1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bàn về lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi V_Kid, 23/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ttth3010

    ttth3010 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/11/2006
    Bài viết:
    104
    Đã được thích:
    0
    Lạy bố cả nón . Thế nếu thằng Cam nó cũng nói vậy về Nam Bộ thì bố thấy thế lào
  2. cupid_in_love

    cupid_in_love Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Tớ được biết thế này, thời Hùng Vương thực chát chỉ là văn minh BỘ LẠC vẫn còn sơ khai, chưa phát triển thành chế độ phong kiến cho nên đương nhiên kho thể gọi là " nước " đc, thực chất Việt Nam hiện đại ngày nay gồm 64 dân tộc "anh em"
    mà chủ đạo dân tộc KINH - tức dân tộc Việt cổ( như dân Hán bên TQ )-Ngày xưa đất đai dân tộc Việt( tạm hiểu theo nghĩa hẹp là ng Kinh) Ko như bây jờ, mà sau này chủ yếu nhờ các đời vua phong kiến các chiều Lý, Trần, Lê, Nguyễn liên tục "mở mang bờ cõi" lên phía Bắc,xuống phía Nam-mà đặc biệt là xuống phía Nam.Từ miền trung trở vào cổ xưa là thuộc 2 "quốc gia" lần lượt là Chiêm Thành và Chân Lạp của ng Khơme cổ.
    sau đó các triều đại Phong kiến nc ta thống nhất thành một dải hình chữ S như bây giờ
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Có đến cả chục năm nay, trên Internet tiếng Việt, có thuyết "di cư
    từ bắc xuống Nam" để viết lại lịch sử ViệtNam trước và sau thời
    các vua Hùng. Thuyết này cho rằng đất ViệtNam ngày xưa vốn
    không có người, hoặc giống man di nào đó không phải tổ tiên
    người Kinh và các dân tộc bây giờ. Thế rồi các dân tộc ViệtNam
    theo vua Hùng bị dân Hán dồn đuổi mà tràn về ở vùng sông
    Hồng.
    Thuyết này hoàn toàn bịa đặt không có căn cứ, và nhất là trái với
    khảo cổ đã cho biết vùng Đông Nam Á đã có người từ rất lâu rồi,
    và họ có văn hoá không man di so với người ở đất Trung Hoa
    ngày xưa. Thuyết này cũng không nói được sau khi người từ
    miền bắc di cư xuống, thì người bản xứ man di đó đi đâu?
    Về tinh thần, thuyết này phân biệt chủng tộc, kỳ thị người miền
    nam, nâng người miền bắc lên tận mây xanh, mà quên mất gốc
    tổ tiên thật của chúng ta chính là người bản xứ ở miền nam của
    các dân Trung Hoa. Thuyết này chỉ tuyên truyền trong những
    website tiếng Việt, mà hoàn toàn không có trong những website
    tiếng Hán. Chả lẽ người Việt ta tự khinh miệt phỉ báng mình và
    ông bà mình, tôn người phương bắc làm tổ tiên?
    Tôi đã nhiều lần phản đối thuyết này, lúc thì nêu ra những vô lý
    không có bằng chứng của nó, lúc thì đề nghị có cách hạn chế
    những ý tưởng xấu này được tuyên truyền bằng nhiều cách,
    nhưng "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng." Quần chúng
    muốn để ai dắt mũi thì cách mạng sẽ đi về hướng đó. Nếu các
    Mod để cho nọc độc này tự do nảy nở ở đây, thì các bạn cũng
    nên tự đứng lên bảo vệ ông bà mình, tẩy chay thuyết độc hại này.
  4. cupid_in_love

    cupid_in_love Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Tôi thật sự ko hiểu bạn Codep ở trên nói "tư tưởng độc hại" rồi "phân biệt chủng tộc" là ntn vậy? hình như bạn vẫn chưa hiểu vấn đề lắm thì phải?thứ nhất đây là diễn đàn cho tất cả mọi ng chia sẻ, cùng thảo luận một vấn đề nào đó mà bạn nói cú như là làm trính trị thế?quay lại vấn đề "chuyên môn" mình xin nhắc lại thế này, nếu bạn đã từng học môn Lịch sử thời PT thì bạn để ý sẽ có đoạn đại ý là như vầy: " vua Lý thánh Tông nhiều lần đem quân chinh phạt Chiêm Thành, Chân Lạp( Chính là KV miền Nam ngày nay), các đời vua nhà Lý và cả các chế độ phong kiến khác (sau này nhà Nguyễn )đã lần lượt chinh phục hoàn toàn, mở mang bờ cõi xuống hết cực Nam đất nước như ngày nay. Cái jì đã là Lịch sử thì mãi ko bao giò thay đổi, chỉ có điều ta hiểu nó theo góc độ nào mà thôi
  5. cupid_in_love

    cupid_in_love Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Còn về vấn đề bạn nói là " phân biệt chủng tộc" thì hình như hơi quá. Mình đã nói và rõ nc ta ngày nay bao gồm 64 dân tộc mà mỗi dân tộc đều có thể có ngôn ngữ, văn hoá.. riêng-, thậm chí có lãnh địa riêng,lãnh thổ riêng (VD vua VàngPao- dân tộc Mông ở Tây Bắc; Dân tộc Khơme, Champa ở Chânlạp, Chiêm thành phía Nam-vị vua cuối cùng của Chiêm thành là Chế bồng Nga) đấy là trc năm 1945,còn sau này Bác Hồ và Đảng luôn chủ chương ĐOÀN KẾT các dân tộc anh em để làm Cách mạng dành độc lập,tự do, thống nhất đất nước( cả về lãnh thổ lẫn yếu tố con người) đúng ko? Cái gì thuộc về Lịch Sử thì mãi không bao giờ thay đổ,có điều ta hiểu, ta nhận định theo góc độ nào thôi
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Các điều các bạn nói đều đúng, không ai bàn ngược lại, và đã
    có bằng chứng rồi .
    Điều tôi nói đây là giả thuyết người từ Trường Giang xuống
    Sông Hồng trước thời Hai Bà Trưng kia. Thuyết này gọi người
    vốn ở Sông Hồng là man di, và không phải tổ tiên người Việt
    ngày nay. Vài điều trong thuyết tổ tiên người Việt là người
    phương bắc còn có:
    1- Vua Hùng không ở Vĩnh Phú mà ở Quảng Đông
    2- An Dương Vương là người Hán, con cháu vua Thục .
    3- Nước ViệtNam là Lĩnh Nam (Quảng đông là chính, còn
    thêm vài phần các tỉnh xung quanh, nhất là tỉnh Quảng Tây)
    4- Các vua Trần là người Hán
    Các bạn thấy tôi bàn có tính chất chính trị, thì đó là tuỳ các bạn .
    Còn tôi, tôi bảo vệ tổ tiên của tôi, không cần biết đó là chính trị
    chính em gì cả. Tôi không muốn mình bị làm nhục mà ngồi im.
    Gọi tổ tiên tôi là man di thì nghe cũng tức, nhưng nói ông bà tôi
    không phải người bản xứ thì là ai? Là người gốc Trường Giang?
  7. cupid_in_love

    cupid_in_love Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy bạn lịa hơi mất bình tĩnh quá rồi, chẳng có ai làm nhục ai ở đây cả. như chính bạn đã nói đấy chỉ là " có thuyết nói" mà đã là "thuyết" thì kho phải chính Sử, ko có căn cứ chắc chắn vậy ko cần phải bức xúc quá làm jì, tất cả chỉ để biết thêm kiến thức thôi. Còn về vấn đề dân tộc này xuất phát từ đâu, nguồn gốc từ đâu mà ra thì ko chỉ VN mà tất cả các Quốc gia trên cái Quả Đất này với hàng ngàn dân tộc dều cùng sinh sống với nhau đo thôi.Các nhà nghiên cứu về Chủng tộc, về nhân chủng học, Lịch sử đều đã biết từ lâu rằng chẳng có Quốc gia nào là Thuần Chủng với chỉ Một Dân Tộc , mà nguồn cội từ nguyên thuỷ vẫn là sự Di Cư, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ nơi sinh sống khó sang nơi sinh sống dễ hơn, từ nơi ít "thức ăn"đến nơi nhiều "thức ăn", thậm chí sáp nhập với nhau- xã hội nguyên thuỷ họ ko suy nghĩ phức tạp như chúng ta đâu- từ đó dần dần hình thành nên các bộ tộc lớn hơn,- cội nguồn của một " đất nước", một xã hội nguyên thuỷ..Vậy cho nên chẳng có jì phải bức xúc về vấn đề ai là tổ tiên của ai cả.-Đơn giản bởi vì có thể tất cả chúng ta đều cùng một tổ tiên, mà cũng có thể ko phải, Cái địa giới hay Biên giới của các Quốc gia như ngày nay chẳng nói lên điều jì, đơn giản - ''"xã hội nguyên thuỷ và người nguyên thuỷ họ ko suy nghĩ phức tạp như chúng ta" cho nên có thể tất cả chúng ta cùng chung tổ tiên mà cũng có thể ko phải, mà điều đó chẳng ai biết chắc đc, Bởi vì để đến như ngày nay là cả quá trình nhiều ngàn năm phân hoá - xáp nhập, bao nhiêu biến cố, bao nhiêu nền văn minh đã phát triên rồi tàn lụi.. rồi cứ như vậy... đến ngày nay
  8. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt
    Được khơi nguồn nhân nghe hoà thượng Thích Chơn Thành nhắc ?oTổ quốc chúng ta từ Động Đình Hồ? trong đạo từ phát thanh trên đài Little Saigon Radio vào tháng 5.2007).

    Hồ Động Đình ở đâu?
    Ở miền Nam sông Dương Tử, hồ Động Đình họp thành bởi nhiều hồ lớn. Mỗi năm vào mùa lũ nước sông Dương Tử chảy vào hồ, làm tăng diện tích hồ từ 2.800 km² đến 20.000 km². Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, rộng 1 km nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến ?oBát cảnh Tiêu Tương? của vùng Giang Nam.
    Từ miền Hoa Bắc sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc nổi tiếng với nhiều lý thuyết gia, nhưng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền Nam sông Dương Tử, nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, hội hoạ, âm nhạc?
    ?oAi có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương?? của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, ?oSông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia? cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là ?osiong?, tiếng Quảng Đông là ?oseong?, tiếng quan thoại là ?oxiāng?.
    Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước Hồ Động Đình:
    Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
    Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
    Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
    Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng?
    Hồ Động Đình trong truyền thuyết Hồng Bàng
    Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
    ?oCứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.
    Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
    Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải?.?
    Nước Sở có từ bao giờ?
    Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 14, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ? đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ? là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức khu vực Động Đình Hồ.
    Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là ?ovương của châu Kinh và châu Dương??
    Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường và Quảng Đông là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc.
    Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang, và Giang Tô.
    Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro-Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ.
    Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị và ngăn chặn quấy phá của dân ?oman di? Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía Nam sông Dương Tử.
    Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ 11 TCN đến khi bị Tần Thuỷ Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu, và suýt trở thành ?othủ lãnh đại ca? của Xuân Thu Ngũ Bá.
    Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế diễu ?oVua Sở như con khỉ biết đội mũ?. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ? chữ Hùng >" viết y hệt như trong ?oHùng Vương? của Việt Nam.
    Sau khi diệt các nước Việt nho nhỏ chung quanh, năm 333 TCN nước Sở thôn tính thêm hai nước Việt rất lớn cũng thuộc chi Lạc ở ven biển: nước Ngô Việt (Câu Tiễn) và U Việt (Phù Sai). Tuy rất văn minh, đã đúc thuyền đồng, trống đồng, luyện thép (như hai nhà luyện kiếm nổi tiếng là Mạc Tà và Can Tương), nhưng chỉ lo đánh đấm và trả thù nhau nên bị Sở diệt.
    [​IMG][​IMG]
  9. Dilac

    Dilac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    950
    Đã được thích:
    0
    ?oQuốc tịch? dân Sở
    Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao, và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ? tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ ?" ?oTấm thân lấp biển vá trời/ Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang?. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu.
    Không riêng gì Sở, dân ?oman di? miệt Nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên toà án. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu [1] , đánh trống đồng hay hát bài ?oViệt nhân ca? [2] .
    Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thuỷ Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi ?obình định? vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt ?oman di?.
    Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất? cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông và Hương Cảng gọi là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai). Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao iờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến ?ongười Việt? về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hoá/? đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hoá Hoà Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hoà Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hoá này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam. Ai à chủ nhân thực sự của văn hóa Hoà Bình, vẫn là một câu hỏi.
    Chiến tranh
    Sử Tà không ghi chép đời sống của dân bản địa. Bộ Đông Châu liệt quốc toàn tả lãnh tụ xưng hùng xưng bá. Chỉ biết từ đời Xuân Thu Chiến Quốc 722 TCN đến khi Sở bị Tần diệt năm 223TCN là một thời kỳ hỗn loạn. Dân ở phía Nam sông Dương Tử chịu cảnh binh đao, tàn sát, cướp bóc? hông biết bao nhiêu mà kể. Chính biến, đảo chánh, giành ngôi, phế lập, âm mưu, cướp bóc, lãnh chúa? iên giới các ?onước? thay đổi. Có nước bị giải thể. Hàng ngàn nước bị chia cắt, sát nhập lúc vào nước này, lúc vào nước kia.
    Khi Tần Thuỷ Hoàng, ?ogồm thâu lục quốc? (Hàn, Nguỵ, Sở, Triệu, Tề, Yên) một cuộc chiến khủng khiếp kéo dài 9 năm biến giải đất mênh mông từ trung nguyên [3] xuống nam Dương tử thành một lò sát sinh khổng lồ.
    Gia đình lãnh chúa bị tận diệt đã đành, dân chúng lớp bị giết hàng khối, lớp chạy tan tác trước sức đồng hoá của chủng Hoa Hạ, của chiến tranh, hạn hán, mất mùa... Miền đất chưa bị vó ngựa chủng Hoa rớ tới, chính là vùng mênh mông phía Nam và Tây nước Sở. Bây giờ là vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, đồng bằng sông Hồng? Lúc đó chưa miền nào có tên như bây giờ. Muốn đi tới miền này phải vượt qua dãy Đại Ngũ Lĩnh hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, hoàn toàn không hợp với người Hoa Hạ chỉ quen chinh chiến và sống vùng sa mạc. Trong Đường về Trùng Khánh, dù đã là năm 1942, tác giả Hàn Tố Âm (Han Suyin) vẫn tả Quế Châu như một vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chỉ có một số người miền núi sinh sống. Thật ra trong quá khứ ngàn năm trước, miền này đã đón nhận hoặc là miền chuyển tiếp rất nhiều đợt chạy loạn.
    Bộ mặt của lịch sử Trung Hoa, không phải chỉ ngon lành nào Hồng lâu mộng, nào Tây du ký, tứ đại giai nhân, thi thánh thi bá? Bộ Đông Châu liệt quốc ghi lại 400 năm loạn lạc, cho thấy mạng dân đen (Hoa cũng như Việt) như bèo: Tề Hiếu Công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân trong mồ của cha mình. Mồ của Tần Mục Công táng theo 177 người. Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái. Không hiếm những người tỉnh táo, lệnh doãn Tôn Thúc Ngao di chúc ?oDân nước Sở ta khổ vì việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được an nghỉ?. Nếu chúa công nghe lời can gián, nước Sở chắc không bị Tần diệt, và bộ mặt địa lý/chính trị của nước Trung Hoa có thể đã khác.
    Chiến tranh/nạn đói thời An Lộc Sơn cũng được ghi lại trong 1.500 bài thơ của Đỗ Phủ, nổi tiếng thi hào mà không cần chạy theo chéo áo giai nhân [4] . An Lộc Sơn đánh vào Trường An, Đường Huyền Tông chạy trốn, Dương Quí Phi thắt cổ. Trong 8 năm, dân số nhà Đường, kiểm kê năm 754 từ 52.8 triệu người chỉ còn 16.9 triệu.
    Lăng mộ của Tần Thuỷ Hoàng cần tới 70 ngàn người xây cất, con số chôn sống không rõ. Nhà văn Hàn Tố Âm, dù gia đình khá giả ở Bắc Kinh (cha người Bỉ, mẹ người Hoa) cũng nhắc lại điều khủng khiếp ám ảnh bất cứ đứa trẻ Trung Hoa nào: chiến tranh và thiên tai ?oba năm liền không có một giọt mưa?. Dân chết đủ kiểu. Kể cả chết đói. Vỏ cây cũng không còn. Ai còn đi được, đều cố đứng dậy hay lết bằng đầu gối.
    Dân Sở thuộc chủng gì?
    Dù Kinh Dương Vương là một người thật, hay chỉ là một biểu tượng trong truyền thuyết Hồng Bàng, cũng đều là một pha trộn hai giòng máu Âu và Lạc. [5] Đây là mật mã cốt lõi của truyền thuyết:
    Hai chi Âu-Lạc sống chung ở vùng Động Đình Hồ,
    Cùng dắt díu nhau di tản, và đoạn cuối
    Buồn hơn bất cứ chuyện tình nào: Âu-Lạc phân ly. Thế kỷ 14, tác giả Lĩnh Nam chích quái ghi tất cả biến cố bi tráng trên vào mươi hàng đặt tên ?oTruyền thuyết Hồng Bàng?. Thời bây giờ, không chắc có cây bút nào có thể viết ngắn/nhiều ý nghĩa đến vậy.
    Độc giả có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu hay đọc những nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử, thì thấy từng chi tiết của truyền thuyết vẫn còn in dấu trên tình trạng đa sắc tộc và sự hoà huyết, hỗn hợp ngôn ngữ của cư dân có mặt trên mảnh đất Việt Nam. Lịch sử dựng nước của các quốc gia châu Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật, Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam,? đều có những điểm giông giống nhau: hỗn loạn, chia cắt, đánh chiếm, tận diệt, lấn đất, di cư, hoà huyết?
    ?oNước? Xích Quỷ biến đi đâu?
    Không biến đi đâu hết. Ở đâu còn nguyên đó. Đất cũ người cũ. Thêm người mới khoác áo văn hoá mới. Nhìn trên bản đồ, bờ cõi nước Xích Quỷ hầu như phân nửa bờ phía Nam sông Dương Tử: Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 cây số vuông. Diện tích Việt Nam bây giờ là 331,688 cây số vuông.
    Tại sao thình lình không gian của Lạc Long Quân tức Hùng Vương thứ nhất rộng lớn đến thế, đời Hùng Vương thứ 18 khi bị Thục Phán diệt, chỉ còn lại đồng bằng sông Hồng?
    Di cư
    Như trên đã nói, một cuộc di tản rất lớn xảy ra, kéo dài hàng mấy trăm năm, trước/sau khi nước Sở bị diệt vong. Đám chi Âu, chi Lạc chạy khỏi địa bàn nước Sở. Khi đi, mang theo tất cả những truyền thuyết tổ tiên đến địa bàn mới. Ngay như tên người Việt bây giờ vẫn tự gọi: người Kinh - để phân biệt với người Thượng - có thể tên châu Kinh đất cũ còn trong ký ức.
    Có lẽ nên hiểu truyền thuyết Hồng Bàng là cổ sử của chủng Yueh/Việt, hơn là cổ sử riêng của Việt Nam. Biên cương rộng lớn của Xích Quỷ hé mở đôi điều, nếu hiểu theo quan sát và quan niệm của tác giả truyền thuyết Hồng Bàng về thời lưu cư ở Động Đình Hồ:
    Chủng Việt, khác với chủng Hoa Hạ
    Hễ đồng chủng, là cùng một ?onước?
    Có rất nhiều bộ tộc Việt sống xen kẽ trên cùng địa bàn Xích Quỷ
    Vì xen kẽ, nên mượn qua mượn lại truyền thuyết/cổ tích của nhau
    Người/tiếng Việt đi tới đâu, biên giới Xích Quỷ đi đến đó
    Người Trung Hoa bây giờ cũng là một pha trộn = Hoa Hạ + Việt, cả DNA và tiếng nói.
    Lãnh tụ đầu tiên Lạc Long Quân hoàn toàn thuộc chủng Việt, mang hai giòng máu Âu và Lạc, không lai một chút Hoa Hạ nào hết.
    Có ?onước? Xích Quỷ không?
    Không. Bởi vì:
    Xích Quỷ: chỉ là địa bàn lớn chứa chủng Việt, gồm hàng trăm (hay ngàn) bộ lạc/thị tộc, tình trạng ?ovăn minh? tuỳ vùng.
    Nước Sở: nhỏ hơn, chứa các nhóm Âu-Lạc.
    Đồng bằng sông Hồng: nhỏ hơn nữa, là một trong những nơi dừng chân cuối cùng của của đám Âu/Lạc di tản. Nơi đó cũng đã có người ở từ trước.
    Nước Thái Lan, nước Lào, chi Âu, tình cảnh rất giống Việt Nam. Thái chỉ mới thành lập quốc gia từ thế kỷ 13. Lào lập nước trễ hơn Thái chừng nửa thế kỷ. Cả hai chạy ngược chạy xuôi tìm đất và choảng nhau với dân bản địa. Có những bộ tộc rất oai hùng, nhưng lại không thành lập nổi một quốc gia, ví dụ sắc tộc Karen, sắc tộc H?TMong, và hàng ngàn bộ tộc hiện diện trên đất Trung Hoa, bị Hán hoá hoặc có danh nghĩa ?okhu tự trị?, nhưng mức độ độc lập luôn là câu hỏi.
    ?oCon Rồng cháu Tiên?
    Xin thú thật, là một học trò yêu môn lịch sử, nghe ?ocon rồng cháu tiên, dân Việt mình? siêu hơn dân tộc khác? rất êm tai. Nhưng hôm nay ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng ?ocon Rồng cháu Tiên? nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên ?oViệt? ngoại trừ dân tộc Việt Nam; và sau gần 3000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hoà huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập? mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quí giá tổ tiên để lại.
    © 2007 talawas
    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Câu 507, Kiều trả lời Kim Trọng khi chàng Kim eo sèo đòi ?o***?:
    Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
    Thì con người ấy ai cầu làm chi!
    Sông Bộc: nơi trai gái chủng Việt chiều chiều rủ nhau xuống bãi dâu tình tự nên có thành ngữ ?oTrên Bộc trong dâu?, Nguyễn Du tiên sinh viết theo quan niệm nhà Nho hồi đó, tức cấm đoán nhiều thứ lủng củng.
    [2]Nhiều thông tin khác nhau về bài ?oViệt nhân ca?:
    - Dân ca của người Choang
    - Bài hát của dân Việt thời Ngô Việt giao tranh. Vương tử Sở là Ngạc Quân Tử Tích thích bài hát nên nhờ chuyển thành Sở từ. Cũng là bài hát trong phim Dạ yến/The Banquet với Chương Tử Di.
    [3]Miền đất giữa Hoàng Hà và Dương Tử.
    [4]Đỗ Phủ: tất cả thơ của ông tả cảnh chiến tranh thời An Lộc sơn. Ví dụ: Bài ?oVô gia biệt? (Cuộc ly biệt của kẻ không nhà), ông ước "Có ngôi nhà lớn muôn gian để che chở cho kẻ nghèo khắp thiên hạ. Bao giờ nhà lớn sừng sững hiện ra, riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được". Ông bôn ba khắp nơi dâng kế cứu dân cứu nước. Không ngờ về đến nhà mới hay con trai đã chết đói.
    [5]Nguyên Nguyên, ?oThử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương?.
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Cái lí đơn gian như vậy mà có người lại hiểu sai hoặc không hiểu. Lãnh thổ VN nhỏ, dân tộc Kinh ít người là vì không lấn chiếm, đồng hoá, hợp chủng các bộ lạc nhiều như các các nước lớn khác. Con người phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và xã hội. Thiên tai hạn hán, lũ lụt rồi là chiến tranh, bạo động khiến phải di cư, lập nước mới, mở rộng lãnh thổ...

Chia sẻ trang này