1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về Khế ước xã hội - Jean Jacques Rousseau

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 11/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    9. DẤU HIỆU CỦA MỘT CHÍNH PHỦ TỐT
    "Thế nào là một chính phủ tốt?". Nếu hỏi một cách tuyệt đối như thế thì câu hỏi này thật là mông lung, khó giải đáp hoặc muốn có bao nhiêu đáp án cũng được, tùy theo cách nhìn hỗn hợp tương đối và tuyệt đối của nhân dân.
    Nhưng nếu hỏi: "Căn cứ vào những dấu hiệu nào để biết một dân tộc được cai trị tốt ?" thì đó lại là chuyện khác, có thể giải đáp được trong thực tế.
    Tuy nhiên, người ta vẫn không giải đáp vấn đề này đâu; vì mỗi người muốn giải đáp theo cách của mình. Là nhân dân thì người ta thích sự yên tĩnh công cộng; là công dân, người ta thích quyền tự do cá nhân, thần dân thích cho quyền sở hữu được vững chắc; công dân thích sự vững chắc của con người. Một bên thích chính phủ thật nghiêm, bên kia muốn chính phủ thật hiền. Anh thần dân mong chính phủ trừng phạt các tội phạm, anh công dân chỉ mong ngăn ngừa tội ác. Anh kia chỉ mong người ta chẳng biết nước mình là ai . Một anh hài lòng về tiền tệ lưu thông phong phú; anh kia mong cho dân đủ bánh mì ăn là được. Một anh thích cho nước mình được dân tộc láng giềng kính nể.
    Ví phỏng chính phủ thỏa mãn hết các điều nói trên, và các điều tương tự nữa, thì câu hỏi đặt ra có được giải đáp tốt hơn hay không?
    Không thể dùng thước để đo các phẩm chất tinh thần được, ta phải đo nó bằng dấu hiệu vậy.
    Người ta thường không biết gì đến một dấu hiệu thật là giản đơn, hoặc không tin rằng dấu hiệu giản đơn này có thể dùng được. Mục đích cuối cùng của một tập thể chính trị là gì? Chính là sự bảo toàn và phát triển của các thành viên tập thể. Vậy dấu hiệu chính xác nhất của sự bảo toàn và phát triển ấy là gì ? Chính là số lượng và mật độ dân cư.
    Chẳng phải tìm các dấu hiệu nào khác nữa. Dấu hiệu này ở đâu cũng như nhau cả. Một chính phủ không dùng đến biện pháp ngoại lai, không di dân các nơi khác đến, không đi chinh phục thuộc địa, mà dân trong nước ngày càng đông đúc, thì nhất định phải là một chính phủ tốt.
    Một chính phủ mà để cho dân ngày càng hao mòn, suy nhược, số dân ngày càng giảm sút; đó là chính phủ tồi tệ nhất (ND). Đó, xin mời các nhà hạch toán hãy cân, đo, đong đếm và so sánh đi [9*].
    Đạo lý của sách vở là "lợi ích thô thiển mở mồm tác giả". Nói gì thì nói, chứ một nước dầu nổi tiếng vang lừng mà dân số cứ giảm sút thì nhất định không phải là ở đây mọi việc đều trôi chảy cả đâu. Và đừng thấy một nhà thơ thu nhập tới mười vạn đồng livres mà tưởng rằng thời đại của ông là huy hoàng hơn mọi thời đại khác. Đừng quá tin vào sự yên tĩnh nghỉ ngơi của các thủ lĩnh để cho rằng nuớc đó thịnh trị. Phải nhìn vào phúc lợi của nhân dân cả nước, và nhất là nhìn xem quốc gia có trù mật hay không. Trận mưa có thể phá hoại hoa màu mấy tổng, nhưng không gây nạn đói trong cả nước. Những cuộc tao loạn làm cho các nhà cầm quyền sợ hãi, nhưng không phải là tai họa thật sự đối với nhân dân, mặc dầu nhân dân cũng có khi bị thả nổi trong lúc người ta tranh chấp với bọn bạo chúa đang trị vì.
    Tình trạng phồn vinh hoặc điêu đứng thật sự của nhân dân nảy sinh một cách thường xuyên mới là đáng chú ý. Khi cả nước quằn quại dưới ách chuyên chế thì mọi thứ đều phải héo queo, vì bọn bạo chúa đang tự do tàn hại dân chúng. Ubi solitudinem factunt, pacem appellant (Câu la tinh có nghĩa là : "Chúng biến tất cả thành sa mạc và nói : Đó mới là thế giới". (Tacite - Agricole, tập 3O-ND).
    Khi các quan trong triều đình Pháp tranh chấp nhau, triều đình lục đục, vị Giáo chủ hậu bổ Paris phải thủ túi dao găm khi đến hội trường, thì dân chúng nước Pháp vẫn sống sung túc, đông đảo, trong cảnh bình yên, lương thiện.
    Thuở xưa Hi Lạp đã phồn vinh trong khi có chiến tranh ác liệt. Máu chảy thành sông mà nước Hi Lạp vẫn đầy người. Machiavel nói: Dường như nước cộng hòa của chúng ta mạnh hơn lên ngay trong khi đang xảy ra nội chiến. Chém giết nhau, hạ bệ nhau. Đức hạnh, phong tục và sự độc lập của dân chúng có sức làm mạnh quốc gia hơn là những cuộc tranh chấp làm yếu quốc gia. Một ít rung chuyển sẽ tạo cho tâm hồn con người có sức bật; và con người phát triển được nhờ có tự do là chính, là nhiều hơn nhờ ở trạng thái yên bình.
    --------------------------------------------------------------------------------------------
    [9*]. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua đủ chứng minh nguyên tắc phát triển nhân chủng là nguyên tắc thỏa dáng nhất. Người ta đã từng ca ngợi quá mức các nước văn hoá nghệ thuật phát triển, mà không đi sâu vào đối tượng kín đáo của văn hoá, không nhìn thấy những hậu quả tai hại của nó; idque apud imperitos humanites vocabatur, quum parrs dervitutis caset (Câu la tinh có nghĩa là: Bọn ngu xuẩn cũng có trình độ nhất định do chúng học được truớc khi bị người ta nô dịch- Xem Tacite- Sách Agricole, Tập 1- ND)
  2. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    10. CHÍNH PHỦ LẠM QUYỀN VÀ THOÁI HOÁ
    Vì ý chí riêng thường hay tác động ngược lại ý chí thung, cho nên chính phủ cũng thường hay có ý hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng. Cái ý hướng ấy càng tăng thì cấu trúc quốc gia càng suy giảm. Do không có một ý chí có thể nào cưỡng lại để cân bằng với ý hướng nói trên của chính phủ, nên nhất định sớm muộn rồi chính phủ cũng lấn át quyền lực tối cao của toàn dân, phá hoại mất hiệp ước (traité) xã hội. Đó là mối nguy hại tiềm tàng cố hữu trong một cơ thể chính trị từ khi nó mới hình thành; chẳng khác gì cái già và cái chết tiềm tàng phá hoại cơ thể con người vậy.
    Có hai con đường dẫn chính phủ đến chỗ thoái hóa: khi chính phủ siết chặt lại mãi, và khi chính phủ tự buông lỏng, tự tiêu vong.
    Chính phủ tự siết chặt từ số lớn xuống số nhỏ, tức là từ dân chủ xuống quí tộc, từ quí tộc xuống quân chủ. Đó là sự sa đọa tự nhiên của chính phủ [10*]. Nếu chính phủ biến hoá từ số nhỏ sang số lớn (từ quân chủ sang quí tộc, đến dân chủ) thì ta gọi là chính phủ tự buông lỏng, nhưng sự chuyển biến ngược này là không thể có được.
    Thật sự, không bao giờ chính phủ thay đổi hình thức khi mà sức bật của nó đã rệu rã nhưng chưa làm cho nó yếu đến mức không thể giữ nguyên hình thức cần có. Tuy nhiên, nếu chính phủ buông lỏng thêm nữa bằng cách dàn trải mình ra, thì sức mạnh của nó sẽ mất hẳn; chính phủ khó mà tồn tại được; phải nâng nó dậy, lên giây thiều cho nó; nếu không làm thế thì trạng thái hiện hữu của chính phủ sẽ sụp đổ hoàn toàn.
    Người ta không quên nhắc tôi chú ý tới nền cộng hòa La Mã, La Mã đã đi theo một quá trình ngược lại, chuyển từ quân chủ sang quí tộc rồi từ quí tộc sang dân chủ, nhưng tôi không nghĩ như vậy.
    Thể chế đầu tiên của Romulus (Vua đầu tiên sáng lập ra La Mã, trị vì từ 753-715 tr.CN; theo truyền thuyết, ông là người hiếu chiến, bị phái quí tộc ghét, ông biến mất trong một cơn giông bất ngờ khi ông đang duyệt binh - ND) là một thể chế hỗn hợp, thoái hóa đột ngột thành chuyên chế. Do những nguyên nhân cá biệt, Nhà nước này tan rã trước khi hình thành như một đứa trẻ chết ở tuổi vị thành niên. Cuộc phế truất của vua Tarquin (xem chú thích số 35 - ND) chính là giai đoạn hình thành nền cộng hòa. Nhưng ngay từ đầu nền cộng hòa chưa mang một hình thức cố định, vì sự nghiệp mới thực hiện nửa vời, chỉ xóa bỏ tầng lớp quí tộc Patriciat mà thôi. Làm như thế tầng lớp quí tộc truyền đời vẫn tồn tại, đó là thế lực tồi tệ nhất, đối lập với nền dân chủ. Cho nên hình thức chính phủ La Mã vẫn bấp bênh, không khẳng định dứt khoát. Sau này Machiavel đã chứng minh rằng nền dân chủ La Mã chỉ dừng lại ở việc thiết lập chế dộ hộ dân quan "tribum". Chỉ đến lúc đó mới có một chính phủ thực sự với một nền dân chủ thực sự. Dân chúng chẳng những là người nắm quyền lực tối cao mà còn là cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, nghị viện chỉ là một cơ quan thứ cấp để điều hoà và tập trung việc cai trị; các quan chấp chính "Consul" dù là nhà quí tộc, hay vị pháp quan nhất đẳng hay bậc tướng lĩnh cao cấp trong thời chiến đi nữa, cũng chỉ là những nguời chủ trì hội nghị nhân dân La Mã mà thôi. Thời kỳ đó, người ta thấy chính phủ La Mã thiên hướng khá mạnh sang thể chế quí tộc. Tầng lớp quí tộc patriciat bị xoá bỏ rồi, lớp quí tộc còn lại không ở trong hàng ngũ quan viên patriciens như ở Venise và Gêne. Nhưng trong cơ cấu nghị viện gồm có quan viên quí tộc patriciens và quan viên bình dân "Plébiens". Ngay các vi hộ dân quan tribuns khi đã đoạt lấy quyền cai trị, dù họ được gọi là gì đi nữa, họ vẫn cai trị theo lợi ích cuả nhân dân. Đó là một nền cai trị theo thể chế quí tộc.
    Việc giải tán chính phủ có thể xảy ra trong hai trường hợp: Thứ nhất là khi người cầm đầu chính phủ không cai trị theo pháp luật, mà lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Lúc đó có sự thay đổi rõ rệt; không phải chính phủ, mà là quốc gia tự siết chặt lại. Tôi muốn nói là quốc gia lớn tan biến, hình thành một quốc gia khác trong quốc gia cũ, chỉ gồm các nhân viên chính phủ mà thôi. Trước mặt nhân dân chỉ còn lại ông chủ và kẻ độc tài. Thế là sau khi chính phủ cố cưỡng đoạt mất quyền lực tối cao, thì công ước (pacte) xã hội bị phá bỏ; mọi công dân trở lại với quyền tự do thiên nhiên của họ. Họ bị cưỡng bức mà phải phục tùng, chứ không phục tùng vì nghĩa vụ.
    Thứ hai, cùng trường hợp tương tự như trên, các thành viên chính phủ thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ (đáng lẽ họ phải thực hiện quyền hành một cách tập thể). Đây không phải chỉ là việc vi phạm pháp luật một cách giản đơn; mà nó còn gây ra lộn xộn lớn. Có bao nhiêu pháp quan thì thành ra bấy nhiêu ông thủ tướng. Cả quốc gia cũng như chính phủ bị chia nhỏ, bị tan rã, hoặc thay hình đổi dạng.
    Tình trạng quốc gia tan rã, cũng như tình trạng chính phủ lạm quyền đều được gọi là vô chính phủ (anarchie). Nền dân chủ mà thoái hóa thì gọi là "chế độ quần chúng loạn xạ" (ochlocratie), chính phủ quí tộc thoái hoá gọi là "chế độ quả đầu, đại tộc trị" (oligarchie). Tôi xin nói thêm : chế độ quân chủ thoái hóa thì thành ra "chế độ bạo chúa" (tyranie). Nhưng thuật ngữ cuối cùng này còn hơi mơ hồ, cần được giải thích.
    Khi trong nền cai trị quí tộc có hiện tượng lạm dụng; nảy sinh các cuộc nội chiến, rồi thiết lập chế độ "tam quan chấp chính" (Triumsvirat), thì ba ông Sylla, Jules César và Auguste trở thành ba vị hoàng đế thật sự. Cuối cùng nền chuyên chế cuả Tibère, nhà nước La Mã tan rã.
    Lịch sử La Mã không phủ định, mà củng cố những điều tôi đã trình bày trên. Theo nghĩa thông thường, bạo chúa là một ông vua cai trị bằng bạo lực, bất chấp cả công lý và pháp luật. Định nghĩa thật chính xác thì bạo chúa là một cá nhân tự choán lấy quyền hành của các ông vua mà thực ra hắn không có quyền ấy. Người Hy Lạp hiểu hai tiếng bạo chúa là kẻ độc tài, kẻ độc tài ấy có thể là tốt hoặc xấu nhưng pháp luật không trao quyền cho mà tự choán lấy quyền [11*].
    Vậy bạo chúa là đồng nghĩa với "kẻ thoán đoạt" .
    Muốn đặt tên khác nhau cho sự việc khác nhau, ta gọi kẻ thoán đoạt ngôi vua là bạo chúa (tyran) và kẻ thoán đoạt quyền lực tối cao của nhân dân là tên độc tài, kẻ chuyên chế (despota) . Bạo chúa là người can thiệp tùy tiện vào pháp luật rồi cai tri theo pháp luật. Tên độc tài (hoặc chuyên chế) thì giẫm đạp hẳn lên pháp luật. Như vậy, bạo chúa không nhất định là chuyên chế, mà chuyên chế thì bao giờ cũng là bạo chúa.
    Aristote trong sách "Đạo lý nicôm", tập 8, trang 10 đã phân biệt bạo chúa với nhà vua. Bạo chúa vì mình mà cai trị , vua thì cai trị vì lợi ích thần dân. Ngoài ra các tác giả Hy Lạp còn định nghĩa "bạo chúa" một cách khác; như Senophon, trong sách Hiéron (bàn về bạo chúa) cũng dựa theo sự phân biệt cuả Aristote nhưng lại nói rằng từ khi khai thiên lập địa đã có nhiều vua chứ không phải chỉ có một vua mà thôi.
    [11*].Omnes enim et habentur et ducultur tyrani qui protestate utuntur perpetua in ea civitate quoe libertate usa est (Corn.Nep.in Mitiad n.8) (Những kẻ tự xưng và bị gọi là độc tài là kẻ cố tình nắm quyền trong nước mãi mãi để hứng thú tự do cho mình - Coocneli Nepot, bài số 8).
  3. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    10. CHÍNH PHỦ LẠM QUYỀN VÀ THOÁI HOÁ
    Vì ý chí riêng thường hay tác động ngược lại ý chí thung, cho nên chính phủ cũng thường hay có ý hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng. Cái ý hướng ấy càng tăng thì cấu trúc quốc gia càng suy giảm. Do không có một ý chí có thể nào cưỡng lại để cân bằng với ý hướng nói trên của chính phủ, nên nhất định sớm muộn rồi chính phủ cũng lấn át quyền lực tối cao của toàn dân, phá hoại mất hiệp ước (traité) xã hội. Đó là mối nguy hại tiềm tàng cố hữu trong một cơ thể chính trị từ khi nó mới hình thành; chẳng khác gì cái già và cái chết tiềm tàng phá hoại cơ thể con người vậy.
    Có hai con đường dẫn chính phủ đến chỗ thoái hóa: khi chính phủ siết chặt lại mãi, và khi chính phủ tự buông lỏng, tự tiêu vong.
    Chính phủ tự siết chặt từ số lớn xuống số nhỏ, tức là từ dân chủ xuống quí tộc, từ quí tộc xuống quân chủ. Đó là sự sa đọa tự nhiên của chính phủ [10*]. Nếu chính phủ biến hoá từ số nhỏ sang số lớn (từ quân chủ sang quí tộc, đến dân chủ) thì ta gọi là chính phủ tự buông lỏng, nhưng sự chuyển biến ngược này là không thể có được.
    Thật sự, không bao giờ chính phủ thay đổi hình thức khi mà sức bật của nó đã rệu rã nhưng chưa làm cho nó yếu đến mức không thể giữ nguyên hình thức cần có. Tuy nhiên, nếu chính phủ buông lỏng thêm nữa bằng cách dàn trải mình ra, thì sức mạnh của nó sẽ mất hẳn; chính phủ khó mà tồn tại được; phải nâng nó dậy, lên giây thiều cho nó; nếu không làm thế thì trạng thái hiện hữu của chính phủ sẽ sụp đổ hoàn toàn.
    Người ta không quên nhắc tôi chú ý tới nền cộng hòa La Mã, La Mã đã đi theo một quá trình ngược lại, chuyển từ quân chủ sang quí tộc rồi từ quí tộc sang dân chủ, nhưng tôi không nghĩ như vậy.
    Thể chế đầu tiên của Romulus (Vua đầu tiên sáng lập ra La Mã, trị vì từ 753-715 tr.CN; theo truyền thuyết, ông là người hiếu chiến, bị phái quí tộc ghét, ông biến mất trong một cơn giông bất ngờ khi ông đang duyệt binh - ND) là một thể chế hỗn hợp, thoái hóa đột ngột thành chuyên chế. Do những nguyên nhân cá biệt, Nhà nước này tan rã trước khi hình thành như một đứa trẻ chết ở tuổi vị thành niên. Cuộc phế truất của vua Tarquin (xem chú thích số 35 - ND) chính là giai đoạn hình thành nền cộng hòa. Nhưng ngay từ đầu nền cộng hòa chưa mang một hình thức cố định, vì sự nghiệp mới thực hiện nửa vời, chỉ xóa bỏ tầng lớp quí tộc Patriciat mà thôi. Làm như thế tầng lớp quí tộc truyền đời vẫn tồn tại, đó là thế lực tồi tệ nhất, đối lập với nền dân chủ. Cho nên hình thức chính phủ La Mã vẫn bấp bênh, không khẳng định dứt khoát. Sau này Machiavel đã chứng minh rằng nền dân chủ La Mã chỉ dừng lại ở việc thiết lập chế dộ hộ dân quan "tribum". Chỉ đến lúc đó mới có một chính phủ thực sự với một nền dân chủ thực sự. Dân chúng chẳng những là người nắm quyền lực tối cao mà còn là cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, nghị viện chỉ là một cơ quan thứ cấp để điều hoà và tập trung việc cai trị; các quan chấp chính "Consul" dù là nhà quí tộc, hay vị pháp quan nhất đẳng hay bậc tướng lĩnh cao cấp trong thời chiến đi nữa, cũng chỉ là những nguời chủ trì hội nghị nhân dân La Mã mà thôi. Thời kỳ đó, người ta thấy chính phủ La Mã thiên hướng khá mạnh sang thể chế quí tộc. Tầng lớp quí tộc patriciat bị xoá bỏ rồi, lớp quí tộc còn lại không ở trong hàng ngũ quan viên patriciens như ở Venise và Gêne. Nhưng trong cơ cấu nghị viện gồm có quan viên quí tộc patriciens và quan viên bình dân "Plébiens". Ngay các vi hộ dân quan tribuns khi đã đoạt lấy quyền cai trị, dù họ được gọi là gì đi nữa, họ vẫn cai trị theo lợi ích cuả nhân dân. Đó là một nền cai trị theo thể chế quí tộc.
    Việc giải tán chính phủ có thể xảy ra trong hai trường hợp: Thứ nhất là khi người cầm đầu chính phủ không cai trị theo pháp luật, mà lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Lúc đó có sự thay đổi rõ rệt; không phải chính phủ, mà là quốc gia tự siết chặt lại. Tôi muốn nói là quốc gia lớn tan biến, hình thành một quốc gia khác trong quốc gia cũ, chỉ gồm các nhân viên chính phủ mà thôi. Trước mặt nhân dân chỉ còn lại ông chủ và kẻ độc tài. Thế là sau khi chính phủ cố cưỡng đoạt mất quyền lực tối cao, thì công ước (pacte) xã hội bị phá bỏ; mọi công dân trở lại với quyền tự do thiên nhiên của họ. Họ bị cưỡng bức mà phải phục tùng, chứ không phục tùng vì nghĩa vụ.
    Thứ hai, cùng trường hợp tương tự như trên, các thành viên chính phủ thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ (đáng lẽ họ phải thực hiện quyền hành một cách tập thể). Đây không phải chỉ là việc vi phạm pháp luật một cách giản đơn; mà nó còn gây ra lộn xộn lớn. Có bao nhiêu pháp quan thì thành ra bấy nhiêu ông thủ tướng. Cả quốc gia cũng như chính phủ bị chia nhỏ, bị tan rã, hoặc thay hình đổi dạng.
    Tình trạng quốc gia tan rã, cũng như tình trạng chính phủ lạm quyền đều được gọi là vô chính phủ (anarchie). Nền dân chủ mà thoái hóa thì gọi là "chế độ quần chúng loạn xạ" (ochlocratie), chính phủ quí tộc thoái hoá gọi là "chế độ quả đầu, đại tộc trị" (oligarchie). Tôi xin nói thêm : chế độ quân chủ thoái hóa thì thành ra "chế độ bạo chúa" (tyranie). Nhưng thuật ngữ cuối cùng này còn hơi mơ hồ, cần được giải thích.
    Khi trong nền cai trị quí tộc có hiện tượng lạm dụng; nảy sinh các cuộc nội chiến, rồi thiết lập chế độ "tam quan chấp chính" (Triumsvirat), thì ba ông Sylla, Jules César và Auguste trở thành ba vị hoàng đế thật sự. Cuối cùng nền chuyên chế cuả Tibère, nhà nước La Mã tan rã.
    Lịch sử La Mã không phủ định, mà củng cố những điều tôi đã trình bày trên. Theo nghĩa thông thường, bạo chúa là một ông vua cai trị bằng bạo lực, bất chấp cả công lý và pháp luật. Định nghĩa thật chính xác thì bạo chúa là một cá nhân tự choán lấy quyền hành của các ông vua mà thực ra hắn không có quyền ấy. Người Hy Lạp hiểu hai tiếng bạo chúa là kẻ độc tài, kẻ độc tài ấy có thể là tốt hoặc xấu nhưng pháp luật không trao quyền cho mà tự choán lấy quyền [11*].
    Vậy bạo chúa là đồng nghĩa với "kẻ thoán đoạt" .
    Muốn đặt tên khác nhau cho sự việc khác nhau, ta gọi kẻ thoán đoạt ngôi vua là bạo chúa (tyran) và kẻ thoán đoạt quyền lực tối cao của nhân dân là tên độc tài, kẻ chuyên chế (despota) . Bạo chúa là người can thiệp tùy tiện vào pháp luật rồi cai tri theo pháp luật. Tên độc tài (hoặc chuyên chế) thì giẫm đạp hẳn lên pháp luật. Như vậy, bạo chúa không nhất định là chuyên chế, mà chuyên chế thì bao giờ cũng là bạo chúa.
    Aristote trong sách "Đạo lý nicôm", tập 8, trang 10 đã phân biệt bạo chúa với nhà vua. Bạo chúa vì mình mà cai trị , vua thì cai trị vì lợi ích thần dân. Ngoài ra các tác giả Hy Lạp còn định nghĩa "bạo chúa" một cách khác; như Senophon, trong sách Hiéron (bàn về bạo chúa) cũng dựa theo sự phân biệt cuả Aristote nhưng lại nói rằng từ khi khai thiên lập địa đã có nhiều vua chứ không phải chỉ có một vua mà thôi.
    [11*].Omnes enim et habentur et ducultur tyrani qui protestate utuntur perpetua in ea civitate quoe libertate usa est (Corn.Nep.in Mitiad n.8) (Những kẻ tự xưng và bị gọi là độc tài là kẻ cố tình nắm quyền trong nước mãi mãi để hứng thú tự do cho mình - Coocneli Nepot, bài số 8).
  4. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    11. Cặ THỏằ, CHÍNH TRỏằS SUY VONG
    Trên kia 'Ê trơnh bày cĂi dỏằ'c thoĂi hoĂ không trĂnh khỏằi cỏằĐa nhỏằng chưnh phỏằĐ 'ặỏằÊc tỏằ. chỏằâc khĂ nhỏƠt. Nỏu Sparte và La MÊ 'Ê phỏÊi suy vong thơ còn có quỏằ'c gia nào hy vỏằng sỏẵ tỏằ"n tỏĂi vânh viỏằ.n. Muỏằ'n có thành quỏÊ, xin 'ỏằông màng 'ỏn nhỏằng 'iỏằu không làm nỏằ.i. Xin chỏằ> tỏằ lỏằôa phỏằ?nh mơnh rỏng công viỏằ?c nhÂn tỏĂo cỏằĐa ta có sỏằâc bỏằn vỏằng nhặ công trơnh tỏĂo hóa.
    CặĂ thỏằf chưnh trỏằi sinh ra, và mang ngay trong mơnh nó nhỏằng nguyên nhÂn cỏằĐa hỏằĐy diỏằ?t. Nhặng cặĂ thỏằf chưnh trỏằc là tĂc phỏâm cỏằĐa nghỏằ? thuỏưt nhÂn tỏĂo. Con ngặỏằi kâo dài 'ỏằi sỏằ'ng cỏằĐa Nhà nặỏằ>c theo ẵ muỏằ'n, bỏng cĂch tỏĂo cho Nhà nặỏằ>c mỏằTt cỏƠu trúc tỏằ't nhỏƠt. MỏằTt cỏƠu trúc tỏằ't nhỏƠt rỏằ"i câng có lúc tan rÊ, nhặng nó vỏôn bỏằn lÂu hặĂn cĂc cỏƠu trúc khĂc, nỏu không có mỏằTt sỏằ cỏằ' bỏƠt ngỏằ nào khiỏn nó phỏÊi suy vong trặỏằ>c kỏằ hỏĂn.
    Nguyên lẵ cỏằĐa cuỏằTc sỏằ'ng chưnh trỏằc tỏằ"n tỏĂi không do cĂc 'ỏĂo luỏưt mà do quyỏằn lỏưp phĂp.
    Luỏưt hôm qua không giỏằ'ng luỏưt hôm nay, nhặng nó cỏằâ 'ặỏằÊc mỏãc nhiên chỏƠp nhỏưn trong im lỏãng coi nhặ cặĂ quan quyỏằn lỏằc tỏằ'i cao vỏôn chuỏân y cĂc 'ỏĂo luỏưt câ mà hỏằ không hỏằĐy bỏằ. ĐÊ mỏằTt lỏĐn hỏằ ặa thưch nó thơ hỏằ cỏằâ ặa thưch mÊi cho 'ỏn lúc hỏằ muỏằ'n xoĂ bỏằ nó.
    TỏĂi sao ngặỏằi ta lỏĂi quĂ tôn trỏằng cĂc 'ỏĂo luỏưt câ nhặ vỏưy? Chưnh vơ cĂi lỏẵ 'Ê nói trên. Chỏằ? có tưnh ặu viỏằ?t cỏằĐa ẵ chư cỏằ. 'ỏĂi mỏằ>i giỏằ 'ặỏằÊc cĂc 'ỏĂo luỏưt lÂu bỏằn 'ỏn thỏ. Nỏu cặĂ quan quyỏằn lỏằc tỏằ'i cao qua cĂc thỏằi nỏằ'i tiỏp nhau không nhỏưn cĂc 'ỏĂo luỏưt ỏƠy là bỏằ. ưch, thơ hỏằ 'Ê xóa bỏằ chúng hàng nghơn lỏĐn rỏằ"i, do 'ó, cĂc 'ỏĂo luỏưt cỏằ. xặa không yỏu 'i mà còn 'ặỏằÊc thêm sỏằâc mỏĂnh ỏằY tỏƠt cỏÊ nhỏằng quỏằ'c gia có cỏƠu trúc tỏằ't. Đỏằc 'Ê suy vong mỏƠt rỏằ"i.
  5. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    11. Cặ THỏằ, CHÍNH TRỏằS SUY VONG
    Trên kia 'Ê trơnh bày cĂi dỏằ'c thoĂi hoĂ không trĂnh khỏằi cỏằĐa nhỏằng chưnh phỏằĐ 'ặỏằÊc tỏằ. chỏằâc khĂ nhỏƠt. Nỏu Sparte và La MÊ 'Ê phỏÊi suy vong thơ còn có quỏằ'c gia nào hy vỏằng sỏẵ tỏằ"n tỏĂi vânh viỏằ.n. Muỏằ'n có thành quỏÊ, xin 'ỏằông màng 'ỏn nhỏằng 'iỏằu không làm nỏằ.i. Xin chỏằ> tỏằ lỏằôa phỏằ?nh mơnh rỏng công viỏằ?c nhÂn tỏĂo cỏằĐa ta có sỏằâc bỏằn vỏằng nhặ công trơnh tỏĂo hóa.
    CặĂ thỏằf chưnh trỏằi sinh ra, và mang ngay trong mơnh nó nhỏằng nguyên nhÂn cỏằĐa hỏằĐy diỏằ?t. Nhặng cặĂ thỏằf chưnh trỏằc là tĂc phỏâm cỏằĐa nghỏằ? thuỏưt nhÂn tỏĂo. Con ngặỏằi kâo dài 'ỏằi sỏằ'ng cỏằĐa Nhà nặỏằ>c theo ẵ muỏằ'n, bỏng cĂch tỏĂo cho Nhà nặỏằ>c mỏằTt cỏƠu trúc tỏằ't nhỏƠt. MỏằTt cỏƠu trúc tỏằ't nhỏƠt rỏằ"i câng có lúc tan rÊ, nhặng nó vỏôn bỏằn lÂu hặĂn cĂc cỏƠu trúc khĂc, nỏu không có mỏằTt sỏằ cỏằ' bỏƠt ngỏằ nào khiỏn nó phỏÊi suy vong trặỏằ>c kỏằ hỏĂn.
    Nguyên lẵ cỏằĐa cuỏằTc sỏằ'ng chưnh trỏằc tỏằ"n tỏĂi không do cĂc 'ỏĂo luỏưt mà do quyỏằn lỏưp phĂp.
    Luỏưt hôm qua không giỏằ'ng luỏưt hôm nay, nhặng nó cỏằâ 'ặỏằÊc mỏãc nhiên chỏƠp nhỏưn trong im lỏãng coi nhặ cặĂ quan quyỏằn lỏằc tỏằ'i cao vỏôn chuỏân y cĂc 'ỏĂo luỏưt câ mà hỏằ không hỏằĐy bỏằ. ĐÊ mỏằTt lỏĐn hỏằ ặa thưch nó thơ hỏằ cỏằâ ặa thưch mÊi cho 'ỏn lúc hỏằ muỏằ'n xoĂ bỏằ nó.
    TỏĂi sao ngặỏằi ta lỏĂi quĂ tôn trỏằng cĂc 'ỏĂo luỏưt câ nhặ vỏưy? Chưnh vơ cĂi lỏẵ 'Ê nói trên. Chỏằ? có tưnh ặu viỏằ?t cỏằĐa ẵ chư cỏằ. 'ỏĂi mỏằ>i giỏằ 'ặỏằÊc cĂc 'ỏĂo luỏưt lÂu bỏằn 'ỏn thỏ. Nỏu cặĂ quan quyỏằn lỏằc tỏằ'i cao qua cĂc thỏằi nỏằ'i tiỏp nhau không nhỏưn cĂc 'ỏĂo luỏưt ỏƠy là bỏằ. ưch, thơ hỏằ 'Ê xóa bỏằ chúng hàng nghơn lỏĐn rỏằ"i, do 'ó, cĂc 'ỏĂo luỏưt cỏằ. xặa không yỏu 'i mà còn 'ặỏằÊc thêm sỏằâc mỏĂnh ỏằY tỏƠt cỏÊ nhỏằng quỏằ'c gia có cỏƠu trúc tỏằ't. Đỏằc 'Ê suy vong mỏƠt rỏằ"i.
  6. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    12. DUY TRÌ QUYỀN UY TỐI CAO NHƯ THẾ NÀO ?
    Cơ quan quyền lực tối cao không có sức mạnh nào ngoài quyền lực lập pháp, nên chỉ hoạt động bằng các đạo luật. Các đạo luật là hành vi hợp thức của ý chí chung; cho nên quyền lực tối cao chỉ có thể tác động khi dân chúng họp lại.
    Người ta sẽ bảo : Họp toàn dần ư? Kỳ quặc nhỉ!
    Vâng, đó là chuyện kỳ quặc ngày nay, chứ hai nghìn năm về trước, đó là chuyện bình thường.
    Vậy có phải ngày nay con người đã đổi tính chất rồi chăng? .
    Trong các sự kiện tinh thần, giới hạn của khả năng không hẹp như ta tưởng. Sự yếu đuối, những tật xấu, những thành kiến đã thu hẹp khả năng của chúng ta lại. Những tâm hồn thấp kém không hiểu nổi các vĩ nhân cũng như những người nô lệ hèn mọn nhe răng cười chế giễu khi nghe nói hai tiếng "Tự do".
    Có thể coi cái do người làm ra như một sự vật tự nó nảy sinh. Tôi không nói về những nền cộng hòa cổ xưa ở Hi Lạp, mà xin nói về nền cộng hòa La Mã. Đây là một quốc gia lớn. Thành phố La Mã là thành phố lớn. Cuộc kiểm kê cuối cùng cho biết La Mã có hơn bốn mươi vạn công dân cầm vũ khí; toàn đế quốc La Mã có trên một triệu công dân, chưa kể các thần dân ngoại kiều, phụ nữ, trẻ em và nô lệ.
    Thử tưởng tượng xem nếu thường xuyên hội họp toàn dân thủ đô La Mã và ngoại thành thì sẽ phiền toái biết bao! Thế mà ngày xưa toàn dân La Mã thường hội họp hàng tuần, có khi một tuần họp mấy lần nữa kia! Qua các cuộc họp này họ đã thực hiện quyền lực tối cao của dân chúng, và còn thực hiện một phần quyền lực của chính phủ nữa. Họ giải quyết một số công việc, luận bàn một số vấn đề . Trên quảng trường quốc gia toàn dân thường đóng những vai pháp quan hơn là những công dân.
    Lần ngược trở lên những thời đại xa xưa nhất của các dân tộc, ta thấy phần lớn các chính phủ, ngay cả chính phủ quân chủ, như dân tộc Macédoine, dân tộc Franc đều đã từng có lối họp toàn dân như thế.
    Dù sao, người ta không thể bác bỏ cách làm tốt đẹp này; nhờ nó mà giải quyết được mọi khó khăn. Từ hiện thực đến khả năng, tôi thấy hệ quả rõ ràng là tốt .
  7. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    12. DUY TRÌ QUYỀN UY TỐI CAO NHƯ THẾ NÀO ?
    Cơ quan quyền lực tối cao không có sức mạnh nào ngoài quyền lực lập pháp, nên chỉ hoạt động bằng các đạo luật. Các đạo luật là hành vi hợp thức của ý chí chung; cho nên quyền lực tối cao chỉ có thể tác động khi dân chúng họp lại.
    Người ta sẽ bảo : Họp toàn dần ư? Kỳ quặc nhỉ!
    Vâng, đó là chuyện kỳ quặc ngày nay, chứ hai nghìn năm về trước, đó là chuyện bình thường.
    Vậy có phải ngày nay con người đã đổi tính chất rồi chăng? .
    Trong các sự kiện tinh thần, giới hạn của khả năng không hẹp như ta tưởng. Sự yếu đuối, những tật xấu, những thành kiến đã thu hẹp khả năng của chúng ta lại. Những tâm hồn thấp kém không hiểu nổi các vĩ nhân cũng như những người nô lệ hèn mọn nhe răng cười chế giễu khi nghe nói hai tiếng "Tự do".
    Có thể coi cái do người làm ra như một sự vật tự nó nảy sinh. Tôi không nói về những nền cộng hòa cổ xưa ở Hi Lạp, mà xin nói về nền cộng hòa La Mã. Đây là một quốc gia lớn. Thành phố La Mã là thành phố lớn. Cuộc kiểm kê cuối cùng cho biết La Mã có hơn bốn mươi vạn công dân cầm vũ khí; toàn đế quốc La Mã có trên một triệu công dân, chưa kể các thần dân ngoại kiều, phụ nữ, trẻ em và nô lệ.
    Thử tưởng tượng xem nếu thường xuyên hội họp toàn dân thủ đô La Mã và ngoại thành thì sẽ phiền toái biết bao! Thế mà ngày xưa toàn dân La Mã thường hội họp hàng tuần, có khi một tuần họp mấy lần nữa kia! Qua các cuộc họp này họ đã thực hiện quyền lực tối cao của dân chúng, và còn thực hiện một phần quyền lực của chính phủ nữa. Họ giải quyết một số công việc, luận bàn một số vấn đề . Trên quảng trường quốc gia toàn dân thường đóng những vai pháp quan hơn là những công dân.
    Lần ngược trở lên những thời đại xa xưa nhất của các dân tộc, ta thấy phần lớn các chính phủ, ngay cả chính phủ quân chủ, như dân tộc Macédoine, dân tộc Franc đều đã từng có lối họp toàn dân như thế.
    Dù sao, người ta không thể bác bỏ cách làm tốt đẹp này; nhờ nó mà giải quyết được mọi khó khăn. Từ hiện thực đến khả năng, tôi thấy hệ quả rõ ràng là tốt .
  8. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    13. TIẾP THEO
    Nếu chỉ họp toàn dân một lần để qui định rõ hiến pháp rồi chuẩn y một cơ quan pháp luật thì chưa đủ. Nếu chỉ họp toàn dân để lập ra một chính phủ thường trực và bầu ra các vị pháp quan một lần là xong thì cũng chưa đủ. Phải có những hội nghị bất thường khi gặp việc cần bàn mà chưa dự kiến trước, lại cần phải có những cuộc họp định kỳ không ai được phép trì hoãn hoặc xóa bỏ; cứ đến ngày, đến hạn là toàn dân về họp, do pháp luật triệu tập, chứ không cần một hình thức thủ tục triệu tập nào cả.
    Nhưng ngoài những phiên họp hợp pháp như trên, các cuộc họp khác không do người có thầm quyền triệu tập theo đúng thể thức qui định thì đều là bất hợp pháp, dù có bàn ra chuyện gì cũng chỉ coi bằng không; bởi vì ngay việc quyết đinh họp hay không họp cũng phải toát ra từ luật.
    Còn như các cuộc họp đinh kỳ nên thưa, nên nhặt như thế nào thì tuỳ theo tình huống cụ thể, chứ không ai định ra một qui tắc nào nhất định được. Tuy nhiên, có thể nói một cách khái quát ràng chính phủ càng mạnh thì vai trò quyền lực tối cao của nhân dân càng phải biểu hiện thường xuyên.
    Có người sẽ hỏi tôi: Họp toàn dân như thế thì chỉ làm tốt được trong một thành phố thôi chứ? Nếu quốc gia có nhiều thành phố thì làm thế nào ? Hay là chia nhỏ quyền uy tối cao ra? Hay là, tập trung nó vào một thành phố chính, và để các thành phố khác đóng vai trò phụ đới ?
    Xin trả lời: Không nên làm như thế.
    Trước hết, quyền uy tối cao là duy nhất: nếu chia nhỏ ra nó sẽ bị phá hủy. Vả lại thành phố này không thể lệ thuộc vào thành phố khác; cũng như quốc gia này không thể lệ thuộc vào quốc gia khác một cách hợp pháp được. Thực chất của một cơ thể chính trị là ở sự hài hòa giữa phục tùng và tự do; chữ "Công dân" bao hàm sự thống nhất giữa hai khái niệm "thần dân" và "quyền lực tối cao" .
    Lại xin trả lời thêm rằng: nhập nhiều thành phố vào một thành bang là điều không hay. Như vậy tự nhiên sẽ có nhiều bất lợi. Không nên lấy sự lạm dụng của nước lớn dể phản bác sự lạm dụng của nước nhỏ. Nhưng làm thế nào để nước nhỏ đủ sức chống lại nước lớn? Làm như ngày xưa các thành thị Hi Lạp đã chống lại các vua lớn, và như Hà Lan, Thụy Sĩ gần đây kháng cự triều đình Áo vậy.
    Tuy nhiên, nếu có thể dứt khoát qui định biên giới của quốc gia thì còn có một biện pháp nữa là đừng quan tâm nhiều dân thủ đô, để chính phủ luân phiên đóng đô ở mỗi thành phố và lần lượt tập hợp quốc dân về họp quanh mỗi thành phố đó.
    Hãy làm cho dân cư đông đúc lên, để dân chúng khắp nơi đều hưởng như nhau. Hãy đưa lại khắp nơi sự sống phồn vinh; như thế quốc gia vừa mạnh vừa được cai trị tốt. Xin nhớ rằng hiện nay thành phố giàu sang là nhờ bóc lột nông thôn, mỗi bức tường ở thành phố đều xây bằng mảnh vụn của các ngôi nhà đổ sụp của lòng dân. Mỗi lần thấy cất lâu đài ở thủ đô, tôi lại tưởng mình đang nhìn cả nước biến thành những túp lều nghèo khổ.
  9. Roseline

    Roseline Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/10/2002
    Bài viết:
    259
    Đã được thích:
    1
    13. TIẾP THEO
    Nếu chỉ họp toàn dân một lần để qui định rõ hiến pháp rồi chuẩn y một cơ quan pháp luật thì chưa đủ. Nếu chỉ họp toàn dân để lập ra một chính phủ thường trực và bầu ra các vị pháp quan một lần là xong thì cũng chưa đủ. Phải có những hội nghị bất thường khi gặp việc cần bàn mà chưa dự kiến trước, lại cần phải có những cuộc họp định kỳ không ai được phép trì hoãn hoặc xóa bỏ; cứ đến ngày, đến hạn là toàn dân về họp, do pháp luật triệu tập, chứ không cần một hình thức thủ tục triệu tập nào cả.
    Nhưng ngoài những phiên họp hợp pháp như trên, các cuộc họp khác không do người có thầm quyền triệu tập theo đúng thể thức qui định thì đều là bất hợp pháp, dù có bàn ra chuyện gì cũng chỉ coi bằng không; bởi vì ngay việc quyết đinh họp hay không họp cũng phải toát ra từ luật.
    Còn như các cuộc họp đinh kỳ nên thưa, nên nhặt như thế nào thì tuỳ theo tình huống cụ thể, chứ không ai định ra một qui tắc nào nhất định được. Tuy nhiên, có thể nói một cách khái quát ràng chính phủ càng mạnh thì vai trò quyền lực tối cao của nhân dân càng phải biểu hiện thường xuyên.
    Có người sẽ hỏi tôi: Họp toàn dân như thế thì chỉ làm tốt được trong một thành phố thôi chứ? Nếu quốc gia có nhiều thành phố thì làm thế nào ? Hay là chia nhỏ quyền uy tối cao ra? Hay là, tập trung nó vào một thành phố chính, và để các thành phố khác đóng vai trò phụ đới ?
    Xin trả lời: Không nên làm như thế.
    Trước hết, quyền uy tối cao là duy nhất: nếu chia nhỏ ra nó sẽ bị phá hủy. Vả lại thành phố này không thể lệ thuộc vào thành phố khác; cũng như quốc gia này không thể lệ thuộc vào quốc gia khác một cách hợp pháp được. Thực chất của một cơ thể chính trị là ở sự hài hòa giữa phục tùng và tự do; chữ "Công dân" bao hàm sự thống nhất giữa hai khái niệm "thần dân" và "quyền lực tối cao" .
    Lại xin trả lời thêm rằng: nhập nhiều thành phố vào một thành bang là điều không hay. Như vậy tự nhiên sẽ có nhiều bất lợi. Không nên lấy sự lạm dụng của nước lớn dể phản bác sự lạm dụng của nước nhỏ. Nhưng làm thế nào để nước nhỏ đủ sức chống lại nước lớn? Làm như ngày xưa các thành thị Hi Lạp đã chống lại các vua lớn, và như Hà Lan, Thụy Sĩ gần đây kháng cự triều đình Áo vậy.
    Tuy nhiên, nếu có thể dứt khoát qui định biên giới của quốc gia thì còn có một biện pháp nữa là đừng quan tâm nhiều dân thủ đô, để chính phủ luân phiên đóng đô ở mỗi thành phố và lần lượt tập hợp quốc dân về họp quanh mỗi thành phố đó.
    Hãy làm cho dân cư đông đúc lên, để dân chúng khắp nơi đều hưởng như nhau. Hãy đưa lại khắp nơi sự sống phồn vinh; như thế quốc gia vừa mạnh vừa được cai trị tốt. Xin nhớ rằng hiện nay thành phố giàu sang là nhờ bóc lột nông thôn, mỗi bức tường ở thành phố đều xây bằng mảnh vụn của các ngôi nhà đổ sụp của lòng dân. Mỗi lần thấy cất lâu đài ở thủ đô, tôi lại tưởng mình đang nhìn cả nước biến thành những túp lều nghèo khổ.
  10. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    14. VÀ LẠI TIẾP THEO
    Khi dân chúng được tập hợp lại để thực hiện chức năng cơ quan quyền lực tối cao thì mọi thẩm quyền của chính phủ đều phải tạm đình chỉ; quyền hành pháp tạm gác lại; nhân cách của người công dân thấp nhất cũng thiêng liêng, bất khả xâm phạm như nhân cách của vi pháp quan cao cấp. Nhân dân trước đây được đại diện, bây giờ đã có mặt trên quảng trường, thì không cần ai đại diện cho họ nữa. Phần lớn các tranh luận huyên náo trong hội nghị toàn dân La Mã đều coi thường hoặc không biết đến nguyên tắc đại diện. Trong hội nghi toàn dân, các vị chấp chính quan chỉ là người chủ tọa cho dân chúng bàn cãi; các hộ dân quan chỉ là những diễn giả bình thường[12*]. Ở đây viện nguyên lão không có ý nghĩa gì cả.
    Trong thời gian hội nghị toàn dân, người cầm đầu chính phủ thừa nhận hoặc buộc phải thừa nhận một thượng cấp hiện hữu.
    Đây là thời điểm đáng lo nhất của vị nguyên thủ. Hội nghị toàn dân là dây cương cho cơ chế chính trị, là bộ hãm của chính phủ, đó là thời gian lo lắng của các thủ tướng, cho nên họ thận trọng, họ tranh biện, họ gây khó khăn, họ hứa hẹn, không từ một thủ đoạn nào để làm cho các công dân phải chán nản. Nếu các công dân trong hội nghị toàn dân tiếc lời nhẹ dạ, thích nhàn hạ hơn là tự do , thì họ sẽ không chống nổi sự cố gắng gấp bội của chính phủ; lúc đó kháng lực của chính phủ sẽ tăng lên không ngừng, quyền uy tối cao của toàn dân tắt dần; hầu hết các thành bang sẽ đổ sụp và suy vong trước kỳ họp.
    Nhưng đứng giữa quyền uy tối cao của toàn dân là sự độc đoán của chính phủ, thường khi có xen vào một quyền lực trung gian mà ta phải bàn đến.
    15. ĐẠI BIỂU HOẶC ĐẠI DIỆN
    Đến một giai đoạn nhất đinh, công dân không coi việc phục vụ công cộng là việc chính của mình nữa. Họ thích đem tiền ra thuê người khác làm công vụ thay mình. Đó là lúc nhà nước suy thoái. Nếu phải ra trận, họ thuê người đi lính thay. Nếu phải tham dự hội đồng, họ chọn người đi họp thay. Cuối cùng dựa vào tiền bạc và tính lười biếng, họ sẽ có các đội quân để khống chế tổ quốc và có các đại diện để bán tổ quốc.
    Sự rối rắm trong thương mại và nghệ thuật, lòng hám lợi, tính mềm yếu và thích tiện lợi đã chuyển các nghĩa vụ cá nhân thành tiền bạc. Người ta bỏ ra một phần thu nhập để lấy lại nhiều hơn . Hãy bỏ tiền ra, anh sẽ có xiềng xích để trói buộc người! Cái từ "Tài chính" đồng nghĩa với từ "Nô lệ" đấy ? Ngày xưa trong các thành bang người ta không biết đến từ này.
    Trong một quốc gia hoàn toàn tự do, mọi công dân làm đủ mọi việc với bàn tay của chính mình, và không dùng đến tiền bạc đẽ thuê người khác làm thay. Chẳng những không thuê mướn, họ còn bỏ tiền ra để được tự mình tham gia làm nghĩa vụ.
    Tôi đang đi khá xa ý kiến chung. Tôi cho rằng hình thức diêu dịch ngày xưa ít trái ngược với tự do hơn là hình thức mua bán, thuê mướn ngày nay. Quốc gia càng được tổ chức tốt, người công dân càng quan tâm đến việc chung hơn là việc riêng của họ (ND). Vả lại việc riêng cũng chẳng có bao lăm, vì phúc lợi công cộng đã bảo đảm phần lớn cuộc sống của mỗi cá nhân, nên người công dân không phải lo toan mấy tí cho cá nhân mình.
    Trong một thành bang được cai trị tốt, người ta hồ hởi bay đến hội nghị toàn dân; trái lại trong các thành bang cai trị yếu, người ta không muốn cất bước đi họp, vì họ chẳng thích thú gì, chưa họp họ đã biết chắc rằng ý chí chung của nhân dân không được ai tôn trọng. Như vậy, trong thành bang xấu, mọi người đều bị bắt vào việc riêng để chăm lo lấy bản thân mình.
    Luật tốt khiến cho các hội nghi toàn dân bàn nên việc tốt. Luật xấu thì hội nghị toàn dân chỉ dẫn đến chỗ tồi tệ.
    Một khi có người bàn về việc nước mà nói: "Mặc kệ nó, can gì đến tôi", thì lúc đó có thể coi là đất nước không còn nữa.
    Lòng yêu nước nguội dần, lợi ích cá nhân nhao lên, quốc gia bị dàn trải ra, các cuộc chinh phạt, các vụ nhũng lạm của chính phủ, tất cả những cái đó khiến cho người ta nghĩ đến việc chỉ định đại biểu thay mặt dân chúng để dự các hội nghi quốc gia. Ở một số nước, người ta gọi lớp đại biểu dân chúng là "thứ dân". Như vậy lợi ích tư nhân được đặt lên hàng đầu và hàng hai, lợi ích công cộng bị đẩy xuống hàng thứ ba.
    Chủ quyền tối cao của toàn dân là không thể dùng người đại diện được, do đó nó cũng không thể bị xóa bỏ; nó nằm ngay trong ý chí của toàn dân, là ý chí chung thì không ai nói thay được. Nó là thế này, hay là thế khác chứ không chế ở dạng trung gian. Các đại diện nhàn dân không phải và không thể là người thay mặt nhân dân được; họ chỉ có thể là những ủy viên chấp hành, chứ không thể thay mặt nhân dân để kết luận một vấn đề gì dứt khoát. Mọi đạo luật mà dân chúng chưa trực tiếp thông qua đều vô giá trị, không thể gọi là luật được.
    Nhân dân Anh tưởng mình là tự do; thật ra họ lầm to. Họ chỉ tự do trong khi đi bầu các đại biểu nghị viện mà thôi; bầu xong đại biểu họ trở lại là nô lệ, không còn là cái thá gì nữa. Trong những ngày tự do ngắn ngủi đó, cái quyền tự do họ được dùng thật xứng với cái mất tự do phải chịu sau đó.
    Tư tưởng "đại biểu'' là tư tưởng hiện đại, nó nảy sinh từ chính phủ phong kiến, một thứ chính phủ bất công, mơ hồ, trong đó tính cách con người bị thoái hóa, danh hiệu con người bị xỉ vả.
    Trong các nền cộng hòa cổ xưa, ngay chế độ quí tộc cũng thế, không bao giờ nhân dân phải dùng đại biểu; người ta không hề biết đến cái từ ngữ "đại biểu" ấy.
    Ở La Mã, các hộ dân quan được coi trọng một cách thiêng liêng. Không ai nghĩ rằng họ dám xâm phạm chức năng của dân chúng. Ngay trong đám đông ít người có thể nhận mặt họ, họ cũng không bao giờ bỏ qua một cuộc biểu quyết toàn dân. Chỉ đến thời anh em Gracques (55) người ta mới phê phán các hộ dân quan. Thời ấy dân chúng thường huyên náo , gây lúng túng cho các hộ dân quan, có khi một số công dân leo lên cả mái nhà để bỏ phiếu cho bằng được.
    Ở đâu luật pháp và tự do được đặt lên trên hết thì ở đấy không gặp trở ngại gì, mọi việc đều diễn ra đúng mức. Ở những nơi này, nhân dân có thể để cho các võ quan cận vệ làm những việc mà hộ dân quan không dám làm, vì dân chúng không sợ rằng các võ quan đó sẽ đại diện họ.
    Tuy nhiên, cũng có lúc các hộ dân quan đại diện cho dân chúng. Muốn hiểu điều này chỉ cần liên tưởng đến trường hợp chính phủ đại diện cho cơ quan quyền lực tối cao.
    Luật chỉ là sự công bố của ý chí toàn dân, cho nên trong quyền lực lập pháp không ai có thể đứng ra thay mặt toàn dân để làm ra luật. Nhưng trong quyền lực hành pháp thì có thể và phải có người đại diện cho dân chúng: vì quyền hành pháp chỉ là sự ứng dụng luật mà thôi.
    Xem thế đủ biết rằng, nếu phân tích kỹ mọi việc, ta sẽ thấy rất ít quốc gia có luật chân chính. Thời cổ La Mã, các hộ dân quan không có quyền hành pháp, không bao giờ được đại diện cho dân chúng với quyền hạn của chức vụ mình. Chỉ khi nào hộ dân quan nắm lấy một phần chức vụ của chủ tịch viện nguyên lão thì mới có thể đại diện cho dân .
    Ở Hi Lạp, việc nào dân chúng phải giải quyết thì dân chúng tự làm lấy hết. Dân thường họp luôn trên quảng trường. Ở đây khí hậu dịu mát, con người không tham lam, các nô lệ làm việc của họ; việc chính của công dân là thực hiện tự do của mình, không có lợi thế ngang nhau làm sao nô lệ và công dân có thể hưởng quyền ngang nhau được ?
    Nước nào khí hậu khắc nghiệt thì phải có nhiều nhu cầu hơn[13*]. Ở xứ lạnh mỗi năm mất sáu tháng không dùng được quảng trường để hội họp. Tiếng nói khàn khàn của dân xứ lạnh khó mà vang lên ở ngoài trời cho nên người ta quan tâm nhiều đến thu nhập hơn là tự do, người ta sợ túng thiếu hơn là sợ cảnh nô lệ.
    Thế nào? chỉ có thể duy trì được tự do nhờ vào sự hầu hạ của nô lệ ư? Có lẽ thế. Hai cái thái quá gặp nhau mà! Trên đời này cái gì mà không có trở ngại; và xã hội dân sự là nơi có nhiều trở ngại nhất. Có những cảnh ngộ mà người ta muốn bảo vệ tự do của mình thì phải xâm phạm tự do của người khác. Người công dân được hoàn toàn tự do thì người nô lệ phải hoàn toàn nô lệ. Đó là cảnh huống của thành bang Sparte. Ngày nay, ở các dân tộc hiện dại, các bạn không có nô lệ thì các bạn phải làm nô lệ; các bạn phải đem tự do của mình bù vào cho người nô lệ mà bạn thiếu. Khoe khoang cái hay của các bạn ngày nay là không dùng nô lệ cũng chẳng ích gì; tôi thấy đó chẳng phải là nhân đạo mà là hèn nhát!
    Nói như trên, không phải tôi nghĩ rằng cần có người nô lệ, hoặc tôi cho chế độ nô lệ là thỏa đáng đâu. Tôi đã từng chứng minh điều ngược lại. Ở đây tôi chỉ phân tích vì sao các dân tộc hiện đại tưởng mình là dân tộc tự do thì có chế độ đại diện, mà các dân tộc cổ xưa lại không cần đến người đại diện. Dù sao, khi một dân tộc tự đặt cho mình là những người đại diện thì dân tộc ấy đã hết tự do, không còn tự do nữa.
    Xem xét kỹ các vấn đề trên, tôi thấy rằng từ nay về sau, muốn cho cơ quan quyền lực phát huy được tác dụng thì thành bang phải thật là nhỏ bé. Nhưng nếu thành bang quá nhỏ thì nó sẽ bị thôn tính mất thôi.
    Sau đây tôi sẽ trình bày[14*] muốn kết hợp sức mạnh bề ngoài của một dân tộc lớn với chính sách dễ dãi và trật tự hoàn hảo của một quốc gia nhỏ bé thì phải làm như thế nào.

Chia sẻ trang này