1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại TP HCM: quá khứ và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 02/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ly kỳ chuyện tấm bia triều Nguyễn lưu lạc 130 năm


    Trung úy Barbé không thể nào ngờ rằng, chính sự xúc phạm đến chùa chiền, sư sãi, bia đá người Việt đã khiến cho Phật và Thần Thánh nước Nam nổi cơn thịnh nộ và trừng phạt kẻ xâm lăng, bạo ngược. Chỉ sau một thời gian ngắn, điềm báo ứng đã xảy đến với Barbé cho dù suốt ngày hắn luôn cầu nguyện. Đến cả Chúa và Thượng đế cũng không cứu nổi hắn với cái chết chém rơi đầu…

    [​IMG]

    Tấm bia lưu lạc bên cạnh Lăng mộ Phạm Đăng Hưng

    Vì thấy Barbé rất khoái tấm bia đá to sừng sững, viết chi chit chữ người Tàu, nên khi Barbé chết, các tên sĩ quan trong đồn chùa Khải Tường mang luôn tấm bia đặt tại mộ Barbé trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (công viên Lê Văn Tám ngày nay). Chúng quay mặt trước của bia vào trong, bên ngoài (mặt sau bia) ghi tên họ, mộ chí Trung úy Barbé. Bên trên dùng sơn màu đen khắc vẽ hình cây Thánh Giá ngày nay vẫn còn dấu khắc chạm và màu sơn khá rõ.
    Tượng Phật A Di Đà của vua Gia Long ban tặng năm xưa bằng gỗ mít hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Sài Gòn (trong Thảo Cầm viên Sài Gòn).

    Riêng tấm bia vua Tự Đức ban tặng gởi về Gò Công để đặt ngay trước lăng Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng, bị lưu lạc biến thành bia Thánh giá chôn ở mộ viên Trung úy Barbé đến tháng 5 năm 1983, khi thành phố quyết định di dời nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để xây dựng công viên văn hóa Lê Văn Tám.

    Sau khi bốc cốt Trung úy Barbé đưa về Pháp, các công nhân dọn dẹp san lấp mặt bằng phát hiện một tấm bia đá khổng lồ nằm chổng gọng mà không biết đó là báu vật của vua ban lưu lạc trên 130 năm. Về sau, các nhà khảo cổ phát hiện ẩn bên trong hình cây Thánh giá là chi chít chữ Hán khắc chạm rất công phu tinh xảo. Chà rửa sạch sẽ, mới đọc được đó chính là bia văn do vua Tự Đức ban gởi về Gò Công.

    Cho mãi đến trung tuần tháng 7-1998, tấm bia vua Tự Đức ban đã lưu lạc tròn 130 năm mới được đưa về ấp Lăng Hoàng Gia, xã Sơn Qui, TX. Gò Công – Tiền Giang đặt bên trái mộ phần Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng đến ngày nay. Nếu phải tính đến năm 2011, thì tấm bia đã lưu lạc đúng bằng niên đại triều Nguyễn 143 năm. Kỳ lạ làm sao.
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ly kỳ chuyện tấm bia triều Nguyễn lưu lạc 130 năm

    Nơi phát tích dòng dõi Hoàng Gia


    Con đường làng trải nhựa mịn màng phẳng phiu, nhỏ nhắn uốn lượn quanh co dưới bóng cây vườn xanh mát, đan xen những xóm làng với cánh đồng lúa mát rượi tạo nên bức tranh làng quê yên bình, tuyệt đẹp. Có quá nhiều sản vật, con người được tôn vinh từ mảnh đất này nghe nôn nao lòng người viễn khách: chè Sơn Qui, Gái Sơn Qui, Mắm Tôm chà tiến vua…Vùng đất “địa linh nhân kiệt” của phương Nam lại bắt đầu bằng cái tên rất dân dã, mộc mạc, bình dị vô cùng là xứ Gò, đất Giồng như câu hát : Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng/ Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.

    Ai về xứ Gò, nghe kể chuyện rằng: Giồng Sơn Qui xưa còn có tên gọi là Gò Rùa, thuộc huyện Tân Hòa, Phủ Tân An nay là ấp Lăng Hoàng gia, xã Long Hưng, Thị xã Gò Công, nằm trên con đường huyết mạch ven biển nối Gò Công với Gò Công Tây và Cần Đước (Long An) về Sài Gòn.

    Dòng họ Phạm Đăng từ Quảng Ngãi vào đây lập nghiệp sinh sống đến đời thứ tư. Ông Phạm Đăng Dinh là một nhà nho, nên vừa dạy học cho nhân dân trong vùng vừa khai khẩn đất đai Giồng Sơn Qui.

    Chuyện kể rằng: vào một đêm mưa gió bão bùng, cây cối ngã rào rào, những rừng cỏ dại và lau lách rậm rạp um tùm ngã rạp xuống. Có một người khách lạ, người Hoa vượt qua sông Trà mệt lử và đói lả người, dáng đi ngả nghiêng xiêu vẹo, ghé vào nhà ông Dinh xin bữa ăn và ở nhờ qua đêm mưa bão bất thường. Vốn thương người và hiếu khách nên ông Dinh sai vợ con làm thịt gà đãi khách ăn uống no say và trò chuyện thâu đêm.

    Hôm sau thức dậy, vị khách chia tay rất cảm kích về tấm lòng ông Dinh, nên cho biết ông là một thầy địa lý đang vi hành tìm long mạch. Tạ ơn ông Dinh bằng cách, chỉ cho đất Gò Rùa có dáng khom khom như dáng cái mai rùa, táng huyệt thân phụ ông vào đó, ngày sau con cháu sẽ phát quang, thịnh vượng tột đỉnh công danh.

    [​IMG]

    Lăng mộ Hoàng gia


    Lăng mộ Hoàng gia

    Nghe lời hay, nên ông Dinh bèn sai con trai Phạm Đăng Long về Quảng Ngãi mang hài cốt ông nội là Phạm Đăng Tiên vào táng tại Gò Rùa. Qủa nhiên lời vị thầy địa lý chỉ bảo năm xưa rất linh ứng. Năm 1796, cháu nội ông Dinh là Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Gò Rùa, thi đỗ Tam trường tại trường thi Gia Định.

    Vào thời kỳ vua Gia Long lưu lạc, Phạm Đăng Hưng có công phò vua dựng nghiệp nên rất được trọng dụng. Trong cuốn sách cổ “Từ Dụ - Hoàng Thái hậu truyện” của soạn giả Nguyễn Liên Phong in năm 1913 ca tụng Gò Sơn Qui như sau:
    Lệ thủy trình tường ngoại
    Quy khâu trúc phước cơ

    (tạm dịch là :
    Nước ngọt trổ điềm lành
    Gò Rùa vun đất phước)

    Phạm Đăng Hưng là một vị quan thanh liêm, văn võ song toàn, nổi tiếng liêm khiết nên rất được triều đình và nhà vua trọng dụng được triệu về Kinh giữ chức “Lễ Bộ Thượng thư”. Sau đó, ông được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như: Chưởng trưởng Đà sự, Quản Khâm Thiên giám, rồi Tổng tài Quốc sử quán…

    Hai lần ông còn kết sui gia với vua Minh Mạng: cưới công chúa cho con trai Phạm Đăng Thuật và được phong tước Phò mã Đô Uý và gả con gái là bà Phạm Thị Hằng (tức Thái hậu Từ Dũ) cho Thái tử Miên Tông sau lên ngôi lấy hiệu là Thiệu Trị.

    Hoàng Thái hậu Từ Dũ là bậc mẫu nghi thiên hạ, không những giúp triều đình trị quốc an dân mà còn là người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu về đức hạnh trong đó có nhiều mẩu chuyện dạy con (vua Tự Đức) để lại đời sau soi rọi.

    Lễ Bộ Thượng thư Phạm Đăng Hưng mất mùa hạ năm 1825, do bệnh nặng, hưởng thọ 61 tuổi được đưa về quê tại Giồng Sơn Qui an táng. Năm 1849, vua Tự Đức gia tặng ông là :“Đặc tiến kim tử - Vinh lộc Đại phu Thái bảo, Cần Chánh điện đại học sĩ” và phong tước Đức Quốc Công.

  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ly kỳ chuyện tấm bia triều Nguyễn lưu lạc 130 năm

    Lăng mộ hoàng gia một công trình kiến trúc độc đáo mang phong cách cung đình

    Buổi sáng đầu mùa hè, chúng tôi lần về khu di tích nổi tiếng Lăng Hoàng gia gần như không có bóng người. Loay hoay một hồi, chúng tôi mới gặp được chú Võ Thành Sơn năm nay 66 tuổi đang tưới cây cỏ phía sau vườn. Đúng như người xưa nói, cứ nhìn phong thái, điệu bộ đi đứng rất đủng đỉnh của chú Sơn, đủ hiểu cái sự lừ đừ của ông từ giữ đền ra sao.

    Lăng mộ Hoàng gia được xây dựng từ năm 1826, do ông Phạm Đăng Tá con trai trưởng nam Đức Quốc Công xây dựng trên phần đất diện tích 3.000 m2, ngay tại mảnh đất phát tích của dòng họ Phạm Đăng. Do các nghệ nhân tài hoa bậc nhất chuyên xây dựng lăng tẩm, cung đình từ Huế vào và nghệ nhân địa phương xây dựng nên công trình kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách cung đình của lăng mộ và nhà thờ tộc 5 đời như ngày nay còn lưu lại nguyên vẹn.

    Nhà thờ Đức Quốc Công được vua Tự Đức trùng tu, mở rộng vào năm 1849, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, thêm hai gian lập đền thờ, thần vị theo nghi thức cung đình. Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm Khải Định 1921 trùng tu một lần nữa.

    Ngày 02/12/1992 Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định công nhận khu Lăng mộ Hoàng gia là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

    Mộ dòng họ Phạm và Phạm Đăng Hưng chôn theo một trục dài đối xứng nhau, toàn bộ đều làm bằng hồ ô đước không chạm khắc, được bao bọc xung quanh lớp tường dày 80cm, cao 90cm. Nhìn tổng thể khu mộ, ta thấy mộ Phạm Đăng Hưng đứng đầu, trên một gò cao có hình dáng mai rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, gồm 2 vòng biểu hiện cho tam tài, diện tích hơn 800m2.

    Mộ không xây theo kiểu "Ngưu phanh, Mã phục" (Trâu nằm, Ngựa qùy) như kiến trúc các ngôi mộ dành cho quan võ triều đình lúc bấy giờ mà được xây theo theo kiểu dáng hình "Đỉnh trụ" (chóp đỉnh) như chiếc nón lá đội đầu của người nông dân Nam Bộ thời xưa, thả buông lỏng nhờ tám cánh tượng trưng như búp sen. Nhìn từ xa xa, ngôi mộ Đức Quốc Công có hình một cái đỉnh. Đây là một kiểu kiến trúc khá lạ và độc đáo mà các ngôi mộ cổ không có được.

    Mặt sau mộ, xây cung trưởng (tường uốn vòng) có bốn trụ gạch đứng, có hình long lân qui phụng như trước lăng Thiên Thọ - Huế. Bên tả là tấm bia lưu lạc 130 năm, mặt bên ngoài là chữ Pháp và dấu Thánh giá khắc tên viên sĩ quan Pháp Barbé là người đã cướp từ cảng Ô Cấp - Vũng Tàu mang về đồn Pháp ngay tại chùa Khải Tường và chữ Hán văn bia vua Tự Đức ban tặng ẩn bên trong được đưa về an vị vào tháng 8/1998 và bên hữu là tấm bia trắng. Câu chuyện này chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.


    [​IMG]

    Nhà thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng

    Đặc biệt phần phong chuẩn (tường xây lam án bình phong sau đầu, hướng tây) đắp nổi hình 5 con sư tử từ nhỏ đến lớn, biểu hiện ngũ tước: công - hầu - bá - tử - nam, đây cũng là ứng nghiệm vẹn toàn của một dòng họ: “Ngũ đại thành xương - Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá tốt đẹp - Điềm lành Kỳ lân hiện ra) mà thầy địa lý năm xưa đã nói.
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ly kỳ chuyện tấm bia triều Nguyễn lưu lạc 130 năm

    Tương truyền thi thể Phạm Đăng Hưng được chôn ngồi. Mộ chôn theo nội quan ngoại quách bao bọc. Trước mộ có tấm bia đá Cẩm Thạch khắc Hán tự, hai bên có gắn các mảnh sứ cổ Trung Quốc. Kiến trúc về lăng mộ của Phạm Quốc Công hoàn toàn không giống như các kiểu kiến trúc lăng mộ cùng thời. Có thể bên trong còn chứa nhiều huyền bí thiên cơ mà chỉ có Thái hậu Từ Dũ mới biết được.

    Riêng khu nhà thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng được xây năm 1826, trên khu vườn đất rộng 2987m2, ngay trên nền đất và nhà cũ của Quốc Công ngày xưa. Tại đây vẫn còn một giếng nước ngọt cổ xưa, xây bệ thấp, đá lớn chồng lên nhau. Loại đá mài nhẵn mịn này có thể mang từ nơi khác đến.

    Tương truyền khi chưa nhập cung, cô gái Phạm Thị Hằng và gia đình sử dụng nước giếng này trong ăn uống và sinh hoạt. Vào mùa khô, cả vùng Gò Công bị nước biển xâm thực làm nhiễm mặn, nhưng giếng nước nhà cô Phạm Thị Hằng quanh năm ngọt lịm, ứng với điềm lành mà vị thầy địa lý năm xưa đã nói.

    Khu nhà thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng bao gồm: nhà thờ chính, nhà khách, nhà kho, cổng tam quan và các công trình phụ, hàng rào bao bọc chung quanh.

    Năm 1849 vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công, đồng thời truy tặng Ngữ Đại họ mẹ Tự Đức. Do đó, nhà thờ được sửa sang theo quy mô nghi thức cung đình, được đặt nhiều biển đại tự để thờ như :

    -Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
    - Gian tả thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
    - Gian tả ngoài cùng thờ Khả Tự Phạm Đăng Tiên.
    - Gian hữu thờ Bình thạnh bà Phạm Đăng Danh.
    - Gian cuối bên hữu thờ Thiền sư Phạm Đăng Khoa.

    Nhờ bạc tiền của bà Từ Dũ Thái Hậu trợ cấp nên về sau còn xây thêm nhà khách, nhà trà, tàu ngựa để tổ chức đại lễ đón sắc phong của vua từ Huế vào. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên cây trái, hoa lá cảnh bao bọc theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế, rõ nét cung đình Huế nằm giữa miệt vườn cây trái Nam Bộ.


    [​IMG]

    Giếng nước có từ thời Thái hậu Từ Dũ còn trẻ

    Chính tại khu di tích lăng mộ Hoàng gia gắn với số phận lưu lạc 130 năm của tấm bia đá vua Tự Đức ban. Tấm bia từng bị dùng làm bia mộ cho kẻ đã cướp bia năm xưa từ Vũng Tàu mang về Sài Gòn, rồi được chôn theo kẻ cướp tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi –quận 1 – TP. HCM trước khi về chầu phục trước lăng mộ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Đền Hùng và bảo tàng LS

    Kennk chụp 8/1967

    [​IMG]

    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Viện Bảo tàng quốc gia năm 1970
    Ảnh do một lính Mỹ tên Artzkat (?) chụp

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Viện Bảo tàng quốc gia năm 1970
    Ảnh do một lính Mỹ tên Artzkat (?) chụp

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Viện Bảo tàng quốc gia năm 1970
    Ảnh do một lính Mỹ tên Artzkat (?) chụp

    [​IMG]

    [​IMG]


    [​IMG]

  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    Những sách tiếng Pháp cổ và hiếm hiện có tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP



    NHỮNG SÁCH TIẾNG PHÁP CỔ VÀ HIẾM HIỆN CÓ TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM - TP. HỒ CHÍ MINH

    (Sưu tầm)
    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh không chỉ là nơi trưng bày, giới thiệu những sưu tập hiện vật phong phú, có giá trị lịch sử, mà còn là nơi tàng trữ một lượng sách cổ đáng kể, có liên quan đến lịch sử văn hóa của các nước Đông Dương và các nước lân cận.
    Những sách cổ quý và hiếm của thư viện Bảo tàng đa dạng, bao gồm những tác phẩm thuộc các ngôn ngữ khác nhau như: La tinh, Thái, Lào, Trung Quốc, Việt Nam có "niên đại" từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20. Phần lớn số sách và tạp chí nghiên cứu về Việt Nam và Đông Dương nhất là về Nam Kỳ. Dưới đây chỉ đề cập đến đầu sách bằng ngôn ngữ tiếng Pháp được xem là cổ nhất mà các học giả và các nhà nghiên cứu đã từng quan tâm.
    • Tác phẩm "Bibliotheca Indonesia: Dictionaire bibliographique des ouvrages relatif à la pénisule indochinoise"(Thư mục về các công trình nghiên cứu có liên quan đến Đông Dương), tác giả Henri Cordier xuất bản năm 1912, mã số thư viện A.2
    • Tác phẩm "Inventaire Alphabétique de la bibliothèque de L'EFEO"(Tập kiểm kê theo mẫu tự chữ cái của thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ), xuất bản 1916, mã số thư viện A.1
    • Tác phẩm "Les quatre livres"(Tứ Thư - 4 bộ sách được là kinh điển của Nho giáo) tác giả Couvreur Séraphin, xuất bản năm 1910, mã số K.51.
    • Tác phẩm "Le YI - King, ou Livre des changements de la Dynastie Tsheou"(Kinh dịch - sách dạy bói toán và dạy cư xử ở đời), tác giả Philastre, P.L.F, xuất bản 1885, mã số E.120
    • Tác phẩm "La Cochinchine religieuse"(Tôn giáo vùng Nam Kỳ), tác giả Louvret, L.E, xuất bản 1885, mã số Q.84
    • Tác phẩm "Le Bouddhisme dans le monde: Origines - Dogmes - Histories" (Phật giáo trên thế giới: nguồn gốc - triết lý - lịch sử), tác giả Milloné, L.de, xuất bản 1893, mã số N.9
    • Tác phẩm "Essai sur la légende du Bouddha"(tiểu luận về truyền thuyết đức Phật), tác giả Sénart, émile, xuất bản 1882, mã số N.41
    • Tác phẩm "Testes taoisles/ Traduits des originaux chinoise"(văn bản về đạo Lão, dịch từ bản gốc Trung Quốc), tác giả Harlez, C.de, xuất bản 1891, mã số E.131.
    • Tác phẩm "Les symboles, les emblèmes et les accessoires du culte chez kes annamites" (Những biểu tượng, biểu hiện và đồ thờ cúng ở người An Nam), tác giả Dumoutrer và xuất bản 1891, mã số E.32
    • Tác phẩm "Le Malais Indochinois"(Sự bất ổn của Đông Dương), tác giả Charlin, Alexandre, xuất bản 1907, mã số O.22
    • Tác phẩm "Les destinées de l' Indochine: Voyages - Histoire - Colonigation" (Vận mệnh của Đông Dương: Du lịch - Lịch sử - Thuộc địa), tác giả Ajalbert, Jean, xuất bản 1909, mã số O.142
    • Tác phẩm "L'avenir de la France au Tonkin / par un ancien compagnon de Francis Garnier" (Tương lai nước Pháp ở Nam Kỳ viết bởi người bạn đồng hành của Francis Garnier), xuất bản 1885, mã số V.81
    • Tác phẩm "Note sur les anciens dondien annamite dans La Basse - Cochinchine"(Ghi chú về các đồn điền xưa của người An Nam ở vùng hạ Nam Kỳ), tác giả Deschaseaux, E. xuất bản 1889, mã số Q.193
    • Tác phẩm "L'expé***ion Francaise de Formose. 1884 - 1885" (Viễn chinh Pháp ở Đài Loan 1884 - 1885), tác giả Garnot (capitaine), xuất bản 1894, mã số K.22
    • Tác phẩm "La France et le Siam" (Nước Pháp và Xiêm La), tác giả Lemire, Charles, xuất bản 1903, mã số O.199
    • Tác phẩm "La vérite sur la Cochinchine et sur la mission du Lt. Colonel Bernard"(Sự thật về Nam Kỳ và về sứ mệnh của ngài thiếu tá Bernard), tác giả Combanaire. A, xuất bản 1909, mã số Q.16
    • Tác phẩm "Répertoire analytiquede législation et le règlementation de la Cochinchine et du Cambodge"(Danh mục phân tích pháp chế của vùng Nam Kỳ và Cambốt), tác giả Marty. F, xuất bản 1896, mã số Q.121
    • Tác phẩm "Nouveau recueil de législation cantonale et communale Annammite de Cochinchine"(Sưu tập mới về tổng xã và làng xã Việt Nam ở miền Nam Kỳ), tác giả Outrey, Ernest, xuất bản 1905, mã số Q.440
    • Tác phẩm "Le code annamite / traduction" (Luật lệ An Nam - bản dịch), tác giả Philastre, P.L.F, xuất bản 1876, mã số O.38
    • Tác phẩm "Table alphabétique et analytique de la traduction du code annamite d'Anbaret" (Mục lục theo chữ cái và phân tích của bản dịch về luật An Nam của Anbaret), tác giả Miraben. A, xuất bản năm 1896, mã số O.165
    • Tác phẩm "Annuaire général de l' Indochine"(Tổng niên giám Đông Dương), xuất bản năm 1889, mã số A.11, A.12
    • Tác phẩm "Bulletin officiel de l' Indochine Francaise" (Công báo Đông Dương thuộc Pháp), xuất bản 1892, mã số Z.20, Z.17, Z.18, Z.16, Z.25, Z.26
    • Tác phẩm "Annuaire de la Cochinchine Francaise"(Niên giám Nam Kỳ thuộc Pháp), xuất bản 1869, mã số A.15
    • Tác phẩm "Situation de l' Indo-Chine dé 1902 à 1907"(Tình hình Đông Dương Trung Quốc từ 1092 - 1907), tác giả Baeu, Paul, xuất bản năm 1908, mã số O.42
    • Tác phẩm "Tráts et rapportse en Quốc ngữ / traduction en Francais avec note et commentaires"(Trát và bản tường trình bằng Quốc ngữ / bản dịch bằng tiếng Pháp với lời chú dẫn và bình luận), tác giả Boscq.J.C, xuất bản năm 1893, mã số O.458
    • Tác phẩm "La commune annamite"(Làng xãa An Nam), tác giả Ory, P., xuất bản năm 1894, mã số V.84
    • Tác phẩm "Vade - Mecum Commercial de la Cochinchine 1905" (Cẩm nang thương mại của Hoa Kỳ năm 1905), tác giả Coquerel, A., xuất bản 1905, mã số Q.8
    • Tác phẩm "Intructions nautiques sur la Basse Cochinchine et le Cambodge(navigation intérieur) (Huấn lệnh về giao thông đường thủy ở miền hạ Nam Kỳ và Cambốt (hàng hải trong nước), xuất bản 1897, mã số Q.13
    • Tác phẩm "Au pays annamite"(ở xứ sở Nam Kỳ), tác giả Jammes, H - L, xuất bản 1898, mã số P.36
    • Tác phẩm "Choix de légendes historiques de l' Annam et du Tonkin"(Tuyển chọn các truyền thuyết lịch sử của Trung Kỳ và Bắc Kỳ), tác giả Dumoutier, G., xuất bản 1889, mã số O.373
    • Tác phẩm "Dictionnaire Siamois - Francais - Anglais"(Từ điển Xiêm La - Pháp - Anh), tác giả Pallégoix, xuất bản 1896, mã số B.13
    • Tác phẩm "Manuel de conversasitio Francaise - Annamite" (Sách giáo khoa đàm thoại Pháp - Việt), tác giả M.J, J., xuất bản 1881, mã số O.462
    • Tác phẩm "Vocabulaire Francais Annamite"(Từ vựng Pháp - Việt), tác giả Gènibrel, J.F.M, xuất bản 1898, mã số B.36
    • Tác phẩm "Dictionnaire franco - tonkinoi illustré"(Từ điển Pháp - Bắc Kỳ có minh họa bằng tranh ảnh), tác giả P.G.V, xuất bản năm 1898, mã số B.76
    • Tác phẩm "Petit dictionnaire Francais - annamite"(Tiểu tự điển Pháp - Việt), tác giả Trương Vĩnh Ký, P.G.B, xuất bản 1884, mã số B.69
    • Tác phẩm "Les peuples et les langues de la Chine méridionale"(Những dân tộc và ngôn ngữ của vùng Trung Quốc phương Nam), tác giả Madrolle, Claude, xuất bản 1898, mã số K.95
    • Tác phẩm "Index des caractères chinois contenus dans le Dictionnaire Chinois - anglais de Williams. Avec la pronciation mandarine annamite de Phan Đức Hòa"(Bản tra cứu các từ chữ Trung Quốc trong từ điển Trung - Anh của Williams. Với phát âm theo tiếng Quan thoại của Phan Đức Hòa), tác giả Phan Đức Hòa, xuất bản 1896, mã số B.65
    • Tác phẩm "Dictionnaire Chinois Francais" (Từ điển Trung - Pháp), tác giả Couvreu, Séraphin, xuất bản 1890, mã số B.2
    • Tác phẩm "Etude sur deux dialectes de l' Indochine: les tiams et les Stiengs" (Nghiên cứu về 2 thổ ngữ địa phương của Đông Dương: người Chăm và người XTiêng), tác giả Morice, A., xuất bản 1875, mã số R.17
    • Tác phẩm "Guide de la conversation annamite"(Hướng dẫn trò chuyện vùng Nam Kỳ), tác giả Trương Vĩnh Ký, xuất bản 1885, mã số Q.196
    • Tác phẩm "Vocabulaire annamite - francais: Mots usuels, nom techniques, scientifiques et termes administratifs" (Từ vựng Việt Pháp: các từ thường dùng, tên kỹ thuật khoa học, từ hành chính), tác giả Trương Vĩnh Ký, xuất bản năm 1887, mã số Q.197
    • Tác phẩm "Đại Nam Quốc Âm tự vị = Dictionnaire annamite", tác giả Huỳnh Tịnh của Paulus Của, xuất bản 1895, mã số B.15
    • Tác phẩm "Vocabulaire francais - cambodgien et cambodgien - francais" (Từ vựng Pháp - Cambốt và Cambốt - Pháp), tác giả Moura, M., xuất bản 1878, mã số T.94
    • Tác phẩm "Dictionnaire élémentaire annamite - Francais"(Từ điển Việt Pháp sơ cấp), tác giả Le Grand de La Liraye (Le P.), xuất bản 1874, mã số B.66
    • Tác phẩm "Matière médicale et pharmacopée sino - annamite" (Y dược liệu Hán Việt), tác giả Perrot, Em., Hurrier, P., xuất bản 1907, mã số K.40
    • Tác phẩm "Les art et les cultes anciens et modernes en An Nam - Tonkin: Monuments des Kiams et des Annamites"(Nghệ thuật và thờ cúng cổ và hiện đại ở Bắc Kỳ - Trung Kỳ), tác giả Lemire Charles, xuất bản năm 1926, mã số O.376
    • Tác phẩm "Pour comprendre l' art Hindou"(Để hiểu về nghệ thuật ấn Độ), tác giả Coomaraskamy, Ananda K., xuất bản năm 1926, mã số N.59
    • Tác phẩm "Inventaire descriptif des monuments du Cambodges (cartes)", tác giả Lunet de la Lagonquière, F., xuất bản 1911, mã số T.20
    • Tác phẩm "Numismatique annamite, avec une collection de 40 planches"(Tiền cổ học Việt Nam, với sưu tập 40 hình vẽ), tác giả Lacroix, Désiré, xuất bản 1900, mã số O.117
    • Tác phẩm "La céramique de l' époque de K'ang Hi à nos jours (1662 - 1911)" (Gốm Trung Quốc từ thời Khang Hi đến nay), tác giả Vasslot, J. Mar, xuất bản 1909, mã số K.464
    • Tác phẩm "Synchronisme Chinois: Chronologic complète et concordance avec l' ère chrétienne de toutes les dates concernant l' histoire de l' Extrême - Orient"(Sự đồng đại của Trung Quốc: Niên đại đầy đủ và sự đối chiếu với kỷ nguyên công giáo của tất cả ngày tháng có liên quan đến lịch sử Viễn Đông), tác giả Tchang, Mathias, xuất bản 1892, mã số K.28
    • Tác phẩm "Bulletin de la société de Géographie"(Tập san Hội địa dư), xuất bản 1878, mã số Z.166
    • Tác phẩm "L' extrême - Orient"(Viễn Đông), tác giả Postel, Ravul, xuất bản 1882, mã số O.13
    • Tác phẩm "Note sur le Laos"(Ghi chú về nước Lào), tác giả Aymonier, Elienne, xuất bản 1885, mã số T.85
    • Tác phẩm "Les portugais au Cambodge"(Người Bồ Đào Nha ở Cam bốt), tác giả Biker, M., xuất bản 1883, mã số T.139
    • Tác phẩm "Cochinchine" (Nam Kỳ), tác giả Aurillac, H, xuất bản 1870, mã số Q.71
    • Tác phẩm "Un an de séjour en cochinchine"(Một năm lưu trú ở Nam Kỳ), tác giả Delteil, M., xuất bản 1887, mã số Q.129
    • Tác phẩm "A travers la Cochinchine Francais"(Xuyên qua vùng Nam Kỳ thuộc Pháp), tác giả Postel, Raoul, xuất bản năm 1887, mã số Q.209
    • Tác phẩm "La nouvelle calédonie depuis sa découverte (1774) jusqu à nos jours"(Tân thế giới từ khi phát hiện 1774 cho đến nay), tác giả Schreiner, Alfred, xuất bản 1882, mã số F.42
    • Tác phẩm "Dictionnaire universel des contemporains"(Từ điển quốc tế của những người đương thời", tác giả Vapereau, G, xuất bản 1870, mã số B.29
    • Tác phẩm "Contribution à l' étude de la préhistoire de l' Indochine" (Góp phần vào việc nghiên cứu thời tiền sử ở Đông Dương), tác giả Mansuy H., xuất bản 1920, mã số O.432
    • Tác phẩm "Mélanges d'Histoire et de géographic orientales"(Tạp văn lịch sử và địa dư phương Đông), tác giả Cordier, Henri, xuất bản 1914, mã số I.131
    • Tác phẩm "Textes Chinois anciens / traduit pour la 1ère fois dans une langue européenne" (Bản văn Trung Quốc cổ, dịch lần đầu bởi ngôn ngữ Châu Âu), tác giả Rosny, Léonde, xuất bản 1874, mã số K.96
    • Tác phẩm "Les commencements de l' Indochine francais"(Buổi bắt đầu của Đông Dương thuộc Pháp), tác giả Septans, Albert, xuất bản năm 1887, mã số O.19
    • Tác phẩm "Excursions et reconnaissances"(Điều tra thực địa và thám sát), xuất bản 1879, mã số O.179
    • Tác phẩm "Extrême - Asie: revue indochinoise illustré: mensuelle" (Viễn á: Tạp chí Đông Dương có hình ảnh), xuất bản 1924 - 1934, mã số Z.42
    • Tác phẩm "Revue France d' Indochine: Recuell mensuel, historique, archélogique, liltéraire, biographique, touristique et d' intérêt commecial"(Tạp chí Pháp Đông Dương: lịch sử, khảo cổ, văn học, du lịch, thương mại), xuất bản 1913 - 1914, mã số Z.28
    • Tác phẩm "Souvenirs d' Annam (1886 - 1890)" (Kỷ niệm về xứ Trung Kỳ), tác giả Baille, xuất bản 1890, mã số P.38
    • Tác phẩm "Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam indépendante" (Nghiên cứu lịch sử và khảo cổ về Hoa Lư. Thủ phủ đầu tiên của An Nam độc lập), tác giả Dumoutier, Gustave, xuất bản 1895, mã số P.13
    • Tác phẩm "Histoire ancienne et moderne de l' Annam"(Lịch sử cổ và hiện đại của Trung Kỳ), tác giả Launay, Adrien, xuất bản 1884, mã số P.12
    • Tác phẩm "Histoire de l' expé***ion de Cochinchine en 1861" (Lịch sử viễn chinh ở Nam Kỳ), tác giả Pall de la Barrère, Léopold, xuất bản 1888, mã số Q.6
    • Tác phẩm "La Cochinchine et le Tonkin, le pays, l' histoire et les mission" (Nam Kỳ và Bắc Kỳ, xứ sở, lịch sử và các phái đoàn truyền giáo), tác giả Vanillot, Eugène, xuất bản 1861, mã số Q.137
    • Tác phẩm "Indépendant de Sài Gòn: Journal politique, liltéraire, commercial, et d' annonces" (Sài Gòn độc lập: báo chính trị, văn học, thương mại và rao vặt), xuất bản 1881, mã số Z.24
    • Tác phẩm "Cours d' histoire annamite à l' usage des écoles de la Basse - Cochinchine"(Khóa học lịch sử An Nam dành cho các trường ở vùng hạ Nam Kỳ), tác giả Trương Vĩnh Ký, xuất bản 1875, mã số O.8
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM

    Bài 1: Bảo tàng LSVN TPHCM với sưu tập hiện vật Chămpa


    Các tác phẩm nghệ thuật Chămpa luôn gắn liền với những công trình kiến trúc và tạo thành một tổng thể nghệ thuật hoàn chỉnh. Từng hiện vật Chămpa nếu được tìm hiểu ở vị trí trong khối tổng thể của nó sẽ có giá trị nổi bật và đặc sắc hơn.

    Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau (thời gian, chiến tranh..) nhiều công trình kiến trúc Chămpa không còn nguên vẹn, như khu di tích Trà Kiệu, Đông Dương bị phá hủy hoàn toàn; quần thể di tích Mỹ Sơn-tiêu biểu cho nhiều giai đoạn phát triển của nghệ thuật Chămpa-đã bị điêu tàn, mất. Do đó các tác phẩm điêu khắc Chămpa (tượng đá, bệ tưởng, trụ tháp, tượng đồng..) nằm trong tình trạng phân tán tản mạn, không còn hàn gắn với di tích gốc của nó nữa. Phần lớn số hiện vật này tập trung ở bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chàm Đà Nẵng; một số ít của bảo tàng lịch sử Việt Nam-Hà Nội; Một ít tàng trữ ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam-thành phố Hồ Chí Minh và cả nước ngoài.

    Bảo tàng lịch sử Việt Nam-thành phố Hồ Chí Minh, hhiện lưu giữ một sưu tập gồm hơn 100 hiện vật về nghệ thuật Chămpa. Trong số đó phần lớn là những tiêu bản điêu khắc đá, một số tượng bằng đồng và một số vật dụng bằng bạc, bằng gốm.. Cũng như các sưu tập khác tại bảo tàng, các hiện vật thuộc sưu tập Chămpa đều được thu nhận từ nhiều nguồn vào những thời gian khác nhau.

    Theo sách "Chỉ nam về viện bảo tàng quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn" của Thái Văn Kiểm và Trương Bá Phát (1974) các hiện vật và nghệ thuật Chămpa có thể bắt đầu được chú ý sưu tầm từ khi De La Grandière (Viên Toàn Quyền Đông Dương lúc bấy giờ) ra lênh cho thu thập những di tích của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương vào năm 1866. Từ lúc ấy hội nghiên cứu Đông Dương (Sociéte des étude Indochinosises, thành lập năm 1865) đã xuất vốn mua một số sưu tập cổ và vào năm 1898 hội đã nhận được nhiều cổ vật bằng đá của nước Chiêm Thành xưa do một nhà khảo cổ sưu tầm và ký thác cho công viên Đà Nẵng.

    Đầu năm 1928, Hội nghiên cứu Đông Dương đã có những sưu tập thật quí, trong đó có sưu tập Chămpa. Về sau Hội đã giao lại tất cả hiện vật cho bảo tàng Blanchard de la Brosse (tên gọi lúc đầu tiên của bảo tàng Lịch sử Việt Nam-thành phố Hồ Chí Minh).

    Những hiện vật thuộc sưu tập Chămpa được chính thức ghi vào số tài sản của bảo tàng Blandchard de la Brosse bắt đầu từ ngày 18/12/1928. Chính từ lúc đó, những hiện vật này mới được kiểm kê và bảo quản có hệ thống. Theo "Inventaire des pièces à lentrée" (Bản tổng kê những hiện vật nhập vào): trong năm 1928 có 37 hiện vật Chămpa được đăng ký vào sổ, những năm tiếp theo, hiện vật được bổ sung nhiều thêm.

    Số hiện vật Chămpa do Hội nghiện cứu Đông Dương giao lại có ghi ký hiệu Fond SEI (Fonds Socieéte des Etudes Indochinoise) (tài sản của Hội nghiên cứu Đông Dương

    [​IMG]

Chia sẻ trang này