1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại TP HCM: quá khứ và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 02/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bản vẽ kiến trúc bảo tàng kinh tế Nam kỳ năm 1926. Sau này là bảo tàng LSVN tại TP HCM

    Facade Principale detail6


    [​IMG] L

    [​IMG] L

    [​IMG]


  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bản vẽ kiến trúc bảo tàng kinh tế Nam kỳ năm 1926. Sau này là bảo tàng LSVN tại TP HCM

    [​IMG]

    [​IMG] L

    [​IMG]
    -
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh)

    Giá trị

    Bảo tàng mở cửa tiếp đón công chúng lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 1 năm 1929. Buổi đầu, Bảo tàng chỉ có 2.893 cổ vật

    Như vậy, cho đến ngày thành hình chính thức (1929), Viện Bảo Tàng Sài Gòn đã có một thời gian khá dài gần 43 năm (1886-1929) để lượm lặt, thu thập, trân tàng biết bao nhiêu cổ vật quý báu. Ðặc biệt đáng kể là công trình sưu tập của Hội Nghiên Cứu Cổ Học Ðông Dương (Société des Etudes Indochinoises), mua lại các bộ sưu tập cổ ngoạn tư nhân, giữ gìn các sưu tập do các tỉnh miền Nam gởi tặng, chăm sóc các thạch khí từ Viện Bảo Tàng Albert Sarraut (Nam Vang) gởi xuống. Ðáng kể nhất là bộ sưu tập cổ ngoạn Hoa-Việt của Dược Sĩ Holbé, sau khi qua đời năm 1927, được bán ra với giá 45.000 đồng; Hội Nghiên Cứu Ðông Dương mở một cuộc lạc quyên rộng rãi trong công chúng để mua lại bộ sưu tập này và tặng hết cho Viện Bảo Tàng. Nhờ thế mà sau này đã hình thành được một Viện Bảo Tàng mỹ thuật, lịch sử, khảo cổ và dân tộc học khá lớn, giới thiệu được nhiều nét đặc sắc của nền văn hóa, mỹ thuật Ðông Nam Á với các phòng mỹ thuật Phù Nam, Óc Eo, Việt Nam, Chiêm Thành, Khmer, Tiền Ðế Thiên Ðế Thích (PréAngkor), Thái Lan và nhiều nét mỹ thuật Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản.

    Cũng cần biết thêm là do sự gắn bó đặc biệt giữa Hội Nghiên Cứu Ðông Dương và Viện Bảo Tàng Sài Gòn từ trong trứng nước, nên khi Viện vừa thành lập thì trụ sở hoạt động của Hội cũng được đặt ngay chính giữa lòng Viện với một thư viện rất đầy đủ, số sách khảo cứu về Viễn Ðông nơi đây lên đến năm nghìn quyển cùng ba trăm loại tạp chí viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

    Đến những năm cuối thế kỷ 20, bảo tàng đã có hơn 16.000 hiện vật rất có giá trị… Ngoài ra, bảo tàng còn có trên 25.000 sách báo và tài liệu, cũng rất có giá trị cho công việc nghiên cứu các ngành khảo cổ học, dân tộc học, sử học, bảo tàng học...
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    TẢN MẠN NHÂN 30 NĂM THÀNH LẬP BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM-THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    TS. Trịnh Thị Hòa [​IMG]

    Ngày 31-08-2009


    [​IMG]Nguyên Giám đốc BTLSVN-TP.HCM

    Tính đến khi nghỉ hưu, tôi đã làm việc tại Bảo tàng này được hơn 28 năm (1976-2004). Với ngần ấy thời gian, tôi có biết bao kỷ niệm vui, buồn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài viết này, tôi chỉ xin nêu lên một vài trong số rất nhiều kỷ niệm đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc không chỉ trong những tháng năm còn làm việc tại Bảo tàng mà cả cho đến tận bây giờ.

    1. Trước hết, có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên, đó là những ngày đầu tiên khi mới về Bảo tàng. Thú thật lúc đó, tôi cũng hơi buồn vì nó không giống như những gì mình nghĩ trước khi chuyển công tác vào đây (1976), bởi theo suy nghĩ của tôi lúc bấy giờ thì đây là Bảo tàng do người Pháp xây dựng nên chắc sẽ quy mô lắm và công tác chuyên môn ắt hẳn sẽ có tính chuyên nghiệp cao. Nhưng khi đến Bảo tàng, tôi thấy hoàn toàn khác. Cụ thể là ngôi nhà để làm Bảo tàng có diện tích không lớn, kho bảo quản hiện vật (một tiêu chuẩn không thể thiếu đối với bất cứ một Bảo tàng nào) thì lại hoàn toàn không có. Và, điều đáng buồn nữa là trong số 13 cán bộ, công chức (trừ 2 đồng chí Lãnh đạo và 1 cán bộ làm công tác thư viện vào tiếp quản), số còn lại không có một người nào làm công tác nghiệp vụ Bảo tàng. Ngoài ra, là một Bảo tàng do Bộ văn hóa tổ chức tiếp quản và quản lý, nhưng lại không có được một cái tên gọi chính thức, thậm chí đến cái cổng ra, vào cũng phải lệ thuộc vào cơ quan khác (Thảo Cầm Viên hay còn gọi là Sở Thú).

    Sau khi Bảo tàng được giao cho Thành phố Hồ Chí Minh (1978), mà cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp là Sở Văn hóa Thông tin thì Bảo tàng mới dần dần được khởi sắc. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bảo tàng trong thời điểm đó là tiến hành cải tạo phần nhà cũ, đồng thời mở rộng phần nhà mới của Bảo tàng để tiến tới việc chuyển đổi nội dung trưng bày của Bảo tàng này từ một Bảo tàng giới thiệu các chuyên đề về mỹ thuật của một số nước ở Châu Á, trong đó có một phần nhỏ của Việt Nam, trở thành một Bảo tàng mang tính lịch sử nhằm giới thiệu quá trình dựng nước và giữ nước cùng với các nền văn hóa lâu đời của dân tộc để tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) cũng như các tỉnh phía Nam tham quan, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của nước nhà.

    Song song với công việc trên, để tạo cảnh quan sạch đẹp cho Bảo tàng, được sự đồng ý của các cấp Lãnh đạo, các cán bộ, công chức của Bảo tàng đã tích cực tham gia phong trào“lao động xã hội chủ nghĩa”, nhờ vậy mà từ những vườn cỏ rậm rạp đã trở thành khu trưng bày ngoài trời (nơi trưng bày sưu tập súng thần công hiện nay) và một vườn cảnh phù hợp với tính chất của Bảo tàng (nay đã cải tạo thành vườn hoa). Và, cũng với hình thức “lao động xã hội chủ nghĩa” mà từ chỗ không có cổng riêng, Bảo tàng đã có cổng của riêng mình. Những ngày tham gia “lao động xã hội chủ nghĩa” như thế tuy có mệt nhưng rất vui và tôi nghĩ rằng, không chỉ riêng tôi mà có lẽ đối với tất cả những ai đã tham gia các công việc nói trên, đều coi đó là những kỷ niệm khó quên trong cuộc đời của mỗi người.

    2. Tôi còn nhớ, vào những năm đầu tiếp quản Bảo tàng, một công việc quan trọng và cũng tốn nhiều công sức của những người làm công tác chuyên môn nơi đây là việc tập hợp, thống kê và sau đó tiến hành kiểm kê các hiện vật đang trưng bày cũng như những hiện vật để rải rác trong các phòng làm việc của Bảo tàng này từ trước 1975 (kể cả phòng của ông Quản thủ Bảo tàng).

    Chắc chắn, những cán bộ, công chức của Bảo tàng trong thời điểm đó không thể quên những chuỗi ngày (gần 2 tháng trời), mà một số cán bộ chuyên môn của Bảo tàng, ngày nào cũng như ngày ấy phải leo lên gần đỉnh của tòa nhà để vào các gác phụ (nơi cất giữ nhiều “đồ vật”), đồng thời cần mẫn “góp nhặt” từ các nơi trong bảo tàng những thứ, mà sau khi chọn lựa, thống kê, kiểm kê và đưa xuống kho, chúng đã trở thành hiện vật bảo tàng. Sau khi kết thúc công việc nói trên, Bảo tàng chúng ta đã có được trên 5.000 hiện vật để sử dụng trong công tác trưng bày cũng như tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành kho bảo quản.

    Nhân việc Bảo tàng được thừa kế một khối lượng hiện vật khá lớn vào “ buổi sơ khai” như trên, tôi cũng muốn nói thêm rằng, năm nay, chúng ta kỉ niệm 30 năm thành lập Bảo tàng với tên gọi chính thức như hiện nay (theo quyết định của Ủy ban nhân dân TPHCM vào tháng 8/1979) nhưng thực ra Bảo tàng này đã có từ cách đây 80 năm (1929) do người Pháp xây dựng và đặt tên là “Bảo tàng Blanchard de la Bross”[​IMG]. Và, theo tôi, cho dù người Pháp lập ra Bảo tàng để phục vụ cho mục đích riêng của họ, song, có điều không nên phủ nhận và ngược lại, phải cám ơn những nhà khoa học Pháp vì nhờ những hoạt động chuyên môn của họ mà chúng ta mới có trên 5.000 hiện vật để kế thừa, trong đó có một số sưu tập rất có giá trị hiện đang được giới thiệu trong Bảo tàng dưới dạng các phòng trưng bày sưu tập như: sưu tập văn hóa Óc Eo, sưu tập điêu khắc đá Chăm Pa, sưu tập điêu khắc đá Căm Pu Chia và một phần lớn hiện vật trong chuyên đề: “Văn hoá các dân tộc phía Nam”. Tôi nghĩ rằng, giả sử các nhà khoa học Pháp không tiến hành việc nghiên cứu, sưu tầm và gìn giữ các di sản đó thì chắc chắn, chúng đã bị mai một, thậm chí, bị hủy hoại qua thời gian với những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Hiện nay, nếu đối chiếu với khái niệm “di sản văn hóa”(DSVH) quy định trong Luật di sản văn hóa thì chúng đều xứng đáng là một trong những loại di sản văn hóa vật thể (**). Qua đó, có thể nói, các sưu tập di sản do người Pháp để lại vừa làm tăng thêm giá trị của BTLSVN - TPHCM, vừa góp phần làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa của dân tộc.

    Tiếp sau các nhà khoa học Pháp và một số cộng sự người Việt Nam giai đoạn trước 1975, trong hơn 30 năm qua, các thế hệ lãnh đạo và cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn của Bảo tàng chúng ta đã góp phần đáng kể trong việc thu thập, sưu tầm và kết quả là đã nâng tổng số hiện vật lên hơn 35.000 (gấp 6 lần so với trước năm 1975). Và, điều đáng lưu ý là nhờ vậy mà Bảo tàng chúng ta đã từng bước xây dựng được một hệ thống với 10 kho bảo quản như hiện nay. Theo tôi, đó là một trong những thành tựu vô cùng quan trọng mà BTLSVN - TPHCM đã đạt được trong 30 năm hình thành và phát triển.

    3. Có những kỷ niệm cũng đã để lại trong tôi ấn tượng khó quên, đó là một số công việc liên quan đến hoạt động mang tính xã hội hóa của Bảo tàng chúng ta trong nhiều năm qua. Thật vậy, làm sao tôi quên được những đợt triển lãm lưu động tại các Bảo tàng ở cả ba miền của đất nước như: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Thừa Thiên - Huế, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu…vv mà mỗi nơi chúng ta đến không chỉ là sự hợp tác trong việc “đưa bảo tàng đến với công chúng”, chúng ta còn được đón nhận tình nghĩa sâu đậm của bạn bè, đồng nghiệp. Rồi, biết bao nhiêu điều đáng nhớ khi chúng ta mang những bộ triển lãm đến với công chúng cũng như các em học sinh ở một số vùng sâu, vùng xa của TPHCM như: Đồn biên phòng 558 và một số trường học ở Cần Giờ; Cù lao Long Phước ở quận 9; Trường Đại học cảnh sát ở Thủ Đức; Trung tâm cai nghiện Nhị Xuân ở Hóc Môn; Trung tâm văn hóa và một số trường học ở các quận, huyện ngoại thành khác như: Quận 12, Bình Chánh, Củ Chi, Nhà Bè, …vv. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh những chiến sĩ bộ đội biên phòng ở Cần Gìờ ngay từ sáng sớm đã có mặt đông đủ để dự lễ khai mạc và chăm chú nghe cán bộ thuyết minh của Bảo tàng chúng ta giới thiệu nội dung của cuộc triển lãm với chủ đề: “Lịch sử Việt Nam qua tư liệu và hình ảnh”, rồi hình ảnh những em học sinh ở các vùng xa thành phố thích thú khi được nhìn thấy chiếc trống đồng, hay ảnh chụp những chiếc cọc gỗ đầu bịt sắt mà Ông Cha ta đã sử dụng để phá tan thuyền giặc trên sông Bạch Đằng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông…vv.

    Liên quan đến việc “xã hội hóa hoạt động bảo tàng”, tôi còn có một kỷ niệm thuộc loại “chuyện bây giờ mới kể”, đó là cái “thuở ban đầu” của sự hợp tác giữa Bảo tàng với các nhà sưu tập. Hồi đó, để hưởng ứng chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, Bảo tàng chúng ta đã tiến hành vận động các nhà sưu tập cùng phối hợp trưng bày cổ vật (nhất là những cổ vật tiêu biểu, quý hiếm mà Bảo tàng không có) thuộc các chủ đề khác nhau, nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân và cả du khách nước ngoài được tiếp cận nhiều hơn với các di sản văn hóa dân tộc.

    Tuy nhiên, lúc đó, chúng ta chưa có được những thuận lợi như bây giờ. Tôi còn nhớ, vào thời điểm 1998, “dư âm” của cuộc cải tạo tư sản vẫn còn nên nhiều người nghi ngại, sợ rằng nhà nước (thông qua Bảo tàng) mượn hiện vật rồi “trưng thu” luôn. Hơn nữa, lúc bấy giờ, Luật DSVH chưa ban hành (năm 2001 mới có Luật DSVH), cũng đồng nghĩa với việc chưa có gì “ràng buộc” giữa Bảo tàng với các nhà sưu tập (chủ sở hữu hiện vật) nên việc các nhà sưu tập phân vân, lưỡng lự hợp tác với Bảo tàng là rất đáng thông cảm. Và, có lẽ vì thế mà lần đầu tiên, khi chúng ta tổ chức cuộc gặp gỡ để vận động các nhà sưu tập phối hợp với Bảo tàng trưng bày thì chỉ có 7 nhà sưu tập đến dự họp. Sau này, tôi được một nhà sưu tập cho biết rằng, chính sáng hôm đó, cũng có một số nhà sưu tập đến nhưng ngồi chơi ở Thảo Cầm Viên để chờ nghe tin tức từ nhà sưu tập có tham dự cuộc họp (người này là người quen của họ), rồi họ mới quyết định có hợp tác với Bảo tàng nhà nước hay không?.

    Chính vì lý do trên, Bảo tàng chúng ta đã quán triệt tinh thần là phải bằng việc làm cụ thể để chứng minh và tạo niềm tin cho các nhà sưu tập. Một điều vô cùng thuận lợi là ngay từ lần hợp tác đầu tiên giữa bảo tàng chúng ta và 7 nhà sưu tập, chúng ta đã đạt được kết quả tốt đẹp. Thông qua việc làm trên, Bảo tàng vừa góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bảo tàng, vừa góp phần gây dựng và tạo cơ sở cho việc phát triển mối quan hệ hợp tác giữa các Bảo tàng ở Thành phố HCM với các nhà sưu tập không chỉ trên địa bàn thành phố, mà mở rộng đến cả một số tỉnh ở vùng Nam Bộ. Và, theo tôi, điều quan trọng nhất trong việc tạo được niềm tin cho các nhà sưu tập lúc bấy giờ là sau khi kết thúc thời hạn trưng bày, cổ vật mượn của các nhà sưu tập được Bảo tàng hoàn trả đầy đủ và chu đáo (chứ không phải Bảo tàng nhà nước sẽ “trưng thu” cổ vật của tư nhân như suy diễn của một số người). Cũng chính vì thế mà từ chỗ chỉ có 7 nhà sưu tập ban đầu hợp tác với Bảo tàng, sau đó đã có gần 20 nhà sưu tập cùng với chúng ta liên tục tổ chức các cuộc trưng bày tại Bảo tàng, trong đó chuyên đề: “Việt Nam 2000 năm giao lưu văn hóa” còn đưa đi một số tỉnh như: Cần Thơ, Kiên Giang, Bạc Liêu, Khánh Hòa. Đến nay, số lượng các nhà sưu tập hợp tác với Bảo tàng chúng ta trong hoạt động nói trên đã tăng lên rất nhiều và điều đáng nói nữa là việc làm đó đã dược nhân rộng ra một số Bảo tàng khác của Thành phố.

    Đề cập đến sự đóng góp của các nhà sưu tập đối với hoạt động của BTLSVN - TPHCM, theo tôi, chúng ta không được quên một người rất đáng kính, dẫu rằng giờ đây ông không còn nữa, đó là Cố học giả Vương Hồng Sển đồng thời là một nhà sưu tập chân chính đã dày công sưu tập các DSVH và trước khi mất đã hiến tặng toàn bộ sưu tập của mình với hơn 900 hiện vật (chưa kể sách vở) cho TPHCM và Bảo tàng của chúng ta đã vinh dự được UBND Thành phố giao nhiệm vụ bảo quản và phát huy giá trị của chúng. Khi đó (thời điểm 1998) mặc dù cơ sở vật chất còn hạn chế, song, chúng ta đã tổ chức bảo quản tốt sưu tập này và cố gắng phát huy giá trị của chúng thông qua việc kịp thời lựa chọn những cổ vật tiêu biểu tạo thành một chuyên đề với tên gọi: “Sưu tập Vương Hồng Sển” trưng bày 6 tháng tại Bảo tàng để phục vụ khách tham quan, sau đó, đưa chuyên đề này đi triển lãm ở Hà Nội, Huế và các tỉnh, rồi cuối cùng, chúng ta đã giành riêng một phòng trong hệ thống trưng bày cố định của Bảo tàng để trưng bày bộ sưu tập quý giá nói trên.

    Tuy nhiên, vào những năm sau đó, thể theo nguyện vọng của nhà sưu tập đáng kính này, Lãnh đạo Thành phố có chủ trương trùng tu ngôi nhà của Ông tại đường Nguyễn Thiện Thuật (Quận Bình Thạnh - TPHCM) để đưa sưu tập hiện vật của Ông về trưng bày tại đó, thế nhưng, đã gần 5 năm trôi qua, công việc trên vẫn chưa thực hiện được. Cho dù rất thông cảm với những khó khăn chủ quan và khách quan của Thành Phố, nhưng với tư cách của một người đã tham gia tiếp nhận và sử dụng sưu tập trên, mỗi khi nghĩ đến, tôi vẫn rất phân vân và áy náy.

    4. Nhìn lại hoạt động của BTLSVN - TPHCM trong 30 năm qua, tôi thấy rằng, để có được những kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh việc phát huy nội lực, chúng ta phải kể đến việc hỗ trợ và hợp tác có hiệu quả của nhiều Bảo tàng và cơ quan hữu quan mà trước hết là Bảo tàng lịch sử Việt Nam (Hà Nội). Có thể nói, từ khi thành lập cho đến nay, giữa hai Bảo tàng luôn có sự hỗ trợ và hợp tác với nhau trong các hoạt động như: khai quật, trưng bày, nghiên cứu, xuất bản, trao đổi hiện vật… và điều đặc biệt là công việc nào cũng “trôi chảy” và để lại những tình cảm tốt đẹp cho lãnh đạo cũng như đồng nghiệp của cả hai bên.

    Ngoài Bảo tàng lịch sử Việt Nam (Hà Nội), Bảo tàng chúng ta đã hợp tác với nhiều Bảo tàng khác, song, quy mô nhất và để lại ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi, đó là việc 12 Bảo tàng ở các tỉnh Nam bộ và TPHCM đã rất nhiệt tình kết hợp với Bảo tàng chúng ta trưng bày chuyên đề “Văn hóa Óc Eo” nhân 60 năm phát hiện nền văn hóa này. Có thể khẳng định rằng, với trên 500 hiện vật tiêu biểu (chưa kể tư liệu, hình ảnh) được chọn lựa và tập hợp từ 13 Bảo tàng tham gia (trong đó có Bảo tàng chúng ta) thì đây là cuộc trưng bày lần đầu tiên với một khối lượng hiện vật lớn nhất có liên quan đến nền văn hóa Óc Eo. Điều đáng nói nữa là trong lần trưng bày này, Bảo tàng không chỉ giới thiệu các di sản thuộc nền văn hóa này do các nhà khảo học Việt Nam phát hiện từ sau 1975, mà còn trưng bày cả các di sản do nhà khảo học người Pháp Louis Malleret và các cộng sự tìm thấy vào những năm 40 của thế kỷ XX. Qua việc làm trên, chúng ta đã tạo điều kiện cho công chúng trong nước và du khách nước ngoài có dịp đến tham quan Bảo tàng được tiếp cận với những di sản có giá trị của Văn hóa Óc Eo mà nếu không có cuộc trưng bày này, để tiếp cận được với những di sản đó, họ phải đến với 13 Bảo tàng lưu giữ chúng. Tuy nhiên, điều đó cũng không phải dễ dàng bởi nhiều Bảo tàng chưa có điều kiện đưa tất cả các hiện vật ra trưng bày tại Bảo tàng mình. Hơn nữa, đến với cuộc trưng bày trên, khách tham quan không chỉ được nhìn thấy những hiện vật tiêu biểu, quý hiếm của các Bảo tàng, mà còn được các cán bộ thuyết minh cung cấp nhiều thông tin bổ ích và mang tính tổng hợp về nền văn hóa này. Chỉ tiếc một điều là trước khi tôi về hưu (tháng 5/2004), tuy đã có bản thảo cuốn danh mục (cataloge) giới thiệu Bộ sưu tập hiện vật văn hóa Óc Eo của 13 Bảo tàng cùng tham gia cuộc trưng bày, song, ở thời điểm đó vì thời gian quá gấp nên Bảo tàng chưa kịp hoàn chỉnh để xuất bản. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi thấy mình có lỗi với các Bảo tàng Bạn, nhưng, biết làm sao được, về hưu rồi thì “lực bất tòng tâm”. Chỉ mong các đồng nghiệp thông cảm.

    Ngoài các Bảo tàng, trong mấy chục năm qua, nhiều cơ quan khoa học ở Trung ương cũng như ở TPHCM cũng đã hợp tác với Bảo tàng chúng ta trong nhiều công việc (khai quật, tổ chức hội thảo khoa học, xuất bản, đào tạo v.v…) và đã thu được những kết quả đáng khích lệ, trong số đó có Viện khảo cổ học Việt Nam, Viện khoa học xã hội tại TPHCM, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, Hội sử học Thành phố, Nhà xuất bản Trẻ v.v … Đặc biệt, có một cơ quan nước ngoài cũng đã có những hỗ trợ thiết thực cho Bảo tàng chúng ta, đó là Phòng văn hóa thuộc Tổng lãnh sự quán Pháp tại TPHCM bắt đầu bằng việc ông Tùy viên văn hóa tặng Bảo tàng một sưu tập với gần 100 hiện vật gốm Việt Nam (chủ yếu là các loại bình vôi) sau khi ông được Bảo tàng mời đến dự buổi khai mạc chuyên đề: “Gốm Việt Nam và một số nước Châu Á” mà từ đó cho đến nay đã trở thành một trong những chuyên đề trưng bày cố định của Bảo tàng. Tiếp sau công việc trên là việc hỗ trợ tiền để Bảo tàng in tập gấp bằng tiếng Pháp và đặc biệt là tài trợ kinh phí cho cuộc trưng bày chuyên đề “Văn hóa Óc Eo” nhân 60 năm nền văn hóa này được phát hiện và quan trọng nhất là tạo điều kiện cho Bảo tàng được tham gia dự án“ FSP” (Phát huy di sản bảo tàng Việt Nam) nhằm hiện đại hóa một số phòng trưng bày của Bảo tàng.

    Trên đây chỉ là một số trong những Bảo tàng và các cơ quan hữu quan (tính đến thời điểm tôi về hưu) đã có sự phối hợp hoặc hỗ trợ Bảo tàng chúng ta trong một số hoạt động chuyên môn và kết quả của những hoạt động nói trên đã góp phần vào sự phát triển của BTLSVN - TPHCM.

    Cuối cùng, trước khi kết thúc bài viết này, tôi xin được nói thêm một điều là trong 32 năm gắn bó với cái “nghiệp” Bảo tàng, thì đã có gần 9/10 số thời gian (28/ 32 năm) tôi gắn với Bảo tàng này, vì thế, biết bao nhiêu kỷ niệm sâu sắc còn đọng lại trong tôi, tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài viêt nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Bảo tàng, tôi chỉ đề cập đến một vài trong số rất nhiều những kỷ niệm khó quên trong những tháng năm tôi còn làm việc nơi đây cũng như khi đã về hưu. Và, những điều tôi “tâm sự” trên đây không phải để “ôn nghèo, kể khổ” mà là để cùng với những “người cũ” nhớ về những điều tốt đẹp đã qua, để những “người mới” hiểu được một phần quá khứ của Bảo tàng mà chính từ nhiều phần quá khứ đó Bảo tàng của chúng ta mới dần dần “đi lên” và “trưởng thành”. Tôi mong rằng, tất cả chúng ta (trong đó có tôi) hãy luôn nhớ rằng, để có được một Bảo tàng như ngày hôm nay, là có một phần đóng góp của các nhà khoa học Pháp và đặc biệt là sự đóng góp trí tuệ và công sức của các thế hệ Lãnh đạo cũng như cán bộ, công chức của Bảo tàng chúng ta trong suốt 30 năm qua.



    Tháng 4/2009

    T.T.H


    Chú thích



    [​IMG] Bảo tàng Blanchard de la Brosse (tên của Thống đốc Nam Kỳ, người ký quyết định thành lập bảo tàng) khánh thành vào ngày 1/1/1929. Đến năm 1956, Chính quyền Sài Gòn đổi tên thành “Viện bảo tàng quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn”.

    (**) Điều 4 của Luật di sản văn hóa (ban hành năm 2001) quy định:

    “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”.
    __________________
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Quyết định thành lập Bảo Tàng Lịch sử TP.Hồ Chí Minh

    Ủy ban nhân dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

    Thành phố Hồ Chí Minh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    Số: 235/QĐ-UB

    Tp.Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 8 năm 1979

    Quyết Định Thành lập
    Bảo Tàng Lịch sử TP.Hồ Chí Minh trực thuộc Sở VHTT
    Ủy Ban nhân dân Thành phố Hồ chí Minh

    - Căn cứ luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính các cấp ngày 27 tháng 10 năm 1962 .
    - Xét yêu cầu xây dựng và phát triển nghành Bảo tồn Bảo Tàng
    - Xét đề nghị của đồng chí Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin và đồng chí trưởng ban tổ chức chánh quyền Thành phố

    Quyết Định

    Điều 1: Nay thành lập "Bảo Tàng lịch sử" thành phố Hồ Chí Minh, trực thuộc Sở Văn hóa và Thông tin .
    Bảo tàng lịch sử thành phố là đơn vị sự nghiệp, được cấp kinh phí, có tài khoản ở Ngân hàng và được sử dụng con dấu riêng .

    Điều 2: Bảo tàng lịch sử thành phố có nhiệm vụ:

    Nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và tổ chức trưng bày bằng nhiều hình thức nhằm giới thiệu hiện vật và tư liệu lịch sử có liên quan đến lịch sử dân tộc Việt Nam - lịch sử dựng nước và giữ nước gồm có phần chung của Nhà nước và của thành phố .

    Tổ chức, Hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân xem Bảo Tàng, góp phần vào việc giáo dục truyền thống đấu tranh của dân tộc, truyền thống cần cù lao động sáng tạo, nền văn hóa lâu đời ... góp phần giáo dục, động viên tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc chân chính, sẵn sàng lao động và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc .

    Có kế hoạch từng bước xây dựng và phát triển Bảo tàng lịch sử, vận động quần chúng phát hiện, sưu tầm, đóng góp xây dựng bảo tàng lịch sử .

    Giúp sở văn hóa thông tin tổ chức việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ nghiệp vụ Bảo tồn bảo tàng cho thành phố giúp các địa phương trong thành phố trong việc Bảo tồn và phát huy mặt tích cực của di tích lịch sử.

    Điều 3: Bảo tàng lịch sử Thành phố dưới quyền điều khiển của một Giám đốc, có hai phó Giám đốc giúp việc. Cơ cấu tổ chức và biến chế của Bảo tàng lịch sử do đồng chí Giám đốc Sở Văn hóa và Thông tin quyết định trên cơ sở chỉ tiêu, kế hoạch, biến chế chung do ủy ban nhân dân Thành phố giao hàng năm cho Sở Văn hóa và Thông tin.

    Điều 4: Các đồng chí Chánh văn phòng ủy ban nhân dân thành phố, Trưởng ban tổ chức chánh quyền Thành phố. Giám đốc Bảo tàng lịch sử Thành phố có trách nhiệm thi hành quyết định này .

    Nơi nhận Ủy ban Nhân dân Thành phố
    - Như điều 4 Chủ tịch
    - BTU Thành phố Phó Chủ tịch
    - BTH Thành ủy Đã ký : Lê Quang Chánh
    - UBKH Thành phố
    - NHNN Thành phố
    - P.QLTA Sở Công an
    - Ban TCQQ(3 bản)
    - Lưu VP –UB
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh

    Lịch sử hình thành và phát triển

    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP.Hồ Chí Minh (BTLSVN-TPHCM) tuy mới được thành lập cách đây không lâu, nhưng ngôi nhà của Bảo tàng đã được khởi công xây dựng từ năm 1927 và hoàn thành vào tháng 1-1929. Lúc đó, người Phát đặt tên là “Bảo tàng Blanchard de la Brosse” (tên vị Thống đốc Nam kỳ bấy giờ). Năm 1956, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành “Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn”, nội dung chủ yếu vẫn là trưng bày về mỹ thuật cổ của một số nước châu Á, trong đó có một phần nhỏ của Việt Nam.

    Mặc dù năm 1979 mới chính thức được thành lập (theo Quyết định số: 235/QĐ-UB ngày 23/08/1979 của UBND thành phố Hồ Chí Minh), nhưng thực chất mọi hoạt động của Bảo tàng đã được bắt đầu ngay từ khi tiếp quản (năm 1975 để phục vụ các tầng lớp nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng như khu vực phía Nam trong những năm đầu giải phóng.

    Từ khi đổi tên, Bảo tàng đã xúc tiến việc xây dựng các sưu tập hiện vật liên quan đến các mặt lịch sử, chính trị xã hội, văn hoá nghệ thuật của Việt Nam nhằm thay đổi tính chất của một Bảo tàng mang tính mỹ thuật Á Đông trước kia thành Bảo tàng mang tính lịch sử của dân tộc Việt Nam. Từ đó đến nay, Bảo tàng luôn chủ động tìm biện pháp để xây dựng Bảo tàng thành một thiết chế và “một địa chỉ văn hoá” quan trọng, quen thuộc đối với các đối tượng công chúng khác nhau ở trong nước cũng như nước ngoài, đồng thời, Bảo tàng cũng là cơ quan khoa học được giới nghiên cứu rất quan tâm.

    1/3 thế kỷ - một chặng đường phát triển của BTLSVN-TP.HCM chưa phải là dài và còn những việc cần thực hiện tốt hơn, nhưng Bảo tàng đã thực sự lớn mạnh không ngừng trên tất cả mọi mặt và thấy được tiềm năng của Bảo tàng khi bước vào chặng đường mới.

    1. Sau giai đoạn tiếp thu, kế thừa, BTLSVN-TP.HCM bước vào giai đoạn nỗ lực hoạt động và phát triển không ngừng, thể hiện trên các mặt:

    1.1 Xây dựng được một Bảo tàng mới trên “nền cũ” (Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn) qua việc tạo dựng được một hệ thống trưng bày gồm 18 phòng và 1 phần trưng bày ngoài trời (trước 1975 chỉ có 9 phòng trưng bày). Những phòng trưng bày này đã phản ánh khá sinh động lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời giới thiệu được những nét cơ bản của các nền văn hoá lâu đời, giàu truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cũng như một số nước châu Á. Trên cơ sở đó, phục vụ thiết thực cho công tác giáo dục truyền thống và nâng cao dân trí.

    1.2 Xây dựng một hệ thống gồm 10 kho bảo quản hiện vật (trước 1975 không có kho bảo quản hiện vật) với diện tích gần 1000m2 để lưu giữ hơn 36.000 hiện vật (trước 1975 chỉ có gần 5.000 hiện vật), đồng thời, trong mấy chục năm qua, Bảo tàng đã tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm kê và quản lý hiện vật; kết hợp với Bộ Công an đánh dấu hiện vật quý hiếm bằng phương pháp đặc biệt;… nhờ vậy, công tác bảo quản đã phục vụ thiết thực cho công tác trưng bày và đáp ứng có hiệu quả cho công tác nghiên cứu khoa học của nhiều đối tượng khác nhau, kể cả một số nhà nghiên cứu nước ngoài.

    1.3 Chú trọng đúng mức công tác sưu tầm, do vậy, hiện vật được liên tiếp bổ sung cho Bảo tàng. Nhờ đó, những “khoảng trống” trong hệ thống trưng bày đã được “lấp dần” bằng các sưu tập hiện vật có giá trị và càng ngày càng phục vụ hiệu quả hơn cho công tác nghiên cứu khoa học, góp phần đẩy mạnh các mặt hoạt động chuyên môn của Bảo tàng.

    1.4 Phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong công tác trưng bày, thể hiện qua việc từng bước đổi mới về nội dung cũng như hình thức và tăng cường việc tổ chức trưng bày tại Bảo tàng nhiều chuyên đề cố định và không cố định về văn hóa cổ Việt Nam cũng như một số nước trong khu vực. Hơn 20 chuyên đề với khoảng 60 đợt trưng bày tại Bảo tàng và ở nhiều địa phương trong cả nước đã làm cho nội dung hoạt động của Bảo tàng thêm phong phú, góp phần làm sáng rõ hơn truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đồng thời làm thấy được tính đa dạng, sự giao lưu văn hoá trong khu vực và trên thế giới. Nhờ có những hoạt động đa dạng như vậy mà mỗi năm, BTLSVN-TP.HCM phục vụ từ 250.000 đến 300.000 lượt khách tham quan, trong đó có hàng chục ngàn người nước ngoài. Mặt khác, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân mọi miền đất nước hiểu thêm về lịch sử, văn hoá của dân tộc Việt Nam nói chung, khu vực phía Nam và TP. Hồ Chí Minh nói riêng.

    1.5. Phối hợp, liên kết có hiệu quả với các cơ quan khoa học như: Viện BTLSVN – Hà Nội, Viện Khảo cổ học Việt Nam, Viện KHXHNV tại TPHCM, Trường Đại học KHXH và NV – TP.HCM, trương Đại học Văn hóa TP.HCM và với nhiều Bảo tàng bạn… trong việc tổ chức các đợt sưu tầm và các cuộc khai quật khảo cổ học; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học và xuất bản các ấn phẩm,… qua đó, đội ngũ cán bộ của Bảo tàng có điều kiện tiếp xúc, làm việc, học tập, nghiên cứu và đã từng bước trưởng thành.

    Đặc biệt, trong những năm gần đây Bảo tàng LSVN-TP.HCM đã tích cực thực hiện “Chủ trương xã hội hoá hoạt động Bảo tàng” thông qua việc động viên, vận động các nhà sưu tập cổ vật phối hợp với Bảo tàng trưng bày các chuyên đề liên quan đến lịch sử, văn hoá Việt Nam và các nước như: “Cổ vật Lý-Trần”, “Cổ vật thời Lê”, “Cổ vật Việt Nam – 2000 năm giao lưu văn hoá”, “Các nước ASEAN qua di vật và tư liệu”, “Cổ vật gỗ thời Nguyễn”, “Công cụ và vũ khí thời đại kim khí ở Đông – Nam bộ”,… hoặc phối hợp trong công tác nghiên cứu các di sản văn hoá lưu giữ tại Bảo tàng và trong các sưu tập tư nhân. Từ chỗ ban đầu chỉ có 7 nhà sưu tập “đến” với Bảo tàng, nay Bảo tàng đã có mối quan hệ với hơn 50 nhà sưu tập ở TPHCM và các tỉnh sẵn sàng kết hợp với bảo tàng khi cần. Từ mối quan hệ đó, trong những năm gần đây, Bảo tàng đã được 20 nhà sưu tập và một số cá nhân tặng trên 500 hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật chưa có trong Bảo tàng. Đây là một đóng góp quan trọng và rất đáng khích lệ của BTLSVN-TPHCM.

    1.6 Có định hướng đúng và thực hiện có hiệu quả công tác bồi dưỡng, đào tạo lực lượng cán bộ, công chức viên chức về nhiều mặt. Tính đến năm 2007, bảo tàng đã có 10 Tiến sĩ, 01 Thạc sĩ, 04 người đang theo Cao học, 03 cử nhân ngoại ngữ, 05 đại học – Cao đảng, 03 người đang học đại học. Ngoài ra, CB, CC, VC của Bảo tàng còn được cử đi học các lớp bồi dưỡng, các khoá tập huấn về chuyên môn, ngoại ngữ, về quản lý nhà nước, chính trị, công tác bảo vệ, công tác đoàn thể…

    Có thể nói, trong mấy chục năm qua, bằng sự phấn đấu không ngừng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, BTLSVN – TP.HCM đã từng bước đi lên. Đây là Bảo tàng đầu tiên trong số rất ít ỏi Bảo tàng ở khu vực phía Nam được xếp loại Bảo tàng hạng I và được công nhận như một Bảo tàng quốc gia của Việt Nam.

    Với những cố gắng và những thành quả đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển, BTLSVN-TP.HCM đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý:

    - Năm 1996 ************* tặng: Huân chương lao động hạng III

    - Năm 2000 ************* tặng: Huân chương lao động hạng II

    - Bộ Văn hoá Thông tin tặng 05 “Bằng khen”

    - UBND TPHCM tặng 08 “Bằng khen” và 01 cờ Luân lưu

    - UBND tỉnh Khánh Hoà tặng 01 “Bằng khen”

    - UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế tặng 01 “Bằng khen”

    - Ban tổ chức lễ hội – TPHCM tặng 04 “Bằng khen”

    - Sở VHTT TPHCM tặng nhiều “Giấy khen”…

    Hiện nay, toàn thể Cán bộ Công nhân Viên chức BTLSVN – TP.HCM đang tích cực phấn đấu để vươn lên không ngừng, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa để đón nhận “Huân chương lao động hạng I”

    Thời gian qua tuy không dài so với việc hình thành và phát triển của một Bảo tàng, nhưng đối với BTLSVN-TP.HCM thì đây là một quãng thời gian đầy ý nghĩa, vì trong thời gian đó, Bảo tàng đã đạt được những thành quả rất quan trọng, rất có ý nghĩa đối với sự nghiệp Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa Việt Nam. Công lao đó thuộc về các thế hệ CB, CC, VC từ lãnh đạo cho đến nhân viên, đã làm việc tại Bảo tàng này qua các thời kỳ. Tuy năng lực và thời gian cống hiến có khác nhau, song, mỗi người đều có những đóng góp nhất định trong sự phát triển của Bảo tàng nói riêng, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc nói chung.

    2. Quá trình kế thừa và phát triển của BTLSVN-TP.HCM, có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu như sau:

    2.1. Đề ra được những định hướng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, trên cơ sở nắm vững được mục tiêu phát triển của ngành trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn TP.HCM trong từng giai đoạn.

    2-2. Đặc biệt chú trọng công tác tổ chức và đào tạo cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau. Kết quả của công tác này đã có tác dụng thúc đẩy mọi hoạt động của Bảo tàng.

    2-3 Biết phát huy nội lực của mình vì đó là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên những thành quả trong quá trình xây dựng và phát triển của Bảo tàng.

    2-4 Việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở nên tiến hành đồng thời với việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, bộ máy quản lý và các đoàn thể vững mạnh.

    2-5 Có sự giúp đỡ, ủng hộ của lãnh đạo cũng như các ban, ngành chức năng nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Bảo tàng hoạt động, nhất là trong việc liên kết, phối hợp với các Bảo tàng bạn và các cơ quan hữu quan để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Dành 8 tháng trưng bày cổ vật Đông Nam Á
    TT - Chuyên đề triển lãm Cổ vật một số nước Đông Nam Á vừa khai mạc tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP.HCM (đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q.1) sáng 24-4, giới thiệu hơn 300 cổ vật của các nước Việt Nam, Brunei, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Campuchia, Singapore, Thái Lan, Myanmar, Philippines...

    [​IMG]
    Khách tham quan góc trưng bày hiện vật gia dụng - Ảnh: L.Điền
    Nhiều nhất trong số hiện vật là nhóm tượng thờ của nhiều quốc gia như: tượng thị giả, tượng phán quan sơn son thếp vàng của Việt Nam, tranh gỗ chạm tượng Phật của Lào, đỉnh trầm, lư hương. Nhóm đồ gia dụng cũng rất phong phú, khái quát được hình ảnh cuộc sống của cư dân Đông Nam Á ngày xưa thông qua các vật dụng như: bát bằng bạc của Campuchia thế kỷ 19, bình gốm men nâu thế kỷ 15-16, đặc biệt có bình bốn quai bằng gốm men nâu thế kỷ 12-13, hộp hình con gà bằng kim loại thế kỷ 19-20; ngoài ra còn các vật trang sức, gươm, đoản kiếm của Malaysia...
    Những hiện vật tại triển lãm thể hiện những nét tương đồng và đặc sắc của mỗi quốc gia dân tộc trong khu vực Đông Nam Á. Triển lãm do Bảo tàng Lịch sử tại TP.HCM và Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp thực hiện, mở cửa liên tục từ nay đến tháng 12-2012.
    LAM ĐIỀN
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Holbe và bộ sưu tập nổi tiếng

    Bộ sưu tập kiếm Kris độc đáo


    Bộ sưu tập 25 thanh kiếm độc đáo có lưỡi gợn sóng như rắn thần Naga đang bò, nếu dựng đứng những thanh kiếm có thể hình dung là ngọn lửa của thần Siva đang uốn cao, có đuôi khắc mình chim đầu người... đang được lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.

    Chuôi của chúng bằng gỗ, sừng, xương, ngà khắc, nhiều biểu tượng mang âm hưởng Bà la môn giáo và Hồi giáo.
    Số kiếm trên nằm trong bộ sưu tập khí giới cổ, có hàng trăm tiêu bản gồm đao, mã, tấu, gươm quý hiếm, được Hội nghiên cứu Đông Dương mua lại của nhà sưu tập Victor Thomas Holbe từ hơn 70 năm trước và để lưu giữ Bảo tàng Blanchard de la Brosse (tiền thân của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).

    Theo các nhà khảo cổ của Bảo tàng này, thì sưu tập khí giới cổ đã phân loại theo "Quốc tịch" từng nhóm như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, riêng 25 thanh kiếm trên mang tên gọi chung là Kris. Ngày nay, nhiều gia đình dòng tộc ở Philippines, Malaysia, Indonesia, Việt Nam (dân tộc Chăm) vẫn lưu giữ những thanh Kris làm báu vật do tổ tiên truyền đời, có khi chúng còn được phong tước hiệu, nhận nhiều sự tôn kính... Các nhà khảo cổ cũng dự đoán các Kris ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam cũng xuất xứ từ các quần đảo Indonesia.
    __________________

  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Đông Nam Á “sống lại” - Kỳ 3: 5 thanh kiếm độc đáo của Malaysia

    23/05/2012 3:09
    Trong 6 hiện vật của Malaysia đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử (TP.HCM), có đến 5 thanh kiếm cổ mang phong cách tạo hình cũng như kiểu dáng khác lạ.


    5 thanh kiếm chế tác từ thế kỷ 19 với lưỡi bằng kim loại và tay cầm bằng gỗ đã thực sự gây chú ý cho khách tham quan vì sự tập trung của loại hình này lạ mắt hẳn so với các cổ vật xuất xứ từ các quốc gia khác.
    [​IMG]
    Bộ sưu tập 5 thanh kiếm của Malaysia - Ảnh: G.H
    * 1 kiếm dài 65 cm, ngang 9 cm (ký hiệu BTLS.4278)
    * 1 đoản kiếm dài 52 cm, ngang 6 cm (ký hiệu BTLS.4293)
    * 1 đoản kiếm khác dài 58 cm, ngang 7 cm, có tay cầm hình Makara
    Makara là loài gì? Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thị Được trong một chuyên khảo về điêu khắc Chăm và thần thoại Ấn Độ thì: “Makara là loài thủy quái, nguyên thủy là một con cá sấu Ấn Độ to lớn nhưng sau lại (biến dạng) thành một con cá heo Hy Lạp, hoặc giống như con thủy quái sống dưới biển trong Kinh thánh. Trong điêu khắc, dần dần đuôi cá sấu được thay thế bằng đuôi cá, sau lại là cuống của một bông hoa sen. Chỉ có người anh hùng can đảm mới lấy được viên ngọc vô giá từ miệng của Makara và nếu được viên ngọc này người ta có thể làm cho phụ nữ yêu mình say đắm”.
    * 2 thanh kiếm gọi là Kris. Một Kris dài 48 cm, ngang 19 cm. Kris còn lại dài 38 cm, ngang 12 cm. Kris thông thường là một loại kiếm ngắn có hai cạnh sắc bén, cạnh phía trên được mài giũa chế thành một dãy khía răng cưa với hình móc, cạnh dưới có thể giũa thành hình đầu voi. Cách giải thích này bắt nguồn từ nhà nghiên cứu Robert Cato trong tài liệu phân tích về kích thước, kiểu dáng các bộ sưu tập kiếm của người Hồi giáo phía nam Philippines.
    Các nhà sưu tập và khảo cổ đã ghi nhận trên đất Malaysia (cũng như ở Sumatra, Java, Bali, Timor) có khá nhiều cổ vật Kris. Sự có mặt của sưu tập 5 thanh kiếm Malaysia một lần nữa cho thấy mối giao lưu và tương đồng về văn hóa mỹ thuật của các nước Đông Nam Á.
    Thật vậy, một loại Kris ngắn hơn, từa tựa kích thước một chiếc dao găm cổ vốn rất nổi danh ở vùng Acceh (Indonesia) gọi là Kris Modjopahid thường được “sánh đôi” với những bộ y phục cổ truyền để làm đậm hơn bản sắc văn hóa của vùng đất trên, chứ không chủ yếu để chiến đấu thuần túy như những loại khác. Chính ở chức năng đó, các nhà quyền quý thường lấy ngọc, vàng để chạm vào các thanh Kris sắc bén. Đường nét thẩm mỹ và trình độ chế tác thường thể hiện ở bên ngoài vỏ bọc của Kris và cả dưới chuôi.
    Loại Kris “quý phái” này có một thanh chạm kim cương do quốc vương Indo để lại đang trưng bày ở Bảo tàng Djakarta. Giao lưu gợi mở qua hình ảnh sưu tập kiếm Kris cũng được ghi nhận bởi những thanh Kris của Việt Nam như Phạm Giảng Thơ và Phan Anh Tú - cán bộ nghiên cứu sưu tầm của Bảo tàng Lịch sử nêu rõ: “Khi sản xuất kiểu Kris truyền thống, các nghệ nhân thường tìm cách biến đổi cho phù hợp với văn hóa bản địa của dân tộc. Thanh Kris của người Chăm vùng Ninh Thuận - Việt Nam, có lưỡi xoắn nhưng được quan niệm là hình tượng ngọn lửa của thần Shiva, chuôi bằng kim loại; chạm hình Hầu vương Hanuman tư thế ngồi bó gối, 2 tay ôm lấy đầu như những pho tượng nhà mồ Tây nguyên. Người Moro theo đạo Hồi ở Mindanao (Philippines) sử dụng Kris cùng khiên mây. Họ chế tạo Kris theo 3 dạng chính: lưỡi thẳng hoặc hơi cong thể hiện con rắn nằm yên; lưỡi lượn sóng: rắn đang bò; lưỡi kết hợp vừa thẳng vừa uốn sóng: rắn từ trạng thái tĩnh sang chuyển động. Chuôi kiếm là hình ảnh của đầu chim công hoặc chim chào mào với chiếc mỏ và mào dài hơn bình thường.
    Ngày nay, nhiều gia đình dòng tộc ở Philippines, Malaysia, Indonesia, Việt Nam (dân tộc Chăm) vẫn lưu giữ những thanh Kris là báu vật do tổ tiên truyền đời, có khi chúng được phong tước hiệu, nhận nhiều sự tôn kính do những chiến công vang lừng, là niềm tự hào của chủ nhân. Kris biểu hiện địa vị đẳng cấp xã hội hoặc sức mạnh nam tính; có khi chiếc Kris thuộc danh sách lễ vật trong hôn nhân truyền thống. Người ta vẫn còn thấy chúng được giắt bên hông chú rể Indonesia vào ngày cưới. Nổi bật hơn hết là Kris đang được dùng làm binh khí đối kháng trong bộ môn pencak silat, võ cổ truyền của Indonesia mà ngày nay đang trở thành môn thi đấu thể thao quốc tế khu vực Đông Nam Á”.
    5 thanh kiếm chế tác từ Malaysia nằm trong bộ sưu tập lớn hơn trước đây gồm 25 thanh kiếm lưu giữ trong kho của Bảo tàng lịch sử có xuất xứ từ nhiều nước với hình dáng khác lạ và độc đáo ở phong cách nghệ thuật tinh tế kết hợp giữa các bộ phận lưỡi, chuôi và bao đựng. Có thể nói, mỗi thanh kiếm là một khí giới lợi hại, đồng thời là một tác phẩm thủ công mỹ nghệ thật sự. Cùng một kiểu dáng, chủ đề trang trí nhưng không thanh kiếm nào giống thanh kiếm nào.
    Theo Thông báo khoa học số 2 của Bảo tàng lịch sử (TP.HCM) ​
    Giao Hưởng
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Trưng bày cổ vật các nước Đông Nam Á

    25/04/2012 3:07
    Ngày 24.4, Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Hà Nội) và Bảo tàng Lịch sử (TP.HCM) kết hợp khai mạc đợt trưng bày đặc biệt về cổ vật các nước Đông Nam Á tại số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P.Bến Nghé, Q.1, TP.HCM.
    Bà Trần Thị Thúy Phượng, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử (TP.HCM), cho biết lịch sử các cư dân Đông Nam Á từ lục địa đến hải đảo thời Tiền - Sơ sử đã tạo nên nền văn hóa đồ đá khá đồng nhất được các nhà khảo cổ học trên thế giới gọi là “Hoabinhian - Bacsonhian”, theo tên của văn hóa đá mới Hòa Bình - Bắc Sơn của Việt Nam. Từ đó đến cuối thế kỷ 20, khi kết thành khối ASEAN, các nước Đông Nam Á đã và đang tiếp tục mở rộng giao lưu văn hóa và giao thương trong khu vực cũng như quốc tế. Điều đó được thể hiện qua trưng bày lần này với 216 cổ vật đa dạng có niên đại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ 19 được chế tác ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Myanmar, Singapore, Indonesia, Đông Timor…
    Nhiều cổ vật thu hút sự chú ý của công chúng và các nhà nghiên cứu như chiếc mão bằng vàng (Việt Nam), tượng Phật bằng gỗ và bình gốm men đen (Lào), tượng thần Ganesa (Campuchia), tượng người cầu nguyện và chum đất nung (Malaysia), tượng thần bằng đá và phù điêu (Indonesia), trống đồng và tượng Phật gỗ (Myanmar), tượng thần Shiva đang cưỡi bò Nandin và bình đất nung (Thái Lan)… Đợt trưng bày kéo dài đến tháng 11.2012.
    [​IMG]
    Tượng người cầu nguyện (Malaysia) - Ảnh: Giao Hưởng
    [​IMG]
    Mão bằng vàng của Chăm Pa (VN) - Ảnh: Giao Hưởng
    Giao Hưởng

Chia sẻ trang này