ở Anh phải cày bừa cẩn thận. Vậy ở đâu phải bỏ ra nhiều lao động trên một sản phẩm thì ở đó phần thặng dư tất phải ít hơn.
    Ngoài ra, nên nhớ rằng dân xứ nóng tiêu thụ ít hơn dân xứ lạnh. Khí hậu xứ nóng buộc người ta phải ăn uống thanh đạm để giữ được sức khoẻ. Người Châu Âu sang ở xứ nóng mà muốn ăn uống như khi ở nước mình thì chỉ chết vì kiết lỵ hay táo bón. Chardin (51) viết: "So với người châu Phi thì chúng ta là những con vật ăn tươi nuốt sóng như chó sói. Có người nói dân Ba Tư ăn uống thanh đạm vì đất đai của họ ít trồng trọt. Tôi cho rằng người Ba Tư ít trồng trọt vì họ chẳng ăn uống bao lăm. Nếu cái tính thanh đạm là hậu quả của tình trạng đói kém thì chỉ người nghèo mới ăn uống thanh đạm thôi chứ; hoặc tùy theo mỗi tính giàu, nghèo mà sức ăn phải khác nhau chứ. Ở đây cái nết thanh đạm là chung cho mọi người, khắp cả nước. Họ còn tự hào về nếp uống thanh đạm, và họ kiêu hãnh về nước da của người Ba Tư đẹp hơn người theo đạo Gia-tô nhiều. Thật vậy, dân Ba Tư có nước da mịn màng, còn như dân Arménie ở Châu Âu thì da thô, nâu, thân thể ục ịch".
    Càng đến gần vùng xích đạo càng thấy dân chúng sống đơn giản. Hầu như họ rất ít ăn thịt. Gạo, bắp, khoai, kê là thức ăn hàng ngày của họ. Ở Ba Tư có hàng triệu người khẩu phần ăn hàng ngày chưa tới một xu. Ngay ở Châu Âu ta cũng thấy khẩu phần ăn của dân vùng Bắc khác dân vùng Nam. Một bữa ăn của người Đức có thể bằng tám bữa của người Tây Ban Nha. Trong các nước mà người ta thích ăn uống thì cái nết xa hoa cũng thể hiện ngay trong sự ăn uống. Người Anh chưng lên bàn ăn toàn những món thịt. Người Ý thì bày biện thanh lịch, chỉ đường ngọt với hoa thơm.
    Trong cái mặc cũng có sự khác biệt như thế. Những nơi khí hậu thay đổi đột ngột người ta mặc tốt và giản dị. Trái lại có nơi người ta mặc chỉ để chưng diện, ham lòe loẹt hơn là thực dụng; đối với họ mặc quần áo là để tỏ sự xa hoa. Ở Naples (52) các bạn thấy người ta dạo chơi hằng ngày trên đồi Pauxilippe (53) với bộ cánh màu vàng rực rỡ nhưng chân trần không bít tất.
    Về kiến trúc cũng vậy. Nếu không sợ gió bão phá hỏng thì người ta xây dựng thật nguy nga. Người Paris và Luân Đôn ở chỉ cốt cho ấm và đủ tiện nghi. Người Madrid tạo những phòng khách thật choáng lộn, các cửa sổ mở toang, nhưng họ ngủ trong ổ như ổ chuột.
    Thức ăn ở các xứ nóng có nhiều chất, vừa ngon vừa bổ. Đây là điều khác biệt thứ ba, không thể không ảnh hưởng tới việc mặc. Tại sao ở Ý người ta ăn nhiều rau. Vì rau ở Ý rất tốt, nhiều chất bổ và ngon miệng. Ở Pháp rau không được ngon và bổ, nên không được coi trọng trên các bàn ăn; thế mà trồng rau cũng chiếm khá nhiều đất đai và lao động. Lúa mì ở Barbarie (54) không ngon như ở Pháp, nhưng có nhiều chất bột; lúa mì ở Pháp lại có năng suất cao hơn các xứ phía Bắc.
    Từ điểm này ta có thể rút ra các mức độ khác nhau một cách tương tự từ vùng xích đạo tới vùng bấc cực. Các xứ phương Bắc, cùng một lượng sản phẩm mà rút ra được ít thực phẩm hơn các xứ phương Nam, phải chăng đó là một sự thiệt thòi.
    Ngoài mấy nhận xét kể trên, tôi có thể nói thêm một điều nữa, là các xứ nóng còn ít dân cư hơn xứ lạnh, nhưng lại có khả năng nuôi sống nhiều người hơn xứ lạnh. Điều này tạo thêm lợi thế và sự dư dật cho chế độ quân chủ; đất rộng, người thưa thì khó vận động cách mạng khó mà gặp gỡ, bàn tính với nhau một cách nhanh chóng và bí mật, chính phủ dễ tìm cách khám phá, ngăn cản cắt đường liên lạc của các tổ chức cách mạng.
    Nhưng một nước dân cư đông, ở chen chúc thì chính phủ khó mà làm chuyện lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Các thủ lĩnh bàn tính công việc một cách an toàn trong cơ quan cũng như thủ tướng bàn việc trong nội các, và dân chúng dễ tập hợp trên quảng trường cũng như quân đội dễ tập hợp trong các phố.
    Lợi thế của chính phủ quân chủ là ở khả năng hoạt động tầm xa. Nhờ lập ra các điểm tựa mà sức mạnh của chính phủ tăng lên như những chiếc đòn bẩy[8*]. Còn sức mạnh của dân chúng thì trái lại nó chỉ tác động khi dân ở tập trung. Sức mạnh ấy sẽ bốc hơi và mất đi khi ở thưa thớt, giống như thuốc súng rải ra trên mặt đất, chỉ có thể cháy từng hạt một. Các nước thưa dân cư cũng là chỗ thích hợp cho chế độ độc tài giống như loài ác thú chỉ ngự trị ở những vùng hoang dã.
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    [8*]. Điều này trái với điều tôi đã trình bày ở trên (Chương 9- Quyển 2) về những điều bất lợi của một nước lớn. Đó là lúc phân tích quyền uy của chính phủ đối với các thành viên chính phủ. Còn ở đây nói về sức mạnh cuả chính phủ dể chống lại dân chúng; chính phủ có điểm tựa để đàn áp nhân dân ở xa, chứ không phải để đối phó trực tiếp với các thành viên chính phủ. Đòn bẩy dài chỉ mạnh đối với điểm xa, mà yếu đối với điểm gần.
  10. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    9. DẤU HIỆU CỦA MỘT CHÍNH PHỦ TỐT
    "Thế nào là một chính phủ tốt?". Nếu hỏi một cách tuyệt đối như thế thì câu hỏi này thật là mông lung, khó giải đáp hoặc muốn có bao nhiêu đáp án cũng được, tùy theo cách nhìn hỗn hợp tương đối và tuyệt đối của nhân dân.
    Nhưng nếu hỏi: "Căn cứ vào những dấu hiệu nào để biết một dân tộc được cai trị tốt ?" thì đó lại là chuyện khác, có thể giải đáp được trong thực tế.
    Tuy nhiên, người ta vẫn không giải đáp vấn đề này đâu; vì mỗi người muốn giải đáp theo cách của mình. Là nhân dân thì người ta thích sự yên tĩnh công cộng; là công dân, người ta thích quyền tự do cá nhân, thần dân thích cho quyền sở hữu được vững chắc; công dân thích sự vững chắc của con người. Một bên thích chính phủ thật nghiêm, bên kia muốn chính phủ thật hiền. Anh thần dân mong chính phủ trừng phạt các tội phạm, anh công dân chỉ mong ngăn ngừa tội ác. Anh kia chỉ mong người ta chẳng biết nước mình là ai . Một anh hài lòng về tiền tệ lưu thông phong phú; anh kia mong cho dân đủ bánh mì ăn là được. Một anh thích cho nước mình được dân tộc láng giềng kính nể.
    Ví phỏng chính phủ thỏa mãn hết các điều nói trên, và các điều tương tự nữa, thì câu hỏi đặt ra có được giải đáp tốt hơn hay không?
    Không thể dùng thước để đo các phẩm chất tinh thần được, ta phải đo nó bằng dấu hiệu vậy.
    Người ta thường không biết gì đến một dấu hiệu thật là giản đơn, hoặc không tin rằng dấu hiệu giản đơn này có thể dùng được. Mục đích cuối cùng của một tập thể chính trị là gì? Chính là sự bảo toàn và phát triển của các thành viên tập thể. Vậy dấu hiệu chính xác nhất của sự bảo toàn và phát triển ấy là gì ? Chính là số lượng và mật độ dân cư.
    Chẳng phải tìm các dấu hiệu nào khác nữa. Dấu hiệu này ở đâu cũng như nhau cả. Một chính phủ không dùng đến biện pháp ngoại lai, không di dân các nơi khác đến, không đi chinh phục thuộc địa, mà dân trong nước ngày càng đông đúc, thì nhất định phải là một chính phủ tốt.
    Một chính phủ mà để cho dân ngày càng hao mòn, suy nhược, số dân ngày càng giảm sút; đó là chính phủ tồi tệ nhất (ND). Đó, xin mời các nhà hạch toán hãy cân, đo, đong đếm và so sánh đi [9*].
    Đạo lý của sách vở là "lợi ích thô thiển mở mồm tác giả". Nói gì thì nói, chứ một nước dầu nổi tiếng vang lừng mà dân số cứ giảm sút thì nhất định không phải là ở đây mọi việc đều trôi chảy cả đâu. Và đừng thấy một nhà thơ thu nhập tới mười vạn đồng livres mà tưởng rằng thời đại của ông là huy hoàng hơn mọi thời đại khác. Đừng quá tin vào sự yên tĩnh nghỉ ngơi của các thủ lĩnh để cho rằng nuớc đó thịnh trị. Phải nhìn vào phúc lợi của nhân dân cả nước, và nhất là nhìn xem quốc gia có trù mật hay không. Trận mưa có thể phá hoại hoa màu mấy tổng, nhưng không gây nạn đói trong cả nước. Những cuộc tao loạn làm cho các nhà cầm quyền sợ hãi, nhưng không phải là tai họa thật sự đối với nhân dân, mặc dầu nhân dân cũng có khi bị thả nổi trong lúc người ta tranh chấp với bọn bạo chúa đang trị vì.
    Tình trạng phồn vinh hoặc điêu đứng thật sự của nhân dân nảy sinh một cách thường xuyên mới là đáng chú ý. Khi cả nước quằn quại dưới ách chuyên chế thì mọi thứ đều phải héo queo, vì bọn bạo chúa đang tự do tàn hại dân chúng. Ubi solitudinem factunt, pacem appellant (Câu la tinh có nghĩa là : "Chúng biến tất cả thành sa mạc và nói : Đó mới là thế giới". (Tacite - Agricole, tập 3O-ND).
    Khi các quan trong triều đình Pháp tranh chấp nhau, triều đình lục đục, vị Giáo chủ hậu bổ Paris phải thủ túi dao găm khi đến hội trường, thì dân chúng nước Pháp vẫn sống sung túc, đông đảo, trong cảnh bình yên, lương thiện.
    Thuở xưa Hi Lạp đã phồn vinh trong khi có chiến tranh ác liệt. Máu chảy thành sông mà nước Hi Lạp vẫn đầy người. Machiavel nói: Dường như nước cộng hòa của chúng ta mạnh hơn lên ngay trong khi đang xảy ra nội chiến. Chém giết nhau, hạ bệ nhau. Đức hạnh, phong tục và sự độc lập của dân chúng có sức làm mạnh quốc gia hơn là những cuộc tranh chấp làm yếu quốc gia. Một ít rung chuyển sẽ tạo cho tâm hồn con người có sức bật; và con người phát triển được nhờ có tự do là chính, là nhiều hơn nhờ ở trạng thái yên bình.
    --------------------------------------------------------------------------------------------
    [9*]. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua đủ chứng minh nguyên tắc phát triển nhân chủng là nguyên tắc thỏa dáng nhất. Người ta đã từng ca ngợi quá mức các nước văn hoá nghệ thuật phát triển, mà không đi sâu vào đối tượng kín đáo của văn hoá, không nhìn thấy những hậu quả tai hại của nó; idque apud imperitos humanites vocabatur, quum parrs dervitutis caset (Câu la tinh có nghĩa là: Bọn ngu xuẩn cũng có trình độ nhất định do chúng học được truớc khi bị người ta nô dịch- Xem Tacite- Sách Agricole, Tập 1- ND)

Chia sẻ trang này