1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại TP HCM: quá khứ và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 02/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM

    [​IMG]


    "...Tượng nữ thần Devi: Đây là bức tượng tròn bán thân và là một trong những kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc Chămpa, được tìm thấp tại Hương Huế-Quảng Nam-Đà Nẵng. Trêu đội mũ Jata-Mukuta kiểu mũ bằng những múi tóc kết lại. Phía trên trán của nữ thần có gắn một vật, có người cho đó là đồ trang sức hình "trăng lưỡi liềm"? nhưng có lẽ đó là hình "đầu trâu" là biểu tượng của sự chinh phục quỷ Mahisha-con của ngưu quỷ Mihisha Sasura. Thần Devi trong thần thoại ấn Độ là nữ thần do "Đấng chí tôn" tạo ra, được khởi phát từ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Nữ thần có 18 tay, còn được là "Đại nữ thầh" hay "chứng nhân muôn đời của mọi tạo vật, là chứng nhân của thiện ý và sai lầm". Vật cưỡi (hay để chân) của nữ thần là con sư tử, nữ thần đã giết quỷ Mahisha để cứu các thần linh.

    Thần Devi ở Chămpa, theo nội dung của văn bia thứ nhì ở Đông Dương "Seconde Stèle de Dong Duong" mà Louis Finot đã công bố trong phần viết ghi chú về minh văn (Notes d' epigrahie) ở bản tin trường Viễn Đông Bác Cổ tập 4 năm 1904 (BEFEO, tome IV-1904), nếu quả đúng tượng nữ thần Devi này là bức tượng được nhắc tới trong văn bia với tên là Haradevi, bà là vợ của vua Indravarman II, đồng thời là dì ruột của vua JayaSinhavarman (893-903) người kế vị chồng của bà. Do bà có nhiều công đức, nên khi qua đời bà được vua Jayasinhavarman cho tạc tượng với tên là Haromàdevi để thờ cúng như các vị thần khác

    Nội dung văn bia còn cho chúng ta biết rằng bà là người rất sùng đạo Siva, điều đó chứng tỏ rằng ngay trong một vương triều, phật giáo ấn Độ vẫn song song tồn tại (chồng bà-vua Indravarman II theo phật giáo, ông đã cho xây phật viện lớn tại Đông Dương, còn bà theo ấn Độ giáo)...."

    Link:http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/chuye...a/btchampa.htm
    http://khanhhoathuynga.files.wordpre...pg?w=250&h=299
    http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/baoto...pa/cham-01.jpg\


  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM

    [​IMG]

    Sư tử
    chất liệu: đá
    Niên đại: TK X-XI
    Trà Kiệu - Quảng Nam
    Cao: 97 cm
    1934 - BTLS.5978

    "...Tượng sư tử: Trừ một đầu sư tử có nguồn gốc tại Chiên Đàn và một tượng sư tử ở Tháp Mẫm, những tượng sư tử còn lại trong sưu tập có nguồn gốc ở Trà Kiệu. Hầu hết sư tử đều là sư tử đực, hình thức thể hiện ở hai dạng phù điêu nổi và tượng tròn, tất cả đều ở tư thế đứng với hai biến thể: loại thứ nhất chân phải bước lên, khớp gối hơi gấp cong chân trái duỗi thẳng, loại kia thì ngược lại. Cả hai loại đều thể hiện chi trước giơ lên ngang đầu, lòng "bàn tay" ngữa về phía trước. Miện trên đầu trang trí những hình lá đề nhiều tầng. Trang phục trên mình sư tử là một loại "áo giáp", ở ngực có những hình như giải yếm xếp từng lớp với vạt dưới nhọn, phía dưới là một loại quần cụt ngang ống chân.

    Tượng sư tử Tháp Mẫm có trang sức, trang phục và hoa văn trang trí gần giống như ở chim thần Garuda Thấp Mầm.

    Hình tượng sư tử phổ biến trong điêu khắc đá Chămpa, nhưng tập trung nhiều ở trong cách Trà Kiệu (Trà Kiệu là kinh đô đầu tiên của Chămpa được xây dựng với tên gọi là Sinhapura-thành phố sư tử). Về mặt ý nghĩa, sư tử ở Chămpa được coi là biểu tượng của sức mạnh và uy quyền
    ..." http://vn.360plus.yahoo.com/ngoisaop...article?mid=21
    "- Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, TK X - XI)
    Sư tử, người Chăm gọi là “Rimon”, là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu.
    Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức."
    http://baotanglichsuvn.com/home.php?...cat=23&lang=vn

  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM

    [​IMG]

    Bát chân cao
    Chất liệu: Đất nung
    Niên đại 2.200 năm tại Quảng Ngãi
    cao 7,2 cm; đường kính 17 cm
    Số hiệu: BTLS: 22850

    Link:http://i376.photobucket.com/albums/o...mpa/hinh35.jpg

    Bát chân cao:
    Bát được tạo hình như một chiếc đĩa bồng chân cao hơi loe nhưng đường kính chân chỉ nhỏ bằng nửa so với miệng bát. Vành miệng có thành hơi xiên. Bát được nặn bằng tay, nung nhẹ lửa, văn chấm dải.
    Hiện vật thuộc Văn hoá Sa Huỳnh
    http://baotanglichsuvn.com/home.php?...cat=23&lang=vn

  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM

    [​IMG]
    -
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh)

    Không biết phải đây là tiền thân của bảo tàng LSVN không hay là một bảo tàng khác.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Đông người đi xem bảo tàng nhỉ?

    [​IMG]

    Có lúc bảo tàng đặt tại số 12 Lê Duẩn ngày nay. Trên bản đồ năm 1928 đánh dấu số 4.

    [​IMG]

    [​IMG]This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 2000x1500.[​IMG]

    Saigon 2010 - Tòa nhà số 12 Lê Duẩn

    Hình chụp tòa nhà số 12 Lê Duẩn TPHCM vào cuối năm 2010. Từ ngày 18-01-2011, cùng với tòa nhà của công ty Shell ở bên phải, nó đã bị quây lại bằng vách tôn hàng rào. Chắc là nó sắp sửa bị "làm thịt " rồi!

  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổ vật Champa ở BTLSVN tại TP.HCM


    [​IMG]


    " - Tượng Phật Đồng Dương - TK IV
    Người Chăm gọi Đức Phật là “phịh”. Tượng Đồng Dương mặc áo choàng hở vai trong tư thế đứng trên tòa sen, tóc hình bụt ốc, tai dài gần đến vai, đôi mắt mở, khuôn mặt thon và đầy đặn.

    Tượng Phật được thể hiện khá vạm vỡ, mang đậm phong cách Ấn Độ đến nỗi có nhà nghiên cứu cho rằng tượng được mang từ Ấn Độ sang. Trong các công trình nghiên cứu về Champa, nghề đúc đồng ít được quan tâm nhưng có một điều đáng lưu ý là trong các di vật Champa hầu như không có tượng Phật bằng đá và ngược lại không thấy các loại tượng Bà la môn được đúc bằng đồng. Ảnh hưởng của Phật giáo với Champa thể hiện mạnh nhất vào thời kỳ Indrapura."

    Link ảnh và thông tin hiện vật: http://www.baotanglichsuvn.com/home....cat=23&lang=vn
    __________________
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    TP.HCM 'khoe' tượng phật được bảo hiểm 6 triệu USD

    Cập nhật lúc 07:57, Thứ Tư, 13/01/2010 (GMT+7)
    http://vnn.vietnamnet.vn


    Tượng phật Đồng Dương được bảo hiểm 6 triệu USD đã chính thức xuất hiện trong buổi khánh thành phòng trưng bày văn hóa Óc Eo và Chămpa tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (TP.HCM).


    Tượng phật Đồng Dương cao 1,2 mét là một trong những cổ vật rất quý hiếm và nổi tiếng trên thế giới.

    Bức tượng có niên đại khoảng thế kỷ 8 - 9, được tìm thấy tại Quảng Nam, cũng được các nhà nghiên cứu đánh giá cao về mặt mỹ thuật.


    [​IMG]


    Bức tượng phật Đồng Dương được bảo hiểm 6 triệu USD.

    TS. Bá Trung Phụ cho biết: "Tượng phật Đồng Dương rất có giá trị về phong cách. Nó thuộc loại hình nghệ thuật vị nghệ thuật, vị nhân sinh chứ không phải nghệ thuật tôn giáo. Sự cân đối về hình thể đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của cổ vật này".

    [​IMG]

    [​IMG]
    Tượng nữ thần Devi bán thân và một trong 4 đầu tượng Siva trên toàn thế giới.

    Ngoài tượng phật Đồng Dương, phòng trưng bày mới khánh thành của bảo tàng còn có nhiều cổ vật giá trị khác cũng thuộc nền văn hóa Chămpa. Đó là tượng nữ thần Devi có niên đại thế kỷ 10, được bảo hiểm từ 1,5 đến 2 triệu USD.

    Hoặc đầu tượng Siva từ thế kỷ 7 - 8 bằng vàng và bạc. Cổ vật này hết sức quý hiếm khi hiện trên thế giới chỉ còn 4 tượng đầu Siva, ngoài Việt Nam có Bỉ, Áo và Mỹ.


    [​IMG]

    [​IMG]

    Tượng phật bằng gỗ xưa nhất Đông Nam Á.


    Trong khi đó, các cổ vật thuộc nền văn hóa Óc Eo tại triển lãm xuất phát chủ yếu từ vùng Ba Thê - An Giang và các tỉnh miền Tây Nam Bộ, có niên đại từ thế kỷ 2 - 7. Các cổ vật này có hình thể đơn giản, nhưng rất tinh tế.

    Trong số này có những tượng phật bằng gỗ được xem là xưa nhất được tìm thấy ở Đông Nam Á, chất lượng còn khá tốt. Hoặc nhiều tượng nữ thần và nam thần tạc bằng đá, là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo, tạo hình tỉ mỉ từng chi tiết.


    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Tượng nữ thần trong văn hóa Óc Eo đạt tính thẩm mỹ rất cao (ảnh lớn). Trang sức của nền văn hóa Óc Eo không khác gì trang sức bằng đá hiện đại của Nhật Bản hiện nay (ảnh trên). Chiếc nón của thần Siva làm bằng vàng, bạc và thạch anh tím.

    Trước đây, cổ vật văn hóa Chămpa và Óc Eo chỉ được bảo tàng trưng bày theo dạng chuyên đề. Sau khi được khẳng định là hai nền văn hóa lớn trong nền văn hóa các dân tộc Việt Nam, hai nhóm cổ vật đã được xây dựng riêng hai phòng trưng bày với 439 món.


    [​IMG]


    [​IMG]


    Bệ thờ 9 vị thần (Navagraha) độc nhất vô nhị của văn hóa Chămpa, làm bằng đá, có niên đại vào thế kỷ 10, tìm thấy ở Quảng Nam (ảnh trái). Các hình thái bùa chú trong văn hóa Óc Eo.


    Hai phòng trưng bày được thiết kế hiện đại theo chuẩn các phòng trưng bày trên thế giới, với thiết bị chiếu sáng đặc biệt, bệ đá đặt cổ vật. Các cổ vật có giá trị đặc biệt được bảo quản trong các tủ kính có khả năng chịu lực lớn, không bị vỡ. Hai phòng trưng bày được sự hỗ trợ của Pháp qua dự án FSP - phát huy giá trị di sản bảo tàng Việt Nam.

    • Bài, ảnh: Lê Tám








  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133


    TƯỢNG PHẬT GIÁO CHĂM PA

    KIÊM ĐẠT


    Những tượng Phật

    Dù tôn giáo chính của Chăm Pa là Siva Giáo, tuy nhiên, trong một thời điểm nhất định trong lịch sử đất nước nầy, dấu ấn Phật Giáo vẫn rất quan trọng. Biểu trưng rõ nét là các tượng Phật. Khi nói đến điêu khắc Chăm Pa thời Phật Giáo hưng thịnh tại nước nầy không thể không nói đến nghệ thuật Đồng Dương. Không phải là ngẫu nhiên mà danh xưng “Phật Viện Đồng Dương” được dùng để đặt tên cho cả một phong cách nghệ thuật Chăm Pa ở một giai đoạn nhất định. Các hiện vật điêu khắc và trang trí Đồng Dương thật phong phú đa dạng: tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng Môn thần (Dvarapala), tường người lễ bái. Ngoài ra còn những phù điêu tuyệt đẹp trang trí kiểu kỷ hà học. Chất liệu bằng đá, bằng đồng, bằng đất nung bền chặt. Trong nền điêu khắc Chăm Pa, các nghệ phẩm thuộc phong cách Đồng Dương có những sắc thái đặc biệt: cung mày nối liền nhau nối gờ lên và lượn sóng, môi dày có viền, mũi rộng và tẹt... Đẹp nhất, độc đáo nhất trong phong cách Đồng Dương là các môn thần. Các vị thần nầy được tạc trong nhiều tư thế: dứng trên khuôn mặt động vật, hai chân dang ra bề thế, đầu quay về hướng động tác. Sự quan tâm của nhà điêu khắc tập trung nhiều ở khuôn mặt, thể hiện đúng nét của từng nhân vật. Đó là những điểm tiêu biểu nhất.

    Tượng Phật Đồng Dương: Vào tháng Tư năm 1911, nhà khảo cổ học Henri Parmentier đã tìm được tại khu vực Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình (Quảng Nam) một pho tượng đồng tuyệt mỹ. Đây là pho tượng bằng loại đồng thau cũ khá lớn (chiều cao đến 1,08m), không có phần bệ đỡ phía dưới như những tượng Phật khác. Tượng thể hiện đức Phật đứng, hai tay hướng cân xứng nhau, ra phiá trước. Phật mặc một tấm áo tu hành (Uttarasanga) dài để hở một vai (phải), lại khoác thêm bên ngoài một tấm khoác (Samghati) Tóc Phật là những vòng xoắn ốc đều đặn. Trên trán có một Urna lớn. Tuy cùng làm một động tác như tay phải, nhưng bàn tay trái cầm một phần vải kéo ra đằng trước. (trích theo Catalogue du Musée Cam de Tourane – BEFEO – XIX - 1919).

    Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh thì: Tượng Phật Đồng Dương nói trên có gắn liền với truyền thống Amaravati của Ấn Độ, cho đến nỗi có thể nào tìm ra được một dấu tích gì thuộc truyến thống bản địa (Lâm Ấp cũ).

    Căn cứ theo những vết tích trên đây, không phải ngẫu nhiên mà vùng Phật viện Đồng Dương nằm trong vùng được gọi là Amaravati, kinh đô của Chăm Pa trong khoảng 875 – 1000. Theo Carl Heffley (The Arts of Champa – Sai gon) thì đúng ra, khi triệt thoái về Nam vào cuối thế kỷ thứ IX (sau Công nguyên) kinh đô phải là Trà Kiệu mới đúng. Dựa trên tiêu chí về phong cách tượng Phật Đồng Dương, các nhà nghiên cứu cho rằng: Niên đại của tượng Phật kể trên là từ khoảng giữa thế kỷ thứ IV cho đến đầu thế kỷ thứ VI. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giả định.

    Tượng Phật Quảng Khê: Quảng Khê thuộc tỉnh Quảng Trị, là đất Cham Pa trước thế kỷ thứ IX. Ở đây các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O) đã khai quật và phát hiện ra được một nhóm tượng Phật khoác áo che kín cả hai vai, khác hẳn với tượng Đồng Dương kể trên. Tượng Phật Quảng Khê có ***g ngực hẹp, hai cánh tay trần, y phục xiết chặt vào cơ thể. Nhiều phần của pho tượng đã không còn. Căn cứ vào những chi tiết còn lại, những điều nầy nêu ra đặc trưng có khả năng cho thấy được rằng: Tượng Phật Quảng Khê gắn với các loại tưọng đồng thau của nghệ thuật Môn – Dvaravati hoà với phong cách Gupta của Ấn. Thể loại tượng Phật nầy còn tìm thấy ở vùng Sumatra (Indonesia) và Theno (Malaysia). Đặc điểm của pho tượng Quảng Khê là có vầng hào quang được gắn biểu trưng đằng sau vai. Cũng chưa hiểu rõ là vầng hào quang nầy được gắn vào thời sau hay cùng thời? Dựa vào những nét tiêu biểu kể trên chúng ta có thể đoán định rằng: Niên đại tượng Quảng Khê tương đương với tượng Pongtuk (Thái Lan) và Sumatra, tức là thuộc vào giai đoạn thế kỷ IV đến thế kỷ VI.

    Tượng Phật Bình Định: Có thể tìm hiểu thêm ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Pa ở Đà Nẵng. Tại khu trình bày, góc Tây Nam thuộc hành lang Bình Định, có thấy trưng bày tượng Phật tìm thấy ở Bình Định. Tượng được định thời gian vào thế kỷ XII, chiều cao 95cm, chiều rộng 70cm. Tượng Phật nầy được thể hiện bằng kiểu ngồi bán già trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nhiều nước khác ở Đông Nam Á. Pho tượng đã không còn phần đầu, kể từ khi trưng bày. Phật ngồi xếp bàn tròn, tay trái đặt ngửa ở chỗ gặp nhau của hai bàn chân, tay phải chắp lên ngực, các ngón tay chỉa thẳng lên, được gọi là “thế Anjali Mudra”. Tư thế nầy được biểu hiện cho “cát tường”.

    Y phục trên pho tượng Bình Định nầy là loại áo cà sa quấn chung quanh người, đầu vải còn lại thì xếp lại vắt qua vai trái, vai phải để trần. Ở đầu vải nầy xếp lại nhiều nếp dẹp buông xuống ở vai. So sánh với những tượng Phật khác thì loại y phục nầy cũng là một khổ vải dài và rộng rất đơn giản; chiều dài phủ xuống đến tận chân; chiều ngang xếp lại nhiều nếp xếp phủ cho đến cổ tay như được thấy ngày nay. Nhiều phần đã bị mất từ khi khai quật, ngón tay cái và một phần của bàn tay trái đã bị vỡ mất. Đức Phật ngồi trên toà sen những cánh sen được cách điệu thành những ngọn lửa mềm mại toả ra đều đặn nhau. Kích thước của tượng Phật nầy gần bằng với kích thước của người thật; thân hình thì mập mạp và cân đối trong mọi thành phần cơ thể.

    Nhìn chung lại, sự hiện diện của các tượng Phật của Chăm Pa tuy ở những địa điểm khác nhau chứng tỏ rằng: ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên, Phật Giáo đã đóng một vai trò đáng kể tại Vương quốc Chăm Pa. Điều nầy có thể khẳng định về câu chuyện viên tướng viễn chinh khi đánh vào Lâm Ấp đã tịch thu được 1.350 tác phẩm Phật Giáo, được viết bằng thứ chữ “Côn Lôn” (được hiểu là kiểu chữ Nam Ấn Độ). Nếu quả thật, thì cũng nên đánh giá đúng vị trí Phật Giáo xứ nầy, tuy tư liệu đã không mấy thể hiện rõ.

    Ngay sau khi phát hiện, tượng đồng Đồng Dương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khảo cổ học thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O) và Hội Nghiên cứu Đông Dương (S.E.I), như R. Rougier, A. Foucher, V. Goloubew, P. Dupont, H. Parmentier. Theo nhận định chung của các tác giả nầy thì: Pho tượng Đồng Dương là một trong những pho tượng Phật cổ nhất và thuộc vào loại đẹp nhất ở khắp vùng Đông Nam Á cùng thời đó. Pho tượng cao 1,08 mét, (không có bệ), thể hiện đức Phật đang đứng với hai tay hướng cân xứng ra phía trước. Đức Phật khoác trên mình một chiếc áo cà sa dài để hở vai phải và có một u nhỏ (Uma) ở giữa trán.

    Tượng Đồng Dương cũng như các tượng Phật cùng kiểu khác đã được tìm thấy ở Đông Nam Á như tượng Phật ở Kô Rạt (Thái Lan), tượng Phật Sikendung (Selebes- Indonesia), tượng Phật Jember (Java – Indonesia), tượng Phật Angkor Borei (Kampuchia)... tất cả những pho tượng nầy đều mang phong cách tượng Phật Amaravati của Ấn Độ. Trong khi đi sâu vào các chi tiết khác, một số nhà nghiên cứu kể trên thì lại nhấn mạnh: Tượng Phật Đồng Dương lại giống các tượng Phật của Amaradhapura (Sri Lanka). Căn cứ vào đó, họ giả định rằng: Tượng Phật ở Đồng Dương có niên đại vào khoảng thế kỷ III – IV và dã được nhập trực tiếp từ Ấn Độ hay Sri Lanka. Như thế, đạo Phật đã đến đất Chăm Pa khá sớm, so với những nơi khác trong vùng.

    Một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp, giáo sư J. Boisselier nhấn mạnh: Tuy không khẳng định tượng Phật ở Đồng Dương là tác phẩm du nhập, vẫn phải công nhận là tượng nầy cũng là tác phẩm có quan hệ sâu sắc với truyền thống truyền thống Ấn Độ, đến nổi không thể nào phát hiện ra vết tích của một truyền thống bản địa...” Như thế, dù là tác phẩm du nhập hai tại bản địa, pho tượng Phật Đồng Dương là một bằng chứng về sự ảnh hưởng của Phật Giáo Amaravati của Ấn Độ đối với tôn giáo Chăm Pa nói chuing và vùng Đồng Dương nói riêng. Cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà vùng phía bắc Chăm Pa (tức là Quảng Nam – Đà Nẵng) vào thời đó có tên gọi là Amaravati .
    -----------------------







  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    TƯỢNG PHẬT GIÁO CHĂM PA

    KIÊM ĐẠT

    Những tượng Bồ Tát

    Cũng tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm – Đà Nẵng, còn thấy những tượng Bồ Tát. Tại đây, có thể nhận diên 3 loại hình Bồ Tát: Bồ tát Avatokitesvara, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ Tát Tara.

    Bồ tát Avalokitesvara (Quán Thế Âm): Pho tượng nầy được khai quật tại Cồn Dàng, huyện Mỹ Đức (Quảng Nam) điêu khắc trong khoảng thế kỷ IX – X. Bồ Tát Quán Thế Âm ở đây đứng thẳng trên đế vuông, hai cánh tay từ vai xuống đến khuỷu tay buông thẩng theo thân mình, nhưng từ khuỷu tay đến bàn tay thì đưa ra phía trước, đặt tựa trên hai chiếc trụ mảnh mai, từ dưới chân lên. Những phần pho tượng không còn nguyên vẹn. Chẳng hạn như chiếc trụ và hai cánh tay đã gãy mất, chỉ còn thấy được dấu vết hai chiếc trụ từ dưới chiếc đế. Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm có thân hình mảnh mai, thon thả, nhưng hai cánh tay có vẻ lớn hơn, nếu so với thân mình mảnh dẻ của tượng. Bồ Tát mặc chiếc “sarong” dài, từ thắt lưng đến mắt cá. Sarong được trang trí bằng những hoa văn, bố cục thành những sọc chéo uyển chuyển, đa dạng: hình hoa thị, hình tam giác răng cưa, hình sóng nước, hình dải vòng tròn... Pho tượng đã không còn đầu, nhưng có thể căn cứ theo miêu tả của nhà khảo cổ Henri Parmentier và những tấm ảnh chụp từ khi trưng bày đầu tiên (năm 1918), thì “Tác phẩm nầy là một kiệt tác trong nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa”. Theo bài mô tả của Henri Parmentier thì: “Tượng có nét mặt thanh tú, mắt dài, đồng tử khá rõ nét”.

    Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: Pho tượng nầy tìm thấy ở Đông Dương (Quảng Nam) được tạo dáng vào thế kỷ thứ IX. Chiều cao 158cm, chiều rộng 106cm. Đây là một pho tượng đã gây nhiều nhận định khác nhau, có khi tranh cãi nhau cho những nhà nghiên cứu khi giải thích các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa (theo Huỳnh Thị Được – Điêu khắc Chăm Pa và Thần thoại Ấn Độ- 2005). Chính bức tượng nầy đã khiến cho nhà khảo cổ Henri Parmentier cho là “Tượng Phật ngồi theo kiểu Tây Phương”.

    Trong khi đó, nhân định của J. Boisselier (La Statuaire du Cham Pa) thì :”Bố cục của pho tượng đặt ra nhiều vấn đề khác hẳn nhau. Nếu bố trí đôi chân song song, có thể xem là phong cách Trung Quốc được tìm thấy ở vùng Longmen và Yunkang. Nhưng hai bàn tay lại đặt trên hai đầu gối (của một vị Bồ tát) thì khó hiểu nổi...”. Nhưng theo Jan Knappert thì: “Các Bồ tát thường ngồi trong tư thế thiền định (dhyana). Còn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thường được miêu tả như thế ngồi của các vi vua trên ngai vàng” (India Mythology –1995)

    Bồ tát Tara: Tượng nầy cũng tìm thấy ở Đồng Dương (Quảng Nam), được điêu khắc vào thế kỷ IX. Chiều cao là 114cm. Tara thường thấy nhiều trong tín ngưỡng Mật Tông Tây Tạng. Bồ tát được thể hiện đứng thẳng, hai tay đưa ra phiá trước, tay trái cầm tù và và ốc, tay phải cầm đài sen. Tượng mình trần, bên dưới mặc “sarong” hai lớp, dài đến mắt cá chân. Lớp trong của sarong đơn giản, bó sát thân mình, buông dài đến mắt cá chân. Ngoại hình của Bồ Tát Tara cũng được chú ý nhiều. Đó là hình ảnh của một phụ nữ có thân hình cân đối Tượng mình trần, cổ cao, có ba ngấn, đôi vai rộng, chiếc eo thon nhỏ. Khuôn mặt và đồ trang sức nhiều công tô điểm. Toàn thể hội tụ phong cách Đồng Dương, thế kỷ thứ IX.

    Tượng La Hán


    Trong đồ tượng học Phật Giáo, La Hán biểu trưng cho các vị tu khổ hạnh đã đạt tới vị trí cao nhất trong cảnh giới chứng quả, có thể tự chế mình, được miễn tái sinh, đầu thai nữa. Tượng La Hán tìm thấy ở Đông Dương, điêu khăc thế kỷ IX. Chiều cao 88cm, chiều rộng 55cm. Tượng ngồi xếp bàn, hai tay đặt xuôi theo hai đầu gối. Mình mặc áo cà sa xếp nếp, chiều dài phủ kín đến chân. Bệ ngồi của pho tượng có nhiều kiểu trang trí. Mặt trước bệ, ở chính giữa là một pano hình chữ nhật đứng; trong pano có khắc họa mặt sư tử.

    Phật viện Đồng Dương chỉ xuất hiện trong vòng 125 năm (875 – 1000) rồi chìm trong quên lãng. Khi các tộc người Chăm Pa lùi dần về phương Nam, thế nước yếu dần. Văn hoá cũng đi vào thoái trào. Những công trình khai quật chỉ được xúc tiến trong vòng 12 năm đầu thế kỷ XX, rồi đình chỉ hẳn (1910). Những cuộc chiến sau đó đã phá hũy toàn vẹn khu vực Đồng Dương. Đến nay, vẫn chưa có thêm công trình khai quật khảo cổ học nào. Thành thử thật khó đánh giá đúng mức những công trình điêu khắc Phật Giáo ở đây.









  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Báu vật quốc gia
    32 vẻ đẹp tượng Phật Đồng Dương



    Tượng Phật Đồng Dương nặng 120 kg tìm thấy cách đây hơn 100 năm (vào 1911) tại Đồng Dương (Quảng Nam), hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử TP.HCM là tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho kỹ thuật đúc đồng tinh xảo kết hợp với nghệ thuật tạo hình do nền văn hóa Chăm Pa để lại.

    Tượng cao 119 cm, chỗ rộng nhất 38 cm, chỗ dày nhất 38 cm, đứng trên một bệ tròn hai tầng có tạc hình các cánh sen bao quanh. Phần trên của bệ là khối bán cầu ở thế ngửa lên. Phần dưới bệ lớn hơn, cũng hình tròn như miệng chuông úp xuống.

    Bệ và toàn thân tượng đồng được đóng chặt vào nhau bởi những chiếc mộng đặt dưới lòng đôi bàn chân bằng phẳng. Đôi bàn chân này của tượng thể hiện tướng tốt đầu tiên trong “tam thập nhị tướng” (32 tướng) của Phật là chấm sát đất và khít khao với mặt phẳng của đất đến nỗi “cây kim cũng không thể lọt qua”. Từ chân tượng trở lên, thể hiện diệu tướng thứ 17 của Phật là: hai tay, hai chân, hai mắt và giữa cổ (có khắc 3 ngấn chìm) gộp lại thành “7 chỗ đầy đặn”. Vai bên phải để trần thể hiện tướng thứ 21: tròn và đẹp. Lên chút nữa là gương mặt tượng thể hiện tướng thứ 25 với hai má phẳng và rộng như sư tử chúa; đúng theo kinh chép: khi Phật mở miệng thuyết pháp ví như tiếng “sư tử hống” làm tắt tất cả âm thanh của mọi loài trong rừng (tướng âm thanh Phạm thiên).


    “Tượng Phật Đồng Dương ngoài giá trị về mặt tạo hình nghệ thuật còn thể hiện được nhiều diệu tướng trong số 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp tùy hảo của Đức Phật được ghi trong bộ Luận đại trí độ. Đó là điều đọng lại đầy xúc động trong tâm cảm chúng tôi khi đứng trước pho tượng Phật Đồng Dương được tạo tác từ hơn 1.000 năm trước...” - Sa môn HUỆ THIỆN


    [​IMG]

    Mắt Phật Đồng Dương không nhắm hẳn lại, mà đang mở nhìn, thể hiện diệu tướng thứ 29 là đôi mắt đẹp như cánh hoa sen xanh. Giữa trán có khắc một vòng tròn tiêu biểu cho tướng thứ 32 mang tên “bạch hào”, tức tướng lông trắng xóa và trong sạch như bọt nước đứng yên trên ngọn triều cường. Đáng lưu ý, các nghệ sĩ Chăm Pa đã thể hiện một tướng hết sức tôn nghiêm nằm ở vị trí cao nhất của tượng Phật Đồng Dương là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu với một cục u nổi lên giữa búi tóc cuộn quanh. Sa môn Huệ Thiện cùng đi với chúng tôi đến Bảo tàng Lịch sử TP.HCM để chiêm ngưỡng tượng đã giải thích: “Đây là tướng mà bất cứ nhà nghiên cứu mỹ thuật nào hoặc nhà điêu khắc tượng Phật nào từ xưa đến nay cũng đều cần biết đến để bắt tay chế tác hoặc giới thiệu cho thật chính xác. Tướng này có hình một khối thịt tức là “nhục”, nổi cao lên như một búi tóc tức là “kế”, gọi là “nhục kế”, được tựu thành và xuất hiện trên đỉnh đầu Phật do nhân duyên bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và khai mở trí huệ trong nhiều kiếp. Hào quang của Phật Thích ca đã phóng xuất từ đỉnh đầu đó trước khi đọc thần chú Lăng Nghiêm. Ngoài tượng Đồng Dương này, các tượng Phật khác thể hiện diệu tướng “nhục kế” theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn căn cứ vào kinh Quán Phật tam muội để khảm thêm lên tượng một viên đá quý màu hồng, hoặc tô hồng ở khoảng không có tóc ở trước đảnh đầu, hoặc đặt một viên kim cương to tròn đa sắc để biểu hiện tướng ấy”.


    [​IMG]
    Các diệu tướng ở phần trên của tượng - Ảnh: Tư liệu

    Nếu nhìn từ trước mặt tượng và để tâm quan sát sẽ thấy toàn thân tượng Đồng Dương thể hiện vẻ đẹp của một loạt ba diệu tướng khác, gồm tướng thứ 14 và 15: thân kim sắc (ánh sắc vàng) có sức tỏa hào quang minh tịnh - và tướng thứ 16: da mịn trơn bóng như hoa sen buổi sớm, dầu cho cuồng phong thổi mạnh khiến núi đá lăn lóc va chạm vào nhau vỡ nát thành bụi thì không một hạt bụi nào có thể dính được vào thân kim sắc ấy.

    Tượng do Viện Viễn Đông Bác Cổ đăng ký với số hiệu D22.1 và từng được ghi nhận qua: Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient, Bulletin de la commission archéologique de l’Indochine, cũng như các ấn phẩm giới thiệu hiện vật Việt Nam trưng bày ở nước ngoài. Đã có đông đảo các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới như Ananda Coomaraswamy, Douglas Barret, Pierre Dupont, Alecxander Griswold, Diran Kavrk Dohanian, Jean Boisselier, Ulrich von Schroeder quan tâm tìm hiểu về nguồn gốc và giá trị của tượng. Tượng đã từng được đưa đi trưng bày ở Mỹ, Pháp, Áo, Bỉ với giá bảo hiểm ở mức 5 triệu USD.

    Giao Hưởng

Chia sẻ trang này