1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Báu vật của đời - Mạc Ngôn

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi julie06, 07/05/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Đám phu huyệt bắt đầu lấp đất. Ông mục sư chệnh choạng đi tới chỗ chúng tôi. Mặt trời đã ngả về tây, bóng ông trải dài trên mặt đất. Mẹ nhìn ông, trái tim mẹ ẩn sau cặp vú đập rộn lên.
    Khi ánh nắng mặt trời chuyển sang màu đỏ, thì một nấm mồ lớn đã đắp xong. Theo sự hướng dẫn của Trưởng trấn Tư Mã Đình, thân nhân của những người tử nạn quì lạy trước mồ và khóc vài tiếng cho đúng bổn phận. Mẹ đề nghị họ vái tạ Tư Mã Đình và nhóm phu huyệt để tỏ lòng cảm ơn. Tư Mã Đình gạt đi:
    - Thôi, thôi, miễn!
    Nhóm phu huyệt ra về trong ráng chiều đỏ rực. Mẹ và các chị rớt lại sau. Mục sư Malôa thân hình cao lớn, ra về sau cùng. Đoàn người đứt quãng, kéo dài đến hơn một dặm, bóng đổ dài trên cánh đồng lúa mạch. Trong sự tĩnh lặng mênh mông của hoàng hôn, vang lên tiếng bước chân, tiếng gió xào xạc trên ngọn lúa, tiếng khóc khan của tôi, tiếng kêu ai oán của con cú vọ sau một ngày ngủ vùi trên cây đâu thân to bằng đầu người, ở chính giữa khu nghĩa trang. Tiếng kêu của con cú làm mọi người bủn rủn. Mẹ dừng bước, quay lại nhìn nấm mồ, nhìn bó huống đang cháy nghi ngút.
    Mục sư Malôa cúi xuống bế chị Cầu Đệ, than thở:
    - Khổ thân các con!
    Ông vừa nói xong, bản dạ khúc của ngàn vạn côn trùng từ bốn phương tám hướng đã ùa tới.
    *
    * *​
    2 .
    Cái hôm tôi và chị Tám vừa tròn trăm ngày đúng vào tết Trung thu. Buổi sáng, mẹ bế tôi và chị Tám đến chỗ mục sư Malôa. Cổng lớn mặt tiền - mặt quay ra đồng, đóng chặt. Cánh cổng viết đầy những câu tục tĩu phỉ báng thần linh. Chúng tôi men theo một lối nhỏ vòng qua sân trước của nhà thờ, khẽ gõ cổng xép nhìn ra cánh đồng. Một con dê gầy nhom buộc bên cổng. Mặt nó rất dài, không thể nhận ra đó là mặt dê, mà phải là mặt con lừa, mặt con lạc đà, mặt bà già! Nó ngẩng đầu lên, đưa cặp mắt u tối nhìn mẹ từ đầu đến chân. Mẹ dùng ngón chân cái dá nhẹ vào cằm dưới của con dê. Nó kêu lên một tràng dài rồi lại cúi xuống ăn cỏ. Trong sân có tiếng động rồi tiếng đặng hắng của ông mục sư. Mẹ dập dập chiếc vòng sắt trên cánh cổng. Trong sân, mục sư cất tiếng hỏi ai? Mẹ trả lời khẽ Tôi đây.
    Cánh cửa kẹt lên một tiếng, hé mở. Mẹ bế tôi nghiêng mình lách vào. Mục sư đóng cổng lại, quay sang ôm chầm lấy mẹ con tôi, nói bằng tiếng địa phương chính cống: Cục cưng của tôi đây!
    Lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy, đang men theo còn đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết, để về thôn. Hai bên đường, một bên là cao lương vụ thu gieo trồng trên đất lúa mạch dại trà, một bên là đồng cói kéo dài từ ven sông Mục. Một mùa hè nắng chói chang và mưa dịu ngọt, khiến cây cối hoa màu phát triển như điên. Cao lương thu lá mập, thân to khỏe, tốt bằng đầu người mà vẫn chưa trổ bông. Cói xanh rờn, mặt lá đầy lông tơ. Tuy là giữa thu, nhưng không hề ngửi thấy mùi vị mùa thu trong gió, nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thu. Trong không khí có vị tươi mát của cây xanh, vị ngọt của lá lục Đó là mùi vị của cói non và cây cao lương đang thì con gái. Đội ngũ của Sa Nguyệt Lượng có 28 người, đi thành hàng dọc. Tất cả đều cưỡi lừa đen, đặc sản của vùng Khưu Lăng phía nam huyện Ngũ Liên. Chúng to lớn, chân rắn chắc, chạy không nhanh bằng ngựa nhưng sức bền thì tuyệt, có thể chạy đường dài. Sa Nguyệt Lượng chọn lấy 28 con chưa thiến trong số hơn 400 con. Chúng có tiếng rống ồm ồm, sức trẻ bột phát, là chỗ dựa về sức tải của đội. Hai mươi tám con lừa nối đuôi nhau như một dòng chảy. Một làn sương màu sữa trùm lên mặt đường, thân lừa phản quang ánh nắng mặt trời. Khi trông thấy tháp chuông đổ nát của nhà thờ và tháp canh,
    Sa Nguyệt Lượng đi đầu hàng quân, ghìm cương cho lừa dừng lại. Những con đi sau dồn cả lên. Anh ta ngoái nhìn nét mặt mệt mỏi của các đội viên, hạ lệnh dừng lại nghỉ, tiếp theo là lệnh đi rửa mặt mũi chân tay và tắm cho lừa. Khuôn mặt xương xương, nét mặt nghiêm nghị, Sa Nguyệt Lượng khiển trách nghiêm khắc những đội viên không chịu đi tắm rửa. Anh ta nâng vấn đề tắm rửa cho người và cho lừa lên một tầm cao, nói rằng, các đội du kích chống Nhật mọc lên như nấm, vì vậy Đội súng chim phải áp đảo các đội khác bằng phong cách độc đáo của mình. Điểm đóng quân cuối cùng là địa bàn Cao Mật. Các đội viên đọc đả thông, tất cả đều cởi trần, áo vắt trên lùm cói, tìm chỗ nước nông rửa mặt rửa người. Tất cả đầu cạo trọc, da đầu trắng xanh. Sa Nguyệt Lượng lấy trong xắc cốt một bánh xà phòng, cắt thành nhiều miếng nhỏ chia cho các đội viên. Tắm kỹ vào! Tắm thật sạch! Bản thân Sa Nguyệt Lượng cũng lội xuống nước, cởi trần, vai có một nốt ruồi to tướng, anh ta kỳ sạch ghét trên người, trên cổ. Trong khi người tắm thì những con lừa khoan khoái bút lá cao lương để ăn và gặm mông nhau. Có con đứng lặng như đang trầm tư mặt tưởng, cây gậy thò ra khỏi bìu, chốc chốc lại quật đánh bịch lên bụng. Trong khi những con lừa đi tìm lạc thú cho riêng mình, thì mẹ tôi vùng ra khỏi vòng tay ông mục sư, trách yêu:
    - Đồ con lừa! Chết bẹp thằng bé bây giờ!
    Mục sư Malôa mỉm cười tỏ vẻ biết lỗi, phô hàm răng trắng lóa. Ông chìa cánh tay vạm vỡ về phía chúng tôi, ngừng một thoáng rồi chìa nốt tay kia. Tôi mút ngón tay chùn chụt. Chị Tám lặng im như phỗng, không khóc cũng không cựa quậy. Chị bị mù bẩm sinh. Mẹ bế tôi bằng một tay, bảo:
    - Con nó cười với anh đây này! Rồi tôi nằm gọn trong cánh tay hộ pháp của ông mục sư. Ông cúi sát mặt tôi. Tôi trông thấy tóc đỏ trên đỉnh đầu, râu vàng dưới cằm, mũi khoằm như mũi chim ung và cặp mắt xanh biếc sáng ngời của ông. Chợt lưng tôi đau nhói. Tôi nhả ngón tay ra, khóc ầm lên, nước mắt ràn rụa. Cặp môi ẩm ướt của ông chạm nhẹ trên má tôi. Tôi cảm nhận đượm môi ông đang run rẩy, ngủi thấy mùi hăng hắc ở miệng ông.
    Ông trả tôi cho mẹ, ngượng nghịu: Tôi làm nó sợ phải không? Chắc là tôi làm nó sợ! Mẹ trao chị Tám cho ông, đón lấy tôi vỗ nhẹ, đung đưa rồi nựng:
    - Nín đi con, ông ấy là ai con biết không? Đừng sợ, ông là người tốt, là cha thân yêu của con!
    Lưng vẫn đau buốt, tôi khóc khản cả tiếng. Mẹ vén vạt áo, nhét vú vào miệng tôi. Tôi như chết đuối với được cọc, ngoạm chặt đầu vú ra sức mút. Dòng sữa có mùi thơm của cỏ non chảy vào họng tôi. Lưng vẫn nhức buốt nên tôi lại nhả vú ra, tiếp tục gào khóc. Malôa vặn vẹo hai bàn tay, áy náy không yên. Ông chạy tới chân tường nhổ một cọng cỏ gà rồi ve vẩy trước mặt tôi: Chẳng ăn thua, tôi vẫn khóc dữ. Ông lại chạy tới góc sân ngắt bông hoa hướng dương to bằng mặt trăng viển bởi những cánh màu vàng, huơ lên trước mặt tôi. Lần này thì tôi thích. Trong lúc ông mục sư tất bật chạy tới chạy lui, chị Tám vẫn ngủ yên trong tay ông. Mẹ nói:
    - Cưng, cha hái mặt trăng cho con đây này!
    Tôi giơ tay ra, sau lưng lại đau buốt.
    - Thằng bé làm sao thế nhỉ?
    Môi mẹ nhợt nhạt, mặt đầy mồ hôi. Malôa nói:
    - Xem có gì chọc vào người nó không?
    Malôa giúp mẹ cơi bộ quần áo màu đỏ may cho tôi nhân dịp tôi được một trăm ngày tuổi, phát hiện một chiếc kim cài ở lưng áo, lưng tôi có vết kim đâm, máu vẫn đang rỉ ra. Mẹ vút cái kim đi, vừa khóc vừa nói:
    - Khổ thân con tôi? Tôi dáng đánh đòn! Nói rồi, mẹ tự vả vào mặt mình hai cái thật đau. Malôa giữ tay mẹ lại, rồi từ phía sau ôm chặt cả hai mẹ con. Cặp môi mọng của ông thơm lên má lên tóc mẹ, nói nhỏ:
    - Không ai trách em, mà nên trách tôi...
    Được ông an ủi, mẹ bình tĩnh lại, ngồi xuống ngưỡng cửa phòng ông, nhét vú vào miệng tôi.
    Một dòng sữa ngọt làm dịu cổ họng, vết kim châm trên lưng không còn đau nữa. Tôi ngậm một bên vú, tay chụp bầu vú bên kia, lại co một chân lên đạp lung tung để bảo vệ nó. Mẹ cầm chân tôi dằn xuống, nhưng bà vừa bỏ tay ra là tôi lại co chân lên. Mẹ tỏ vẻ nghi ngờ:
    - Lúc mặc quần áo cho nó, em đã xem rất kỹ, làm sao lại có kim ở đó? Chắc chắn đây là trò của mụ già. Mụ rất căm hai mẹ con em!
    - Mụ có biết chuyện giữa chúng ta không?
    Mẹ nói:
    - Em đã nói hết với mụ. Chính mụ đã ép em phải nói. Em chịu đựng đủ điều sỉ nhục! Mụ ấy bất nhân lắm!
    Mục sư trả chị Tám cho mẹ:
    - Cho nó bú mấy! Đều là quà tặng của Thượng đế, em không nên thiên vị quá!
    Mẹ đỏ mặt, đón lấy chị Tám, định nhét vú vào miệng chị liền bị tôi đạp một cái vào bụng, chị khóc.
    Mẹ nói:
    - Hay chửa kìa, cái thằng lỏi, đúng là đồ bá đạo. Anh pha ít sữa dê cho nó vậy!
    Ông mục sư cho chị Tám uống no sữa dê rồi đặt chị lên giường. Chị Tám không khóc, không cựa quậy, hiền quá.
    Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:
    - Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?
    - Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!
    Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:
    - Nó giống ai nào?
    Ông mục sư càng ngẩn người ra:
    - Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!
    Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.
    - Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.
    Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.
    - Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?
    Mẹ nói giọng không vui:
    - Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.
    Ông nói:
    - Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!
    Mẹ cười:
    - Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.
    - Nói bậy.
    Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:
    - Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!
    Mẹ tỏ ý không vui:
    - Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
    Malôa nói:
    - Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
    Mẹ cười bảo:
    - Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?
    Malôa buồn rầu nói:
    - Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?
    Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:
    - Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.
    Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:
    - Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!
    Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:
    - Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dê. Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?
    - Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.
    Mẹ chợt kêu to:
    - Đuổi nó đi!
  2. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
    - Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
    - Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
    Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
    - Đuổi con la đi!
    Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
    - Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
    Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
    - Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!
    Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:
    - Đề nghị ông chỉ huy cho biết đơn vị ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?
    Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:
    - Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước đục ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.
    - Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.
    - Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:
    - Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!
    Tư Diêu nói:
    - Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn! ''
    - Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.
    Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy ẳa:
    - Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?
    - Nói như *** ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:
    - Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.
    Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:
    - Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?
    - Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.
    Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:
    - Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!
    Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:
    - Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?
    - Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!
    - Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con ***!
    - Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.
    - Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...
    - Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.
    Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
    - Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!
    Tư Diêu nhăn nhó:
    - Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.
    Tư Mã Đình nói:
    - Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa-đen cũng không phải của riêng ta. Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!
    Sa Nguyệt Lượng cười:
    - Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!
    Tư Mã Đình nói:
    - Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...
    Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:
    - Cho lửa to hơn nữa!
    Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sư. Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.
    - Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.
    Ông mục sư giận dỗi, nói:
    - Thằng con lai!
    Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.
    - Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!
    Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.
    - Từ từ nào, con trai của mẹ!
    Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:
    - Thằng con lai này!
    Mẹ nói:
    - Anh không được gọi nó là con lai!
    Malôa nói:
    - Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!
    Mẹ nói:
    - Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.
    Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:
    - Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!
    Mẹ hỏi:
    - Anh thân với chị ta đến mức nào?
    Malôa nói:
    - Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!
    Mẹ nói:
    - Đừng có bịp!
    Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.
    - Nói mau! - Mẹ giục.
    Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:
    - Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!
    Mẹ cười nhạt, nói:
    - Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!
    Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:
    - Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
    Ông mục sư nói:
    - Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!
    - Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.
    - Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!
    Mẹ vùng vằng:
    - Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.
    Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa-đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.
    Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con **** màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tư. Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:
    - Đây là trụ sở của Đội.
    Tư Diêu hỏi:
    - Lai Đệ, mẹ cô đâu?
    Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.
    - Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.
  3. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
    - Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
    - Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
    Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
    - Đuổi con la đi!
    Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
    - Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
    Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
    - Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!
    Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:
    - Đề nghị ông chỉ huy cho biết đơn vị ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?
    Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:
    - Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước đục ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.
    - Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.
    - Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:
    - Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!
    Tư Diêu nói:
    - Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn! ''
    - Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.
    Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy ẳa:
    - Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?
    - Nói như *** ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:
    - Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.
    Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:
    - Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?
    - Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.
    Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:
    - Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!
    Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:
    - Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?
    - Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!
    - Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con ***!
    - Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.
    - Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...
    - Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.
    Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:
    - Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!
    Tư Diêu nhăn nhó:
    - Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.
    Tư Mã Đình nói:
    - Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa-đen cũng không phải của riêng ta. Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!
    Sa Nguyệt Lượng cười:
    - Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!
    Tư Mã Đình nói:
    - Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...
    Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:
    - Cho lửa to hơn nữa!
    Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sư. Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.
    - Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.
    Ông mục sư giận dỗi, nói:
    - Thằng con lai!
    Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.
    - Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!
    Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.
    - Từ từ nào, con trai của mẹ!
    Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:
    - Thằng con lai này!
    Mẹ nói:
    - Anh không được gọi nó là con lai!
    Malôa nói:
    - Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!
    Mẹ nói:
    - Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.
    Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:
    - Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!
    Mẹ hỏi:
    - Anh thân với chị ta đến mức nào?
    Malôa nói:
    - Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!
    Mẹ nói:
    - Đừng có bịp!
    Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.
    - Nói mau! - Mẹ giục.
    Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:
    - Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!
    Mẹ cười nhạt, nói:
    - Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!
    Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:
    - Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
    Ông mục sư nói:
    - Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!
    - Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.
    - Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!
    Mẹ vùng vằng:
    - Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.
    Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa-đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.
    Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con **** màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tư. Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:
    - Đây là trụ sở của Đội.
    Tư Diêu hỏi:
    - Lai Đệ, mẹ cô đâu?
    Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.
    - Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.
  4. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:
    - Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.
    Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.
    - Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!
    Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:
    - Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!
    Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.
    - Cha em đâu? Anh ta hỏi.
    Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:
    - Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.
    - Quân đội Thiên hoàng cái ***! Giặc thì có! Giặc Nhật!
    Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:
    - Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?
    Tư Diêu cướp lời:
    - Bà Lã!
    Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.
    Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.
    Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:
    - Nước được rồi, thả nó vào!
    Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a.... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:
    - Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!
    Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:
    - Halilôa!
    Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.
    Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.
    Mẹ nói:
    - Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!
    Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:
    - Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!
    Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!
    Malôa lắc đầu lia lịa, nói:
    - Không hay, không hay. Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!
    Mẹ nói:
    - Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?
    Malôa cười:
    - Không hay. Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.
    Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:
    - Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!
    - Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.
    - Nghĩ ra rồi!
    Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.
    - Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.
    Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:
    - Ra sân sau, mau lên!
    Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sư. Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.
    Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:
    - Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?
    Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:
    - Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.
    Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.
    Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.
    - Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!
    - Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.
    - Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!
    Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:
    - Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.
    Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.
    - Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.
    - Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.
    - Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?
    Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.
    Malôa làm dấu trước ngực, khóc:
    - Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...
    - Thằng Hán gian ********!
    Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:
    - Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...
    Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và *** chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.
    - Lạy Chúa tôi!
    Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra tay. Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.
    Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn *** chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rộ... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:
    KIM ĐồNG, NGọC Nữ
    Rồi ông kêu to:
    - Xin Chúa hãy tha thứ cho con!
    Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.
  5. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:
    - Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.
    Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.
    - Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!
    Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:
    - Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!
    Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.
    - Cha em đâu? Anh ta hỏi.
    Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:
    - Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.
    - Quân đội Thiên hoàng cái ***! Giặc thì có! Giặc Nhật!
    Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:
    - Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?
    Tư Diêu cướp lời:
    - Bà Lã!
    Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.
    Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.
    Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:
    - Nước được rồi, thả nó vào!
    Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a.... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:
    - Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!
    Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:
    - Halilôa!
    Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.
    Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.
    Mẹ nói:
    - Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!
    Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:
    - Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!
    Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!
    Malôa lắc đầu lia lịa, nói:
    - Không hay, không hay. Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!
    Mẹ nói:
    - Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?
    Malôa cười:
    - Không hay. Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.
    Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:
    - Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!
    - Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.
    - Nghĩ ra rồi!
    Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.
    - Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.
    Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:
    - Ra sân sau, mau lên!
    Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sư. Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.
    Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:
    - Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?
    Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:
    - Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.
    Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.
    Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.
    - Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!
    - Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.
    - Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!
    Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:
    - Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.
    Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.
    - Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.
    - Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.
    - Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?
    Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.
    Malôa làm dấu trước ngực, khóc:
    - Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...
    - Thằng Hán gian ********!
    Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:
    - Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...
    Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và *** chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.
    - Lạy Chúa tôi!
    Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra tay. Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.
    Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn *** chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rộ... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:
    KIM ĐồNG, NGọC Nữ
    Rồi ông kêu to:
    - Xin Chúa hãy tha thứ cho con!
    Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.
  6. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    3.
    Mùa đông năm nay đã tới gần, mẹ mặc chiếc áo bông bọc lụa xanh của bà nội. Chiếc áo được may nhân dịp bà nội sáu mươi tuổi, nhờ một bà con cháu đầy đàn trong thôn, may giúp. Giờ đây nó trở thành áo rét của mẹ. Bà nội đã mất khả năng nói năng, hành động, đánh bạn với lừa ngựa ở chái tây. ở hai vạt trước của chiếc áo bông, mẹ khoét hai lỗ hình tròn để hai vú lộ ra ngoài, tiện cho tôi bú tí bất cứ lúc nào. Cái ngày thu phẫn nộ ấy, đôi vú của mẹ bị chà đạp, nhưng tai họa rồi cũng qua đi, bầu vú chân chính thì không thể bị hủy hoại, giống như có những người trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như cây tùng. Để che gió lạnh, giữ cho vú được ấm, mẹ đính hai miếng vải đỏ trước hai lỗ như rèm che. Phát minh của mẹ trở thành truyền thống, đến nay vẫn thịnh hành ở Cao Mật, có điều, bây giờ hai lỗ thật tròn, vải rèm càng mềm mại, hơn nữa còn thêu một bông hoa trên đó.
    Trang phục mùa đông của Kim Đồng là một cái túi rất bền bằng vải bạt, có thể thắt miệng túi lại bằng một sợi dây. Thân túi đính hai quai thật chắc, quàng đuổi cặp vú của mẹ. Khi cho tôi bú, mẹ thót bụng lại, xoay cái túi ra trước ngực. Trong túi, tôi chuyển từ tư thế đứng sang tư thế quì là đầu tôi ngang tầm ngực mẹ, tôi chỉ việc ngoẹo đầu sang trái là ngoạm được đầu vú phải, ngoẹo đầu sang phải là bập được vào đầu vú trái, sang trái sang phải đều gặp nguồn sữa. Nhưng cái túi cũng có điều bất tiện. Tay tôi bị vướng, khiến tôi mất thói quen thường ngày: miệng ngậm bầu này thì một tay bảo vệ bầu kia. Quyền được bú tí của chị Tám đã bị tôi tước đoạt hoàn toàn. Hễ chị sán lại gần là tôi tay cấu chân đạp, khiến chị khóc suốt. Bây giờ chị sống bằng cháo. Thấy vậy, các chị đều rất không bằng lòng. Do vậy, cả một mùa đông dài đặc và khắc nghiệt, tôi luôn luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi ti sữa. Khi ngậm vú trái, toàn bộ tinh thần tôi tập trung chú ý bầu vú bên phải, luôn cảm thấy những bàn tay lông lá đột nhiên thò vào lỗ thủng, bắt bầu vú đem đi. Vì lo sợ như vậy, tôi liên tục đổi bên, vừa mút cho chảy sữa ở bầu trái, tôi đã lập tức chuyển sang bầu phải. Mẹ đoán ra tâm trạng tôi, thơm tôi bằng cặp môi lạnh ngắt, nói khẽ:
    - Kim Đồng, con cưng của mẹ. Sữa mẹ chỉ dành cho con, không ai cướp được của con!
    Mẹ nói vậy khiến tôi đỡ lo nhưng vẫn không thể yên tâm hoàn toàn, tôi vẫn cảm thấy luôn luôn có những bàn tay lông lá rập rình bên vú mẹ.
    Một buổi sáng, tuyết rơi nhẹ, mẹ mặc chiếc áo bông có khoét lỗ, địu Kim Đồng cuộn tròn trong cái túi ám áp trên lưng, chỉ huy các chị khuân củ cải vào hầm. Tôi không quan tâm củ cải từ đâu tới mà chỉ để ý hình dáng của chúng. Đầu nhọn, thân phình to đột ngột của chúng khiến tôi nghĩ đến bầu vú. Từ đó, trong ký ức về vú, ngoại trừ những bầu hồ lô bóng loáng, ngoại trừ con chim câu trắng mềm mại, đã có thêm hình ảnh những củ cải đỏ Chúng có màu sắc riêng, thần thái riêng và độ ấm riêng, tất cả đều có hình dáng như bầu vú, đều tượng trưng cho bầu vú trong bất cứ thời tiết nào, hoàn cảnh nào.
    Bầu trời hết hùng sáng lại u ám, tuyết nhẹ lúc rơi lúc dừng. Các chị mặc quần áo mỏng, co ro trước gió bấc. Chị Cả chịu trách nhiệm nhặt củ cải từ trong sọt ra, chị Hai và chị Ba chịu trách nhiệm bê đến cửa hầm, chị Tư và chị Năm san đều củ cải trong hầm, chị Sáu và chị Bảy thì không làm gì. Chị Tám không có khả năng lao động, một mình trên giường trầm tư mặc tưởng. Chị Sáu mỗi lần bê bốn củ, chị Bảy mỗi lần bê hai củ. Mẹ và Kim Đồng đi lại trong khoảng từ đống củ cải đến cửa hầm, sai phái, rầy la các chị và than vãn. Những lời ca cám của mẹ, tựu trung xoay quanh trung tâm tư tưởng sau đây: cuộc sống gian truân, phải cố mà làm việc mới có thể vượt qua. Các chị có thái độ tiêu cực khi mẹ ra lệnh, bất mãn khi nghe mẹ than thở. Các chị thờ ở trước những lời than vãn của mẹ. Đến nay tôi vẫn không hiểu vì sao nhà tôi bỗng có nhiều củ cải đến thế! Sau này tôi mới rõ vì sao mẹ tôi dự trữ củ cải nhiều đến như vậy cho mùa đông năm ấy.
    Công việc khuân vác sắp kết thúc, mặt đất chỉ còn lại một số củ vặn vẹo như những bầu vú dị dạng. Mẹ khom người quì trước cửa hầm, thò tay xuống lôi chị Tưởng Đệ và Phán Đệ lên. Trong quá trình đó, tôi bị hai lần chổng ngược, từ dưới nách mẹ tôi trông thấy mờ ảo những bông tuyết trắng. Cuối cùng, mẹ bê một cái ang sứt miệng, trong ang chất đầy những bông gòn và vỏ hến, đậy miệng hầm lại. Các chị xếp thành một hàng ngang đứng sát tường áp mái, như đang chờ lệnh mới. Mẹ lại than thở:
    - Lấy gì may áo bông cho các con bây giờ?
    Chị Ba nói:
    - Mua bông, mua vải.
    Mẹ nói:
    - Chỉ có vậy thì hỏi các con làm gì? Mẹ nói là kiếm đâu ra tiền?
    Chị Hai tỏ vẻ không bằng lòng, nói:
    - Bán mẹ con con lừa đi!
    Mẹ cắt ngang:
    - Bán lừa và la đi thì sang xuân cày ruộng bằng gì?
    Chị Cả Lai Đệ trước sau giữ thái độ im lặng. Mẹ liếc sang phía chị, chị cúi gằm xuống. Mẹ lo ngại nhìn chị, nói:
    - Ngày mai, con và Chiêu Đệ dắt con la ra chợ mà bán?
    Chị năm Phán Đệ thét lên, giọng the thé:
    - Con la vẫn còn bú sữa mẹ. Sao nhà mình không bán thóc đi! Thóc nhà mình nhiều như thế cơ mà! Mẹ liếc sang chái đông, cửa buồng khép hờ, trên sợi dây thép căng ngang cửa sổ có đôi tất của Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng. Con la lon ton chạy ra sân, nó cùng ngày tháng năm sinh với tôi, cũng như tôi, nó là con đực. Tôi vẫn còn đứng trong túi vải bạt trên lưng mẹ, nó đã cao bằng mẹ nó rồi.
    - Vậy đấy, ngày mai bán con la đi! - Mẹ vừa nói vừa đi vào trong buồng. Có tiếng gọi sang sảng từ phía sau lưng chúng tôi:
    - Mẹ nuôi ơi!
    Sa Nguyệt Lượng mất tăm đã ba ngày, nay trở lại nhà tôi dắt theo con lừa đen của anh ta. Trên lưng lừa là hai bọc to tướng bằng vải hoa căng phồng, tù kẽ hở lộ ra những màu sắc rực rỡ.
    - Mẹ nuôi ơi!
    Anh ta tỏ vẻ thân thiện. Mẹ quay lại, nhìn khuôn mặt xương xương đen nhẻm với nụ cười ngọng nghịu của anh ta, nói dứt khoát:
    - Sa Đội trưởng, tôi đã nói nhiều lần rồi, tôi không phải là mẹ nuôi của anh!
    Sa Nguyệt Lượng không nao núng, nói:
    - Không phải mẹ nuôi? Còn hơn cả mẹ nuôi nữa kìa! Mẹ nuôi không ưng tôi, nhưng tôi một lòng hiếu thuận với mẹ!
    Nói rồi, anh ta gọi hai đội viên du kích vào đỡ hai bọc vải xuống, bảo họ dắt lừa về nhà thờ. Tôi cũng nhìn con lừa đực của Sa Nguyệt Lượng bằng cặp mắt căm giận. Nó hếch mũi lên, ngửi cái mùi tỏa ra từ con lừa cái nhà tôi. Sa Nguyệt Lượng cởi cái bọc, cầm lên một chiếc áo khoác băng lông cáo, giơ ra dưới tuyết. Sức nóng tỏa ra từ chiếc áo khiến những bông tuyết nhẹ tan thành nước cách cái áo một thước.
    - Mẹ nuôi ơi! Sa Nguyệt Lượng cầm áo lại gần mẹ. - Mẹ nuôi ơi, đây là chút lòng hiếu thảo của tôi!
    Mẹ vội vã né tránh, nhưng không tránh được, kết cục là chiếc áo khoác lên người. Mặt tôi tối sầm, mùi lông cáo và mùi long não khiến tôi nghẹt thở. Khi tôi lại thấy ánh sáng, sân nhà tôi đã trở thành một thế giới động vật: Chị cả Lai Đệ khoác chiếc áo lông tử điêu, cổ quấn khăn lông chồn còn nguyên hai mặt lóng lánh. Chị hai Chiêu Đệ khoác chiếc áo bằng lông điêu thử. Chị ba Lãnh Đệ khoác chiếc áo lông gấu đen. Chị tư Tưởng Đệ khoác chiếc áo da màu vàng rơm. Chị năm Phán Đệ khoác chiếc áo bằng lông sói đốm. Chị sáu Niệm Đệ khoác chiếc áo lông cừu. Chị bảy Cầu Đệ khoác chiếc áo bằng lông thỏ trắng. Chiếc áo khoác lông cáo của mẹ rơi xuống đất. Mẹ quát:
    - Cởi hết ra cho tôi, cởi hết ra!
    Các chị hầu như không nghe mẹ nói gì, đầu ngọ nguậy trong cổ áo, hai tay vuốt ve thân áo. Qua nét mặt, thấy rõ các chị như mụ đi vì ngạc nhiên và vui sướng, vui sướng trong ngạc nhiên. Mẹ run lên, thều thào:
    - Chúng mày điên cả rồi hay sao?
    Sa Nguyệt Lượng cầm lên hai chiếc áo khoác nhỏ cuối cùng, dùng tay phủi nhẹ mặt ngoài áo bóng như lụa, nền nâu điểm hoa đen, xúc động nói:
    - Mẹ nuôi ơi, đây là da con mèo rừng, cả vùng Cao Mật chỉ có hai con. Cha con lão Cảnh Thuyên phải bỏ ra gần ba năm mới tóm được chúng. Đây là da con mèo rừng đực, đây là da con mèo rừng cái. Các em đã trông thấy con mèo rừng bao giờ chưa?
    Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các chị, không ai trả lời. Anh ta giảng giải cho các chị như một giáo viên tiểu học: Mèo rùng giống như con mèo nhưng lớn hơn nhiều, giống con báo nhưng nhỏ hơn báo, biết trèo cây, biết bơi, một cú nhảy cao một trượng, có thể bắt chim trên ngọn cây. Loài này chẳng khác yêu tinh. Hai con mèo rừng vùng Cao Mật này sống trong các hang bãi tha ma, bắt được chúng còn khó hon lên trời, nhưng cuối cùng đã tóm được. Mẹ nuôi ơi, hai chiếc áo này tôi tặng hai em Kim Đồng và Ngọc Nữ.
    Anh ta vừa nói vừa vắt hai chiếc áo may bằng da con mèo rừng biết trèo cây, biết bơi, nhảy cao một trượng, lên cánh tay mẹ. Rồi cúi nhặt chiếc áo lông cáo đỏ như lửa, rũ bụi, cũng vắt lên tay mẹ, nói một câu khiến người cảm động:
    - Mẹ nuôi ơi, hãy nể mặt tôi.
    Đêm hôm ấy, mẹ chốt cửa buồng chính, gọi chị Lai Đệ sang buồng chúng tôi. Mẹ đặt tôi và Ngọc Nữ nằm sóng đôi trên đầu giường. Tôi giơ tay cào một cái vào mặt chị Tám. Chị khóc, co người lại một góc. Mẹ không kịp ngó đến chúng tôi. Mẹ quay lại chốt cửa buồng. Chị Cả khoác chiếc áo lông chồn, quấn chiếc khăn lông cáo của chị, dè dặt nhưng ương bướng đứng bên giường. Mẹ gác một chân lên giường, rút chiếc trâm sau gáy khêu bấc đèn. ánh đèn bùng lên. Mẹ ngồi xếp thẻ trên giường hỏi chị Cả, giọng mỉa mai:
    - Thưa tiểu thư, tiểu thư ngồi xuống đi, đừng sợ làm bẩn chiếc áo da của tiểu thư!
    Mặt chị Cả đỏ ửng, chị chành môi, ngồi xuống chiếc ghế băng cạnh giường. Con cáo của chị vênh cái mõm lên ở giữa ngực chị, hai mắt lấp lánh.
    Ngoài sân là thế giới của Sa Nguyệt Lượng. Từ khi anh ta dọn đến ở chái đông nhà tôi, cái cổng lớn không bao giờ khép chặt. Đêm nay, ở chái đông càng ồn ào, ánh đèn măng-sông sáng trắng, xuyên qua giấy dán cửa sổ, soi sáng cả ngoài sân. Tuyết bay trong ánh đỡn. Trong sân, tiếng chân đi nhộn nhịp, cánh cổng kêu ken két, vó ngựa vang lên từng chặp trong ngõ. Trong gian chái vang lên tiếng cười ầm ĩ và thô lỗ. Những trò đố vui, nào là Đào viên kết nghĩa, nào là năm ông trạng nguyên, nào là tám đóa hoa mai, tám chú ngựa... Mùi cá thịt thơm lừng khiến sáu chị tập trung tại cửa sổ buồng phía đông thèm rỏ đãi. Mắt mẹ như tóe lửa, nhìn chị Cả không chớp. Chị Cả ngang ngạnh nhìn lại mẹ, hai luồng mắt gặp nhau, cùng tóe lửa xanh.
    - Mày nghĩ như thế nào? Mẹ hỏi.
    Chị Cả vuốt những chỗ lông xù ở đuôi khăn lông cáo, hỏi lại:
    - Mẹ hỏi gì cơ?
    Mẹ nói:
    - Đừng có giả vờ!
    Chị Cả nói:
    - Mẹ, con không hiểu ý mẹ?
    Mẹ đổi giọng rầu rĩ, nói:
    - Lai Đệ, con có chín chị em, con là lớn, nếu xảy ra chuyện gì thì biết dựa vào ai?
    Chị đứng phắt dậy, giọng xúc động chưa bao giờ thấy ở chị:
    - Mẹ, mẹ còn muốn gì ở con? Trong trái tim mẹ chỉ có Kim Đồng, còn lũ con gái chúng con không bằng bãi *** chó!
    Mẹ nói:
    - Con dùng nghĩ sai về mẹ. Kim Đồng là vàng, các con ít ra cũng là bạc, sao lại có thể không bằng bãi *** chó? Đêm nay, mẹ con mình có gì cứ nói thẳng với nhau. Cái anh chàng Sa Nguyệt Lượng ấy chẳng khác cáo đến chúc Tết gà, tâm địa chẳng có gì tốt. Nó đang câu con đấy!
    Chị Cả cúi đầu, vuốt ve cái đuôi con cáo, nước mắt đột nhiên ứa ra, chị nói:
    - Mẹ, lấy được người như vậy là con mãn nguyện lắm rồi!
    Mẹ như bị điện giật, nói:
    - Lai Đệ, con lấy ai mẹ cũng đồng ý, nhưng đừng lấy Sa Nguyệt Lượng!
    Chị Cả hỏi: - Vì sao hả mẹ?
    Mẹ nói: - Chẳng vì sao cả!
    Chị Cả với giọng day nghiến, không phù hợp chút nào với cái tuổi của chị:
    - Tôi làm thân trâu ngựa cho nhà Thượng Quan đủ quá rồi!
    Giọng gay gắt của chị khiến mẹ giật thót. Mẹ đưa mắt dò xét nhìn khuôn mặt đỏ gay vì giận của chị, rồi lại nhìn bàn tay nắm chặt đuôi con cáo của chị. Mẹ sờ soạng bên cạnh tôi, vớ được cái chổi quét giường giơ cao lên:
    - Mày đổ đốn rồi! Tao thì đánh chết mày!
    Mẹ nhảy xuống đất, giơ chổi vụt vào đầu chị Cả, chị giơ đầu ra, không tránh né cũng không chống lại. Tay mẹ dùng lại giữa chừng, khi hạ xuống thì đã mềm nhũn. Mẹ vút cây chổi, ôm vai chị mà khóc:
    - Lai Đệ, ta với thằng Lượng không đi cùng đường. Mẹ không muốn nhìn thấy con gái của mẹ nhảy vào lửa!...
    Chị Cả cũng nức nở khóc.
    Cuối cùng, khóc đã chán, mẹ dùng mu bàn tay lau nước mắt, van nài:
    - Lai Đệ, con hứa với mẹ đi, không quan hệ với thằng ấy nữa!
    Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết, nói:
    - Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp!
    Chị liếc nhìn chiếc áo khoác bằng lông cáo và hai chiếc áo bằng da mèo rừng ở trên giường. Mẹ cũng kiên quyết:
    - Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!
    Chị Cả nói:
    - Mẹ nỡ lòng nào nhìn các em con bị chết cóng!
    Mẹ nói:
    - Cái thằng buôn áo lông chết tiệt!
    Chị Cả rút then cửa đi thẳng về buồng của chị, không ngoái lại.
    Mẹ ủ rũ ngồi xuống mép giường, thở gấp.
    Lúc này tiếng chân lạch bạch của Sa Nguyệt Lượng đã tới bên cửa sổ. Lưỡi líu, môi tê dại, anh ta cũng định từ tốn gõ cửa, nhẹ nhàng nói với mẹ về chuyện hôn nhân đại sự, nhưng rượu đã làm tê liệt thần kinh khiến cử chỉ phản lại ý muốn của anh ta. Anh ta gõ mạnh đến nỗi cửa sổ rung lên thủng cả giấy dán, gió lạnh từ sân lọt vào, hơi rượu từ miệng anh ta cũng lọt vào. Với giọng lè nhè dáng ghét đồng thời cũng đáng yêu của thằng say, anh ta gào lên:
    - Mẹ ơi!
    Mẹ nhổm dậy trên giường, ngớ ra một thoáng rồi kéo tôi lùi xa cửa sổ. Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Mẹ, chuyện vợ chồng giữa tôi và Lai Đệ thì khi nào tổ chức?... Tôi sốt ruột lắm rồi
    Mẹ nghiến rằng, nói:
    - Anh Lượng, cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời, có mà năm mơ!
    Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Mẹ nói vậy là thế nào?
    Mẹ nói:
    - Ta bảo anh nằm mơ!
    Sa Nguyệt Lượng chợt tỉnh rượu, nói rành rẽ:
    - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lượng này chưa bao giờ hạ mình xin xỏ ai!
    Mẹ nói:
    - Ai bảo anh xin mà xin!
    Sa Nguyệt Lượng nói: - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lương này định làm gì là làm bằng được.
    Mẹ nói: - Vậy anh hãy giết tôi đi đã.
    Sa Nguyệt Lượng cười:
    - Tôi định lấy con gái thì làm sao lại giết mẹ vợ.
    Mẹ nói:
    - Vậy đến mạt kiếp anh cũng không lấy được
    Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Con gái lớn rồi, mẹ cứ ý mình sao được? Mẹ vợ ơi, chúng tôi bỏ đi cho mà xem!
    Sa Nguyệt Lượng vừa cười vừa đi tới buồng phía đông, chọc thủng giấy dán cửa sổ, tung nắm kẹo to tướng vào trong, nói to:
    - Các dì ơi, có anh rể của các dì đây, ngọt bùi ta sẽ có nhau!...
  7. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    3.
    Mùa đông năm nay đã tới gần, mẹ mặc chiếc áo bông bọc lụa xanh của bà nội. Chiếc áo được may nhân dịp bà nội sáu mươi tuổi, nhờ một bà con cháu đầy đàn trong thôn, may giúp. Giờ đây nó trở thành áo rét của mẹ. Bà nội đã mất khả năng nói năng, hành động, đánh bạn với lừa ngựa ở chái tây. ở hai vạt trước của chiếc áo bông, mẹ khoét hai lỗ hình tròn để hai vú lộ ra ngoài, tiện cho tôi bú tí bất cứ lúc nào. Cái ngày thu phẫn nộ ấy, đôi vú của mẹ bị chà đạp, nhưng tai họa rồi cũng qua đi, bầu vú chân chính thì không thể bị hủy hoại, giống như có những người trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như cây tùng. Để che gió lạnh, giữ cho vú được ấm, mẹ đính hai miếng vải đỏ trước hai lỗ như rèm che. Phát minh của mẹ trở thành truyền thống, đến nay vẫn thịnh hành ở Cao Mật, có điều, bây giờ hai lỗ thật tròn, vải rèm càng mềm mại, hơn nữa còn thêu một bông hoa trên đó.
    Trang phục mùa đông của Kim Đồng là một cái túi rất bền bằng vải bạt, có thể thắt miệng túi lại bằng một sợi dây. Thân túi đính hai quai thật chắc, quàng đuổi cặp vú của mẹ. Khi cho tôi bú, mẹ thót bụng lại, xoay cái túi ra trước ngực. Trong túi, tôi chuyển từ tư thế đứng sang tư thế quì là đầu tôi ngang tầm ngực mẹ, tôi chỉ việc ngoẹo đầu sang trái là ngoạm được đầu vú phải, ngoẹo đầu sang phải là bập được vào đầu vú trái, sang trái sang phải đều gặp nguồn sữa. Nhưng cái túi cũng có điều bất tiện. Tay tôi bị vướng, khiến tôi mất thói quen thường ngày: miệng ngậm bầu này thì một tay bảo vệ bầu kia. Quyền được bú tí của chị Tám đã bị tôi tước đoạt hoàn toàn. Hễ chị sán lại gần là tôi tay cấu chân đạp, khiến chị khóc suốt. Bây giờ chị sống bằng cháo. Thấy vậy, các chị đều rất không bằng lòng. Do vậy, cả một mùa đông dài đặc và khắc nghiệt, tôi luôn luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi ti sữa. Khi ngậm vú trái, toàn bộ tinh thần tôi tập trung chú ý bầu vú bên phải, luôn cảm thấy những bàn tay lông lá đột nhiên thò vào lỗ thủng, bắt bầu vú đem đi. Vì lo sợ như vậy, tôi liên tục đổi bên, vừa mút cho chảy sữa ở bầu trái, tôi đã lập tức chuyển sang bầu phải. Mẹ đoán ra tâm trạng tôi, thơm tôi bằng cặp môi lạnh ngắt, nói khẽ:
    - Kim Đồng, con cưng của mẹ. Sữa mẹ chỉ dành cho con, không ai cướp được của con!
    Mẹ nói vậy khiến tôi đỡ lo nhưng vẫn không thể yên tâm hoàn toàn, tôi vẫn cảm thấy luôn luôn có những bàn tay lông lá rập rình bên vú mẹ.
    Một buổi sáng, tuyết rơi nhẹ, mẹ mặc chiếc áo bông có khoét lỗ, địu Kim Đồng cuộn tròn trong cái túi ám áp trên lưng, chỉ huy các chị khuân củ cải vào hầm. Tôi không quan tâm củ cải từ đâu tới mà chỉ để ý hình dáng của chúng. Đầu nhọn, thân phình to đột ngột của chúng khiến tôi nghĩ đến bầu vú. Từ đó, trong ký ức về vú, ngoại trừ những bầu hồ lô bóng loáng, ngoại trừ con chim câu trắng mềm mại, đã có thêm hình ảnh những củ cải đỏ Chúng có màu sắc riêng, thần thái riêng và độ ấm riêng, tất cả đều có hình dáng như bầu vú, đều tượng trưng cho bầu vú trong bất cứ thời tiết nào, hoàn cảnh nào.
    Bầu trời hết hùng sáng lại u ám, tuyết nhẹ lúc rơi lúc dừng. Các chị mặc quần áo mỏng, co ro trước gió bấc. Chị Cả chịu trách nhiệm nhặt củ cải từ trong sọt ra, chị Hai và chị Ba chịu trách nhiệm bê đến cửa hầm, chị Tư và chị Năm san đều củ cải trong hầm, chị Sáu và chị Bảy thì không làm gì. Chị Tám không có khả năng lao động, một mình trên giường trầm tư mặc tưởng. Chị Sáu mỗi lần bê bốn củ, chị Bảy mỗi lần bê hai củ. Mẹ và Kim Đồng đi lại trong khoảng từ đống củ cải đến cửa hầm, sai phái, rầy la các chị và than vãn. Những lời ca cám của mẹ, tựu trung xoay quanh trung tâm tư tưởng sau đây: cuộc sống gian truân, phải cố mà làm việc mới có thể vượt qua. Các chị có thái độ tiêu cực khi mẹ ra lệnh, bất mãn khi nghe mẹ than thở. Các chị thờ ở trước những lời than vãn của mẹ. Đến nay tôi vẫn không hiểu vì sao nhà tôi bỗng có nhiều củ cải đến thế! Sau này tôi mới rõ vì sao mẹ tôi dự trữ củ cải nhiều đến như vậy cho mùa đông năm ấy.
    Công việc khuân vác sắp kết thúc, mặt đất chỉ còn lại một số củ vặn vẹo như những bầu vú dị dạng. Mẹ khom người quì trước cửa hầm, thò tay xuống lôi chị Tưởng Đệ và Phán Đệ lên. Trong quá trình đó, tôi bị hai lần chổng ngược, từ dưới nách mẹ tôi trông thấy mờ ảo những bông tuyết trắng. Cuối cùng, mẹ bê một cái ang sứt miệng, trong ang chất đầy những bông gòn và vỏ hến, đậy miệng hầm lại. Các chị xếp thành một hàng ngang đứng sát tường áp mái, như đang chờ lệnh mới. Mẹ lại than thở:
    - Lấy gì may áo bông cho các con bây giờ?
    Chị Ba nói:
    - Mua bông, mua vải.
    Mẹ nói:
    - Chỉ có vậy thì hỏi các con làm gì? Mẹ nói là kiếm đâu ra tiền?
    Chị Hai tỏ vẻ không bằng lòng, nói:
    - Bán mẹ con con lừa đi!
    Mẹ cắt ngang:
    - Bán lừa và la đi thì sang xuân cày ruộng bằng gì?
    Chị Cả Lai Đệ trước sau giữ thái độ im lặng. Mẹ liếc sang phía chị, chị cúi gằm xuống. Mẹ lo ngại nhìn chị, nói:
    - Ngày mai, con và Chiêu Đệ dắt con la ra chợ mà bán?
    Chị năm Phán Đệ thét lên, giọng the thé:
    - Con la vẫn còn bú sữa mẹ. Sao nhà mình không bán thóc đi! Thóc nhà mình nhiều như thế cơ mà! Mẹ liếc sang chái đông, cửa buồng khép hờ, trên sợi dây thép căng ngang cửa sổ có đôi tất của Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng. Con la lon ton chạy ra sân, nó cùng ngày tháng năm sinh với tôi, cũng như tôi, nó là con đực. Tôi vẫn còn đứng trong túi vải bạt trên lưng mẹ, nó đã cao bằng mẹ nó rồi.
    - Vậy đấy, ngày mai bán con la đi! - Mẹ vừa nói vừa đi vào trong buồng. Có tiếng gọi sang sảng từ phía sau lưng chúng tôi:
    - Mẹ nuôi ơi!
    Sa Nguyệt Lượng mất tăm đã ba ngày, nay trở lại nhà tôi dắt theo con lừa đen của anh ta. Trên lưng lừa là hai bọc to tướng bằng vải hoa căng phồng, tù kẽ hở lộ ra những màu sắc rực rỡ.
    - Mẹ nuôi ơi!
    Anh ta tỏ vẻ thân thiện. Mẹ quay lại, nhìn khuôn mặt xương xương đen nhẻm với nụ cười ngọng nghịu của anh ta, nói dứt khoát:
    - Sa Đội trưởng, tôi đã nói nhiều lần rồi, tôi không phải là mẹ nuôi của anh!
    Sa Nguyệt Lượng không nao núng, nói:
    - Không phải mẹ nuôi? Còn hơn cả mẹ nuôi nữa kìa! Mẹ nuôi không ưng tôi, nhưng tôi một lòng hiếu thuận với mẹ!
    Nói rồi, anh ta gọi hai đội viên du kích vào đỡ hai bọc vải xuống, bảo họ dắt lừa về nhà thờ. Tôi cũng nhìn con lừa đực của Sa Nguyệt Lượng bằng cặp mắt căm giận. Nó hếch mũi lên, ngửi cái mùi tỏa ra từ con lừa cái nhà tôi. Sa Nguyệt Lượng cởi cái bọc, cầm lên một chiếc áo khoác băng lông cáo, giơ ra dưới tuyết. Sức nóng tỏa ra từ chiếc áo khiến những bông tuyết nhẹ tan thành nước cách cái áo một thước.
    - Mẹ nuôi ơi! Sa Nguyệt Lượng cầm áo lại gần mẹ. - Mẹ nuôi ơi, đây là chút lòng hiếu thảo của tôi!
    Mẹ vội vã né tránh, nhưng không tránh được, kết cục là chiếc áo khoác lên người. Mặt tôi tối sầm, mùi lông cáo và mùi long não khiến tôi nghẹt thở. Khi tôi lại thấy ánh sáng, sân nhà tôi đã trở thành một thế giới động vật: Chị cả Lai Đệ khoác chiếc áo lông tử điêu, cổ quấn khăn lông chồn còn nguyên hai mặt lóng lánh. Chị hai Chiêu Đệ khoác chiếc áo bằng lông điêu thử. Chị ba Lãnh Đệ khoác chiếc áo lông gấu đen. Chị tư Tưởng Đệ khoác chiếc áo da màu vàng rơm. Chị năm Phán Đệ khoác chiếc áo bằng lông sói đốm. Chị sáu Niệm Đệ khoác chiếc áo lông cừu. Chị bảy Cầu Đệ khoác chiếc áo bằng lông thỏ trắng. Chiếc áo khoác lông cáo của mẹ rơi xuống đất. Mẹ quát:
    - Cởi hết ra cho tôi, cởi hết ra!
    Các chị hầu như không nghe mẹ nói gì, đầu ngọ nguậy trong cổ áo, hai tay vuốt ve thân áo. Qua nét mặt, thấy rõ các chị như mụ đi vì ngạc nhiên và vui sướng, vui sướng trong ngạc nhiên. Mẹ run lên, thều thào:
    - Chúng mày điên cả rồi hay sao?
    Sa Nguyệt Lượng cầm lên hai chiếc áo khoác nhỏ cuối cùng, dùng tay phủi nhẹ mặt ngoài áo bóng như lụa, nền nâu điểm hoa đen, xúc động nói:
    - Mẹ nuôi ơi, đây là da con mèo rừng, cả vùng Cao Mật chỉ có hai con. Cha con lão Cảnh Thuyên phải bỏ ra gần ba năm mới tóm được chúng. Đây là da con mèo rừng đực, đây là da con mèo rừng cái. Các em đã trông thấy con mèo rừng bao giờ chưa?
    Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các chị, không ai trả lời. Anh ta giảng giải cho các chị như một giáo viên tiểu học: Mèo rùng giống như con mèo nhưng lớn hơn nhiều, giống con báo nhưng nhỏ hơn báo, biết trèo cây, biết bơi, một cú nhảy cao một trượng, có thể bắt chim trên ngọn cây. Loài này chẳng khác yêu tinh. Hai con mèo rừng vùng Cao Mật này sống trong các hang bãi tha ma, bắt được chúng còn khó hon lên trời, nhưng cuối cùng đã tóm được. Mẹ nuôi ơi, hai chiếc áo này tôi tặng hai em Kim Đồng và Ngọc Nữ.
    Anh ta vừa nói vừa vắt hai chiếc áo may bằng da con mèo rừng biết trèo cây, biết bơi, nhảy cao một trượng, lên cánh tay mẹ. Rồi cúi nhặt chiếc áo lông cáo đỏ như lửa, rũ bụi, cũng vắt lên tay mẹ, nói một câu khiến người cảm động:
    - Mẹ nuôi ơi, hãy nể mặt tôi.
    Đêm hôm ấy, mẹ chốt cửa buồng chính, gọi chị Lai Đệ sang buồng chúng tôi. Mẹ đặt tôi và Ngọc Nữ nằm sóng đôi trên đầu giường. Tôi giơ tay cào một cái vào mặt chị Tám. Chị khóc, co người lại một góc. Mẹ không kịp ngó đến chúng tôi. Mẹ quay lại chốt cửa buồng. Chị Cả khoác chiếc áo lông chồn, quấn chiếc khăn lông cáo của chị, dè dặt nhưng ương bướng đứng bên giường. Mẹ gác một chân lên giường, rút chiếc trâm sau gáy khêu bấc đèn. ánh đèn bùng lên. Mẹ ngồi xếp thẻ trên giường hỏi chị Cả, giọng mỉa mai:
    - Thưa tiểu thư, tiểu thư ngồi xuống đi, đừng sợ làm bẩn chiếc áo da của tiểu thư!
    Mặt chị Cả đỏ ửng, chị chành môi, ngồi xuống chiếc ghế băng cạnh giường. Con cáo của chị vênh cái mõm lên ở giữa ngực chị, hai mắt lấp lánh.
    Ngoài sân là thế giới của Sa Nguyệt Lượng. Từ khi anh ta dọn đến ở chái đông nhà tôi, cái cổng lớn không bao giờ khép chặt. Đêm nay, ở chái đông càng ồn ào, ánh đèn măng-sông sáng trắng, xuyên qua giấy dán cửa sổ, soi sáng cả ngoài sân. Tuyết bay trong ánh đỡn. Trong sân, tiếng chân đi nhộn nhịp, cánh cổng kêu ken két, vó ngựa vang lên từng chặp trong ngõ. Trong gian chái vang lên tiếng cười ầm ĩ và thô lỗ. Những trò đố vui, nào là Đào viên kết nghĩa, nào là năm ông trạng nguyên, nào là tám đóa hoa mai, tám chú ngựa... Mùi cá thịt thơm lừng khiến sáu chị tập trung tại cửa sổ buồng phía đông thèm rỏ đãi. Mắt mẹ như tóe lửa, nhìn chị Cả không chớp. Chị Cả ngang ngạnh nhìn lại mẹ, hai luồng mắt gặp nhau, cùng tóe lửa xanh.
    - Mày nghĩ như thế nào? Mẹ hỏi.
    Chị Cả vuốt những chỗ lông xù ở đuôi khăn lông cáo, hỏi lại:
    - Mẹ hỏi gì cơ?
    Mẹ nói:
    - Đừng có giả vờ!
    Chị Cả nói:
    - Mẹ, con không hiểu ý mẹ?
    Mẹ đổi giọng rầu rĩ, nói:
    - Lai Đệ, con có chín chị em, con là lớn, nếu xảy ra chuyện gì thì biết dựa vào ai?
    Chị đứng phắt dậy, giọng xúc động chưa bao giờ thấy ở chị:
    - Mẹ, mẹ còn muốn gì ở con? Trong trái tim mẹ chỉ có Kim Đồng, còn lũ con gái chúng con không bằng bãi *** chó!
    Mẹ nói:
    - Con dùng nghĩ sai về mẹ. Kim Đồng là vàng, các con ít ra cũng là bạc, sao lại có thể không bằng bãi *** chó? Đêm nay, mẹ con mình có gì cứ nói thẳng với nhau. Cái anh chàng Sa Nguyệt Lượng ấy chẳng khác cáo đến chúc Tết gà, tâm địa chẳng có gì tốt. Nó đang câu con đấy!
    Chị Cả cúi đầu, vuốt ve cái đuôi con cáo, nước mắt đột nhiên ứa ra, chị nói:
    - Mẹ, lấy được người như vậy là con mãn nguyện lắm rồi!
    Mẹ như bị điện giật, nói:
    - Lai Đệ, con lấy ai mẹ cũng đồng ý, nhưng đừng lấy Sa Nguyệt Lượng!
    Chị Cả hỏi: - Vì sao hả mẹ?
    Mẹ nói: - Chẳng vì sao cả!
    Chị Cả với giọng day nghiến, không phù hợp chút nào với cái tuổi của chị:
    - Tôi làm thân trâu ngựa cho nhà Thượng Quan đủ quá rồi!
    Giọng gay gắt của chị khiến mẹ giật thót. Mẹ đưa mắt dò xét nhìn khuôn mặt đỏ gay vì giận của chị, rồi lại nhìn bàn tay nắm chặt đuôi con cáo của chị. Mẹ sờ soạng bên cạnh tôi, vớ được cái chổi quét giường giơ cao lên:
    - Mày đổ đốn rồi! Tao thì đánh chết mày!
    Mẹ nhảy xuống đất, giơ chổi vụt vào đầu chị Cả, chị giơ đầu ra, không tránh né cũng không chống lại. Tay mẹ dùng lại giữa chừng, khi hạ xuống thì đã mềm nhũn. Mẹ vút cây chổi, ôm vai chị mà khóc:
    - Lai Đệ, ta với thằng Lượng không đi cùng đường. Mẹ không muốn nhìn thấy con gái của mẹ nhảy vào lửa!...
    Chị Cả cũng nức nở khóc.
    Cuối cùng, khóc đã chán, mẹ dùng mu bàn tay lau nước mắt, van nài:
    - Lai Đệ, con hứa với mẹ đi, không quan hệ với thằng ấy nữa!
    Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết, nói:
    - Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp!
    Chị liếc nhìn chiếc áo khoác bằng lông cáo và hai chiếc áo bằng da mèo rừng ở trên giường. Mẹ cũng kiên quyết:
    - Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!
    Chị Cả nói:
    - Mẹ nỡ lòng nào nhìn các em con bị chết cóng!
    Mẹ nói:
    - Cái thằng buôn áo lông chết tiệt!
    Chị Cả rút then cửa đi thẳng về buồng của chị, không ngoái lại.
    Mẹ ủ rũ ngồi xuống mép giường, thở gấp.
    Lúc này tiếng chân lạch bạch của Sa Nguyệt Lượng đã tới bên cửa sổ. Lưỡi líu, môi tê dại, anh ta cũng định từ tốn gõ cửa, nhẹ nhàng nói với mẹ về chuyện hôn nhân đại sự, nhưng rượu đã làm tê liệt thần kinh khiến cử chỉ phản lại ý muốn của anh ta. Anh ta gõ mạnh đến nỗi cửa sổ rung lên thủng cả giấy dán, gió lạnh từ sân lọt vào, hơi rượu từ miệng anh ta cũng lọt vào. Với giọng lè nhè dáng ghét đồng thời cũng đáng yêu của thằng say, anh ta gào lên:
    - Mẹ ơi!
    Mẹ nhổm dậy trên giường, ngớ ra một thoáng rồi kéo tôi lùi xa cửa sổ. Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Mẹ, chuyện vợ chồng giữa tôi và Lai Đệ thì khi nào tổ chức?... Tôi sốt ruột lắm rồi
    Mẹ nghiến rằng, nói:
    - Anh Lượng, cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời, có mà năm mơ!
    Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Mẹ nói vậy là thế nào?
    Mẹ nói:
    - Ta bảo anh nằm mơ!
    Sa Nguyệt Lượng chợt tỉnh rượu, nói rành rẽ:
    - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lượng này chưa bao giờ hạ mình xin xỏ ai!
    Mẹ nói:
    - Ai bảo anh xin mà xin!
    Sa Nguyệt Lượng nói: - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lương này định làm gì là làm bằng được.
    Mẹ nói: - Vậy anh hãy giết tôi đi đã.
    Sa Nguyệt Lượng cười:
    - Tôi định lấy con gái thì làm sao lại giết mẹ vợ.
    Mẹ nói:
    - Vậy đến mạt kiếp anh cũng không lấy được
    Sa Nguyệt Lượng nói:
    - Con gái lớn rồi, mẹ cứ ý mình sao được? Mẹ vợ ơi, chúng tôi bỏ đi cho mà xem!
    Sa Nguyệt Lượng vừa cười vừa đi tới buồng phía đông, chọc thủng giấy dán cửa sổ, tung nắm kẹo to tướng vào trong, nói to:
    - Các dì ơi, có anh rể của các dì đây, ngọt bùi ta sẽ có nhau!...
  8. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Đêm ấy Sa Nguyệt Lượng không ngủ, đi lại suốt đêm trong sân, chốc lại ho, chốc lại huýt sáo miệng. Tài nghệ xuất sắc, anh ta nhại được giọng mười mấy loại chim. Ngoài chuyện ho, huýt sáo, anh ta còn hát các tích tuồng cũ và cả những bài ca chống Nhật đang lưu hành, với giọng to hết cỡ. Lúc thì mắng Trần Sĩ Mỹ tại phủ Khai Phong, lúc lại hươi đao chém đầu quân giặc. Để đề phòng người hùng chống Nhật, tình duyên bị ngáng trở xông vào buồng, mẹ chèn cửa bằng cây chống, bễ thổi lửa, rương quần áo, gạch vỡ... Mẹ cho tôi vào túi, địu trên lưng, tay cầm dao phay đi đi lại lại trong nhà, từ buồng tây sang buồng đông. Các chị không ai cởi bỏ áo khoác, ngồi ôm nhau, mồ hôi lấm tấm trên mũi, rồi ngủ thiếp đi trong tiếng ồn đủ loại do Sa Nguyệt Lượng gây ra. Nước dãi của chị Cầu Đệ làm ướt áo lông sói của chị hai Chiêu Đệ. Chị sáu Niệm Đệ như con cừu non, rúc vào chiếc áo lông gấu của chị ba Lãnh Đệ.
    Giờ dây nghĩ lại, tôi thấy cuộc đấu với Sa Nguyệt Lượng, mẹ đã thua ngay từ đầu. Sa Nguyệt Lượng dùng lông thú thuần phục các chị tôi, thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi, mẹ tôi mất quần chúng, bị cô lập.
    Ngày hôm sau, mẹ địu tôi trên lưng, chạy như bay đến nhà ông Ba Phàn giải thích ngắn gọn: Để trả ơn Tôn Đại Cô đã đỡ đẻ cho, mẹ gả Lai Đệ cho thằng câm lớn, người hùng cầm nhuyễn đao chiến đấu với bầy quạ. Nói dứt khoát ngày thứ nhất chạm ngõ, ngày thứ hai đưa sính lễ, ngày thứ ba làm lễ thành hôn.
    Ba Phàn cứ ngẩn ra mà nghe. Mẹ nói:
    - Chú ơi, chú đừng căn vặn làm gì, rượu biếu chú, con đã chuẩn bị xong rồi!
    Ba Phàn hỏi:
    - Làm mối ngược à?
    Mẹ bảo:
    - Ngược!
    Ba Phàn lại hỏi:
    - Vì sao phải làm thế?
    Mẹ nói:
    - Chú ơi! Xin chú đừng hỏi. Chú bảo thằng câm trưa nay đem lễ đến.
    Ba Phàn nói:
    - Nhà nó có gì đâu?
    Mẹ nói:
    - Có gì đem nấy.
    Chúng tôi chạy về nhà, dọc đường tim mẹ giật thon thót, vô cùng lo lắng. Mẹ linh cảm không sai. Vừa vào sân đã thấy một lô động vật: chồn, gấu đen, sói đốm, cừu, thỏ trắng... đang nhảy múa, chỉ không thấy tử điêu. Tử điêu trên cổ quấn con chồn đang ngồi trên bao lúa mạch ngắm viên đội trưởng du kích. Hắn ngồi lau súng, lau hồ lô trên đệm của hắn.
    Mẹ kéo Lai Đệ đứng dậy, lạnh nhạt bảo Sa Nguyệt Lượng:
    - Anh đội trưởng, nó đã có chủ rồi! Các anh là đội quân chống Nhật, chắc không dụ dỗ gái có chồng chứ?
    Sa Nguyệt Lượng bình tĩnh nói:
    - Điều này thì bác khỏi bận tâm.
    Mẹ lôi chị Lai Đệ về căn buồng phía đông. Gần trưa, thằng câm lớn xách một con thỏ đến nhà tôi. Hắn mặc chiếc áo chẽn hở cả bụng, tay áo dài đến khuỷu, lộ hai bắp tay vạm vỡ. Cúc áo đứt sạch, hắn khép hai vạt bằng sợi dây thừng. Hắn cúi rạp chào mẹ, nụ cười ngơ ngẩn trên khuôn mặt. Hắn đưa con thỏ cho mẹ bằng cả hai tay. Ba Phàn cùng đến với thằng câm, nói:
    - Chị Thọ Hỉ, tôi đã làm như lời chị dặn.
    Mẹ bàng hoàng nhìn con thỏ rừng miệng còn dính máu.
    - Chú ơi, trưa nay chú ở lại, anh câm cũng ở lại đây.
    Mẹ chỉ vào thằng câm nói:
    - Củ cải ninh thịt thỏ, coi như lễ đính hôn cho bọn trẻ!
    Trong căn buồng phía đông, tiếng khóc của chị Lai Đệ chợt vỡ ra. Lúc đầu khóc ti tỉ như trẻ con, vài phút sau chuyển thành tiếng gào thét, xen lẫn những câu chửi tục kinh khủng. Rồi mươi phút sau chỉ là tiếng gào khan, không có nước mắt.
    Chị Lai Đệ ngồi bệt xuống đất bẩn trong buồng, quên phắt đang mặc chiếc áo quí. Mắt chị ráo hoảnh, miệng há ra như một cái giếng cạn, tiếng gào khan từ đó bật ra. Sáu chị khác của tôi cố ghìm giọng nức nở, nước mắt lăn trên áo lông gấu, nhảy trên áo lông chồn, lấp lánh trên áo lông sói, thấm vào áo lông cừu, dây bẩn áo lông thỏ.
    Ba Phàn thò đầu vào buồng đông, mắt trợn trùng như gặp ma, môi run bần bật. Ông đi giật lùi ra giữa nhà rồi loạng choạng bỏ chạy.
    Thằng câm lớn của nhà họ Tôn đứng giữa nhà tôi ngó ngang ngó dọc, trên khuôn mặt hắn, ngoài nụ cười ngớ ngẩn, còn gợn lên nét suy tư khó bề đoán trước, sự hoang văng như hóa thạch và một nỗi đau tê buốt. Sau này tôi còn chứng kiến vẻ mặt đáng sợ khi hắn nổi giận.
    Mẹ lấy sợi dây thép nhỏ xâu miệng con thỏ rồi treo dưới mái hiên. Mẹ coi như không nghe thấy tiếng gầm của chị Cả, coi như không nhìn thấy nét mặt cổ quái của thằng câm. Mẹ cầm con dao gỉ, sút mẻ, lột da con thỏ. Sa Nguyệt Lượng khoác súng từ buồng đông đi ra, mẹ không ngoái lại, nói với giọng lạnh nhạt:
    - Anh Đội, đứa lớn nhà tôi hôm nay đính hôn, con thỏ này là ăn lễ hỏi.
    Sa Nguyệt Lông cười:
    - Lễ hậu hĩ quá nhỉ!
    Mẹ cắt phần đầu con thỏ, nói:
    - Nó hôm nay đính hôn, mai đưa đồ cưới, ngày kia làm lễ thành thân!
    Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào Sa Nguyệt Lượng, nói:
    - Đừng quên uống rượu mừng đấy!
    Sa Nguyệt Lượng nói: - Quên thế nào được!
    Nói xong, hắn khoác súng lên vai, miệng huýt sáo lanh lảnh, bước ra cổng.
    Mẹ tiếp tục lột da con thỏ, nhưng không còn hào húng như trước. Mẹ treo con thỏ trên khung cửa, địu tôi đi vào trong nhà. Trên bàn có mấy củ cải to. Mẹ cầm dao đến gần, củ cải không phản ứng gì, năm im chờ đợi. Mẹ quát to:
    - Lai Đệ, ân oán cũng thể mẹ con, mày cứ oán tao đi!
    Nói xong câu dữ dằn đó, mẹ ôm mặt khóc không thành tiếng, đôi vai run bần bật, nước mắt chảy ràn rụa. Mẹ bắt đầu bổ củ cải. Một nhát bổ xuống, củ cải bửa làm hai, lại một nhát nữa, củ cải bửa làm tư. Bổ liên tiếp, động tác của mẹ ngày càng nhanh, ngày càng điệu nghệ. Củ cải bị băm nhỏ đầy bàn. Mẹ lại giơ cao còn dao lần nữa, nhưng động tác hạ xuống thì cực kỳ nhẹ nhàng. Con dao rời khỏi tay, nằm trên đống củ cải đã băm nhỏ, mùi hăng hắc tỏa ra khắp căn buồng.
    Thằng câm giơ ngón tay cái lén tỏ ý khâm phục mẹ, miệng lắp bắp để bổ sung cho động tác. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, bảo thằng câm:
    - Anh về đi!
    Thằng câm hoa tay, tung chân đá vào khoảng không. Mẹ cao giọng, chỉ về phía nhà hắn, quát to:
    - Anh về đi, tôi bảo anh về đi!
    Thằng câm hiểu ra. Hắn làm ngoáo ộp một cái với tôi như trẻ con, hàng ria đen nhánh trên cái môi dầy. Hắn làm bộ rất chuẩn xác động tác trèo cây, mô phỏng động tác tóm được con chim đang quẫy. Hắn cười, chỉ vào tôi, lại chỉ vào trái tim hắn.
    Mẹ lại chỉ,về hướng nhà. Hắn ngẩn người, gục gặc đầu ra vẻ hiểu, rồi quì trước mặt mẹ - mẹ vội né sang một bên - hắn hướng về cái bàn để củ cải, dập đầu một cái thật kêu rồi vênh váo bước ra cổng.
    Đêm ấy, mẹ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, đếm đủ tám mươi tám con thỏ béo mũm mĩm treo đây trên cây ngô đồng, cây hương xuân và cây hạnh trong sân.
    Mẹ vịn khung cửa, từ từ ngồi xuống.
    Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lương đối với mẹ. Chị Cả bỏ theo trai, chị Hai, chị Ba, chị Tư là đồng lõa. Sự việc.xảy ra khi đã quá nửa đêm như sau: Khi mẹ mệt mỏi hắt hơi thì chị Năm, chị Sáu chị Bảy đi vào giấc ngủ. Chị Hai nhổm dậy, chân trần, mò mẫm tháo gỡ những chướng ngại vật mà mẹ dựng sau cửa, chị Ba chị Tư kéo hai cánh cửa cho mở ra.
    Lúc chiều tối, Sa Nguyệt Lượng đã đổ đầu vào cột cửa, cửa mở không một tiếng kêu. Dưới ánh trăng bàng bạc của nửa đêm về sáng, chị em ôm nhau từ biệt. Sa Nguyệt Lượng nhìn những con thỏ treo trên cây, cười thầm. Ngày thứ ba là ngày thằng câm và chị Cả làm lễ thành hôn. Mẹ bình tĩnh ngồi khâu vá trên giường. Gần trưa, không chờ đợi được nữa, thằng câm mò đến. Hắn dùng điệu bộ và cả nét mặt để đòi người. Mẹ bước ra sân, chỉ sang buồng phía đông, rồi chỉ lên cây treo đầy những còn thỏ đã đông cúng. Mẹ không nói câu nào, nhưng thằng câm hiểu hết.
    Vào lúc hoàng hôn, cả nhà tôi đang ngồi trên giường ăn cháo mạch, bỗng có tiếng đập cổng đánh rầm. Chị Hai đút cơm cho bà nội ở chái tây hớt hải chạy vào, gọi:
    - Mẹ, hỏng to rồi! Anh em nhà thằng câm đến đấy. Đem theo cả chó. Các chị hoảng sợ. Mẹ ngồi im như một tảng đá, dùng thìa đút cháo mạch cho chị Tám. Khi chị Tám đã no, mẹ bắt đầu nhai củ cải rau ráu. Trông mẹ thảnh thơi như một con thỏ cái có chửa. Tiếng ồn ngoài cổng bỗng lắng xuống. Khoảng hút tàn diếu thuốc, ba bóng đen vọt qua bức tường vây phía nam, nơi mặt tường rất thấp. Ba anh em nhà câm đến rồi Cùng vọt vào sân là ba con chó đen bóng như sơn then. Chúng như ba đạo hắc quang bay vào sân, không một tiếng động. Dưới ráng chiều đỏ rực, ba anh em nhà câm và ba con chó đứng yên trong khoảnh khắc y hệt một nhóm tượng. Thằng câm lớn tay cầm thanh nhuyễn đao Miến Điện ánh thép sắc lạnh. Thằng Hai câm chống thanh yêu đao. Thằng ba câm kéo lê thanh phác đao cán dài có tua đỏ. Trên vai đứa nào cũng khoác một bọc nhỏ bằng vải hoa nền xanh hoa trắng, hình như chúng sắp đi xa. Các chị sợ đến nghẹt thở, còn mẹ thì vẫn thản nhiên như không, húp cháo sùm sụp. Đột nhiên, thằng câm lớn gầm lên một tiếng, Hai câm và Ba câm cũng gầm theo, những con chó cũng lên tiếng sủa. Nước bọt bắn ra từ miệng người và mõm chó như những con trùng nhỏ, lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tiếp đó, thằng câm lớn biểu diễn dao pháp, giống như hôm đánh nhau với dàn quạ trong buổi tang lễ trên cánh đồng lúa mạch. Trong cái buổi hoàng hôn chớm đông xa xăm ấy, ánh đao loang loáng trong sân nhà tôi, ba thằng đàn ông hung hãn như ba con chó săn, liên tiếp nhảy vọt lên, vươn dài thân như tấm thép, chém nát những con thỏ treo trên cành cây. Những con chó của chúng gâu gâu mừng rỡ, lắc lắc cái đầu to bự giăng xé những xác con thỏ, thịt bay tứ tung. Ba thằng câm sát phạt chán chê, đứa nào đứa ấy tỏ vẻ thỏa mãn. Sân nhà tôi trở thành lò sát sinh. Mấy con thỏ chỉ còn cái đầu treo lủng lẳng trên cây như những quả khô. Những thằng câm cùng với mấy con chó diệu võ dương oai mấy vòng quanh sân, rồi cũng như khi đến, chúng vượt tường, mất hút trong màn đêm mờ ảo.
    Mẹ bưng bát cháo, cười nhạt. Nụ cười đặc biệt của mẹ khắc sâu trong đầu tôi.
  9. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Đêm ấy Sa Nguyệt Lượng không ngủ, đi lại suốt đêm trong sân, chốc lại ho, chốc lại huýt sáo miệng. Tài nghệ xuất sắc, anh ta nhại được giọng mười mấy loại chim. Ngoài chuyện ho, huýt sáo, anh ta còn hát các tích tuồng cũ và cả những bài ca chống Nhật đang lưu hành, với giọng to hết cỡ. Lúc thì mắng Trần Sĩ Mỹ tại phủ Khai Phong, lúc lại hươi đao chém đầu quân giặc. Để đề phòng người hùng chống Nhật, tình duyên bị ngáng trở xông vào buồng, mẹ chèn cửa bằng cây chống, bễ thổi lửa, rương quần áo, gạch vỡ... Mẹ cho tôi vào túi, địu trên lưng, tay cầm dao phay đi đi lại lại trong nhà, từ buồng tây sang buồng đông. Các chị không ai cởi bỏ áo khoác, ngồi ôm nhau, mồ hôi lấm tấm trên mũi, rồi ngủ thiếp đi trong tiếng ồn đủ loại do Sa Nguyệt Lượng gây ra. Nước dãi của chị Cầu Đệ làm ướt áo lông sói của chị hai Chiêu Đệ. Chị sáu Niệm Đệ như con cừu non, rúc vào chiếc áo lông gấu của chị ba Lãnh Đệ.
    Giờ dây nghĩ lại, tôi thấy cuộc đấu với Sa Nguyệt Lượng, mẹ đã thua ngay từ đầu. Sa Nguyệt Lượng dùng lông thú thuần phục các chị tôi, thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi, mẹ tôi mất quần chúng, bị cô lập.
    Ngày hôm sau, mẹ địu tôi trên lưng, chạy như bay đến nhà ông Ba Phàn giải thích ngắn gọn: Để trả ơn Tôn Đại Cô đã đỡ đẻ cho, mẹ gả Lai Đệ cho thằng câm lớn, người hùng cầm nhuyễn đao chiến đấu với bầy quạ. Nói dứt khoát ngày thứ nhất chạm ngõ, ngày thứ hai đưa sính lễ, ngày thứ ba làm lễ thành hôn.
    Ba Phàn cứ ngẩn ra mà nghe. Mẹ nói:
    - Chú ơi, chú đừng căn vặn làm gì, rượu biếu chú, con đã chuẩn bị xong rồi!
    Ba Phàn hỏi:
    - Làm mối ngược à?
    Mẹ bảo:
    - Ngược!
    Ba Phàn lại hỏi:
    - Vì sao phải làm thế?
    Mẹ nói:
    - Chú ơi! Xin chú đừng hỏi. Chú bảo thằng câm trưa nay đem lễ đến.
    Ba Phàn nói:
    - Nhà nó có gì đâu?
    Mẹ nói:
    - Có gì đem nấy.
    Chúng tôi chạy về nhà, dọc đường tim mẹ giật thon thót, vô cùng lo lắng. Mẹ linh cảm không sai. Vừa vào sân đã thấy một lô động vật: chồn, gấu đen, sói đốm, cừu, thỏ trắng... đang nhảy múa, chỉ không thấy tử điêu. Tử điêu trên cổ quấn con chồn đang ngồi trên bao lúa mạch ngắm viên đội trưởng du kích. Hắn ngồi lau súng, lau hồ lô trên đệm của hắn.
    Mẹ kéo Lai Đệ đứng dậy, lạnh nhạt bảo Sa Nguyệt Lượng:
    - Anh đội trưởng, nó đã có chủ rồi! Các anh là đội quân chống Nhật, chắc không dụ dỗ gái có chồng chứ?
    Sa Nguyệt Lượng bình tĩnh nói:
    - Điều này thì bác khỏi bận tâm.
    Mẹ lôi chị Lai Đệ về căn buồng phía đông. Gần trưa, thằng câm lớn xách một con thỏ đến nhà tôi. Hắn mặc chiếc áo chẽn hở cả bụng, tay áo dài đến khuỷu, lộ hai bắp tay vạm vỡ. Cúc áo đứt sạch, hắn khép hai vạt bằng sợi dây thừng. Hắn cúi rạp chào mẹ, nụ cười ngơ ngẩn trên khuôn mặt. Hắn đưa con thỏ cho mẹ bằng cả hai tay. Ba Phàn cùng đến với thằng câm, nói:
    - Chị Thọ Hỉ, tôi đã làm như lời chị dặn.
    Mẹ bàng hoàng nhìn con thỏ rừng miệng còn dính máu.
    - Chú ơi, trưa nay chú ở lại, anh câm cũng ở lại đây.
    Mẹ chỉ vào thằng câm nói:
    - Củ cải ninh thịt thỏ, coi như lễ đính hôn cho bọn trẻ!
    Trong căn buồng phía đông, tiếng khóc của chị Lai Đệ chợt vỡ ra. Lúc đầu khóc ti tỉ như trẻ con, vài phút sau chuyển thành tiếng gào thét, xen lẫn những câu chửi tục kinh khủng. Rồi mươi phút sau chỉ là tiếng gào khan, không có nước mắt.
    Chị Lai Đệ ngồi bệt xuống đất bẩn trong buồng, quên phắt đang mặc chiếc áo quí. Mắt chị ráo hoảnh, miệng há ra như một cái giếng cạn, tiếng gào khan từ đó bật ra. Sáu chị khác của tôi cố ghìm giọng nức nở, nước mắt lăn trên áo lông gấu, nhảy trên áo lông chồn, lấp lánh trên áo lông sói, thấm vào áo lông cừu, dây bẩn áo lông thỏ.
    Ba Phàn thò đầu vào buồng đông, mắt trợn trùng như gặp ma, môi run bần bật. Ông đi giật lùi ra giữa nhà rồi loạng choạng bỏ chạy.
    Thằng câm lớn của nhà họ Tôn đứng giữa nhà tôi ngó ngang ngó dọc, trên khuôn mặt hắn, ngoài nụ cười ngớ ngẩn, còn gợn lên nét suy tư khó bề đoán trước, sự hoang văng như hóa thạch và một nỗi đau tê buốt. Sau này tôi còn chứng kiến vẻ mặt đáng sợ khi hắn nổi giận.
    Mẹ lấy sợi dây thép nhỏ xâu miệng con thỏ rồi treo dưới mái hiên. Mẹ coi như không nghe thấy tiếng gầm của chị Cả, coi như không nhìn thấy nét mặt cổ quái của thằng câm. Mẹ cầm con dao gỉ, sút mẻ, lột da con thỏ. Sa Nguyệt Lượng khoác súng từ buồng đông đi ra, mẹ không ngoái lại, nói với giọng lạnh nhạt:
    - Anh Đội, đứa lớn nhà tôi hôm nay đính hôn, con thỏ này là ăn lễ hỏi.
    Sa Nguyệt Lông cười:
    - Lễ hậu hĩ quá nhỉ!
    Mẹ cắt phần đầu con thỏ, nói:
    - Nó hôm nay đính hôn, mai đưa đồ cưới, ngày kia làm lễ thành thân!
    Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào Sa Nguyệt Lượng, nói:
    - Đừng quên uống rượu mừng đấy!
    Sa Nguyệt Lượng nói: - Quên thế nào được!
    Nói xong, hắn khoác súng lên vai, miệng huýt sáo lanh lảnh, bước ra cổng.
    Mẹ tiếp tục lột da con thỏ, nhưng không còn hào húng như trước. Mẹ treo con thỏ trên khung cửa, địu tôi đi vào trong nhà. Trên bàn có mấy củ cải to. Mẹ cầm dao đến gần, củ cải không phản ứng gì, năm im chờ đợi. Mẹ quát to:
    - Lai Đệ, ân oán cũng thể mẹ con, mày cứ oán tao đi!
    Nói xong câu dữ dằn đó, mẹ ôm mặt khóc không thành tiếng, đôi vai run bần bật, nước mắt chảy ràn rụa. Mẹ bắt đầu bổ củ cải. Một nhát bổ xuống, củ cải bửa làm hai, lại một nhát nữa, củ cải bửa làm tư. Bổ liên tiếp, động tác của mẹ ngày càng nhanh, ngày càng điệu nghệ. Củ cải bị băm nhỏ đầy bàn. Mẹ lại giơ cao còn dao lần nữa, nhưng động tác hạ xuống thì cực kỳ nhẹ nhàng. Con dao rời khỏi tay, nằm trên đống củ cải đã băm nhỏ, mùi hăng hắc tỏa ra khắp căn buồng.
    Thằng câm giơ ngón tay cái lén tỏ ý khâm phục mẹ, miệng lắp bắp để bổ sung cho động tác. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, bảo thằng câm:
    - Anh về đi!
    Thằng câm hoa tay, tung chân đá vào khoảng không. Mẹ cao giọng, chỉ về phía nhà hắn, quát to:
    - Anh về đi, tôi bảo anh về đi!
    Thằng câm hiểu ra. Hắn làm ngoáo ộp một cái với tôi như trẻ con, hàng ria đen nhánh trên cái môi dầy. Hắn làm bộ rất chuẩn xác động tác trèo cây, mô phỏng động tác tóm được con chim đang quẫy. Hắn cười, chỉ vào tôi, lại chỉ vào trái tim hắn.
    Mẹ lại chỉ,về hướng nhà. Hắn ngẩn người, gục gặc đầu ra vẻ hiểu, rồi quì trước mặt mẹ - mẹ vội né sang một bên - hắn hướng về cái bàn để củ cải, dập đầu một cái thật kêu rồi vênh váo bước ra cổng.
    Đêm ấy, mẹ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, đếm đủ tám mươi tám con thỏ béo mũm mĩm treo đây trên cây ngô đồng, cây hương xuân và cây hạnh trong sân.
    Mẹ vịn khung cửa, từ từ ngồi xuống.
    Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lương đối với mẹ. Chị Cả bỏ theo trai, chị Hai, chị Ba, chị Tư là đồng lõa. Sự việc.xảy ra khi đã quá nửa đêm như sau: Khi mẹ mệt mỏi hắt hơi thì chị Năm, chị Sáu chị Bảy đi vào giấc ngủ. Chị Hai nhổm dậy, chân trần, mò mẫm tháo gỡ những chướng ngại vật mà mẹ dựng sau cửa, chị Ba chị Tư kéo hai cánh cửa cho mở ra.
    Lúc chiều tối, Sa Nguyệt Lượng đã đổ đầu vào cột cửa, cửa mở không một tiếng kêu. Dưới ánh trăng bàng bạc của nửa đêm về sáng, chị em ôm nhau từ biệt. Sa Nguyệt Lượng nhìn những con thỏ treo trên cây, cười thầm. Ngày thứ ba là ngày thằng câm và chị Cả làm lễ thành hôn. Mẹ bình tĩnh ngồi khâu vá trên giường. Gần trưa, không chờ đợi được nữa, thằng câm mò đến. Hắn dùng điệu bộ và cả nét mặt để đòi người. Mẹ bước ra sân, chỉ sang buồng phía đông, rồi chỉ lên cây treo đầy những còn thỏ đã đông cúng. Mẹ không nói câu nào, nhưng thằng câm hiểu hết.
    Vào lúc hoàng hôn, cả nhà tôi đang ngồi trên giường ăn cháo mạch, bỗng có tiếng đập cổng đánh rầm. Chị Hai đút cơm cho bà nội ở chái tây hớt hải chạy vào, gọi:
    - Mẹ, hỏng to rồi! Anh em nhà thằng câm đến đấy. Đem theo cả chó. Các chị hoảng sợ. Mẹ ngồi im như một tảng đá, dùng thìa đút cháo mạch cho chị Tám. Khi chị Tám đã no, mẹ bắt đầu nhai củ cải rau ráu. Trông mẹ thảnh thơi như một con thỏ cái có chửa. Tiếng ồn ngoài cổng bỗng lắng xuống. Khoảng hút tàn diếu thuốc, ba bóng đen vọt qua bức tường vây phía nam, nơi mặt tường rất thấp. Ba anh em nhà câm đến rồi Cùng vọt vào sân là ba con chó đen bóng như sơn then. Chúng như ba đạo hắc quang bay vào sân, không một tiếng động. Dưới ráng chiều đỏ rực, ba anh em nhà câm và ba con chó đứng yên trong khoảnh khắc y hệt một nhóm tượng. Thằng câm lớn tay cầm thanh nhuyễn đao Miến Điện ánh thép sắc lạnh. Thằng Hai câm chống thanh yêu đao. Thằng ba câm kéo lê thanh phác đao cán dài có tua đỏ. Trên vai đứa nào cũng khoác một bọc nhỏ bằng vải hoa nền xanh hoa trắng, hình như chúng sắp đi xa. Các chị sợ đến nghẹt thở, còn mẹ thì vẫn thản nhiên như không, húp cháo sùm sụp. Đột nhiên, thằng câm lớn gầm lên một tiếng, Hai câm và Ba câm cũng gầm theo, những con chó cũng lên tiếng sủa. Nước bọt bắn ra từ miệng người và mõm chó như những con trùng nhỏ, lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tiếp đó, thằng câm lớn biểu diễn dao pháp, giống như hôm đánh nhau với dàn quạ trong buổi tang lễ trên cánh đồng lúa mạch. Trong cái buổi hoàng hôn chớm đông xa xăm ấy, ánh đao loang loáng trong sân nhà tôi, ba thằng đàn ông hung hãn như ba con chó săn, liên tiếp nhảy vọt lên, vươn dài thân như tấm thép, chém nát những con thỏ treo trên cành cây. Những con chó của chúng gâu gâu mừng rỡ, lắc lắc cái đầu to bự giăng xé những xác con thỏ, thịt bay tứ tung. Ba thằng câm sát phạt chán chê, đứa nào đứa ấy tỏ vẻ thỏa mãn. Sân nhà tôi trở thành lò sát sinh. Mấy con thỏ chỉ còn cái đầu treo lủng lẳng trên cây như những quả khô. Những thằng câm cùng với mấy con chó diệu võ dương oai mấy vòng quanh sân, rồi cũng như khi đến, chúng vượt tường, mất hút trong màn đêm mờ ảo.
    Mẹ bưng bát cháo, cười nhạt. Nụ cười đặc biệt của mẹ khắc sâu trong đầu tôi.
  10. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    4.
    Người phụ nữ già đi bắt đầu từ cặp vú, cặp vú già đi bắt đầu từ đầu vú. Vì chuyện chị Lai Đê bỏ theo trai, hai đầu vú của mẹ vốn dĩ ngỏng lên thì nay rũ xuống như bông kê chín. Đồng thời, màu phấn hồng cũng chuyển sang màu đỏ sậm. Những ngày ấy lượng sữa ít đi, mùi vị cũng kém phần thơm ngọt, trong vị sữa nhàn nhạt có mùi của gỗ mục. May mà cùng với thời gian tâm trạng mẹ có khá hơn, nhất là sau khi mẹ ăn con lươn to bự, đầu vú dần dà lại ngỏng lên, màu đỏ sậm cũng nhạt đi, lượng sữa trở lại như hồi mùa thu, trong sữa đã có nhiều vị sắt, ngoại trừ có vị tanh tanh, chất lượng sữa cao hơn trước. Điều không yên tâm là, lần suy yếu này để lại một nếp hằn giữa đầu và bầu vú như trang giấy bị gập, tuy đã được vuốt phẳng, nhưng nếp gấp không mất đi. Biến cố này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tôi, dựa vào bản năng, có lẽ là trời xui khiến vậy tôi phải thay đổi thái độ đối với bầu vú, phải trân trọng chúng, phải coi chúng như vật dễ vỡ mà nhẹ chân nhẹ tay.
    Mùa đông năm nay lạnh kinh khủng. Nhờ có nửa gian buồng lúa mạch và một hầm củ cải, chúng tôi sống yên ổn cho đến khi sang xuân. Trong những ngày rét buốt nhất của mùa đông, tuyết rơi dầy đặc lấp kín cửa ra vào, đè gãy những cành cây trong vườn. Chúng tôi mặc áo lông của Sa Nguyệt Lượng cho, ngồi quây quần xung quanh mẹ, mơ màng trong trạng thái ngủ đông.
    Một hôm, mặt trời ló ra, tuyết tan, những cột băng treo dưới mái hiên, những con chim sẻ từ chỗ nấp chui ra, nhảy nhót trên cành đầy tuyết. Chúng tôi bừng tỉnh sau thời kỳ ngủ đông. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày đun tuyết lấy nước, vài trăm lần ăn một món củ cải đun bằng nước tuyết, khiến các chị ớn đến tận cổ. Chị hai Chiêu Đệ là người đầu tiên đề xuất đi lấy nước sông về ăn, vì tuyết năm nay có mùi tanh của máu, nếu không sẽ mắc bệnh mà không biết, ngay cả Kim Đồng chỉ ăn toàn sữa mẹ cũng không thoát. Chị Chiêu Đệ nghiễm nhiên thay thế vị trí của chị cả Lai Đệ. Chiêu Đệ có cặp môi đỏ mọng, giọng nói hơi rè cực kỳ hấp dẫn. Lời chị như mệnh lệnh, vì từ đầu mùa đông đến giờ chị cáng đáng toàn bộ chuyện ăn uống. Mẹ như một con bò cái bị thương, lúc nào cũng nơm nớp, đôi khi lại bao dạn hẳn lên, khoác chiếc áo quí phái lên người, ngồi trên giường sửa sang lại dáng vóc, quan tâm tới lượng và chất của sữa.
    - Từ hôm nay trở đi lấy nước sông về mà dùng?
    Chị Hai nhìn mẹ, nói bằng một giọng không dễ bác bỏ. Mẹ không phản úng gì. Chị ba Lãnh Đệ cau mày nhận xét cái mùi khó chịu của củ cải nấu bằng nước tuyết. Một lần nữa, chị lại dề xuất chuyện bán con la để lấy tiền mua thịt. Mẹ giễu cợt
    - Băng tuyết thế này thì bán con la ở đâu?
    Chị Ba nói:
    - Vậy chúng ta đi săn thỏ rừng, trời đất này thỏ bị cóng không chạy được.
    Mặt me đột nhiên đổi sắc:
    - Các con hãy nhớ, cho đến khi chết, đừng để mẹ trông thấy thỏ rừng!
    Thật ra, trong mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều gia đình đi bắt thỏ về ăn thịt. Những con thỏ béo núc bò lê trong tuyết chứ không chạy, ngay các bà bó chân cũng bắt được. Mùa đông năm ấy là thời kỳ hoàng kim của cáo lông đỏ và cáo cỏ. Do chiến tranh, súng săn bị đủ các loại du kích tịch thu, người trong thôn không còn vũ khí. Cũng do chiến tranh, tình cảm thôn xóm bị tổn thương, nên giữa mùa săn cáo lấy lông, lũ cáo không lo bị giết hại như những năm trước. Trong những đêm dài, chúng thỏa sức vờn nhau trong đầm lầy, cáo cái có chửa nhiều hơn mức bình thường. Những tiếng hú thê thảm của chúng khiến người ta lo ngay ngáy.
    Chị Ba và chị Tư khiêng thùng gỗ, chị Hai vác cái choòng ra bờ sông Thuồng Luồng. Qua nhà Tôn Đại Cô, ngó vào trong: mảnh sân hoang vắng, không một chút hơi hướng của con người. Đàn quạ đậu trên tường, cảnh tượng ồn ào trước dây của nhà họ Tôn một đi không trở lại những thằng câm cũng không biết lưu lạc đến phương nào. Các chị lội tuyết đến bắp chân, lần xuống mép nước. Mấy con mèo hoang nấp trong bụi tầm xuân nhìn các chị. Mặt trời chếch hướng đông nam, ánh nắng xiên xiên xuống lòng son, sáng lóa mắt. Băng gần bờ có màu trắng, dẫm lên có tiếng lạo xạo như bánh đa vỡ. Băng ở giữa dòng có màu xanh nhạt, rắn và trơn. Các chị loạng choạng trên băng, chị Tư ngã một cái. Chị Ba kéo chị Tư dậy, cũng ngã luôn. Đòn gánh, thùng gỗ và choòng kêu loảng xoảng trên băng, các chị cười rũ.
    Chị Hai chọn chỗ sạch nhất, bắt đầu đục băng. Chiếc choàng to tướng tù thời cụ tổ để lại, nặng nề giáng xuống mặt băng, tiếng đục băng nhọn sắc như xé màng nhĩ, vọng tới tận cửa sổ nhà tôi, giấy dán cửa kêu lục bục. Mẹ vuốt ve mái tóc vàng trên đầu tôi, lông mèo rừng trên người tôi, nói:
    - Kim Đồng, Kim Đồng, các chị đi phá băng, đục một lỗ to tướng, khiêng về thùng nước uống, đổ ra nửa thùng cá. Chị Tám khoác áo chẽn bằng lông con mèo rừng ngồi thu lu ở góc giường, mỉm cười vụng về, như một pho tượng Quan âm nhỏ. Chị Hai đục một nhát, mặt băng xuất hiện một điểm trắng bằng hạt hạnh đào. Vài hạt băng bám trên choòng. Chị lại giơ choòng lên, lúc lên thì găng gượng, thả xuống thì lẩy bẩy, mặt băng lại xuất hiện một điểm trắng, cách điểm trắng thứ nhất một thước. Khi mặt băng xuất hiện vài chục điểm trắng, chị Hai đã thở hồng hộc, thở ra từng luồng hơi trắng. Cố giơ cái choòng lên, chị đã kiệt súc ngã gục trên băng, mặt trắng nhợt, đôi môi mọng tím tái, mắt mờ đi, mồ hôi lấm tấm trên mũi.
    Giữa lúc các chị tuyệt vọng gom nhặt thùng gỗ và đòn gánh để về nhà, chuẩn bị đun chảy tuyết lấy nước thổi cơm trưa, hơn chục cỗ xe trượt rẽ sương mù chạy như bay trên sông tới chỗ các chị. Vì mặt băng phản chiếu ánh nắng hắt trời, họ lại từ hướng đông nam chạy tới, nên chị Hai cho rằng họ từ trên trời theo tia nắng xuống trần gian. Kim quang chói lọi, nhanh như chớp giật vó ngựa cuồn cuộn, ánh bạc sáng ngời, móng sắt băm trên mặt băng ròn rã. Một mảnh băng bắn vào má chị Hai. Chị ngớ ra, quên cả né tránh. Ngựa lượn một vòng quanh các chị rồi dừng lại. Lúc này, các chị mới thấy rõ các xe trượt đều sơn màu hoàng hạnh phu một lớp dày đầu ngô đồng trông như kính màu. Mỗi cỗ xe có bốn người, đều đội mũ lông chồn. Râu, lông mày, lông mi bám đầy tuyết, miệng mũi phả ra từng làn hơi nóng hổi. Những con ngựa xinh đẹp, cẳng chân đều mọc lông dài. Qua dáng vẻ ung dung của bầy ngựa, chị Hai đoán chúng là giống ngựa Mông Cổ trong truyền thuyết. Một người cao lớn từ trên xe trượt nhảy xuống. Anh ta mặc chiếc áo bằng da dê thuộc không cài khuy, để lộ chiếc trấn thủ bằng da báo, cài sau thắt lưng da to bản,là khẩu súng lục kiểu cối xay và một chiếc búa có cán ngắn.
    Chỉ mỗi anh ta không đội mũ lông, nhưng lại dội chiếc mũ ba cạnh bằng nỉ. Hai tai đeo chụp tai chống lạnh bằng da thỏ. Anh ta hỏi:
    - Các cô nhà Thượng Quan đấy phải không?
    Người này là ông Hai nhà Phúc Sinh Đường.
    - Các cô ra đây làm gì? Anh ta hỏi.
    Không đợi trả lời, anh ta tự giải đáp:
    - à! Đục băng? Công việc này đâu phải của đàn bà con gái!
    Anh ta gọi những người trên xe:
    - Xuống cả đây! Giúp các cô hàng xóm một tí. Cũng là để ngựa Mông Cổ của ta uống nước!
    Mấy chục người trên xe đều xuống. Họ ho, khạc nhổ. Vài người ngồi xổm rút búa ở thắt lưng chém băng chan chát, mảnh băng bay tung tóe. Đã xuất hiện mấy vết nút trắng trên mặt băng. Một người râu quai nón, lấy ngón tay gại gại lưỡi búa, nói:
    - Tư Mã đại ca, thế này thì đến đêm cũng không được một lỗ!
    Tư Mã Khố ngồi xuống rút búa ra chém thử vài nhát, chửi:
    - Mẹ kiếp, rắn như thép ấy!
    Râu quai nón nói:
    - Đại ca, chúng ta mỗi người đái một bãi, nó sẽ tan!
    Tư Mã Khố chửi:
    - Nói năng cái con c. gì thế!
    Nhưng ngay sau đó, anh ta vui vẻ hắn lên, vỗ mông đánh đét một cái, anh ta nhăn mặt vì vết thương ở mông chưa lành hẳn, nói:
    - Có cách rồi! Kỹ sư Khương đâu rồi, lại đây?
    Một người dong dỏng cao, có tên là kỹ sư Khương bước tới. Anh ta nhìn Tư Mã Khố không nói gì, nhưng qua nét mặt chừng tỏ anh ta sẵn sàng chờ sai bảo.
    - Cái trò của anh có thủng được băng không?
    Kỹ sư Thương cười khinh khỉnh, giong the thé như giọng đàn bà, nói:
    - Dễ như đập trứng bằng búa đanh?
    Tư Mã Khố phấn khởi, nói:
    - Vậy thì mau lên, khoét cho tôi tám tám sáu mươi tư cái lỗ, để bà con nông dân được nhờ. Các cô ơi, đừng về vội - Anh ta bảo các chị.
    Kỹ sư Thương mở gói vải bạt trên xe trượt thứ ba, lấy ra một khối sắt có hình dáng quả đạn pháo. Rất thành thạo, anh ta rũ tung cuộn ghen bọc vỏ đỏ, lắp một đầu ống ghen vào đầu khối sắt. Anh ta nhìn đồng hồ tròn trên đầu khối sắt. Chiếc kim nhỏ trên đồng hồ lắc lư. Cuối cùng, anh ta đeo găng tay bằng vải bạt, cầm lên một vật tựa khẩu súng hơi, lắp hai đầu ống ghen vào bóp thử, lập tức một luồng khí phụt ra. Trợ thủ của anh ta, một cậu bé quá lắm chỉ mười lăm tuổi, người gầy nhom, quẹt diêm châm vào luồng khí. Ngọn lửa xanh, to bằng con nhộng, lập tức bùng lên, réo ù ù. Anh ta sai cậu bé lại chỗ cỗ xe trượt, điểu chỉnh cái nút trên đầu khối sắt, ngọn lửa xanh lập tức sáng trắng, chói hơn ánh sáng mặt trời. Kỹ sư Khương tay cầm cái gọi là đồ chơi đó, nhìn Tư Mã Khố, chờ đợi.
    Tư Mã Khố nheo mắt, đẩy lòng bàn tay ra phía trước, hô to:
    - Cắt!
    Kỹ sư Thương xịt ngọn lửa xuống mặt băng. Một làn khói trắng bốc lên cao khoảng một thước cùng với tiếng nước rót rách. Cánh tay anh ta điều khiển cổ tay, cổ tay điều khiển súng phun lửa. Súng phun lửa phụt ra ngọn lửa trắng, cắt một đường tròn trên mặt băng. Anh ta ngẩng lên nói:
    - Cắt được một lỗ rồi!
    Tư Mã Khố chưa tin, cúi xuống nhìn, quả nhiên băng đã bị cắt một tảng bằng cái mâm, nước sông tràn lên từ vết cắt. Kỹ sư Thường dùng lửa cắt thêm hai nhát hình chữ thập, khối băng bị cắt làm tư. Anh ta dùng chân ấn khối băng xuống, nó bị nước sông cuốn đi. Một cái lỗ hiện ra, nước sông tràn lên. Giỏi thật! Tư Mã Khố khen, những người xung quanh cũng nhìn anh kỹ sư bằng con mắt thán phục. Tư Mã Khố nói:
    - Cắt tiếp!
    Kỹ sư Khương giở tuyệt chiêu ra, cắt mấy chục cái lỗ trên băng dày nửa thước. Có lỗ hình tròn, có lỗ hình vuông, lỗ hình chữ nhật, hình tam giác, hình thang, hình bát giác, hình hoa mai... y hệt một giáo trình hình học. Tư Mã Khố nói:
    - Kỹ sư Khương này, đây là chiến công đầu của anh sau khi rời khỏi túp lều tranh. Lên xe, các bạn ơi! Chập tối phải tới cầu sắt! Phải, cho ngựa uống nước ở sông Thuồng Luồng!
    Họ lôi ngựa đến mương nước bên hố băng. Nhân khi đó, Tư Mã Khố hỏi chị Hai:
    - Cô là thứ hai phải không? Cô về nói lại với mẹ, rằng một ngày nào đó, tôi đập tan cái thằng Sa Nguyệt Lượng chó đẻ ấy! Tôi sẽ cướp lại chị Cả của cô trao trả thằng câm lớn!
    - Ông có biết chị em hiện giờ ở đâu không? - Chị Hai mạnh dạn hỏi.
    Tư Mã Khố nói:
    - Buôn bán thuốc phiện cùng Sa Nguyệt Lượng, mẹ kiếp, bọn Hỏa-mai đốn mạt.
    Chị Hai không dám hỏi thêm, chỉ đứng nhìn Tư Mã Khố trèo lên xe trượt. Mười hai cỗ xe thành hàng dọc, lướt như tên bắn về hướng tây, mất hút sau khúc ngoặt của sông Thuồng Luồng.
    Các chị mê mẩn trước quang cảnh kỳ lạ đó, phấn chấn đến nỗi quên cả rét, đi xem lần lượt cái lỗ, từ tam giác đến hình trụ, từ hình trụ đến hình vuông, từ hình vuông đến hình chữ nhật. Nước sông từ lỗ tràn lên thấm ướt giày của các chị, chỉ một loáng đã đông lại thành băng. Làn hơi tưới mát của dòng sông ùa lên miệng lỗ khiến lòng dạ lâng lâng. Chị Hai, chị Ba và chị Tư đều rất ngưỡng mộ Tư Mã Khố. Do chị Cả đã nêu gương, trong đầu chị Hai một ý nghĩ thoáng qua: Lấy Tư Mã Khố. Hình như có tiếng ai đó cảnh cáo chị: Tư Mã Khố đã có ba vợ.... Vậy thì chị làm vợ thứ tư? Tất nhiên đó là chuyện về sau này. Chị Tưởng Đệ hốt hoảng kêu:
    - Chị ơi, cây thịt kia kìa!
    Cái mà chị Tư gọi là cây thịt là con lệch, một loại lươn to bự. Nó vụng về quẫy khúc, từ dưới đáy sông nổi lên. Cái đầu gần giống đầu rắn, to bằng nắm tay, hai mắt tối sầm khiến người ta nghĩ đến sự thâm hiểm của loài rắn. Nó ló đầu sát mặt nước, mũi sủi bong bóng. Chị Hai kêu lên:
    - Một con lệch bự!
    Và chị vung đòn gánh nhằm đầu con lệch bổ một nhát. Móc sắt ở đầu đòn gánh kêu lanh canh, nước bắn tung tóe. Con lệch chìm xuống nhưng lập tức nổi lên, một bên mắt dập nát. Chị Hai dùng đòn gánh đánh tiếp. Con lệch đuối sức dần, đờ ra. Chị Hai quẳng đòn gánh, tóm lấy đầu con lệch lôi lên. Lên khỏi mặt nước, con lệch đông cứng lại như một cây thịt. Chị Hai bảo chị Ba và chị Tư khiêng thùng nước, còn chị thì tay cầm choòng, tay kéo lê con lệch, mãi mới về đến nhà.
    Mẹ dùng cưa cắt bỏ đuôi, chia phần thân làm mười tám khúc. Mỗi khúc khi rơi xuống đất, vang lên một tiếng bịch. Dùng nước sông Thuồng Luồng nấu lệch của sông Thuồng Luồng thơm ngon không thể tả. Từ hôm đó, hai bầu vú mẹ hồi xuân, dù rằng, như trên đã từng nói, vết hằn như nếp gấp tờ giấy vẫn còn.
    Và cũng trong cái đêm ăn canh lệch thơm bổ ấy, mẹ thấy trong lòng khoan khoái, gương mặt hiền từ như Đức Mẹ, như Quan âm Bồ Tát. Các chị quây quần xung quanh, nghe mẹ kể chuyện vùng Cao Mật. Đêm xuân ấm áp, nhi nữ tình thương. Gió vi vu trơn theo lòng sông Thuồng Luồng, thổi vào ống khói như thổi sáo. Cây trong vươn rũ băng lắc rắc. Rèm băng dưới mái hiên rớt xuống tảng đá dùng để giặt quần áo vỡ vụn, vang lên một tiếng khô khốc.

Chia sẻ trang này