1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bảo tàng danh nhân bóng đá TG

Chủ đề trong 'Arsenal (AFFC)' bởi 2555family, 21/02/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0

    Rinat Dasaev
    ĐốI vớI những ngườI Việtnam sinh trưởng trong những thập niên 70- 80 của thế kỷ trước, bóng đá Liên Xô như 1 cái gì đó thật thân thương mà họ đã lớn lên cùng. Những cái tên như Dynamo Kiev, Spartak Moskva, CSKA, Torpedo, đã ngấm vào tận tâm hồn tự lúc nào đó mà chẳng hay. Càng khó mà quên được những ngườI hùng 1 thuở CCCP như Zavarov, Belanov, Vassily Rats, và đặc biệt là thủ môn Rinat Dasaev. LốI bắt bóng bay **** tuyệt vờI cùng phong cách phong nhã điển trai của anh đã chinh phục biết bao những trái tim hâm mộ. Tôi biết có cô gái Việt Nam đã từng gửI thư qua tận Nga để tỏ tình cùng anh, và 1 cô gái khác thì khóc nức nở khi hay tin anh đã lập gia đình cùng 1 phụ nữ ngườI Đức.
    Rinat Dasaev( Cũng viết Dassaev) sinh ra trong 1 gia đình HồI giáo Tarta tạI Astrakhan, Liên Xô vào ngày 13 tháng 6 năm 1957. Cha mẹ mất sớm, Dasaev được ngườI anh trai nuôi dưỡng và khuyến khích theo nghiệp bóng đá. Năm lên 8, anh được nhận vào độ trẻ của CLB địa phương Volgar, tập luyện dướI sự dẫn dắt của HLV G. Blednykh. Năm 18 tuổI, anh được thăng lên độI hình chính. Vốn là ngườI sùng đạo, trong mỗI trận thi đấu, bất cứ ở đâu, anh đều mang theo mình 1 cuốn kinh Koran; thói quen ấy được duy trì cho đến khi anh từ giã sân cỏ.
    Từ năm 1978, Rinat Dasaev chuyển sang trấn giữ khung thành cho Spartak Moskva, 1 trong những độI bóng lớn nhất Liên Xô. Từ đó, tên tuổI của Dasaev gắn liền cùng độI bóng thủ đô. TạI đây, anh đã giành được 2 chức vô địch Liên Bang, 5 lần về nhì, và 2 lần hạng 3. Tạp chí Ogonvok 6 lần bầu Dasaev vào vị trí thủ môn số 1 Xô Viết vào các năm 1980,1982,1983,1985, 1987, và 1988. Nếu như kỳ phùng địch thủ Dinamo Moskva tự hào về ?oCon nhện đen? Lev Yachine, Spartak cũng hoàn toàn có quyền ngẩng cao đầu khi có trong tay ngườI kế tục Yachine: Rinat Dasaev.
    Thành tích đầu tiên của Dasaev vớI tuyển quốc gia Liên Xô là chiếc huy chương đồng Olympic 1980.Tuy nhiên ,tên tuổI anh bắt đầu vang danh thế giớI chỉ từ sau World Cup 1982 , sau những màn trình diễn huy hoàng trên sân cỏ Tây Ban Nha.Dù Liên Xô bị loạI từ vòng đấu bảng thứ 2, nhưng không ai có thể phủ nhận tài năng của Rinat. Pha bóng mà Dasaev bay ngườI cản phá cú đánh đầu hiểm hóc của Joe Jordan(Scotland) được đánh giá là màn cứu bóng đẹp nhất trong lịch sử World Cup, đẹp tương đương vớI cú save của Gordon Banks trước Pele trong trận Anh-Brazil năm 1970.
    HLV của tuyển Liên Xô khi đó là Valery Lobanovsky. ?oLoba huyền thoạI? vốn là HLV của Dinamo Kiev nên chẳng có gì lạ khi ông có phần thiên vị các cầu thủ đến từ xứ Ucraina. Tuy thế, vị trí của Dasaev luôn vững như bàn thạch. Có những lúc độI quân Xô Viết xuất trận vớI 10 vị trí chính thức đều của Kiev, duy có thủ môn thì luôn luôn phảI là chàng Rinat hào hoa.
    Năm 1986, Liên Xô đem đến World Cup Mexico 1 lực lượng hùng hậu được mệnh danh ?ocơn lốc trắng?, mọI niềm hy vọng Xô Viết đổ dồn lên thủ môn Dasaev, tiền vệ Zavarov, các tiền đạo Belanov và Protassov(CHiếc giày bạc Âu châu 1985). CCCP có 1 khởI đầu như mơ khi thủ hòa tuyển Pháp của Michel Platini 1-1 và đè bẹp Hungary 6-0. Đáng tiếc là trong trận đấu vòng 1/16 gặp Bỉ, Liên Xô đã bị thua?trọng tài, ông này công nhận 2 bàn thắng trong tư thế hoàn toàn việt vị của ?onhững con quỷ đỏ?, và Dasaev cùng đồng độI đành ngậm ngùi ra về vớI kết qủa thua tức tưởI 3-4.
    Đỉnh cao sự nghiệp của Dasaev là tạI EURO 1988 ở Đức. Có thể nói anh là ngườI đóng góp 50% cho chiếc huy chương bạc của Liên Xô tạI giải này. Trong trận đấu ?ođinh? ở vòng bảng gặp Hà Lan, ?oCơn lốc da cam? đã làm chủ thế trận từ đầu chí cuốI, nhưng những Van Basten, Gullit, Wouters không sao đánh bạI nổI ?ođôi găng vàng Dasaev?, để rồI trong 1 đợt phản công hiếm hoi, Vassily Rats đã ghi bàn thắng duy nhất cho Liên Xô . Trận bán kết Italy-Liên Xô cũng diễn ra theo kịch bản tương tự, hàng công Ý bất lực trước Dasaev và Liên Xô thắng 2-0 nhờ 2 đợt phản công bất ngờ.
    Tuy nhiên ngườI ta không thể thắng nếu chỉ dựa vào mỗI thủ môn. Khi gặp lạI Hà Lan trong trận chung kết, Dasaev không cứu nổI Liên Xô lần thứ 3. Gullit và Van Basten mỗI ngườI ghi 1 bàn để đem chiếc cúp Henri Delaunay về xứ sở tulip. Còn đốI vớI độI bóng bạch dương thì hạng nhì cũng đã là thành công. Thành tích tuyệt vờI của Dasaev mang lạI cho anh danh hiệu Thủ Môn Xuất Sắc Nhất Thế GiớI năm 1988.
    Ngoài lần được bầu Xuất Sắc Nhất Thế GiớI kể trên, Dasaev còn 1 lần hạng nhì năm 1987, và 1 lần hạng 3 năm 1989. CÓ điều ta phảI lưu ý là GiảI Đôi Găng Vàng chỉ bắt đầu được trao vào năm 1987, nếu không thì có lẽ không chỉ 1 lần Dasaev bước lên bục vinh quang. Trong các năm 1982, 1983, 1985, 1988, Dasaev là thủ môn đứng hạng cao nhất trong danh sách các cầu thủ xuất sắc nhất châu âu của tạp chí France Football, cũng tức là đoạt giảI thủ môn giỏI nhất châu Âu 1 cách không chính thức.
    Sau EURO 1988, Dasaev nhận được lờI mờI của các CLB hàng đầu châu Âu như AC Milan, Real Madrid, nhưng cơ chế Liên Xô lúc đó đã ràng buộc không cho anh ra đi. Do tranh đấu đòi quyền ra nước ngoài mà phong độ của Dasaev sút giảm rõ rệt.TạI World Cup 1990, sau trận ra quân đầu tiên không thành công(lần thứ 97 và cũng là lần cuốI cùng khoác áo độI tuyển quốc gia), anh buộc phảI ngồI ghế dự bị trong 2 trận kế để chứng kiến Liên Xô bị loạI ngay vòng 1. Chính sự sa sút phong độ ấy góp phần làm cho Dasaev được ra nước ngoài; sau World Cup , anh chuyển sang Tây Ban Nha giữ thành cho Sevilla. TạI đây, anh trở thành đồng độI của Diego Maradona.
    Thoạt đầu, Dasaev rất khó khăn tại Sevilla. ANh gặp phải bao nhiêu vấn đề về ngôn ngữ, về thức ăn, một kiểu chơi bóng khác, kiểu tập luyện khác, hơn nữa là một cách sống khác, một xã hội khác... Nhưng dù sao thì anh cũng trụ lại được ở Sevilla, được các cổ động viên rất yêu quý. Sau ba năm anh chơi ở đây, Sevilla từ một CLB trung bình yếu đã vươn lên đứng trong tốp 5, 6 đội dẫn đầu, được tham dự Cup UEFA. Sau khi giã từ sân cỏ năm 1993, anh còn 6 năm tiếp tục làm HLV thủ môn tại CLB này. Anh đã lấy vợ, có con, có công việc kinh doanh ở Tây Ban Nha. (Với cô vợ đầu người Đức, Dasaev có 2 con gái, còn với vợ sau người Tây Ban Nha, anh có 1 gái 1 trai).
    Sống ở Tây Ban Nha 1 thời gian, Dasaev cảm thấy "thiếu quê hương" nên cúôi cùng lại trở về làm công tác huấn luyện cầu thủ trẻ tại Nga.GIờ đây, ngoài những lúc làm việc, Dasaev giành nhiều thời gian cho vợ con,chơi tennis, hoặc đi dạo nơi thảo nguyên.
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  2. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    Zico - Pele trắng của Braxin?
    Tên đầy đủ: Antunès Coimbra, Arthur
    Ngày Sinh: 03-03-1953 tại Flamengo
    Vị trí : Tiền đạo ,tiền vệ tấn công.
    Thành tích:
    - Đội tuyển quốc gia : 89 lần được tuyển từ năm 1976 đến 1989, ghi 66 bàn thắng; hạng 3 Cúp Thế giới 1978.
    - Câu lạc bộ : Flamengo (1967-1983), đoạt Cúp Libertadores năm 1980, đoạt Cúp Liên lục địa năm 1981, vô địch Braxin năm 1980, 1981 và 1983, vô địch bang Rio năm 1974, 1978, 1979, 1981 và 1983 ; Udinese (1983-1985); Flamengo (1985-1989), vô địch Braxin năm 1987, vô địch bang Rio năm 1986.
    - Cầu thủ xuất sắc nhất Nam Mỹ năm 1977, 1981 và 1982
    Zico không phải là "Pelé trắng", biệt danh mà những người Braxin quá sâu nặng với những kỷ niệm về Nhà Vua của mình đã tặng cho anh với hy vọng anh là người hiện thực hoá những giấc mơ của họ. Zico không bao giờ là Pelé. Nhưng anh là một cầu thủ tuyệt vời.
    Một hôm, Zico tâm sự với một nhà báo rằng: "Sự so sánh thường xuyên ấy khiến tôi không thể chịu đựng được". Lời tâm sự này được ghi nhận vào mùa xuân năm 1982, thời điểm đẹp nhất trong sự nghiệp của anh. "Người ta gắn cái biệt danh ấy trên lưng tôi từ hơn 10 năm qua. Nhưng tôi không phải là Pelé, tôi không bao giờ là Pelé... Mọi người không biểu được là sẽ chẳng bao giờ có một Pelé nào nữa". Nhưng có một cầu thủ tuyệt vời. Một cầu thủ mà người ta đã sai lầm khi luôn trách cứ là anh đã không trở thành "người cứu rỗi" để hiện thực hóa thêm một lần nữa những giấc mơ của họ.
    Con của một gia đình mới di cư, cha gốc Bồ Đào Nha và mẹ gốc ý, Arthur Coimbra chẳng có một chút gì liên quan đến những điều thông thường để tạo nên những thần tượng của bóng đá Braxin. Anh là thần tượng da trắng duy nhất trong lịch sử bóng đá của đất nước này. Hẳn nhiên là anh sinh ra trong một khu vực thợ thuyền tại Quintino, gần Pain de Sucre ở Rio, nhưng không phải trong một khu nhà ổ chuột, nơi mà những thiên tài bóng đá samba là những đóa hoa duy nhất mọc lên tại đó. Anh biết đến bóng đá như một đứa trẻ ở châu Âu.
    "Thẳng thắn mà nói thì tôi bắt đầu chơi bóng đá trên những sân bóng thật sự, và nhất là trong các phòng thi đấu, nơi người Braxin thực hành thứ "futbol" trong phòng mà kỹ thuật và sự linh hoạt vượt lên trên sự đối kháng và chiến thuật. "Chính ở nơi đó mà tôi đã luyện được sự khéo léo". Năm 1967, lúc 14 tuổi, Zico đến trường dạy bóng đá của CLB Flamengo. "Thi đấu cho CLB này là mục đích cao nhất của đời tôi". Nhất là đối với một chàng trai trẻ lỏng khỏng, yếu ớt. "Phẩm chất số một của một cầu thủ lớn là sự khéo léo. Điều này Thượng Đế đã ban cho tôi". Nhưng con chủ bài số hai của anh, rất cần thiết trong bóng đá hiện đại, đó là phẩm chất về thể lực. "Điều này tôi đã đạt được qua chuỗi ngày tập luyện gian khổ". Bốn năm lao động miệt mài đã giúp cho anh tăng thêm 20kg, biến một cậu bé với thể trạng yếu ớt trở thành một lực sĩ thực sự, chân hơi ngắn nhưng cặp đùi lớn.
    Ngay từ năm 1974 Zico đã trở thành một ngôi sao trong đội hình A của Flamengo, và một số người lấy làm tiếc vì anh đã không có mặt trong đội tuyển Braxin tham dự Cúp Thế giới ở Đức, nơi mà Braxin đã không bảo vệ được danh hiệu vô địch. Chính lối lừa bóng ngắn tàn phá ("Đây là năng khiếu bẩm sinh mà tôi có được từ trong nôi") và cảm giác ghi bàn của Zico đã nhanh chóng dấy lên sự cuồng nhiệt ở Braxin: Năm 1976, anh thi đấu 70 trận và ghi 63 bàn. Năm 1977, 56 trận, ghi 48 bàn... Người ta chờ đợi Cúp Thế giới 1978 như là nơi giúp cho anh đạt đến trình độ cao nhất.
    Nhưng chuyến đi Achentina chỉ mang lại những cơn ác mộng cho Zico."Braxin lúc đó áp dụng một lối chơi hoàn toàn không phù hợp với phẩm chất của cầu thủ Braxin". Nói một cách khác, thi đấu như những lực sĩ chứ không phải là những nghệ sĩ. "Chúng tôi hoàn toàn bị kẹt cứng, việc thiếu tự do đã ngăn cản chúng tôi sáng tạo. Người ta cho rằng tôi là nỗi thất vọng lớn nhất của Cúp Thế giới lần đó, nhưng chính cả đội tuyển Braxin đã tỏ ra thảm bại". Tuy nhiên, họ cũng về hạng ba, không thua một trận nào, nhưng chỉ để lại những kỷ niệm nhạt nhẽo. Không ai nhận ra Zico cũng như Dirceu, một ngôi sao trẻ khác, trong một đội bóng mà "lão tướng" Rivelino tiếp tục điều khiển thế trận bằng một sự chậm chạp tuyệt vọng. Cũng cần ghi nhận rằng "Pelé trắng" chỉ có mặt trọn vẹn trong một trận đấu, trận đầu tiên, rồi bị đưa xuống hàng cầu thủ dự bị hạng sang. "Sau Cúp Thế giới này, tôi có cảm giác là sẽ khởi đầu trở lại từ con số không".
    Thế là khởi đầu một thời kỳ sáng chói mà Flamengo thống trị nền bóng đá Braxin và Nam Mỹ. Rồi khi Tele Santana thay thế Coutinho lãnh đạo đội tuyển quốc gia, Selecao đã tìm lại được phẩm chất của mình. Họ đã chứng minh điều đó qua chuyến viễn du châu Âu vào mùa xuân năm 1981 với những chiến thắng tại London, Stuttgart và Paris. Trên sân Công viên các Hoàng tử, Zico ghi bàn thắng thứ năm trong một đêm tuyệt vời. Tele Santana thích thú nhận xét: Cuối cùng anh ấy đã thoát khỏi cái xiềng xích gò bó mà cả đất nước Braxin đè nặng lên anh ấy". Và sự thăng hoa đã được lập trình cho mùa hè năm sau với Cúp Thế giới ở Tây Ban Nha.
    Trong vòng một, đội tuyển Braxin chói sáng giành thắng lợi liên tiếp trước Liên Xô (2-1), Scotland (4-1) và New Zealand (4-0), Zico ghi hai bàn tuyệt vời từ một cú đá phạt trực tiếp và một pha "ngả bàn đèn" trước New Zealand. Được dẫn dắt bởi bộ tứ trong mơ, Cerezo - Falcao -Socrates - Ziro, Braxin tấn công vào vòng hai.
    Trước hết, họ đè bẹp đương kim vô địch Thế giới Achentina với tỷ số 3-1. Zico ghi bàn đầu tiên nhưng phải rời sân trước khi kết thúc trận đấu sau một pha tấn công đáng phê phán của Daniel Passarella. Để giành quyền vào bán kết Braxin phải đánh bại đội tuyển ý. Hai lần các cầu thủ Braxin quân bình được tỷ số nhưng Paolo Rossi lại tiếp tục ghi bàn thắng thứ ba, và Braxin, đội bóng quyến rũ nhất của cuộc tranh tài này, đã phải trở về nước sớm hơn dự kiến. Giấc mơ của Zico đã tàn, mãi mãi.
    Mùa hè năm 1983, sự nghiệp của Zico có vẻ như chuyển sang một giai đoạn mới khi ông chủ giàu có của CLB Udinese, nằm ở phía bắc nước ý, cuối cùng đã thành công trong việc thuyết phục anh rời Braxin... Đến giữa mùa bóng, Udinese chiếm vị trí thứ ba trong giải vô địch ý - chuyện chưa từng xảy ra - và Zico ghi được 17 bàn. Nhưng trong lần trở lại Braxin vào cuối tháng hai, Zico bị chấn thương lần đầu tiên: Rách bắp thịt. Không có anh, Udinese không còn đóng vai trò hàng đầu. Cơ bắp của Zico lại có vấn đề vào cuối mùa hè. Rồi vì Calcio khởi tranh mùa bóng mới quá sớm nên Zico bị chấn thương nặng hơn vào cuối tháng 10. Buồn bã vì số phận nghiệt ngã và những lời chỉ trích dữ dội, anh quyết định quay trở về điều trị tại quê nhà. Anh không bao giờ trở lại nước ý nữa, mặc dù ngày 19-3-1985 Tòa án ý đã có lệnh triệu tập anh cho một vụ án liên quan đến sự thất thoát tiền bạc trong khuôn khổ cuộc chuyển nhượng của anh. Giấc mơ ý không kéo dài hơn nữa.
    Dù sao thì Zico cũng có mặt trong đội tuyển Braxin tham dự Cúp Thế giới 1986, nhưng anh chỉ đóng vai phụ, trước khi trở lại Flamengo với tham vọng duy nhất là giúp cho các cầu thủ trẻ tiếp tục mơ đến một ngày nào đó mà một trong số họ có thể thừa kế ngai vàng của Vua Pelé. Riêng anh chỉ hài lòng với 729 bàn thắng qua 1.046 trận đấu, dù sao đó cũng là một thành tích đáng ghi nhận
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  3. Cleg

    Cleg Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    1.478
    Đã được thích:
    0
    bác siêu quá vote bác 5 *
    hy vọng sẽ tiếp tục có những bài viết về các danh thủ một thời ( đặc biệt là của Arsenal ) nữa của bác
    ( ứ fải em câu bài đâu nhá , thông báo là em vote cho bác ý thôi )
    Thôi thì thư thư vài hôm mấy bác quan nhà hãy xoá nhá
    Dù cho sống thác ai ơi
    Ruồi ta vẫn sống trọn đời tươi vui ​
    Arsenal chiến thắng[​IMG]
  4. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    hichic cảm động quá được 5 sao liền,cảm ơn Cleg nha
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  5. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    Tony Adams[/size=1]
    Lý lịch trích ngang of Tony Adams:
    Nick_name : Mr captain
    Sinh ngày 10/6/1966 tại Romford,London
    Gia nhập ARS từ đội trẻ
    Trận đấu đầu tiên trong màu áo của ARS : gặp Sunderland tại Highbury , tháng 11/1983.
    Trong suốt lịch sử hơn một thế kỉ của ARS , Tony Adams là đội trưởng thành công nhất trong lịch sử của ARS với nhiều danh hiệu lớn nhỏ :
    -VĐQG:1988-1989,1990-1991,1997,1998,và năm 2002
    -League cup : 1993
    -Cúp FA 1993,1998,2002.
    -Cúp C2 châu Âu năm 1994 ,charity shield 1998.
    Không chỉ có vậy ,Adams còn là đội tr­ưởng trẻ nhất trong lịch sử ARS
    .Lần đầu tiên anh mang trên tay chiếc băng thiêng liêng ấy vào tháng 3/1988, khi anh ch­ưa đầy 22 tuổi. Trong màu áo đội tuyển Anh , Adams đeo băng đội tr­ưởng trong suốt một thời gian dài . Lúc đó mỗi khi khoác áo đội tuyển Anh là chiếc Băng đội tr­ưởng lại thuộc về anh , bởi không ai xứng đáng hơn cầu thủ đã dự 4 vòng chung kết euro & world cup).Anh có một thể hình đáng để người khác ngưỡng mộ (cao 1m91 ), Anh tranh bóng bổng rất tốt , không ngại va chạm , phán đoán tình huống rất tốt, phối hợp rất ăn ý với các thủ môn(hì hì chắc chỉ phối hợp nhiều nhất với bác Seaman thôi nhỉ ), phát động tấn công bằng những đường chuyền rất hiệu quả ,mỗi khi đội nhà đươc hưởng một quả phạt góc anh th­ường lao lên khu cấm địa đối ph­ương và không ít lần Adams đã ghi được như­ng bàn thắng quan trọng.
    Adams là một con ng­ười giàu nghị lực . Đã có nhưng lúc anh sa vào vũng bùn của sự tha hoá :nghiện r­ượu nặng và cũng từng phải ngổi tù vì phóng xe trong tình trạng say xỉn . Trong nhưng lúc mọi sự đang rối bời như­ vậy , Adams lại gặp rắc rối về chuyện gia đình. Vậy mà Adams đã v­ượt lên tất cả cai r­ượu thành công và lại chơi tốt như­ trước, thậm chí còn hay hơn , với sự tinh tế trong những pha xử lí bằng chân.
    Adams là một mẫu cầu thủ trí thức . Anh biết làm thơ và chơi piano , thích th­ưỏng thức các tác phẩm nghệ thuật , anh cũng muốn sau này sẽ tiếp tục hoàn thành nốt sự nghiệp học hành của mình
    Sau m­ười chín năm thi đấu ở sự nghiệp đỉnh cao với số trận thi đấu là 670 trận , anh đã quyết định ?onghỉ h­ưu không ăn lươ­ng?. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây nhất Adams đã phát biểu :
    ?o tất cả mọi thứ đều phải có kết thúc, trái đất luôn luôn thay đổi và thời gian vẫn cứ trôi" tôi đã có môt sự nghiệp vinh quang bà có lẽ đã đến lúc tôi phải nói lời chia tay bóng đá ,chia tay Highbury ,tôi cảm ơn các cổ động viên trung thành của ARS , những người yêu quí tôi , Arsene Wenger
    đồng đội và đặc biệt là các con tôi đã giúp tôi có được nghị lực vượt lên tất cả. Tôi đã thi đấu 19 năm ở sự nghiệp đỉnh cao và tôi đã nghĩ đến việc giã từ sân cỏ. Tôi không muốn quay trở lại hay nhắc nhiều về quá khứ với nhiều điều thất vọng sau khi kết thúc mùa sự nghiệp vào cuối mùa giải này(2002) tôi muốn có nhiều thời gian cho hai con tôi hơn (bé trai Oliver 10t và bé gái Amber 8t ) bởi chúng cần có tôi,cuộc sống sẽ thật vĩ đại nếu các bạn chú ý đến các người xung quanh minh hơn
    adams added :?othật đáng tiếc , tôi đã mất mẹ vào năm ngoái và cha tôi cũng không khoẻ cho lắm trong thời gian này,nên gia đình rất quan trọng với tôi?
    Qua nh­ng nh­ng dòng trên quả thực anh chàng đôi tr­ưỏng của chúng ta đã làm cho chúng ta phải tự hào và kính nể . Anh quả đúng là một người con hiếu thảo với cha mẹ và cũng là một ng­ười cha g­ương mẫu cho lũ trẻ của anh . anh quả là một con ng­ười đáng để chúng ta học tập. Chúng ta hãy chúc cho anh luôn luôn gặp nhiều may mắn hơn nữa trong cuộc sống
    "Adams ! chúng tôi luôn luôn nhớ về anh,mãi mãi... "
    Kể cả Ian Wright , trong lịch sử của Arsenal chưa có cầu thủ nào lại để lại trong lòng chúng ta nhiều tình cảm như thế .
    Arsenal luôn tự hòa khi ''sinh'' ra được 1 Adams vĩ đại
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  6. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0

    Liam Brady
    Liam Brady ( 1973 ?" 1980 ) ?o Người Arsenal ?o hiếm hoi giành vinh quang tại Serie A .
    Với những cầu thủ từng chơi cho Arsenal , đa số dều ko muốn nhắc tới giải Serie A . đơn giản vì hị đều thất bại khi thi đấu tại đó : Platt , Bergkamp , Henry , Vieira , Kanu .. Chỉ có duy nhất Brady là thành danh trên đấy Ý sau thời gian chơi cho Arsenal . Cho tới ngày nay Ireland mới có cầu thủ thứ hai chơi bóng tại Serie A là Robbie Keane.
    Brady là của hiếm của bóng đá Ireland nói riêng và của nền bóng đá kiểu Anh nói chung . Anh chơi khá kĩ thuật và có những cú sút chân trái khá ?o siêu ?o . Năm 1971 , mới 15 tuổi , Brady tới Highbury và chỉ một thời gian ngắn sau đó quanh London rộ lên cái tin rằng Arsenal có trong tay một của hiếm .
    Brady có phong thái của một cầu thủ lớn , có tầm nhìn và chơi rất tự tin . Những bước chạy của anh xé nát hàng fòng ngự đối fương để các tiền đạo khác như Malcolm MacDonald , Frank Stapleton hoặc Alan Sunderland lập công . Những bàn thắng của Brady đa fần là ngoạn mục và một trong số bànm thắng đó vào lưới Tottenham năm 1978 . Đó là một cú sút cầu vồng từ ngoài khu cấm địa ấn định tỉ số 5 ?" 0 cho Arsenal khi Giáng sinh chỉ còn 2 ngày nữa . Một món quà Noel tuyệt vời dành cho các CĐV Arsenal .
    Bạn có thể thăc mắc rằng thành tích 43 bàn thắng trong 227 trận cho Arsenal sau 7 mùa liên tiếp của Brady ko có gì ghê gớm cả . Nhưng những bàn thắng của Brady đều rất quan trọng , mới lại anh là mẫu cầu thủ kiến tạo hơn săn bàn . Trong trận chung kết Cuup FA năm 1979 với MU , sau khi bị dẫn trước 2 bàn ,Brady đã dốc bóng bên cánh trái chuyền cho Alan Sunderland ghi bàn tạo điều kiện cho Arsenal lật ngược thế cờ thắng 3 ?" 2 . Năm đó Brady được bầu là Cầu thủ chơi xuất sắc nhất mùa giải .
    Brady chơi trận đầu tiên cho Arsenal vào ngày 6 / 10 / 1973 ( trong trận gặp Brimingham ) và trận cuối cùng 7 năm sau ( trong trận gặp Middlebrough ) . Tháng 8 / 1980 Brady lên đường sang Italia chơi cho Juve với giá chuyển nhượng 500.000 bảng , một số tiền chuyển nhượng khá lớn thời đó với kỉ lục 1 triệu bảng . Những năm sau , Brady còn chơi cho các CLB Sampdoria , Inter Milan và Ascoli trước khi trở về Anh tháng 3 / 1987 để chơi cho Westham
    Sau khi treo giầy , Brady trở thành HLV của Celtic và CLB hạng hai Brighton . Hiện nay ông đang dẫn dắt lứa cầu thủ trẻ của Arsenal .
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  7. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    TOMMY TAYLOR
    Thomas Taylor, thường gọi Tommy, sinh ngày 29 tháng 1 năm 1932 tại Barnsley,ANh Quốc trong 1 gia đình nghèo khó. Ngay từ khi còn bé, ông đã phải đi làm thợ mỏ tại mỏ than Colliery.Những khi rảnh việc, ông thường cùng các bạn thợ tham gia thi đấu đá banh.Chính tại những trận đấu ở Colliery, Tommy đã lọt vào mắt xanh của 1 chuyên gia săn tìm tài năng trẻ ở CLB địa phương Barnsley. Năm được Barnsley ký hợp đồng, Tommy mới 16 tuổi.
    Những màn trình diễn ấn tượng của Tommy tại Barnsley đã thuyết phục được HLV Matt Busby của Manchester United. Năm 1953, ông chuyển sang Mu với cai giá chuyển nhượng khá kỳ lạ là...29,999 bảng.Tại MU, Tommy đã hợp cùng Dennis Violet trở thành cặp tiền đạo sát thủ tại nước Anh. Cặp TOmmy- Violet cũng được coi là 1 trong những bộ đôi ăn ý nhất trong suốt chiều dài lịch sử của Red Devils.Riêng về Tommy, do thể hình lực lưỡng cao to, điểm mạnh sở trường của ông là không chiến, với những cú đánh đầu mạnh như trái phá và chính xác đến cực kỳ.Hiệu suất ghi bàn bình quân của Tommy là khoảng 2 trận 1 gôn.
    Trong trận đấu ra mắt ở MU vào ngày 7-3-1953, TOmmy Taylor ngay lập tức 2 lần phá lưới Preston N.E. Cuối mùa bóng 52-53, ông ghi được 7 bàn tuy chỉ tham gia thi đấu 11 trận.Với Tommy trên hàng công, MU chinh phục trái tim người hâm mộ với 1 lối chơi lôi cuốn và quyến rũ, cùng 2 chức VDQG 1956 và 1957. Tommy cũng là người ghi bàn cho MU trong trận chung kết cúp FA năm 1957, trận đấu mà The Reds thua do những quyết định sai trái của trọng tài.Ngưỡng mộ tài năng của Tommy, CLB Inter Milan của Ý đề nghị mua ông với giá 65 000 bảng, song Matt Busby cương quyết chối từ.
    Tại đội tuyển quốc gia Anh, Tommy Taylor được xem như người kế thừa của siêu tiền đạo BOlton là Nat Lofthouse. Ông khoác áo tuyển quốc gia 19 trận, ghi được 16 bàn. Số trận khoác áo tuyển Anh của Tommy lẽ ra cao hơn rất nhiều, nếu không có thảm họa Muních vào tháng 2 năm 1958.
    6 tháng 2 năm 1958 là 1 ngày định mệnh của Busby''s babes.Chiếc máy bay chở đội bóng MU từ Belgrade trở về đã gặp nạn tại phi trường Munich, cướp đi sinh mạng của 8 cầu thủ áo đỏ, trong đó có Tommy Taylor. Tommy ra đi ở độ tuổi 26, và khi đang ở trên đỉnh cao của sự nghiệp.thật đáng tiếc
    Vài Thông Số của Tommy Taylor trong thời gian thi đấu cho MU:
    Số trận đấu bàn thắng
    VDQG 166 112
    FA Cup 9 5
    Cúp châu Âu 14 11
    Total 189 128
    (Ghi chú: Số bàn thắng của Tommy tại League CUp, hiện tôi chưa sưu tầm được)
    Danh hiệu: 2 lần VDQG (1956, 1957)
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  8. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    BRYAN ROBSON
    Nói đến bóng đá Anh vào thập niên 1980 cũng tức là nói đến Bryan Robson. Anh được coi là tiền vệ số 1 của đảo quốc sương mù, là động lực thi đấu của độI bóng đỏ Manchester United. Đã có thờI Manchester United được mệnh danh là ?oone man team?, và One man ấy không ai khác chính là Robson. Thành công hay thất bạI của ?oOne man team? là phụ thuộc vào Robson, hễ anh ra sân thì Red Devils tràn đầy sức mạnh, mà nếu anh phảI ngồI ngoài đường pitch thì các đồng độI sẽ trở nên bế tắc. Đáng buồn 1 điểm rằng Bryan Robson thường hay bị chấn thương, và đó là 1 trong những lý do dẫn đến các kết qủa không mấy khả quan của MU trong thập niên 80.
    Sinh ngày 11-1-1957 tạI Chester-le-Street, Durham, Bryan Robson khởI nghiệp cầu thủ cùng West Bromwich Albion năm 1973. Anh ra sân lần đầu trong màu áo West Brom năm 1975 và chỉ 1 năm sau thì đưa CLB này thăng hạng. Năm 1981, Robson chuyển sang Manchester United vớI cái giá kỷ lục nước Anh thờI đấy:1,7 triệu bảng. Không lâu sau khi chuyển đến MU, Robson được HLV Ron Atkinson tín cẩn trao cho chiếc băng thủ quân, và anh đã đeo nó trên tay suốt 12 năm sau đó. Trong suốt lịch sử MU, chưa có ai từng đeo băng độI trưởng trong 1 thờI gian dài đến vậy.
    Ngay từ trận đấu ra mắt gặp Tottenham vào ngày 7 tháng 10 năm 1981, Bryan Robson đã trở thành nguồn cảm hứng của MU. Anh ghi tên mình vào lịch sử vớI tư cách là ngườI thủ quân đầu tiên tạI Anh quốc từng 3 lần giương cao cúp FA(1983,1985,1990)Tuy là tiền vệ trung tâm, Robson có bản năng săn bàn khá nhạy cảm và thường ghi được những bàn thắng quan trọng.Trong trận chung kết cúp FA năm 1983, anh ghi 2 bàn vào lướI Brighton; còn ở trận chung kết năm 1990 trước Crystal Palace, anh cũng góp 1 bàn vào chiến thắng chung cuộc. 1 kỷ niệm đáng nhớ khác của Robson là 2 lượt đấu vớI Barcelona tạI cúp C2 năm 1984, ở trận lượt đi MU thua 2-0, nhưng Robson đã tỏa sáng ghi 2 bàn, giúp Mu thắng lạI 3-0 ở lượt về.7 năm sau, Mu lại 1 lần nữa đả bạI Barcelona(2-1) tạI cúp C2, nhưng lần này là trong trận chung kết ở Rotterdam.
    Tuy đã cùng MU đoạt được FA CUP lẫn cúp châu Âu, nhưng ?ophòng truyền thống? của Bryan Robson từ bao năm vẫn còn vắng bóng 1 danh hiệu VDQG. Rốt cuộc vào năm 1993, danh hiệu ấy cũng đã đến, mở đầu cho 1 thập kỷ hoàng kim tạI Old Trafford. Trong mùa bóng 92-93, vớI sức nặng tuổI tác trên vai, Robson đã không còn giữ được vị trí chính thức, nhưng hễ mỗI lần anh ra sân thì Steve Bruce đều phảI nhường lạI băng thủ quân.
    Với độI tuyển quốc gia Anh, Bryan Robson thi đấu 90 trận(65 trận là độI trưởng), ghi được 26 bàn, tham dự 3 World Cup 1982, 1986,1990.Năm 1982, Robson lập kỷ lục cầu thủ ghi bàn nhanh nhất trong lịch sử World Cup khi lập công ở giây thứ 27 trong trận Anh gặp Pháp(kỷ lục này bị phá bởI Hakan Sukur của Thổ Nhi Kỳ tạI World Cup 2002). Lần đầu tiên Robson khoác áo tuyển Anh là trận gặp Ireland năm 1980, còn lần cuốI cùng là trận gặp Thổ Nhi Kỳ năm 1990.
    Sau khi cùng MU đăng quang ngôi VDQG lần thứ 2 liên tiếp vào năm 1994, Bryan Robson từ gĩa Old Trafford để trở thành cầu thủ kiêm huấn luyện viên tạI Middlesbrough(Boro). Năm 1995, anh đưa Boro thăng lên ngoạI hạng. Năm 1997, vớI các ngôi sao như Juninho và Ravanelli trong độI hình, Boro lọt vào 2 trận chung kết: FA Cup và League Cup, nhưng đồng thờI cũng?rơi xuống lạI hạng nhất.Cũng trong năm 1997 này, Robson quyết định từ giã sân cỏ để chuyên tâm làm huấn luyện. Lần cuốI cùng anh ra sân là trong trận Arsenal-Boro, ở tuổI 40.Tổng cộng, Robson đã chơi tất cả 731 trận cho West Brom, MU, và Boro.
    Sau 1 mùa bóng ở giảI hạng nhất, Robson lạI đưa Boro trở lạI ngoạI hạng. Tuy nhiên, kết quả thi đấu của Boro tạI Premier League không được khả quan cho lắm. Sau khi dẫn dắt CLB trụ hạng thành công vào năm 2001, Robson tuyên bố từ chức.Tháng 11 năm 2003, Robson ký hợp đồng làm HLV cho Bradford City.
    Vài con số thống kê về Robson trong thờI gian thi đấu cho MU:
    S ố trận đấu và số bàn thắng
    Số trận đấu Bàn thắng
    VDQG 326 74
    FA Cup 33 10
    League Cup 49 5
    Cúp châu Âu 26 8
    Total 434 97
    Các danh hiệu
    1994 F.A. Premier League
    1993 F.A. Premier League
    1991 Cúp C2
    1990 F.A. Cup
    1985 F.A. Cup
    1983 F.A. Cup
    "Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  9. 2555family

    2555family Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2004
    Bài viết:
    702
    Đã được thích:
    0
    Peter Shillton
    Ngày sinh:18-9-1949.
    Vị trí:Thủ môn
    Các CLB từng thi đấu:
    - Leicester City: 1966-1974,286 trận, 1 bàn.
    - Stoke: 1974-1977, 110 trận.
    - Nott''m Forest: 1977-1982, 202 trận.
    - Southampton: 1982-1987, 188 trận.
    - Derby Country: 1987-1992, 175 trận.
    - Plymouth: 1992-1995, 34 trận.
    - Bolton: 1995, 1 tr"Phải cẩn trọng mới ngồi được thuyền Vạn Thọ"
    2555family
     
  10. pires07

    pires07 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    2.264
    Đã được thích:
    0
    Davor Suker
    Cất tiếng khóc đầu tiên vào ngày 1/1/1968 và bằng tài năng trời phú và nghị lực phi thường anh đã bắt đầu khiến cả thế giới chú ý đến mình từ sau VCK Euro 1996 tại Vương quốc sương mù Anh . Khi đến nhà riêng của anh , phòng giải trí là nơi bạn có thể bắt gặp được những cuộn băng hoặc tạp chí bóng đá ,với anh chỉ có bóng đá và gia chăm sóc gia đình là hai thú vui giải trí của anh, anh cho biết anh học được rất nhiều từ chúng những cuốn băng tư liệu bóng đá , từ cách chạy , dẫn bóng,đánh đầu và quan trọng hơn là làm thế nào để chiến thắng bất cứ thủ môn nào anh đối mặt , ngay cả trong giấc ngủ có lẽ giấc mơ của anh chỉ là khoảnh khắc được sút tung lưới đối phương.Vâng đó là anh , tiền đạo đội tuyển Croatia - Davor Suker.
    Những cột mốc đáng nhớ của anh.

    1968 Suker chào đời ngày 1/1
    1984 Suker đến với CLB bóng đá đầu tiên Heimatvereins NK Osijek
    1987 Được gọi vào U21 quốc gia và đã thi đấu rất thành công tại Chile , ghi được 6 bàn thắng
    1989 Kết thúc mùa giải thành công nhất tại Heimatvereins NK Osijek với 18 bàn
    1990 Chuyển về Dinamo Zagreb
    Cùng năm thi đấu lần đầu tiên dưới màu áo đội tuyển quốc gia (anh được 22 tuổi) trong trận gặp Rumani (CRO-RUM 2-0)
    1991 Thi đấu cho CLB TBN Sevilla , ghi 76 bàn trong 153 lần ra sân là một thành tích tuyệt vời vào thời điểm đó.
    1994 Suker xếp thứ hai trong DS vua phá lưới giải TBN với 23 bàn
    1996 Thi đấu cho Croatia ở Euro và ghi được 3 bàn thắng
    1996 Cùng năm đó Hoàng gia Real Madrid mua về, ngay mùa đầu tiên đã ghi 24 bàn(mùa 1996-97) cho đội bóng mới
    1998 Xuất hiện ở Champion Legue(mùa bóng 97-98)
    Cùng năm đạt danh hiệu cao quý : Trở thành vua phá lưới WC (6 bàn)
    1999 Suker lúc này là một pháo thủ của Arsenal
    2000 Kết thúc mùa bóng 99-00 với Arsenal bằng trận chng kết UEFA với Galatasaray
    Chuyển về Westham United.
    2001 Mở trường dạy bóng đá nhằm tìm kiếm tài năng trẻ ở Bắc Croatia đồng thời chuyển về thi đấu cho 1860 Munich
    2003 Suker kết thúc sự nghiệp bóng đá ở tuổi 35 .
    Điều anh tự hào nhất về mình là ?ocái chân trái trên cả tuyệt vời? , cái chân đã giúp anh có 6 bàn tại WC 1998 .Anh có thể nói được 3 thứ tiếng Anh , Croatia, TBN.
    Sự nghiệp của anh tại TBN
    Được biết đến nhiều hơn khi chuyển về Sevilla , tại đây anh cho biết rằng với CĐV Sevilla việc quan trọng nhất là anh phải giúp CLB vượt qua Real Sociedad mỗi khi đối đầu , một kẻ thù không đội trời chung.Tại Real Madrid cũng thế , Barcelona là đội bóng các Cđv luôn yêu cầu các cầu thủ mình không để có thất bại.Anh cho biết thêm sau mỗi trận đấu như vậy anh thường thư giãn bằng hồ bơi hoặc tắm nước nóng .Anh cũng cho biết nhờ thời gian chơi bóng ở TBN anh đã quen biết được với một anh bạn chí cốt là Julio Iglesias tại Sevilla.

    Tại Anh,Suker đã chứng tỏ rằng cho các CĐV Anh rằng với tài năng này thì nơi đâu cũng có thể thành công và Arsenal là đội bóng thành công nhất của anh trong thời gian tại Anh(Ngoài Arsenal anh còn khoác áo W.U.).Anh từng cùng Arsenal và HLV Wenger tham gia chinh chiến tại Giải Ngoại hạng Anh , tham gia cuộc chinh phạt UEFA Cup , FA cup.Tất cả những điều này làm giàu thêm cho bộ sưư tập thành tích của mình nhưng khi được hỏi anh còn luyến tiếc gì về thời gian chơi bóng tại Anh , Davor đã trả lời ?oCó? ,vì là một người có trách nhiệm với công việc nên anh liên tục tự dằn vặt mình sau những quả phạt đền thất bại cho Arsenal.Chúng ta hãy nghe anh ?othú tội? : ?otôi biết penallty là một cơ hội thật sự lớn , tôi cho đó là khoảnh khắc tồi tệ nhất sự nghiệp của mình?.
    Bảng thành tích thi đấu của Suker (Mùa-CLB-Trận-Bàn)
    1985/86- NK Osijek- 10 -3
    1986/87- NK Osijek- 26 -9
    1987/88- NK Osijek- 29 10
    1988/89- NK Osijek -26 -18
    1989/90- NK Dinamo Zagreb -28- 12
    1990/91- NK Dinamo Zagreb -32 -22
    1991/92- Sevilla FC -22 -6
    1992/93- Sevilla FC -33 -13
    1993/94- Sevilla FC -34 -24
    1994/95- Sevilla FC -32 -17
    1995/96- Sevilla FC -32 -16
    1996/97- Real Madrid C. F. -38 -24
    1997/98- Real Madrid C. F. -29 -10
    1998/99- Real Madrid C. F. -19 -4
    1999/2000 -Arsenal London FC -22 -8
    2000/01 -West Ham United FC- 11 -2
    2001/02- TSV 1860 München -3 -0
    Total -426- 198

    Anh cho rằng khoảnh khắc tồi tệ nhất là khi đá hỏng Penallty cho Arsenal và cho biết thêm với anh khoảnh khắc được xem là tuyệt vời nhất là khi đứng trên bục vinh quang nhận Huy chương đồng WC 98 ?oĐó là khoảnh khắc đẹp nhất đời tôi? anh nói.
    Còn về phần thần tượng bóng đá của anh , anh cho rằng 2 người : 1 HLV và 1 cầu thủ là HLV Wenger của Arsenal và Diego Maradona.
    Kể từ ngày 22/12/1990 Croatia đã đưa đến cho thế giới một tiền đạo tài hoa và kiệt xuất
    Bảng thành tích quốc tế (ngày-hình thức đấu-nơi-gặp-tỉ số-phút ghi bàn)
    1- 22.12.90 Friendly Rijeka Croatia ?" Rumani 2:0
    2- 22.10.92 Friendly Zagreb Croatia ?" Mexiko 3:0
    1:0 (45.)
    2:0 (90.)
    3- 25.06.93 Friendly Zagreb Croatia ?" Ukraine 3:1
    1:0 (13.)
    4- 23.03.94 Friendly Valencia Spain ?" Croatia 0:2
    0:2 (55.)
    5- 04.06.94 Friendly Zagreb Croatia ?" Argentina 0:0
    6- 04.09.94 Sơ loạiEURO ''''96 Tallinn Estland ?" Croatia 0:2
    0:1 (45.)
    0:2 (69.)
    7- 09.10.94 Sơ loạiEURO ''''96 Zagreb Croatia - Litauen 2:0
    8- 16.11.94 Sơ loạiEURO ''''96 Palermo Italy ?" Croatia 1:2
    0:1 (32.)
    0:2 (59.)
    9- 25.03.95 Sơ loạiEURO ''''96 Zagreb Croatia - Ukraine 4:0
    2:0 (20.)
    4:0 (79.)
    10- 29.03.95 Sơ loạiEURO ''''96 Wilna Litauen - Kroatien 0:0
    11- 26.04.95 Sơ loạiEURO ''''96 Zagreb Kroatien ?" Slovenia 2:0
    2:0 (88.)
    12- 11.06.95 Sơ loạiEURO ''''96 Kiev Ukraine -Croatia 1:0
    13- 03.09.95 Sơ loạiEURO ''''96 Zagreb Croatia - Estland 7:1
    2:1 (19min)
    5:1 (58.)
    7:1 (89.)
    14- 08.10.95 Sơ loạiEURO ''''96 Split Croatia - Italy 1:1
    1:1 (48min)
    15- 15.11.95 Sơ loạiEURO ''''96 Ljubljana Slovenia ?" Croatia 1:2
    1:1 (40min)
    16- 13.03.96 Friendly Zagreb Croatia ?"South Korea 3:0
    17- 10.04.96 Friendly Osijek Croatia - Zagreb 4:1
    2:0 (23.)
    18- 24.04.96 Friendly London England ?" Croatia 0:0
    19- 02.06.96 Friendly Dublin Ireland ?" Croatia 2:2
    0:1 (14.)
    20- 11.06.96 EURO ''''96 in England
    Group Nottingham Croatia ?" Turkey 1:0
    21- 16.06.96 EURO ''''96 in England
    Group Sheffield Croatia ?" Dan Mach 3:0
    1:0 (53min)
    3:0 (89.)
    22- 19.06.96 EURO ''''96 in England
    Group Nottingham Croatia ?" Portugal 0:3
    23- 23.06.96 EURO ''''96 in England
    Q-Final Manchester Croatia - Germany 1:2
    1:1 (52.)
    24- 08.10.96 Sơ loạiWC ''''98 Bologna Bosnia-H. ?" Croatia 1:4
    25- 10.11.98 Sơ loạiWC ''''98 Zagreb Croatia - Griechenland 1:1
    1:1 (45.)
    26- 29.03.97 Sơ loạiWC ''''98 Split Croatia ?" Dan Mach 1:1
    1:0 (50.)
    27- 30.04.97 Sơ loạiWC ''''98 Solun Croatia - Kroatien 0:1
    0:1 (77.)
    28- 06.09.97 Sơ loạiWC ''''98 Zagreb Croatia - Bosnia-H. 3:2
    29- 10.09.97 Sơ loạiWC ''''98 Kopenhagen Dan Mach ?" Croatia 3:1
    3:1 (44.)
    30- 11.10.97 Sơ loạiWC ''''98 Ljubljana Slovenia ?" Croatia 1:3
    0:1 (11.)
    31- 29.10.97 Sơ loạiWC ''''98
    Playoff I Zagreb Croatia - Ukraine 2:0
    32- 12.11.97 Qualifikation WC ''''98
    Playoff II Kiew Ukraine - Croatia 1:1
    33- 22.04.98 Friendly Osijek Croatia ?" Poland 4:1
    34- 29.05.98 Friendly Pula Croatia ?" Slovenia 1:2
    35- 03.06.98 Friendly Rijeka Croatia ?" Iran 2:0
    2:0 (77.)
    36- 06.06.98 Friendly Zagreb Croatia - Australien 7:0
    1:0 (14min)
    2:0 (37.)
    5:0 (63min)
    37- 14.06.98 WC ''''98 in Frank-reich
    Group Lens Jamaika ?" Croatia 1:3
    1:3 (68.)
    38- 20.06.98 WC ''''98 in Frank-reich
    Group Nantes Japan ?" Croatia 0:1
    0:1 (77.)
    39- 26.06.98 WC ''''98 in Frank-reich
    Group Bordeaux Argentina ?" Croatia 1:0
    40- 30.06.98 WC ''''98 in France
    1/16 Bordeaux Rumani ?" Croatia 0:1
    0:1 (45min)
    41- 04.07.98 WC ''''98 in France
    Q-Final Lyon Deutschland ?" Croatia 0:3
    0:3 (85.)
    42- 08.07.98 WC ''''98 in France
    Semi Final St. Denis Frankreich ?" Croatia 2:1
    0:1 (47.)
    43- 11.07.98 WC ''''98 in France
    Tranh hang ba Paris Niederlande ?" Croatia 1:2
    1:2 (36.)
    44- 10.10.98 Sơ loạiEURO ''''00 La Valetta Malta ?" Croatia 1:4
    1:4 (80.)
    45- 14.10.98 Sơ loạiEURO ''''00 Zagreb Croatia ?" Macedonia 3:2
    1:1 (16.)
    46- 10.02.99 Friendly Split Croatia ?" Dan Mach 0:1
    47- 10.03.99 Friendly Athen Griechenland ?" Croatia 3:2
    2:2 (81.)
    48- 05.05.99 Friendly Sevilla Spain ?" Croatia 3:1
    0:1 (10.)
    49- 05.06.99 Sơ loạiEURO ''''00 Skopje Macedonia ?" Croatia 1:1
    0:1 (19.)
    50- 18.08.99 Sơ loạiEURO ''''00 Belgrad Jugoslawien ?" Croatia 0:0
    51- 21.08.99 Sơ loạiEURO ''''00 Zagreb Croatia - Malta 2:1
    52- 04.09.99 Sơ loạiEURO ''''00 Zagreb Croatia - Irland 1:0
    1:0 (90.)
    53- 09.10.99 Sơ loạiEURO ''''00 Zagreb Croatia - Jugoslawien 2:2
    54- 13.11.99 Friendly St. Denis Frankreich ?" Croatia 3:0
    55- 23.02.00 Friendly Split Croatia ?" Spain 0:0
    56- 29.03.00 Friendly Zagreb Croatia - Deutschland 1:1
    57- 28.05.00 Friendly Zagreb Croatia - Frankreich 0:2
    58- 02.09.00 Sơ loạiWC 2002 Brüssel Belgium ?" Croatia 0:0
    59- 28.02.01 Friendly Rijeka Croatia - -sterreich 1:0
    60- 24.03.01 Sơ loạiWC 2002 Osijek Croatia - Lettland 4:1
    61- 25.04.01 Friendly Varazdin Croatia - Griechenland 2:2
    62- 02.06.01 Sơ loạiWC 2002 Varazdin Croatia - San Marino 4:0
    3:0 (54min)
    63- 06.06.01 Sơ loạiWC 2002 Riga Lettland ?" Croatia 0:1
    64- 15.08.01 Sơ loạiWC 2002 Dublin Irland ?" Croatia 2:2
    2:2 (90min)
    65- 01.09.01 Sơ loạiWC 2002 Glasgow Scotland ?" Croatia 0:0
    66- 05.09.01 Sơ loạiWC 2002 San Marino San Marino ?" Croatia 0:4
    67- 27.03.02 Friendly Zagreb Croatia - Slowenien 0:0
    68- 17.04.02 Friendly Zagreb Croatia - Bosnien 2:0
    2:0 (52min)
    Được Pires07 sửa chữa / chuyển vào 11:13 ngày 28/02/2004

Chia sẻ trang này