1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Been There-Done That

Chủ đề trong 'Hồi ức về các chuyến đi' bởi netwalker, 10/09/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ICEM

    ICEM Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2003
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0
    Không còn cảnh người người mặc áo ba lỗ, quần short, nhà nhà mở tung cửa sổ để đón những cơn gió hiu hiu mát dịu vào phòng. Giờ đây, vẫn những người đấy nhưng họ đã bắt đầu khoác lên mình những lớp áo dầy cộp, những hơi thở dần dần hiện nguyên hình khi họ nói chuyện với nhau, những hơi khói mỏng manh như khói thuốc đang báo hiệu mùa Hè không còn nữa. Giờ đây, mọi nhà đều đóng kín cửa sổ, các ống khói lò sưởi bắt đầu nhả khói nhộn nhịp.Thu đến.
    Không còn những hạt sương long lanh trên những ngọn cỏ yếu ớt mảnh khảnh, cái lạnh đã làm cho những giọt sương kia trở nên khô cứng, lạnh lùng hơn. Đồng cỏ bây giờ được trải một lớp băng mỏng trắng xoá trông như là cỏ được trồng trên băng vậy. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những chú cừa, chú ngựa chăm chỉ gặm cỏ trên cánh đồng tưởng chừng như không có sự sống ấy. Có lẽ những chú cừu và ngựa kia đang cố gắng tranh thủ những mảng cỏ tươi cuối cùng còn sót lại của mùa Hè vừa qua. Tuy không hỏi nhưng tôi biết được là các chú ấy rất là hạnh phúc khi tranh thủ gặm những ngọn cỏ tươi cuối Hè trộn lẫn với những hạt băng đầu Thu.
    Cuộc sống là thế, có những lúc mình tưởng là vô vọng, nhưng sự vô vọng ấy chỉ là một mảng cỏ nhỏ trên cánh đồng chết chóc ấy, xa hơn một tí đồng cỏ lại mang đến sự sống cho những sinh vật khác.
    Biết là thế nhưng tôi vẫn chưa thể tìm thấy mảng cỏ có thể mang lại niềm vui, hạnh phúc cho tôi giống như những sinh vật đứng trên 4 chân kia. Hằng ngày tôi vẫn phải nhìn một cách thèm thuồng vào những mảng cỏ của các chú cừu và ngựa kia để buộc miệng " phải chi..." rồi lại " ước gì..."
    --------------------------------------------
    Văn với vẻ ---> quá!!!!
  2. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0

    #BIGCHAR {background: & strDefaultFontColor &; color: DCDCDC; font-size: 16pt; font-family:Arial; }
    Mọi người sang thăm Đức nhé
    Đức quốc du hành ký
    Tác giả: Janus
    Tuần vừa rồi tôi mới có một chuyến đi, giang hồ vặt vãnh (một chiếc ba lô, một mẩu bánh mỳ, một pạt po trong túi) kể cũng tầm thường nhưng không phải không có những ấn tượng này nọ muốn ghi ra, lại thêm có vài cái kinh nghiệm nhỏ nhân trăng thanh gió mát trình bày đây để quý vị nào có lỡ bước lên đường cũng biết qua mà chuẩn bị.
    Những ấn tượng cuối cùng của tôi về nước Đức nằm ở Hannover. Hannover là thủ phủ bang Niedersachsen, trên dòng sông Leine. Hannover là thành phố tình cờ. Chỉ vì không chú ý cẩn thận xem giờ tàu thành ra cuối tuần không có IC chạy từ Magdeburg về Hannover. Vậy là tôi phải đến sớm hơn hai tiếng đồng hồ và chờ đợi ở thành phố ấy. Âu cũng là một kinh nghiệm: giờ tàu không phải là một vào tất cả các ngày.
    Đợi? Chẳng nhẽ lại ngồi dí ở sân ga xem những thằng bé nhóc con 17, 18 tuổi, những đứa con gái cũng trạc đó tuổi nghịch ngợm bố láo ở sân ga. Không hiểu sao thành phố nào của nước Đức cũng lấy nhà ga là trung tâm. Cứ ?oDie Bahnhof, bitte? là chắc chắn có người chỉ đường cho. Sân ga trở thành nơi tụ tập của bọn trẻ, vì ở đó đông người, vì ở đó rộng rãi, và vì ở đó sáng.
    Khác với Paris, thành phố ở Đức không có nhiều ánh sáng. Ra khỏi Platz Ernst August, Koenig von Hannover (Quảng trường nhà ga), thêm một đoạn sáng nữa là đã chui vào màn đêm, sở trường của nước Đức. Trong tay tôi là tờ báo Zeit Literatur vừa mua trong nhà ga, cầm cho thích tay và doạ mấy thằng Đức là chính vì có mở ra tôi cũng chỉ xem được tranh là hết đất.
    Trước khi đi vào màn đêm còn có một đoạn ánh sáng. Trong màn sáng đó, trong tiếng động vẳng tới đều đặn của những chuyến xe điện chạy ngay trước mặt nhà ga, là tiếng hát. Không phải tiếng hát của những kẻ say, của những đám đông bạn bè đi chơi tối thứ Bảy, mà là opera. Một cô gái chọn chỗ rất ngon, ngay ở giao điểm mấy con đường nhỏ, lại thêm tốt giọng nên ở cách xa hàng cây số vẫn nghe tiếng. Hát opera không cần nhạc đệm, lại hát giữa đường phố, một mình, lại là một cô gái ăn mặc rất dân chơi sành điệu, điều này chắc chỉ nước Đức mới có được. Âu cũng là một kinh nghiệm: đừng đùa với người Đức về âm nhạc!
    Có lẽ tôi đã lọt vào khu Altstadt tức là khu phố cổ của Hannover, vì những ngôi nhà đêm ấy tôi thấy trông đều rất cổ, trong đó không biết có ngôi nhà thờ cổ nhất thành phố là Kreuzkirche, xây khoảng năm 1300, hay Rathaus, trước là hoàng cung hay không. Không thể biết được vì thành phố rất tối, không có nhiều biển chỉ đường, một thành phố lạ lần đầu tiên đặt chân tới.
    Không thể biết được, chính cái không thể biết được đó khiến Hannover trở nên hấp dẫn như một cô gái lai bí ẩn. Những bước chân ban đêm, sự âm u và niềm cô độc. Sự cô độc gợi nhớ đến Rousseau khi viết Rêveries d?Tun promeneur solitaire và nhất là Walter Benjamin, con người của cô độc và của đêm, con người đêm của cả Berlin lẫn Paris, con người lạ lùng, nhà siêu hình vĩ đại cuối cùng. Chợt một ham muốn dâng lên trong lòng tôi: được lạc hẳn trong thành phố đó, lạc hẳn vào đêm sâu thẳm đó. "Đốt một ngọn đèn hồng như ánh lửa. Đêm sâu quá đêm nào có ngủ. Chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi. Nhưng có ngủ đâu, người ta đợi mặt trời.." Cảm giác đêm, dịu dàng và bất trắc, dịu dàng nhiều hơn...
    Nước Đức, đó là sự hứa hẹn bất trắc. Ít nhất đó là cảm giác đầu tiên của tôi. Con tàu Thalys (từ Pháp sang Đức có tàu này, nên chọn tàu Nachzug là tàu đêm cho rẻ) trôi qua Bruxelles-Guillemins, rồi qua Liège một lúc thì nửa đêm lọt vào nước Đức. Thành phố đầu tiên là Aachen. Lúc ấy đang nói chuyện với Mélissa đến đoạn cao trào. Mélissa, cô gái Orléans xinh đẹp và nhiều lời. Cái xinh đẹp miễn xá cho sự nhiều lời. Một mình tôi và Mélissa trong khoang tàu. Mới quen nhau được vài tiếng mà tôi đã biết hết về cô, và thậm chí muốn biết thêm nữa cũng được, ít nhất là tôi nghĩ thế nhưng cũng chưa thử. Mélissa, em là hiện thân linh hồn Pháp đang cùng tôi đi vào một đất nước khác.
    Đang nói chuyện với Mélissa đến đoạn cao trào mà tôi vẫn thần người ra vì thấy sao thật là giống những chuyến tàu chở dân Do Thái đến trại tập trung, lò thiêu Holocaust. Những bộ phim khủng khiếp, những đoàn tàu đen thui, hiểm hoạ ở trong hơi máy, trong tiếng xình xịch vô tội nhất. Trong những bộ phim đã vậy, cả trong cuốn tiểu thuyết tôi vừa đọc, ?oGiờ thứ hai nhăm? của Virgil Gheorghiu cũng vậy. Lúc con tàu dừng lại, anh chàng Moritz hiền lành đó thò đầu ra chào ?onhững người anh em Do Thái? và phải chịu một trận đá ném thừa sống thiếu chết. Thoạt tiên Moritz bị cho là người Do Thái nên bị người Đức bắt đi làm lụng đủ thứ rất cực nhục, sau rồi lại bị cho là người Đức thế là đi lính cho Nazi, rồi cứu quân động minh nên được trọng vọng, rồi lại bị coi là người Đức nên bị lên tàu đưa đi nhốt, trên tàu lại chào người Do Thái nên bị đá ném. Nước Đức, đó là vinh quang và đau khổ, là hiển hách và cực nhục, là thiên tài và lầm lạc.
    Những chuyện đồn thật là tai hại. Nhìn trên tàu IC có thằng hút thuốc ở khoang cấm hút thuốc, rồi trên đường thấy có thằng chạy qua đường khi đang đèn đỏ mà không bị bắt lại bắn cái đòm, tôi mới hơi tin Allemands này cũng là người giống mình! Âu cũng là một kinh nghiệm: không phải thằng đầu trọc hay mào gà nào cũng nguy hiểm.
    Berlin có con sông Spree. Giữa sông có tượng hai người khổng lồ đang giằng co nhau không hiểu có ý nghĩa gì. Berlin, đó là Unter den Linden. Dãy phố chạy xuyên suốt Berlin. Unter den Linden có nghĩa là Champs Elysées của Paris. Còn có nghĩa là Quartier Latin với Đại học Humboldt. Hai anh em Alexander và Wilhelm. Trước đây là trường Đại học Berlin, xây năm 1810. Trường có 25 giải Nobel, chủ yếu về khoa học. Trường có một số sinh viên nghèo vượt khó nổi tiếng như là Einstein và Heisenberg. Trên Unter den Linden còn có những thư viện khổng lồ, gồm cả thư viện German State Library thành lập năm 1661, một dạng Sainte-Geneviève của Paris, có đến 7 triệu đầu sách. Berlin còn có nghĩa là cổng Brandenburg. Trước, cái cổng bề thế 6 cột theo lối Hy Lạp này từng được coi là trung tâm đế chế Đức. Đến khi nước Đức chia đôi nó lại trở thành một biểu tượng nữa: biểu tượng của cách chia, của đau thương, và phản bội. Phản bội, bởi bên Tây Berlin có cái lệ ai ở bên kia trốn sang, từ bên Cộng sản trốn sang sẽ được cho luôn 100 Mác.
    Thế cho nên nó vừa là biểu tượng của thế giới tự do, vừa là biểu tượng của phản bội. Còn hôm nay, ngay trên Pariser Platz là cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq; Bush và Blair trở thành hai con ngoáo ộp trên một bức vải to đùng, sứ quán Anh cạnh khách sạn Adlon bị ngăn cả hai đầu phố vì sợ bạo loạn.
    Quảng trường Alexander trước đây là trung tâm miền Đông Berlin, ngay dưới chân tháp truyền hình khá cao. Bên xế hông quảng trường là một toà nhà bắt chước Quảng trường đỏ của Liên Xô, nhưng quy mô dĩ nhiên là nhỏ hơn. Đông Berlin và Tây Berlin, tuy đã được coi là thống nhất nhưng sự khác biệt, thậm chí rạn nứt vẫn còn hiện hữu rõ nét. Đã trở lại là thủ đô toàn đất nước, các cơ quan đã chuyển về đây, nhưng Berlin vẫn là một công trường. Người ta xây dựng nhiều ở bên phía Đông nghèo đói, nơi vẫn còn dấu vết những toà nhà đặc lối Liên Xô, nghĩa là cũng hao hao như Giảng Võ, như Cửa Nam ở Hà Nội. Tượng Karl Marx và Engel ở Alexanderplatz tuy chưa bị kéo đổ nhưng giờ đã trở thành nơi để người ta cười giễu đến chụp ảnh về khoe ở nhà. Cả tôi cũng chụp ảnh với cái tâm lý đó, sau rồi lại thấy hối. Những ngã tư, những cô gái xồ xề và những thanh niên cao to choai choai đầu gấu chạy tíu tít ra lau kính xe kiếm vài xu. Khác hẳn với cuộc sống nhộn nhịp bên phía Tây, nơi trung tâm là nhà thờ cụt đầu (bị bom Liên Xô xoẹt mất ngọn), nơi nhộn nhịp khách khứa, lại có cả mấy đồng chí Việt treo băng rôn rất là khiêu khích, đại khái chủ đề là tự do tôn giáo gì gì đó, tôi cũng chả dám giơ máy ảnh lên chụp.
    Tiếu ngạo ở bờ Đông, tôi cũng tranh thủ mua được một bức huy hiệu cũ kỹ có hình của Gogol. Những đồ nho nhỏ kỷ niệm lại thời hai bên bức tường giờ được bày bán. Gogol còn sống thì chắc đang chiêm ngưỡng Những linh hồn chết đang dật dờ hai miền, lại có thể viết một Nhật ký người điên khác, hay lại để Cái mũi phiêu lưu trên Unter den Linden như đã từng phiêu diêu ở đại lộ Nevski tại Saint-Peterburg thần thánh.
    Khi bức tường Bá Linh đổ năm 1989, người bên Đông Đức bảo nhau đến cái mùi tư bản bên Tây tràn sang cũng thấy thơm. Bức tường đó do Ulbricht xây dựng năm 1961, là vết nhơ xấu xa sau cái vết nhơ Nazi. Adenauer rồi Willy Brandt, còn bên Đông Đức sẽ tới Erich Honecker. Âu cũng là một kinh nghiệm: một thành phố lâu đời là không thể chia đôi, bởi chia đôi như thế thì cái kết cục Willy Brandt phải từ chức vì phát hiện người thân tín của mình là gián điệp của Đông Đức cũng là tất yếu, bởi vì chia đôi đã có hàm nghĩa phản bội.
    Leipzig ý vị và học thức. Nơi ấy có trung tâm triển lãm sách lớn nhất châu Âu, lại có nhà ga từng một thời lớn nhất châu Âu.
    Chợ Bến Thành và Đồng Xuân ngay cạnh nhau, dù ở Việt Nam chúng cách nhau đến hàng nghìn cây số. Leipzig thuộc bang Sachsen, không phải thủ phủ (thủ phủ là Dresden), là nơi hợp lưu của những dòng sông Pleisse, Parthe và Weisse. Leipzig xưa chắc là đẹp lắm vì thế kỷ XVIII nó từng được mệnh danh là Kleine Paris (Tiểu Paris).
    Thời thế kỷ XVIII đó Leipzig có người chủ soái là Johann Christoph Gottsched. Đại học Leipzig rất cổ (năm 1409), sau này từ 1953 đến 1990 được đổi thành đại học Karl Marx. Những vĩ nhân đến rồi đi, thay đổi một chút lịch sử rồi lại để lại cho dòng thời gian chảy. Những vĩ nhân lớn lao và đau khổ. Karl Marx là một vĩ nhân như thế. Những vĩ nhân khác từng vinh danh Đại học Leipzig là Fichte, Bach, Schumann và Goethe. Ở quảng trường đại học, bức tượng Bartholdy ăn chơi nghệ sĩ đứng chiếu cái nhìn vào nhà hát. Nhà hát chính là một đặc điểm quan trọng của những thành phố Đức. Dàn nhạc 200 người của Leipzig được coi là một trong những dàn nhạc hay nhất thế giới. Ngoài Leibniz và Richard Wagner sinh ra và lớn lên ở đây, Leipzig còn có khu thành Pleissenburg nơi Martin Luther từng tranh biện với Johann Eck, nhà thần học theo Thiên chúa giáo Lô Ma năm 1519.
    Leipzig có nhà ga to thật. To như cái sân bay mà đi toilet lại đắt éo tả nổi, lại thêm mấy chị gái già cứ tò mò nhìn khó hành sự ghê. Âu cũng là một kinh nghiệm: đến Leipzig đừng vào nhà ga mà làm cái công việc của em Tia!
    Từ thành phố đến thành phố. D?Tune ville l?Tautre như cách viết của Céline. Thành phố Đức đầu tiên tôi chính thức đặt chân lên là Magdeburg, thành phố nhỏ lọt thỏm vào khoảng giữa của bốn thành phố lớn hơn là Dresden, Leipzig, Berlin và Hannover.
    Tất cả cuộc sống của thành phố nhỏ 180 000 dân này quay xung quanh quảng trường đại học. Đó là đại học Otto von Guericke, mang tên nhà bác học thế kỷ XVII sinh ra tại đây. Vỉa hè nào ở đây cũng có mô hình hai nửa quả cầu áp vào nhau miêu tả thí nghiệm chân không nổi tiếng của Guericke. Cái gì ở đây cũng Guericke, như ở Hà Nội cái gì cũng Tràng Tiền mà Sài Gòn cái gì cũng Lê Lợi, Ba Lê thì cái gì cũng euro!
    Magdeburg là thủ phủ bang Sachsen-Anhalt, một trong những bang xưa kia tạo nên Đông Đức. Magdeburg là minh chứng rõ rệt nhất cho việc một thành phố sụp đổ theo chế độ. Trước kia thành phố có 500 000 dân, rất quan trọng trong ngành công nghiệp vũ khí với những đơn đặt hàng to uỳnh từ Liên Xô. Đùng một cái giờ đây mọi cái đều sụp. Bên cạnh siêu thị Karstadt của thành phố là toà nhà trước từng là trụ sở Đảng cộng sản, giờ hoang phế và sắp bị phá đi. Thành phố giờ toàn ông bà già, thơ thẩn đi trên những đường phố vắng hoe, những chiếc xe điện cọc cạch càng tăng thêm mức độ tĩnh mịch. Tối đến chừng 9 giờ đã chẳng còn ma nào lai vãng, thật chẳng khác mấy Thanh
    Hoá hay Nam Định.
    Những ông già bà cả đó vẫn còn rất tự hào về thành phố, nhưng thực ra cái danh hiệu một trong những thành phố cổ nhất Đức giờ cũng đã phai nhạt. Trước kia Magdeburg có một quần thể nhà thờ rất đồ sộ kiến trúc gôtích rất đáng nể, gồm hơn 30 nhà thờ xây bên dòng sông Elbe. Sau những trận bom khủng khiếp của Đồng minh trong Thế chiến II, giờ hầu như chỉ còn lại nhà thờ Dom, trong đó nghe nói còn có hài cốt vua Otto Đại đế, vị vua vĩ đại của thế kỷ X, vị vua hiển hách từng thu phục cả nước Italia vào tay mình.
    Nhưng nhịp điệu ôn hoà trầm bổng của một thành phố nhỏ nhắn như thế cũng có cái hay. Những em gái Đức đẹp và cao lớn, phải nói là xinh không chịu được, chỉ muốn cắn mà hôn mà... (điền vào chỗ trống). Trong quán billard chiều hôm đó, tôi đã thể hiện rất rõ chí khí, không cắn không hôn em Maiki xinh đẹp như quả lê chín đó, mà chỉ cầm tay em hướng dẫn cách cầm cơ. Mà em xinh thật, xinh như dòng sông Elbe chảy qua thành phố.
    Về đến nhà, vừa vặn có điện thoại của Virginie (điển tích: Virginie hay là đôi mắt người Paris). Ngày mai tôi sẽ gặp em, sẽ được hôn em và sau đó đi chơi chắc là vui lắm, nhưng làm thế nào quên được em Maiki đây...
  3. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0

    #BIGCHAR {background: & strDefaultFontColor &; color: DCDCDC; font-size: 16pt; font-family:Arial; }
    Mọi người sang thăm Đức nhé
    Đức quốc du hành ký
    Tác giả: Janus
    Tuần vừa rồi tôi mới có một chuyến đi, giang hồ vặt vãnh (một chiếc ba lô, một mẩu bánh mỳ, một pạt po trong túi) kể cũng tầm thường nhưng không phải không có những ấn tượng này nọ muốn ghi ra, lại thêm có vài cái kinh nghiệm nhỏ nhân trăng thanh gió mát trình bày đây để quý vị nào có lỡ bước lên đường cũng biết qua mà chuẩn bị.
    Những ấn tượng cuối cùng của tôi về nước Đức nằm ở Hannover. Hannover là thủ phủ bang Niedersachsen, trên dòng sông Leine. Hannover là thành phố tình cờ. Chỉ vì không chú ý cẩn thận xem giờ tàu thành ra cuối tuần không có IC chạy từ Magdeburg về Hannover. Vậy là tôi phải đến sớm hơn hai tiếng đồng hồ và chờ đợi ở thành phố ấy. Âu cũng là một kinh nghiệm: giờ tàu không phải là một vào tất cả các ngày.
    Đợi? Chẳng nhẽ lại ngồi dí ở sân ga xem những thằng bé nhóc con 17, 18 tuổi, những đứa con gái cũng trạc đó tuổi nghịch ngợm bố láo ở sân ga. Không hiểu sao thành phố nào của nước Đức cũng lấy nhà ga là trung tâm. Cứ ?oDie Bahnhof, bitte? là chắc chắn có người chỉ đường cho. Sân ga trở thành nơi tụ tập của bọn trẻ, vì ở đó đông người, vì ở đó rộng rãi, và vì ở đó sáng.
    Khác với Paris, thành phố ở Đức không có nhiều ánh sáng. Ra khỏi Platz Ernst August, Koenig von Hannover (Quảng trường nhà ga), thêm một đoạn sáng nữa là đã chui vào màn đêm, sở trường của nước Đức. Trong tay tôi là tờ báo Zeit Literatur vừa mua trong nhà ga, cầm cho thích tay và doạ mấy thằng Đức là chính vì có mở ra tôi cũng chỉ xem được tranh là hết đất.
    Trước khi đi vào màn đêm còn có một đoạn ánh sáng. Trong màn sáng đó, trong tiếng động vẳng tới đều đặn của những chuyến xe điện chạy ngay trước mặt nhà ga, là tiếng hát. Không phải tiếng hát của những kẻ say, của những đám đông bạn bè đi chơi tối thứ Bảy, mà là opera. Một cô gái chọn chỗ rất ngon, ngay ở giao điểm mấy con đường nhỏ, lại thêm tốt giọng nên ở cách xa hàng cây số vẫn nghe tiếng. Hát opera không cần nhạc đệm, lại hát giữa đường phố, một mình, lại là một cô gái ăn mặc rất dân chơi sành điệu, điều này chắc chỉ nước Đức mới có được. Âu cũng là một kinh nghiệm: đừng đùa với người Đức về âm nhạc!
    Có lẽ tôi đã lọt vào khu Altstadt tức là khu phố cổ của Hannover, vì những ngôi nhà đêm ấy tôi thấy trông đều rất cổ, trong đó không biết có ngôi nhà thờ cổ nhất thành phố là Kreuzkirche, xây khoảng năm 1300, hay Rathaus, trước là hoàng cung hay không. Không thể biết được vì thành phố rất tối, không có nhiều biển chỉ đường, một thành phố lạ lần đầu tiên đặt chân tới.
    Không thể biết được, chính cái không thể biết được đó khiến Hannover trở nên hấp dẫn như một cô gái lai bí ẩn. Những bước chân ban đêm, sự âm u và niềm cô độc. Sự cô độc gợi nhớ đến Rousseau khi viết Rêveries d?Tun promeneur solitaire và nhất là Walter Benjamin, con người của cô độc và của đêm, con người đêm của cả Berlin lẫn Paris, con người lạ lùng, nhà siêu hình vĩ đại cuối cùng. Chợt một ham muốn dâng lên trong lòng tôi: được lạc hẳn trong thành phố đó, lạc hẳn vào đêm sâu thẳm đó. "Đốt một ngọn đèn hồng như ánh lửa. Đêm sâu quá đêm nào có ngủ. Chỉ con người đến ngủ giữa đêm thôi. Nhưng có ngủ đâu, người ta đợi mặt trời.." Cảm giác đêm, dịu dàng và bất trắc, dịu dàng nhiều hơn...
    Nước Đức, đó là sự hứa hẹn bất trắc. Ít nhất đó là cảm giác đầu tiên của tôi. Con tàu Thalys (từ Pháp sang Đức có tàu này, nên chọn tàu Nachzug là tàu đêm cho rẻ) trôi qua Bruxelles-Guillemins, rồi qua Liège một lúc thì nửa đêm lọt vào nước Đức. Thành phố đầu tiên là Aachen. Lúc ấy đang nói chuyện với Mélissa đến đoạn cao trào. Mélissa, cô gái Orléans xinh đẹp và nhiều lời. Cái xinh đẹp miễn xá cho sự nhiều lời. Một mình tôi và Mélissa trong khoang tàu. Mới quen nhau được vài tiếng mà tôi đã biết hết về cô, và thậm chí muốn biết thêm nữa cũng được, ít nhất là tôi nghĩ thế nhưng cũng chưa thử. Mélissa, em là hiện thân linh hồn Pháp đang cùng tôi đi vào một đất nước khác.
    Đang nói chuyện với Mélissa đến đoạn cao trào mà tôi vẫn thần người ra vì thấy sao thật là giống những chuyến tàu chở dân Do Thái đến trại tập trung, lò thiêu Holocaust. Những bộ phim khủng khiếp, những đoàn tàu đen thui, hiểm hoạ ở trong hơi máy, trong tiếng xình xịch vô tội nhất. Trong những bộ phim đã vậy, cả trong cuốn tiểu thuyết tôi vừa đọc, ?oGiờ thứ hai nhăm? của Virgil Gheorghiu cũng vậy. Lúc con tàu dừng lại, anh chàng Moritz hiền lành đó thò đầu ra chào ?onhững người anh em Do Thái? và phải chịu một trận đá ném thừa sống thiếu chết. Thoạt tiên Moritz bị cho là người Do Thái nên bị người Đức bắt đi làm lụng đủ thứ rất cực nhục, sau rồi lại bị cho là người Đức thế là đi lính cho Nazi, rồi cứu quân động minh nên được trọng vọng, rồi lại bị coi là người Đức nên bị lên tàu đưa đi nhốt, trên tàu lại chào người Do Thái nên bị đá ném. Nước Đức, đó là vinh quang và đau khổ, là hiển hách và cực nhục, là thiên tài và lầm lạc.
    Những chuyện đồn thật là tai hại. Nhìn trên tàu IC có thằng hút thuốc ở khoang cấm hút thuốc, rồi trên đường thấy có thằng chạy qua đường khi đang đèn đỏ mà không bị bắt lại bắn cái đòm, tôi mới hơi tin Allemands này cũng là người giống mình! Âu cũng là một kinh nghiệm: không phải thằng đầu trọc hay mào gà nào cũng nguy hiểm.
    Berlin có con sông Spree. Giữa sông có tượng hai người khổng lồ đang giằng co nhau không hiểu có ý nghĩa gì. Berlin, đó là Unter den Linden. Dãy phố chạy xuyên suốt Berlin. Unter den Linden có nghĩa là Champs Elysées của Paris. Còn có nghĩa là Quartier Latin với Đại học Humboldt. Hai anh em Alexander và Wilhelm. Trước đây là trường Đại học Berlin, xây năm 1810. Trường có 25 giải Nobel, chủ yếu về khoa học. Trường có một số sinh viên nghèo vượt khó nổi tiếng như là Einstein và Heisenberg. Trên Unter den Linden còn có những thư viện khổng lồ, gồm cả thư viện German State Library thành lập năm 1661, một dạng Sainte-Geneviève của Paris, có đến 7 triệu đầu sách. Berlin còn có nghĩa là cổng Brandenburg. Trước, cái cổng bề thế 6 cột theo lối Hy Lạp này từng được coi là trung tâm đế chế Đức. Đến khi nước Đức chia đôi nó lại trở thành một biểu tượng nữa: biểu tượng của cách chia, của đau thương, và phản bội. Phản bội, bởi bên Tây Berlin có cái lệ ai ở bên kia trốn sang, từ bên Cộng sản trốn sang sẽ được cho luôn 100 Mác.
    Thế cho nên nó vừa là biểu tượng của thế giới tự do, vừa là biểu tượng của phản bội. Còn hôm nay, ngay trên Pariser Platz là cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq; Bush và Blair trở thành hai con ngoáo ộp trên một bức vải to đùng, sứ quán Anh cạnh khách sạn Adlon bị ngăn cả hai đầu phố vì sợ bạo loạn.
    Quảng trường Alexander trước đây là trung tâm miền Đông Berlin, ngay dưới chân tháp truyền hình khá cao. Bên xế hông quảng trường là một toà nhà bắt chước Quảng trường đỏ của Liên Xô, nhưng quy mô dĩ nhiên là nhỏ hơn. Đông Berlin và Tây Berlin, tuy đã được coi là thống nhất nhưng sự khác biệt, thậm chí rạn nứt vẫn còn hiện hữu rõ nét. Đã trở lại là thủ đô toàn đất nước, các cơ quan đã chuyển về đây, nhưng Berlin vẫn là một công trường. Người ta xây dựng nhiều ở bên phía Đông nghèo đói, nơi vẫn còn dấu vết những toà nhà đặc lối Liên Xô, nghĩa là cũng hao hao như Giảng Võ, như Cửa Nam ở Hà Nội. Tượng Karl Marx và Engel ở Alexanderplatz tuy chưa bị kéo đổ nhưng giờ đã trở thành nơi để người ta cười giễu đến chụp ảnh về khoe ở nhà. Cả tôi cũng chụp ảnh với cái tâm lý đó, sau rồi lại thấy hối. Những ngã tư, những cô gái xồ xề và những thanh niên cao to choai choai đầu gấu chạy tíu tít ra lau kính xe kiếm vài xu. Khác hẳn với cuộc sống nhộn nhịp bên phía Tây, nơi trung tâm là nhà thờ cụt đầu (bị bom Liên Xô xoẹt mất ngọn), nơi nhộn nhịp khách khứa, lại có cả mấy đồng chí Việt treo băng rôn rất là khiêu khích, đại khái chủ đề là tự do tôn giáo gì gì đó, tôi cũng chả dám giơ máy ảnh lên chụp.
    Tiếu ngạo ở bờ Đông, tôi cũng tranh thủ mua được một bức huy hiệu cũ kỹ có hình của Gogol. Những đồ nho nhỏ kỷ niệm lại thời hai bên bức tường giờ được bày bán. Gogol còn sống thì chắc đang chiêm ngưỡng Những linh hồn chết đang dật dờ hai miền, lại có thể viết một Nhật ký người điên khác, hay lại để Cái mũi phiêu lưu trên Unter den Linden như đã từng phiêu diêu ở đại lộ Nevski tại Saint-Peterburg thần thánh.
    Khi bức tường Bá Linh đổ năm 1989, người bên Đông Đức bảo nhau đến cái mùi tư bản bên Tây tràn sang cũng thấy thơm. Bức tường đó do Ulbricht xây dựng năm 1961, là vết nhơ xấu xa sau cái vết nhơ Nazi. Adenauer rồi Willy Brandt, còn bên Đông Đức sẽ tới Erich Honecker. Âu cũng là một kinh nghiệm: một thành phố lâu đời là không thể chia đôi, bởi chia đôi như thế thì cái kết cục Willy Brandt phải từ chức vì phát hiện người thân tín của mình là gián điệp của Đông Đức cũng là tất yếu, bởi vì chia đôi đã có hàm nghĩa phản bội.
    Leipzig ý vị và học thức. Nơi ấy có trung tâm triển lãm sách lớn nhất châu Âu, lại có nhà ga từng một thời lớn nhất châu Âu.
    Chợ Bến Thành và Đồng Xuân ngay cạnh nhau, dù ở Việt Nam chúng cách nhau đến hàng nghìn cây số. Leipzig thuộc bang Sachsen, không phải thủ phủ (thủ phủ là Dresden), là nơi hợp lưu của những dòng sông Pleisse, Parthe và Weisse. Leipzig xưa chắc là đẹp lắm vì thế kỷ XVIII nó từng được mệnh danh là Kleine Paris (Tiểu Paris).
    Thời thế kỷ XVIII đó Leipzig có người chủ soái là Johann Christoph Gottsched. Đại học Leipzig rất cổ (năm 1409), sau này từ 1953 đến 1990 được đổi thành đại học Karl Marx. Những vĩ nhân đến rồi đi, thay đổi một chút lịch sử rồi lại để lại cho dòng thời gian chảy. Những vĩ nhân lớn lao và đau khổ. Karl Marx là một vĩ nhân như thế. Những vĩ nhân khác từng vinh danh Đại học Leipzig là Fichte, Bach, Schumann và Goethe. Ở quảng trường đại học, bức tượng Bartholdy ăn chơi nghệ sĩ đứng chiếu cái nhìn vào nhà hát. Nhà hát chính là một đặc điểm quan trọng của những thành phố Đức. Dàn nhạc 200 người của Leipzig được coi là một trong những dàn nhạc hay nhất thế giới. Ngoài Leibniz và Richard Wagner sinh ra và lớn lên ở đây, Leipzig còn có khu thành Pleissenburg nơi Martin Luther từng tranh biện với Johann Eck, nhà thần học theo Thiên chúa giáo Lô Ma năm 1519.
    Leipzig có nhà ga to thật. To như cái sân bay mà đi toilet lại đắt éo tả nổi, lại thêm mấy chị gái già cứ tò mò nhìn khó hành sự ghê. Âu cũng là một kinh nghiệm: đến Leipzig đừng vào nhà ga mà làm cái công việc của em Tia!
    Từ thành phố đến thành phố. D?Tune ville l?Tautre như cách viết của Céline. Thành phố Đức đầu tiên tôi chính thức đặt chân lên là Magdeburg, thành phố nhỏ lọt thỏm vào khoảng giữa của bốn thành phố lớn hơn là Dresden, Leipzig, Berlin và Hannover.
    Tất cả cuộc sống của thành phố nhỏ 180 000 dân này quay xung quanh quảng trường đại học. Đó là đại học Otto von Guericke, mang tên nhà bác học thế kỷ XVII sinh ra tại đây. Vỉa hè nào ở đây cũng có mô hình hai nửa quả cầu áp vào nhau miêu tả thí nghiệm chân không nổi tiếng của Guericke. Cái gì ở đây cũng Guericke, như ở Hà Nội cái gì cũng Tràng Tiền mà Sài Gòn cái gì cũng Lê Lợi, Ba Lê thì cái gì cũng euro!
    Magdeburg là thủ phủ bang Sachsen-Anhalt, một trong những bang xưa kia tạo nên Đông Đức. Magdeburg là minh chứng rõ rệt nhất cho việc một thành phố sụp đổ theo chế độ. Trước kia thành phố có 500 000 dân, rất quan trọng trong ngành công nghiệp vũ khí với những đơn đặt hàng to uỳnh từ Liên Xô. Đùng một cái giờ đây mọi cái đều sụp. Bên cạnh siêu thị Karstadt của thành phố là toà nhà trước từng là trụ sở Đảng cộng sản, giờ hoang phế và sắp bị phá đi. Thành phố giờ toàn ông bà già, thơ thẩn đi trên những đường phố vắng hoe, những chiếc xe điện cọc cạch càng tăng thêm mức độ tĩnh mịch. Tối đến chừng 9 giờ đã chẳng còn ma nào lai vãng, thật chẳng khác mấy Thanh
    Hoá hay Nam Định.
    Những ông già bà cả đó vẫn còn rất tự hào về thành phố, nhưng thực ra cái danh hiệu một trong những thành phố cổ nhất Đức giờ cũng đã phai nhạt. Trước kia Magdeburg có một quần thể nhà thờ rất đồ sộ kiến trúc gôtích rất đáng nể, gồm hơn 30 nhà thờ xây bên dòng sông Elbe. Sau những trận bom khủng khiếp của Đồng minh trong Thế chiến II, giờ hầu như chỉ còn lại nhà thờ Dom, trong đó nghe nói còn có hài cốt vua Otto Đại đế, vị vua vĩ đại của thế kỷ X, vị vua hiển hách từng thu phục cả nước Italia vào tay mình.
    Nhưng nhịp điệu ôn hoà trầm bổng của một thành phố nhỏ nhắn như thế cũng có cái hay. Những em gái Đức đẹp và cao lớn, phải nói là xinh không chịu được, chỉ muốn cắn mà hôn mà... (điền vào chỗ trống). Trong quán billard chiều hôm đó, tôi đã thể hiện rất rõ chí khí, không cắn không hôn em Maiki xinh đẹp như quả lê chín đó, mà chỉ cầm tay em hướng dẫn cách cầm cơ. Mà em xinh thật, xinh như dòng sông Elbe chảy qua thành phố.
    Về đến nhà, vừa vặn có điện thoại của Virginie (điển tích: Virginie hay là đôi mắt người Paris). Ngày mai tôi sẽ gặp em, sẽ được hôn em và sau đó đi chơi chắc là vui lắm, nhưng làm thế nào quên được em Maiki đây...
  4. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0

    Và đây là chiêm nghiệm của một người đã sống hơn một thập kỷ tại Đức.
    Mười lăm năm ?" Người Việt tại Đức
    Tùy bút của nguyễn văn Thọ

    1-Khi bức tường Berlin đổ
    Bây giờ các bạn hãy cùng tôi ngược chiều thời gian.
    Đa số người Việt tới Đức với tư cách Thợ Khách ?" Lao động xuất khẩu trong nhiều chuyến bay ồ ạt ở thời điểm 1987 tới 1988.
    Mùa đông năm 1989, bức tường Berlin sắp sụp đổ. Trước đó, người lao động Việt Nam tại Đông Đức đã sấp sỉ bẩy vạn. Trong chớp mắt, số phận bẩy vạn người như trứng treo đầu đẳng. Rất nhiều kẻ trong số họ, vừa chân ướt chân ráo tới Đức, chưa hề biết đến nỗi sợ lạnh giá của băng tuyết, mùa đông ập tới vẫn hớn hở nhẩy ra giữa trời, như trẻ nhỏ hồn nhiên dang hai tay quay trong mưa hoa tuyết, khi họ lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sẽ phải quay về tổ quốc với bàn tay trắng? Lập tức có tâm lý, phải nhanh chóng kiếm tiền trước khi bước chân lên máy bay. Ngay cả khi có chính sách của nhà nước CHLB Đức, đổi tiền Ost và west ngang giá, đền bù mỗi lao động VN phải trở về nước 3000 Mark thì sức nặng giá trị của đồng tiền phía Tây càng thôi thúc tâm lý: kiếm vội thêm tiền rồi chuồn, sôi sục hơn!
    Tại tây Berlin bấy giờ, ở ngay các đầu lên và xuống đường hầm tầu điện ngầm, cạnh Nhà Thờ Cụt, người ta nhìn thấy dăm thanh niên da trắng và da mầu tay cầm vài gói thuốc lá Marlboro bao mềm mời chào khách qua đường. Cũng bao thuốc ấy, trong các cửa hàng bán thuốc lá có tem, giá 4 Dm. Gói thuốc bán trao tay nơi cửa đường hầm kia chỉ bán với giá 3Dm. Vài người Việt còn phát hiện ra, rằng cách đó không xa, có một chợ trời mở tại sân vận động bỏ trống, gần nhà ga tầu điện không người lái. Nơi đó, mỗi khi có có gió lớn, bụi cát mù mịt thổi thốc vào đám người đông cả vài ngàn, chen chúc đủ các sắc tộc. Đa phần họ là người Thổ, sau đó là đám Ba Lan, Nam Tư, Ru và cả Tiệp hay Ấn. Người ta bán đồ cũ, những linh kiện của máy tính, phụ tùng ô tô, linh kiện tivi và cả đồ giả cổ v..v... Hai ba dãy bán đồ mới như thảm chùi chân, đồng hồ cân, các vật dụng hàng xén và đồ chơi nhái cho trẻ con, băng nhạc rởm. Nhưng cũng tại đó, trong vài gầm bàn, khi nhận ra bạn hàng quen thuộc, những người Ba Lan, Thổ lôi ra trong túi dứa hàng chục cây thuốc Marl bao mềm với giá 17 Dm một tút. Lập tức, tiền lãi khi bán một gói thuốc được vài người Việt, vốn là khôn vặt, nhẩm tính.
    Cũng bấy giờ, tại một trục đường phố trung tâm của thành phố du lịch Postdam, đám người Việt thất nghiệp chờ chuyến bay bắt đầu bầy công khai trên chiếc bàn nhỏ vài chiếc bật lửa ga, những chiếc đồng hồ dỏm, dăm khẩu súng nhựa khi bóp cò phát ra ba bốn loại thanh âm và đèn xanh đỏ bật nhấp nháy v...v? Trong sự nhộn nhạo sắp thay đổi thể chế, và cả sau khi thống nhất, chính quyền CHLB Đức chưa đặt vững bàn chân trên miền đất mới, sở thuế, cảnh sát đã làm ngơ cho đám người buôn bán không môn bài nói trên. Người Việt ta thuộc câu: thấy bở đào mãi, lấn tới trước sự buông lỏng ấy. Hàng trăm mẹt hàng như thế bầy la liệt bên ven mặt đường đẹp nhất của thành phố du lịch rộng ba chục mét chỉ dành cho người đi bộ. Tương tự như vậy, khắp nơi tại Đông Đức, nơi nào có lao động xuất khẩu Việt, nơi đó xuất hiện thứ chợ trời tự phát, một loại chợ mà ta có thể bắt gặp ngày xưa bên ngoài chợ Hôm, chợ Đuổi, chợ Đồng Xuân buôn bán tem phiếu trong thời gian bao cấp!?
    Chỉ một tuần sau khi đám công nhân Việt tại Potsdam phát hiện ra siêu lợi nhuận trong việc bán lẻ thuốc lá, trên những mẹt hàng xuất hiện dăm cây thuốc Marl bán với giá 3.5 Dm một gói. Đã là người ai chẳng hám lợi! Những người Đức nghiện nặng, trong đó hầu hết là đám thất nghiệp và ông bà già lĩnh lương hưu đã mau chóng trở thành khách hàng thường xuyên của đám buôn thuốc lá lậu người Việt.
    Hai ba tuần sau, thông tin về: bán thuốc lá một tuần có thể thu tới ba bốn ngàn Us Mỹ, loang ra như đám dầu trên mặt nước trong cộng đồng người Việt. Thế là từ Chemnitz bốn mùa lạnh giá tới nhiều thành phố công nghiệp lớn như Hale hay Leisich v..v.., khắp nơi, người Việt ta truy lùng Marl bao mỏng để bán.
    Cuối mùa xuân năm ấy, trước thời điểm nước Đức chính thức thống nhất tiêu chung một thứ tiền, tôi dậy từ hai giờ sớm theo đám thanh niên trong đội xuyên trong sương giá đi chuyến ô tô bus đầu tiên trong ngày ra nhà ga Lút vích. Từ đó sau một giờ ngồi tầu hai tầng, chạy không dưới cả trăm cây số giờ, chúng tôi xuống nhà ga Kalhhorsp. Tại đây, cứ vào hai ngày, thứ ba và thứ năm, có chuyến tầu từ Ba Lan đổ về. Bấy giờ hiệp ước giữa hai nhà nước Ba Lan và CHDC Đức còn hiệu lực, những người Ba Lan sang Đức không cần vi sa. Mới ba rưỡi sớm! Khi tôi bước xuống sân ga đã thấy nhiều đám đông đồng hưng ngỗi lố nhố trên sàn đá, mặc trời tuyết bay và gió từng cn trắng xóa. Thì ra c ngàn người Việt từ khắp các đội lao động phạm vi trăm cây số quanh Berlin đã tập trung tại đây từ ba giờ sớm để ngóng chờ tầu Ba Lan. Tôi kéo cái mũ lông xuống quá vành tai chống lại cái buốt muốn rụng tai. Theo gió, bỗng thốc về mang tới mùi xôi thơm nựng quyện trong mùi muối vừng ngầy ngậy. Lại nghe: xôi đây! Cafe nóng nào! Bánh mì nóng ròn nào! Tôi ngỗi xuống, đám đông vây quanh một cô gái chừng mười tám xuân son đang tíu tít rót trà, ngầy ngậy mùi hưng đưa lên từ những chiếc cốc nhựa đủ màu. Có cộng đồng người Việt là có sự tái hiện những cảnh sống nơi quê nhà? Tôi gọi một gói xôi với một nhúm muối vừng bọc trong giấy thiếc bạc, nhận nó từ bàn tay của một em gái chừng hơn hai chục tuổi. Xôi dẻo và vừng béo!
    -Em ơi! Em là công nhân ở đội nào? ở Việt Nam em ở vùng nào mà thổi sôi dẻo vậy?- Tôi muốn thốt lên câu hỏi ấy nhưng không thể!
    Nhiều người Việt, do hoàn cảnh sống, đã tự dấn thân vào nhiều nghề khác nhau trong những cảnh huống như vậy. Tuyết vẫn trùng trùng dệt cước và tan ngay trên miếng xôi tôi vừa véo ra. Suốt hơn chục năm sau, tôi đã lang thang nhiều nước trên thế giới, cũng thấy nhiều điều lạ. Nhưng cái lần ấy, với tiếng rao đêm sân ga cứ đôi khi như mơ hồ vọng lên âm vang trong tiềm thức, ám ảnh theo chân tôi mãi.
    Có nhiều con người thuộc nhiều dân tộc phải tha hương trên hành tinh này và, mỗi dân tộc cứ gắn bó tới đay nhức hay phởn phơ với cách sống của họ để mà nhận biết. Người Nga có chai rượu trắng với khúc cá hun khói rút ra từ túi quần hôi rình nhưng luôn luôn thường trực nụ cười dễ mến và sẵn sàng chia sẻ ngụm rượu mạnh cuối cùng với bạn đường; Người Thổ râu rậm, mắt sâu thoang thong mùi tỏi và mùi thịt cừu để tôi nghĩ tới món Doenerkebap của họ; Người Nhật ngày nay trắng hồng, mắt một mí, chẳng lùn còi như sách xưa đã chép, vừa bước ra khỏi cửa xe du lịch đã lao ra vội vã để chớp đèn, bấm máy ảnh lia lia; Người Pháp lịch sự nhưng cũng tính đếm đáo để và thực đáng yêu khi tha thẩn cả buổi bên một sinh vật lạ; Và, bè bạn tôi người Đức có thể ồn ào nơi quán rượu bia nhưng sẵn sàng tự giam mình cả tháng không nói nửa lời trong một khu vườn yên tĩnh tới ghê người để tự thỏa mãn điều gì đó thực chả dễ hiểu chút nào? Còn người Việt? Tôi nhớ tới sự cần mẫn thu vén từng pennic nhưng cũng hay sỹ diện tự ái vu vơ và cái ồn ào chợ vỡ năm ấy và tiếng rao lơ lửng treo trong trời đêm tuyết gió?
    Theo quy luật cung cầu, những người Ba Lan anh em mang tới quần bò, áo len, thuốc lá. Đúng vậy, tầu xình xịch vào ga và vừa dừng lại, lập tức trào ra hàng ngàn người Ba lan to xụ bởi do khoác lên người họ nhiều lớp áo len, áo bò, quần bò. Và, từ nhiều chỗ kín trong con tầu, họ lôi ra cơ man nào thuốc Marl đủ loại, cứng, mềm. Quang cảnh sân ga khi ấy hết sức nhốn nháo. Người bán kẻ mua diễn ra cấp tập, không đầy một giờ để sau đó tất cả tan đi như có phép thần, trơ lại sân ga vắng ngắt, như chưa từng có một thứ chợ đặc biệt ở nơi đây.
    Cậu Vinh, anh bạn trẻ cùng đội, đón tôi ngay đầu đường hầm bên kia ga để nhẩy tầu ngược về Lutwich. Lặc lè trên lưng nó là chiếc ba lô đã ấn đầy chặt quần áo các loại. Hai tay là hai túi dứa nặng chịnh. Trong đó chứa hơn sáu mươi cây thuốc Marl hộp cứng!
    Sự buôn bán chảo chớp như thế không tránh khỏi máu tham nổi dậy của đám giang hồ thảo khấu. Đã có vài bận, cả hai bên có kẻ lừa đảo lẫn nhau. Một lần, súng nổ vang, xé tan màn đêm khi đám thanh niên trẻ người Việt cướp cạn vài chục cái áo len mỏng của một tay Thảo mai (1)Ba Lan nào đó. Vài phát súng vang lên, người Việt chạy túa đi. Nhưng sau phát súng thứ tư, khi nhận ra là súng đạn cay, họ bâu lại, nện cho tay súng kia một trận chí tử. Sự buôn bán và những sự kiện như thế làm chính quyền để mắt đến. Hai tháng sau, hơn trăm cảnh sát và cả hai chục con chó nòi có ánh mắt như tia chớp đã xóa sổ tụ điểm buôn bán này, một đầu mối bán buôn cò con, hỗn tạp.
    Thực chất của giai đoạn ấy, việc buôn bán của người Việt tại Đức hết sức ấu trĩ, không có nghiệp vụ và mang tính tự phát, kẻ nọ bắt chước người kia. Nhưng một mặt nó ít nhiều mang lại tiền cho đám người hơn bẩy vạn phải trở về quê hương và giúp đỡ biết bao nhiêu gia đình trong một giai đoạn cha mẹ, anh em họ còn rất đói nghèo, vẫn mỏi mòn con mắt trông chờ đám người đi bán sức lao động ở xứ người có nguy cơ trở về tay trắng. Mặt khác, tại Đức, nó giúp cho việc tháo gỡ một phần, sự khan hiếm hàng hóa khi chính quyền cũ sụp đổ mà chính quyền mới tuy giầu vẫn không thể đủ sức bao quát hết, chú ý tới đời sống thiết thực của người dân tại đó. Nhưng mặt nữa, là nó manh nha một kiểu làm ăn phi pháp và từ đó, cái giá trả cho những đồng tiền ngoại tệ mạnh là hàng trăm người Việt sau đó vài năm đã chết thê thảm trong những cuộc thanh trừng bắn giết lẫn nhau để dành giật miếng sống. Không có món lợi nào chỉ có sự được. Nhất là khi món lợi ấy xuất phát từ phưng thức trốn tránh pháp luật.
    Nhưng một mặt khác, sau này , theo thời gian, người Việt cũng dần nhận ra rằng, muốn tồn tại làm ăn trong một xã hội ổn định và sống theo luật pháp thì người ta cũng phi sống có luật pháp. Chỉ sau ba bốn năm, trật tự bán buôn và bán lẻ của người Việt dần theo xu hướng công khai, có đăng kí tại sở thuế để chịu sự kiểm soát của luật pháp. Và chính điều ấy cũng giúp họ sống an toàn hơn bởi xã hội đen chính là con đẻ của tình trạng làm ăn phi pháp mà ra. Điều này tôi xin trở lại kỹ ở phần sau.
  5. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0

    Và đây là chiêm nghiệm của một người đã sống hơn một thập kỷ tại Đức.
    Mười lăm năm ?" Người Việt tại Đức
    Tùy bút của nguyễn văn Thọ

    1-Khi bức tường Berlin đổ
    Bây giờ các bạn hãy cùng tôi ngược chiều thời gian.
    Đa số người Việt tới Đức với tư cách Thợ Khách ?" Lao động xuất khẩu trong nhiều chuyến bay ồ ạt ở thời điểm 1987 tới 1988.
    Mùa đông năm 1989, bức tường Berlin sắp sụp đổ. Trước đó, người lao động Việt Nam tại Đông Đức đã sấp sỉ bẩy vạn. Trong chớp mắt, số phận bẩy vạn người như trứng treo đầu đẳng. Rất nhiều kẻ trong số họ, vừa chân ướt chân ráo tới Đức, chưa hề biết đến nỗi sợ lạnh giá của băng tuyết, mùa đông ập tới vẫn hớn hở nhẩy ra giữa trời, như trẻ nhỏ hồn nhiên dang hai tay quay trong mưa hoa tuyết, khi họ lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sẽ phải quay về tổ quốc với bàn tay trắng? Lập tức có tâm lý, phải nhanh chóng kiếm tiền trước khi bước chân lên máy bay. Ngay cả khi có chính sách của nhà nước CHLB Đức, đổi tiền Ost và west ngang giá, đền bù mỗi lao động VN phải trở về nước 3000 Mark thì sức nặng giá trị của đồng tiền phía Tây càng thôi thúc tâm lý: kiếm vội thêm tiền rồi chuồn, sôi sục hơn!
    Tại tây Berlin bấy giờ, ở ngay các đầu lên và xuống đường hầm tầu điện ngầm, cạnh Nhà Thờ Cụt, người ta nhìn thấy dăm thanh niên da trắng và da mầu tay cầm vài gói thuốc lá Marlboro bao mềm mời chào khách qua đường. Cũng bao thuốc ấy, trong các cửa hàng bán thuốc lá có tem, giá 4 Dm. Gói thuốc bán trao tay nơi cửa đường hầm kia chỉ bán với giá 3Dm. Vài người Việt còn phát hiện ra, rằng cách đó không xa, có một chợ trời mở tại sân vận động bỏ trống, gần nhà ga tầu điện không người lái. Nơi đó, mỗi khi có có gió lớn, bụi cát mù mịt thổi thốc vào đám người đông cả vài ngàn, chen chúc đủ các sắc tộc. Đa phần họ là người Thổ, sau đó là đám Ba Lan, Nam Tư, Ru và cả Tiệp hay Ấn. Người ta bán đồ cũ, những linh kiện của máy tính, phụ tùng ô tô, linh kiện tivi và cả đồ giả cổ v..v... Hai ba dãy bán đồ mới như thảm chùi chân, đồng hồ cân, các vật dụng hàng xén và đồ chơi nhái cho trẻ con, băng nhạc rởm. Nhưng cũng tại đó, trong vài gầm bàn, khi nhận ra bạn hàng quen thuộc, những người Ba Lan, Thổ lôi ra trong túi dứa hàng chục cây thuốc Marl bao mềm với giá 17 Dm một tút. Lập tức, tiền lãi khi bán một gói thuốc được vài người Việt, vốn là khôn vặt, nhẩm tính.
    Cũng bấy giờ, tại một trục đường phố trung tâm của thành phố du lịch Postdam, đám người Việt thất nghiệp chờ chuyến bay bắt đầu bầy công khai trên chiếc bàn nhỏ vài chiếc bật lửa ga, những chiếc đồng hồ dỏm, dăm khẩu súng nhựa khi bóp cò phát ra ba bốn loại thanh âm và đèn xanh đỏ bật nhấp nháy v...v? Trong sự nhộn nhạo sắp thay đổi thể chế, và cả sau khi thống nhất, chính quyền CHLB Đức chưa đặt vững bàn chân trên miền đất mới, sở thuế, cảnh sát đã làm ngơ cho đám người buôn bán không môn bài nói trên. Người Việt ta thuộc câu: thấy bở đào mãi, lấn tới trước sự buông lỏng ấy. Hàng trăm mẹt hàng như thế bầy la liệt bên ven mặt đường đẹp nhất của thành phố du lịch rộng ba chục mét chỉ dành cho người đi bộ. Tương tự như vậy, khắp nơi tại Đông Đức, nơi nào có lao động xuất khẩu Việt, nơi đó xuất hiện thứ chợ trời tự phát, một loại chợ mà ta có thể bắt gặp ngày xưa bên ngoài chợ Hôm, chợ Đuổi, chợ Đồng Xuân buôn bán tem phiếu trong thời gian bao cấp!?
    Chỉ một tuần sau khi đám công nhân Việt tại Potsdam phát hiện ra siêu lợi nhuận trong việc bán lẻ thuốc lá, trên những mẹt hàng xuất hiện dăm cây thuốc Marl bán với giá 3.5 Dm một gói. Đã là người ai chẳng hám lợi! Những người Đức nghiện nặng, trong đó hầu hết là đám thất nghiệp và ông bà già lĩnh lương hưu đã mau chóng trở thành khách hàng thường xuyên của đám buôn thuốc lá lậu người Việt.
    Hai ba tuần sau, thông tin về: bán thuốc lá một tuần có thể thu tới ba bốn ngàn Us Mỹ, loang ra như đám dầu trên mặt nước trong cộng đồng người Việt. Thế là từ Chemnitz bốn mùa lạnh giá tới nhiều thành phố công nghiệp lớn như Hale hay Leisich v..v.., khắp nơi, người Việt ta truy lùng Marl bao mỏng để bán.
    Cuối mùa xuân năm ấy, trước thời điểm nước Đức chính thức thống nhất tiêu chung một thứ tiền, tôi dậy từ hai giờ sớm theo đám thanh niên trong đội xuyên trong sương giá đi chuyến ô tô bus đầu tiên trong ngày ra nhà ga Lút vích. Từ đó sau một giờ ngồi tầu hai tầng, chạy không dưới cả trăm cây số giờ, chúng tôi xuống nhà ga Kalhhorsp. Tại đây, cứ vào hai ngày, thứ ba và thứ năm, có chuyến tầu từ Ba Lan đổ về. Bấy giờ hiệp ước giữa hai nhà nước Ba Lan và CHDC Đức còn hiệu lực, những người Ba Lan sang Đức không cần vi sa. Mới ba rưỡi sớm! Khi tôi bước xuống sân ga đã thấy nhiều đám đông đồng hưng ngỗi lố nhố trên sàn đá, mặc trời tuyết bay và gió từng cn trắng xóa. Thì ra c ngàn người Việt từ khắp các đội lao động phạm vi trăm cây số quanh Berlin đã tập trung tại đây từ ba giờ sớm để ngóng chờ tầu Ba Lan. Tôi kéo cái mũ lông xuống quá vành tai chống lại cái buốt muốn rụng tai. Theo gió, bỗng thốc về mang tới mùi xôi thơm nựng quyện trong mùi muối vừng ngầy ngậy. Lại nghe: xôi đây! Cafe nóng nào! Bánh mì nóng ròn nào! Tôi ngỗi xuống, đám đông vây quanh một cô gái chừng mười tám xuân son đang tíu tít rót trà, ngầy ngậy mùi hưng đưa lên từ những chiếc cốc nhựa đủ màu. Có cộng đồng người Việt là có sự tái hiện những cảnh sống nơi quê nhà? Tôi gọi một gói xôi với một nhúm muối vừng bọc trong giấy thiếc bạc, nhận nó từ bàn tay của một em gái chừng hơn hai chục tuổi. Xôi dẻo và vừng béo!
    -Em ơi! Em là công nhân ở đội nào? ở Việt Nam em ở vùng nào mà thổi sôi dẻo vậy?- Tôi muốn thốt lên câu hỏi ấy nhưng không thể!
    Nhiều người Việt, do hoàn cảnh sống, đã tự dấn thân vào nhiều nghề khác nhau trong những cảnh huống như vậy. Tuyết vẫn trùng trùng dệt cước và tan ngay trên miếng xôi tôi vừa véo ra. Suốt hơn chục năm sau, tôi đã lang thang nhiều nước trên thế giới, cũng thấy nhiều điều lạ. Nhưng cái lần ấy, với tiếng rao đêm sân ga cứ đôi khi như mơ hồ vọng lên âm vang trong tiềm thức, ám ảnh theo chân tôi mãi.
    Có nhiều con người thuộc nhiều dân tộc phải tha hương trên hành tinh này và, mỗi dân tộc cứ gắn bó tới đay nhức hay phởn phơ với cách sống của họ để mà nhận biết. Người Nga có chai rượu trắng với khúc cá hun khói rút ra từ túi quần hôi rình nhưng luôn luôn thường trực nụ cười dễ mến và sẵn sàng chia sẻ ngụm rượu mạnh cuối cùng với bạn đường; Người Thổ râu rậm, mắt sâu thoang thong mùi tỏi và mùi thịt cừu để tôi nghĩ tới món Doenerkebap của họ; Người Nhật ngày nay trắng hồng, mắt một mí, chẳng lùn còi như sách xưa đã chép, vừa bước ra khỏi cửa xe du lịch đã lao ra vội vã để chớp đèn, bấm máy ảnh lia lia; Người Pháp lịch sự nhưng cũng tính đếm đáo để và thực đáng yêu khi tha thẩn cả buổi bên một sinh vật lạ; Và, bè bạn tôi người Đức có thể ồn ào nơi quán rượu bia nhưng sẵn sàng tự giam mình cả tháng không nói nửa lời trong một khu vườn yên tĩnh tới ghê người để tự thỏa mãn điều gì đó thực chả dễ hiểu chút nào? Còn người Việt? Tôi nhớ tới sự cần mẫn thu vén từng pennic nhưng cũng hay sỹ diện tự ái vu vơ và cái ồn ào chợ vỡ năm ấy và tiếng rao lơ lửng treo trong trời đêm tuyết gió?
    Theo quy luật cung cầu, những người Ba Lan anh em mang tới quần bò, áo len, thuốc lá. Đúng vậy, tầu xình xịch vào ga và vừa dừng lại, lập tức trào ra hàng ngàn người Ba lan to xụ bởi do khoác lên người họ nhiều lớp áo len, áo bò, quần bò. Và, từ nhiều chỗ kín trong con tầu, họ lôi ra cơ man nào thuốc Marl đủ loại, cứng, mềm. Quang cảnh sân ga khi ấy hết sức nhốn nháo. Người bán kẻ mua diễn ra cấp tập, không đầy một giờ để sau đó tất cả tan đi như có phép thần, trơ lại sân ga vắng ngắt, như chưa từng có một thứ chợ đặc biệt ở nơi đây.
    Cậu Vinh, anh bạn trẻ cùng đội, đón tôi ngay đầu đường hầm bên kia ga để nhẩy tầu ngược về Lutwich. Lặc lè trên lưng nó là chiếc ba lô đã ấn đầy chặt quần áo các loại. Hai tay là hai túi dứa nặng chịnh. Trong đó chứa hơn sáu mươi cây thuốc Marl hộp cứng!
    Sự buôn bán chảo chớp như thế không tránh khỏi máu tham nổi dậy của đám giang hồ thảo khấu. Đã có vài bận, cả hai bên có kẻ lừa đảo lẫn nhau. Một lần, súng nổ vang, xé tan màn đêm khi đám thanh niên trẻ người Việt cướp cạn vài chục cái áo len mỏng của một tay Thảo mai (1)Ba Lan nào đó. Vài phát súng vang lên, người Việt chạy túa đi. Nhưng sau phát súng thứ tư, khi nhận ra là súng đạn cay, họ bâu lại, nện cho tay súng kia một trận chí tử. Sự buôn bán và những sự kiện như thế làm chính quyền để mắt đến. Hai tháng sau, hơn trăm cảnh sát và cả hai chục con chó nòi có ánh mắt như tia chớp đã xóa sổ tụ điểm buôn bán này, một đầu mối bán buôn cò con, hỗn tạp.
    Thực chất của giai đoạn ấy, việc buôn bán của người Việt tại Đức hết sức ấu trĩ, không có nghiệp vụ và mang tính tự phát, kẻ nọ bắt chước người kia. Nhưng một mặt nó ít nhiều mang lại tiền cho đám người hơn bẩy vạn phải trở về quê hương và giúp đỡ biết bao nhiêu gia đình trong một giai đoạn cha mẹ, anh em họ còn rất đói nghèo, vẫn mỏi mòn con mắt trông chờ đám người đi bán sức lao động ở xứ người có nguy cơ trở về tay trắng. Mặt khác, tại Đức, nó giúp cho việc tháo gỡ một phần, sự khan hiếm hàng hóa khi chính quyền cũ sụp đổ mà chính quyền mới tuy giầu vẫn không thể đủ sức bao quát hết, chú ý tới đời sống thiết thực của người dân tại đó. Nhưng mặt nữa, là nó manh nha một kiểu làm ăn phi pháp và từ đó, cái giá trả cho những đồng tiền ngoại tệ mạnh là hàng trăm người Việt sau đó vài năm đã chết thê thảm trong những cuộc thanh trừng bắn giết lẫn nhau để dành giật miếng sống. Không có món lợi nào chỉ có sự được. Nhất là khi món lợi ấy xuất phát từ phưng thức trốn tránh pháp luật.
    Nhưng một mặt khác, sau này , theo thời gian, người Việt cũng dần nhận ra rằng, muốn tồn tại làm ăn trong một xã hội ổn định và sống theo luật pháp thì người ta cũng phi sống có luật pháp. Chỉ sau ba bốn năm, trật tự bán buôn và bán lẻ của người Việt dần theo xu hướng công khai, có đăng kí tại sở thuế để chịu sự kiểm soát của luật pháp. Và chính điều ấy cũng giúp họ sống an toàn hơn bởi xã hội đen chính là con đẻ của tình trạng làm ăn phi pháp mà ra. Điều này tôi xin trở lại kỹ ở phần sau.
  6. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0
    2- Buôn bán và số phận?
    Ban đầu, sau thời kì buôn bán trao tay nói trên, người ta phát hiện tại Berlin có dăm cửa hàng Thổ chuyên bán những thứ hàng vặt vãnh đã kể. Những nhà buôn Anh, Thổ, kiều dân Nga sau khi bức tường vừa sụp đổ, sống tại phía tây đã nhậy cảm nhận thấy lực lượng bán lẻ Việt Nam thực cần cù và hùng hậu. Lập tức nhiều cửa hàng bán buôn xuất hiện cung cấp vài mặt hàng cho người Việt bán lẻ. Khắp nước Đức người Việt ùn ùn kéo về Berlin khuân đi hàng kiện quần áo len mỏng, khăn trải bàn ni lon, những thùng các tông đồng hồ, súng điện tử trẻ con, pin các loại, cả máy nghe băng rẻ tiền v..v?Phải nói rằng, qua khâu bán lẻ của người Việt khi ấy mới thấy hết sự thảm hại của nền kinh tế đóng cửa quá trì trệ, chủng loại hàng hóa tiêu dùng đơn điệu, rất kém về mẫu mã và hình thức so với phía Tây. Nhất là sau khi đổi tiền, lúc mà những vòi bạch tuộc của những nhà kinh doanh phía Tây chưa nhanh nhậy nắm bắt thị trường béo bở phía đông Đức cũ. Rất nhiều người Việt đã kiếm vài chục ngàn đô Mỹ qua hai ba tháng buôn bán vặt vãnh như thế. Người ta bất chấp chất lượng, ùn ùn khuân về nơi địa phương họ lao động những lô hàng áo len chất lượng thấp kém, nhưng dáng kiểu tân thời, hoặc lỗi mốt phía Tây nhưng lại là ?olần đầu nhìn thấy? ở phía Đông, từ Anh, ý, Pháp nhập về qua nhiều luồng.
    Thời kỳ ấy, chỉ cần một cái bàn dài ba mét, bầy lên đó bất cứ cái gì cũng chỉ sau nửa ngày là hết vèo! Những dịp lễ hội, như Noel hay ngay lễ trứng, một người Việt chậm chạp ù lì nhất, cũng có thể kiếm cả năm sáu trăm Dm một buổi chợ, bỏ túi như bỡn cợt!
    Thực tế là khi ấy, trong hàng trăm chuyến bay, cả khi cấp tập mở vội cầu hàng không Berlin-Hà Nội để ném những thợ khách Việt Nam trở lại quê hương, đã không ít người mang theo được một số tiền mà khi đó cả đời nằm mơ cũng không thấy. Bây giờ, khi nhớ lại, người Việt tại Đức gọi đó là thời kỳ xúc vàng của họ.
    Theo hiệp định giữa hai nhà nước, Đức và Việt, thợ khách Việt được phép ở lại Đức bấy giờ sấp sỉ hai vạn người. Tất nhiên, họ là những người đầu tiên thất nghiệp khi nhà nước kinh tế thị trường Tây Đức chiến thắng nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Chính vì lẽ đó, tới 90 % số người Việt ở lại tiếp tục xông pha gió tuyết trên hè phố, trên các khu chợ cuối tuần mở giữa trời để tồn tại. Sự khai thác hàng hóa kiểu cò con từ mấy nhà buôn Thổ, Pa Kit Tăng, Nga chấm dứt, khi nhiều người buôn lớn hơn ở nước ngoài nhận ra thị trường béo bở tại Đông Đức, mà đội quân bán lẻ người Việt tuy ô hợp nhưng chăm chỉ hạt bột, rất nhậy cảm và thực đông đảo đã làm tốt vai trò một mắt xích quan trọng, đắc lực, phát huy tác dụng rất hiệu quả trong việc lưu thông phân phối hàng hóa ở khâu bán lẻ.
    Cạnh đội tôi ở có người đội phó phiên dịch tên là H. Trước đó hắn còn phải vay tiền be bét để đóng hòm gửi về Việt Nam. Một ngày đẹp trời, hắn lang thang đi kiếm nguồn hàng vô tình gặp phải một nhà buôn quần áo may mặc sẵn người Pa kít tăng chuyên đánh hàng về từ Anh. Lập tức gã bí mật chuyên chở như điên dăm ô tô hàng về giao lại cho người Việt ngay tại khu tập thể hắn ở. Vụ hè năm ấy, mỗi tuần hắn giao cỡ cả ngàn chiếc áo sơ mi mà đa phần số đo rộng thùng thình giành cho các bà béo ngoại cỡ. Mỗi cái áo bán được chỉ lãi ba đồng Mark. Vị chi người ngu cũng tính được rằng, cả vụ năm ấy hắn ẵm trọn hơn ba trăm ngàn Dm từ cái duyên nói trên. H bây giờ trở thành một đại gia từ như thế. Gã có trong tay hai trung tâm bán buôn tại Berlin và Hale, dăm cửa hàng bán lẻ và bán buôn nữa. Có nghĩa là từ kẻ nghèo như nhiều người hôm nào, hắn hôm nay, có thể xúc đùa một tháng vài cân kí lô vàng ròng!
    Sự hình thành mạng lưới bán buôn của người Việt hoà toàn tự phát và từng bước chuyển đổi theo thời gian bằng chính kinh nghiệm sống, chứ đa số trong họ không có kiến thức kinh doanh từ trước khi đi lao động xuất khẩu. Từ việc lập ra những nơi chỉ dăm cửa hàng bán buôn phân tán khắp nước Đức, người Việt bắt chước nhau dựng nhanh những khu bán buôn sang trọng và sầm uất như khi Rihn Str 100 hôm nay mà tổng giá trị hàng hóa lưu chuyển tới vài trăm triệu US hàng năm.
    Ngày nay những đại gia tại Đức không chỉ bán buôn quần áo. Và chất lượng hàng hóa cũng được đặc biệt chú trọng để cạnh tranh lại với mạng lưới bán lẻ đã lâu đời của Đức. Tại những trung tâm bán buôn từ thủ đô Đức cho tới Hale hay Leisich, bạn có thể mua ở đấy để bán lẻ từ mớ rau cho tới miếng đậu phụ hay gói mì và cả ngàn mặt hàng bách hóa, điện dân dụng, điện thoại cầm tay moden v..v?. Và nếu cần, bạn có thể đặt hàng, những món ăn dân tộc hôi hổi mang tới từ chuyến bay siêu thanh gần nhất. Cũng không chỉ một nguồn hàng đơn điệu như xưa. Người Việt đã lần mò ra rất nhiều mối hàng từ khắp nơi trên thế giới và khống chế hoàn toàn các khu bán buôn này. Không như ở Nga hay Ba Lan?, người Việt bán buôn bị người Hoa chèn lấn và ép vía. Cộng đồng bán buôn tại Đức đủ kinh nghiệm và sức mạnh vẫn đang làm chủ trận chiến, dẫu là đám bán buôn người Trung Hoa đã đặt chân tại đây từ khi trước khi Honkon trở về tay Trung Hoa lục địa, thèm khát vô cùng trước mặt trận béo bở này mà đến hôm nay vẫn bó tay nem nép vài quầy hàng trong các trung tâm bán buôn tại Đức.
    Sự phát triển của hệ thống bán buôn thực chất bởi sự thúc đẩy từ hệ thống bán lẻ của người Việt tại khắp nước Đức. Suốt hơn chục năm qua, từ tư cách thợ khách chăm chỉ trong xưởng thợ, người Việt trở thành người bán hàng rong cần mẫn không biết tới một ngày nghỉ trong năm trên khắp các xó xỉnh ở địa phần đông Đức. Mười làm năm trôi qua rồi, nhiều người bán lẻ đã cố gắng làm ăn và ít nhiều có chút ít tiền phòng khi bất trắc; Cũng có người từ bán lẻ, vượt lên xoay chuyển bán buôn hay ngành khác mang lại hiệu quả bất ngờ và đầu tư cả nhà máy sản xuất ngay tại quê hương họ ở Việt Nam trị giá cả triệu US. Nhưng có nhiều người trong số họ, do thiếu kinh nghiệm chống lạnh, dù thành đạt hay chưa, khi đã để buốt đôi chân thời họ đi chợ trời chợ sớm, tới nay khi đã về chiều đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe. Có người thường bị đau lưng, nhức vai; có người bị phù thận và chả thiếu kẻ trở về với cát bụi, trong lọ tro bay trở lại quê nhà, để lại không ít đồng tiền ngấm đầy mồ hôi và nhiều đau khổ của thân phận tha hương!
    Nhiều người trong họ ít nhiều khi đã có tích lũy đã mang tiền về Việt Nam để mua nhà mua cửa, hoặc về hẳn kinh doanh ngay tại quê hương. Song có số ít người quyết định ở lại dài lâu, đã mua nhà mua đất. Giá trị bất động sản này, giao động từ ba bốn trăm ngàn Eu tới cả triệu tùy theo khả năng tài chính hay khả năng vay ngân hàng trả dần của từng cá thể. Nhưng thực tế con số này rất ít trong số những người thợ khách
    Tại Đức có bốn đại gia là nữ. Từ bán lẻ rồi chuyển nhanh sang bán buôn có đại gia M, tài sản không thể lường được. Chị nhanh nhậy và đầu tư cả khách sạn khá hiện đại tại Hàng Bông ngay từ thời Hà Nội những năm đầu 90 chư acó nhiều nững khách sạn có cầu thang máy hiện đại. Năm kia chị gặp hạn, bị trôi tuột cả triệu US mà khi gặp tôi vẫn nhởn nhơ như không! Một đại gia nữa kinh doanh chợ, khu trung tâm bán buôn Gê len dê ngay từ thời mấy đấng mày râu còn ngu ngơ như bò đội nón về lĩnh vực này. Nhưng thành đạt hơn cả phải tính tới cử nhân luật Minh Tâm. Vốn xuất thân từ thành phần quý tộc tại Việt Nam, chị là một phụ nữ vừa đẹp vừa sắc sảo và có thần kinh như thép. Hơn chục năm gom góp cơ đồ, phát triển từ một quán ăn nhanh bên nhà ga tại đông Berlin. Minh Tâm hôm nay là một doanh nghiệp có trong tay cả hơn hai chục quán ăn nhanh sang trọng, thiết kế mầu sắc rất Châu á tại các Zentrum hiện đại vừa xây cất ở nhiều trung tâm và nhà ga đầu mối. Hiện tại, công ty của chị đang thò vòi chiếm lĩnh trên thị trường phía Tây. Chị đang có kế hoạch trở thành nhà sản xuất chế biến vịt với quy mô vừa, đáp ứng một nhu cầu lớn của ngành ăn uống tại cả Âu Châu! Những con người như thế, bằng sự nhậy cảm tinh tế với thời cuộc, bằng cả nghị lực và sự liều lĩnh cần thiết khi làm ăn lớn, đã vượt qua những năm tháng làm ăn ấu trĩ, đã hòa nhập vào thế giới kinh doanh hợp pháp tại Châu Âu hiện tại và tương lai. Sự thành đạt của họ cả nam và nữ làm vinh danh cho người Việt lao động (đã có vài doanh nhân được các đài truyền hình Đức chú ý và giới thiệu cho công chúng Đức) và tạo ra không ít công ăn việc làm cho đồng bào của mình dẫu khi, đã là chủ, tất yếu khi nào đã là ông bà chủ, ít nhiều cũng mang theo cả sự nghiệt ngã trong kinh doanh, đôi khi có cảm giác tới khắt khe tưởng như rơi vãi chút tình quê!
    Nhưng trong số đội quân bán lẻ đông đúc thủa hàn vi ấy, không thiếu kẻ vì nhiều nguyên nhân không những thua thiệt nhiều mặt mà vẫn tay trắng hoàn tay trắng . Có kẻ tan nát gia đình, trở thành lang bạt kì hồ, trong tài khoản nhiều khi âm. Có kẻ lên voi xuống chó chỉ vì khi có ít tiền chui vào Casino nướng tới cháy túi cả triệu Dm để hôm nay vật vờ như cái xác cô hồn thương nuối một thời xông xênh. Có người như số phận định đoạt ngoài tầm nỗ lực bản thân. Đ là một cán bộ cảnh sát sang Đức từ 88 rất ít khi gặp may dẫu là anh rất chăm chỉ cần cù.lao động. Hơn chục năm anh về phép hai lần để ?tìm vợ. Cưới được vợ chưa hết tuần trăng mật, Đ bán phá giá cửa hàng bán lẻ lỗ nặng, để nợ đầm đìa. Hơn mười năm sương gió, Đ hôm nay quắt queo như như bộ xương còn dính chút da thịt vì bại thận(?) Anh hoàn toàn mất sức lao động, hàng tuần phải lọc máu chờ về với tổ tiên và nhìn đời bằng đôi mắt u hoài không bút nào nói hết. H là một kỹ sư được đào tạo ở Đức hẳn hoi quê xứ nghệ. Thương nhớ vùng đất nghèo xác toàn sỏi đá hoa mua có gia đình của vợ con, anh tiết kiệm tới không giám mua cả củi sưởi. Mỗi lần phép là một túi nặng chịch cả ba bốn trăm hộp cao con hổ Sao Vàng, để mỗi tối một hộp xoa khắp người, chui vào chăn chống lại cái lạnh tới âm mười độ trong phòng! Anh chưa bao giờ có miếng ăn miếng để. Khỉ thực, những người như thế chẳng mấy ai giầu và ráo mồ hôi là hết tiền!
    Rất nhiều gia đình người Việt sau biến động của sự đổi tiền mới Euro, khi sức mua tại Đức giảm quá nhanh đã tạo thành giây chuyền phá sản trong kinh doanh bán lẻ áo quần của người Việt. Nhiều người đành giã từ vũ khí sang Tây Đức làm thuê cho những công xưởng mà người Đức chả ham hố bao giờ. Bạn vợ tôi là một người như thế trong số họ. Chị kể, em hàng ngày có mặt hơn mười tiếng trong nhà lạnh, xẻ thịt những chú gà tây khổng lồ, có con tới gần 50 kí lô. Nhà lạnh phải âm 40 độ để bảo quản thịt. Xa nhau một năm gặp lại, chị từ một người phụ nữ còn mởn mai mai đào, nay da dẻ săn lại nhăn nheo. Lớp da mặt khô xác bởi không thể làm quen với độ lạnh khô chưa khi nào hợp với người gốc xứ nhiệt đới, nguy hiểm cho sức khỏe hơn cả cái lạnh tự nhiên Nam hay Bắc cực.
    Người ta không thể biết rằng, có nhiều kẻ cả hơn mười năm nay về phép với cha mẹ ở Việt Nam chỉ một lần, thậm chí chưa một lần. Ai có thấu cho họ rằng, bên những điều giả, thật xông xênh của đám Việt Kiều khi về nước, có những chuyến về mà sau đó là cái gánh nặng tới oằn vai vì nợ nần nơi xứ người chỉ vì quà cáp, vì sĩ diện, vì nhiều khi phải bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng ở vài cuộc chơi đẹp với đám bạn bè cũ.
    Cho tới hôm nay, có thể nhận ra có nhiều cách kiếm sống trong kinh doanh quy mô nhỏ tại Đức còn tồn tại. Nó giống như một làng Việt Nam thu nhỏ tại xứ người. Đa phần còn buôn bán lẻ quần áo, tất ấm các loại và đồ tạp hóa. Một số người xoay ra bán hoa và trái cây. Một bộ phận tới 25% kinh doanh hàng ăn, còn lại số rất ít là những nhà chế biến các món ăn quê hương như đậu, giò, chả, chè sôi, phở và vài chục quầy cắt tóc, gội đầu. Ngành dịch vụ có phiên dịch, du lịch, bán vé máy bay, chữa xe ô tô, bảo hiểm và chỉ chỏ các loại. Đây là một bộ phận nhiều khi ăn trắng mặc trơn, khi nào cũng óng ả và máy tính sách tay, điện thoại di động run rảy liên miên trong túi áo! Tất nhiên nghề nào cũng có cái khó nhọc của nó, nhưng dù sao họ cũng tránh được cái đối mặt với thiên nhiên tuyết gió, những con đường nhầy nhụa mồ hôi và tuyết trắng, nhất là khi trực diện nơi chợ trời với lũ choai choai đầu trọc sẵn sàng nhẩy sổ vào bạn và đấm đá bằng những chiếc gầy cao cổ da dầy, đen sì cùng với chiếc gậy đánh bóng chày chỉ vướng một đòn là nhớ đến suốt đời!
    Cách nhà xuất bản Hội Nhà Văn, phố Nguyễn Du không xa có quầy điện tử ăn dỗ trẻ con của anh bạn tôi đã từ bỏ thế giới vàng về với mẹ. Anh bán hàng như tôi tại bãi đỗ ô tô tại thị trấn Teltow. Một ngày tháng năm gió nhẹ, nắng he năm ấy, anh bị bốn thanh niên cao lớn, nặng cả tạ, từ đâu lao đến trên một chiếc xe, không nói một câu đánh Hùng một trận đòn chí tử. Người bạn ấy, xưa đã từng chiến đấu ở binh chủng đặc biệt trên phía Bắc, cắn răng chịu đòn và đánh trả không lại với bốn người. Chúng cướp đi hơn bẩy trăm D tiền hàng và để lại anh ngất lịm trên hè phố... Tôi mang anh từ sở công an thành phố, về dìm vào bể tắm pha nước gừng và muối. Bồn nuớc hồng lên vì máu. Hùng, sau đó nhiều khi chẳng nhớ lại một cách cụ thể điều gì. Bây giờ gặp lại, nước Đức với anh, nhiều kỷ niệm vừa vui vừa buồn, vừa hạnh phúc vừa khốn nạn bởi những thế lực khủng bố còn như nhọt bọc làm nhức nhối bao người dân lương thiện.
    Cuộc di dời dân xuất khẩu lao động tại Đức mang lại rất nhiều quyền lợi tính bằng tiền cho nhiều gia đình người Việt, nhưng từ đặc thù trong kiếp tha hương khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, trong sự cô đơn tới cùng cực và cần phải liên kết để sống, nhiều mối tình đã nảy nở ngay trong lòng những người đã có gia đình. Chính điều ấy đã gây nên biết bao bi kịch cho rất nhiều con người và phá vỡ hạnh phúc cũ. Tôi đã hỏi chuyện rất nhiều chị em phụ nữ, hàng ngàn gia đình và hàng ngàn đứa trẻ đã sống trong cảnh li tán. Bên cạnh sự phê phán về tính chung thủy của người đàn bà Việt khi xa xứ, nhiều nhà văn đã vội vã thường đổ tất cả lên đầu chị em, khi lấy họ xây dựng nhân vật tiêu cực. Phải chăng, người ta cũng nên lưu tâm, rằng phải xét tới hoàn cảnh nghiệt ngã khi phải nai lưng ra kiếm sống để gửi tiền về nuôi chồng con nơi quê nhà! Và, chính hoàn cảnh thân cô thế cô ấy đã đẩy nhiều chị em tới điều họ hoàn toàn không muốn và ham hố. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự tan vỡ, chia lìa của nhiều gia đình có vợ con đi Đức của ngày hôm qua và xét tới cùng, đại đa số, người đau khổ nhất trên đời trong bi kịch này luôn luôn bao giờ vẫn là người đàn bà. Mấy ai hiểu thấu cho họ? Những dòng sông nước mắt nơi đất khách khi tôi ngồi với chị T, một phụ nữ ngay tại khu Rihn Str ăm ắp tiền, hàng quanh chị, khi chị kể cho tôi nghe về cuộc: đi trở lại mắc núi, về trở lại mắc sông, sau hơn chục năm lăn lộn, để đổi lấy đồng tiền mầu xanh có in hình tổng thống Hoa Kỳ, hàng năm gửi về Việt Nam nuôi hai con ăn học nên người và ít nhiều cho người chồng chưa khi nào phải lo tới vật chất?! Và sau cả sự đổ vỡ thứ nhất ấy, không thiếu gì nhiều sự đổ vỡ kế tiếp để tạo nên sự nhắc nhớ về biết bao thân phận nàng Kiều, những cô gái đáng yêu Việt Nam vốn dĩ yếu mềm, trên đất Đức, đất Nga, Tiệp trong cuộc tha phương cầu thực lắm nỗi truân chuyên này!
    Được B.Fut sửa chữa / chuyển vào 08:54 ngày 01/11/2003
  7. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0
    2- Buôn bán và số phận?
    Ban đầu, sau thời kì buôn bán trao tay nói trên, người ta phát hiện tại Berlin có dăm cửa hàng Thổ chuyên bán những thứ hàng vặt vãnh đã kể. Những nhà buôn Anh, Thổ, kiều dân Nga sau khi bức tường vừa sụp đổ, sống tại phía tây đã nhậy cảm nhận thấy lực lượng bán lẻ Việt Nam thực cần cù và hùng hậu. Lập tức nhiều cửa hàng bán buôn xuất hiện cung cấp vài mặt hàng cho người Việt bán lẻ. Khắp nước Đức người Việt ùn ùn kéo về Berlin khuân đi hàng kiện quần áo len mỏng, khăn trải bàn ni lon, những thùng các tông đồng hồ, súng điện tử trẻ con, pin các loại, cả máy nghe băng rẻ tiền v..v?Phải nói rằng, qua khâu bán lẻ của người Việt khi ấy mới thấy hết sự thảm hại của nền kinh tế đóng cửa quá trì trệ, chủng loại hàng hóa tiêu dùng đơn điệu, rất kém về mẫu mã và hình thức so với phía Tây. Nhất là sau khi đổi tiền, lúc mà những vòi bạch tuộc của những nhà kinh doanh phía Tây chưa nhanh nhậy nắm bắt thị trường béo bở phía đông Đức cũ. Rất nhiều người Việt đã kiếm vài chục ngàn đô Mỹ qua hai ba tháng buôn bán vặt vãnh như thế. Người ta bất chấp chất lượng, ùn ùn khuân về nơi địa phương họ lao động những lô hàng áo len chất lượng thấp kém, nhưng dáng kiểu tân thời, hoặc lỗi mốt phía Tây nhưng lại là ?olần đầu nhìn thấy? ở phía Đông, từ Anh, ý, Pháp nhập về qua nhiều luồng.
    Thời kỳ ấy, chỉ cần một cái bàn dài ba mét, bầy lên đó bất cứ cái gì cũng chỉ sau nửa ngày là hết vèo! Những dịp lễ hội, như Noel hay ngay lễ trứng, một người Việt chậm chạp ù lì nhất, cũng có thể kiếm cả năm sáu trăm Dm một buổi chợ, bỏ túi như bỡn cợt!
    Thực tế là khi ấy, trong hàng trăm chuyến bay, cả khi cấp tập mở vội cầu hàng không Berlin-Hà Nội để ném những thợ khách Việt Nam trở lại quê hương, đã không ít người mang theo được một số tiền mà khi đó cả đời nằm mơ cũng không thấy. Bây giờ, khi nhớ lại, người Việt tại Đức gọi đó là thời kỳ xúc vàng của họ.
    Theo hiệp định giữa hai nhà nước, Đức và Việt, thợ khách Việt được phép ở lại Đức bấy giờ sấp sỉ hai vạn người. Tất nhiên, họ là những người đầu tiên thất nghiệp khi nhà nước kinh tế thị trường Tây Đức chiến thắng nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Chính vì lẽ đó, tới 90 % số người Việt ở lại tiếp tục xông pha gió tuyết trên hè phố, trên các khu chợ cuối tuần mở giữa trời để tồn tại. Sự khai thác hàng hóa kiểu cò con từ mấy nhà buôn Thổ, Pa Kit Tăng, Nga chấm dứt, khi nhiều người buôn lớn hơn ở nước ngoài nhận ra thị trường béo bở tại Đông Đức, mà đội quân bán lẻ người Việt tuy ô hợp nhưng chăm chỉ hạt bột, rất nhậy cảm và thực đông đảo đã làm tốt vai trò một mắt xích quan trọng, đắc lực, phát huy tác dụng rất hiệu quả trong việc lưu thông phân phối hàng hóa ở khâu bán lẻ.
    Cạnh đội tôi ở có người đội phó phiên dịch tên là H. Trước đó hắn còn phải vay tiền be bét để đóng hòm gửi về Việt Nam. Một ngày đẹp trời, hắn lang thang đi kiếm nguồn hàng vô tình gặp phải một nhà buôn quần áo may mặc sẵn người Pa kít tăng chuyên đánh hàng về từ Anh. Lập tức gã bí mật chuyên chở như điên dăm ô tô hàng về giao lại cho người Việt ngay tại khu tập thể hắn ở. Vụ hè năm ấy, mỗi tuần hắn giao cỡ cả ngàn chiếc áo sơ mi mà đa phần số đo rộng thùng thình giành cho các bà béo ngoại cỡ. Mỗi cái áo bán được chỉ lãi ba đồng Mark. Vị chi người ngu cũng tính được rằng, cả vụ năm ấy hắn ẵm trọn hơn ba trăm ngàn Dm từ cái duyên nói trên. H bây giờ trở thành một đại gia từ như thế. Gã có trong tay hai trung tâm bán buôn tại Berlin và Hale, dăm cửa hàng bán lẻ và bán buôn nữa. Có nghĩa là từ kẻ nghèo như nhiều người hôm nào, hắn hôm nay, có thể xúc đùa một tháng vài cân kí lô vàng ròng!
    Sự hình thành mạng lưới bán buôn của người Việt hoà toàn tự phát và từng bước chuyển đổi theo thời gian bằng chính kinh nghiệm sống, chứ đa số trong họ không có kiến thức kinh doanh từ trước khi đi lao động xuất khẩu. Từ việc lập ra những nơi chỉ dăm cửa hàng bán buôn phân tán khắp nước Đức, người Việt bắt chước nhau dựng nhanh những khu bán buôn sang trọng và sầm uất như khi Rihn Str 100 hôm nay mà tổng giá trị hàng hóa lưu chuyển tới vài trăm triệu US hàng năm.
    Ngày nay những đại gia tại Đức không chỉ bán buôn quần áo. Và chất lượng hàng hóa cũng được đặc biệt chú trọng để cạnh tranh lại với mạng lưới bán lẻ đã lâu đời của Đức. Tại những trung tâm bán buôn từ thủ đô Đức cho tới Hale hay Leisich, bạn có thể mua ở đấy để bán lẻ từ mớ rau cho tới miếng đậu phụ hay gói mì và cả ngàn mặt hàng bách hóa, điện dân dụng, điện thoại cầm tay moden v..v?. Và nếu cần, bạn có thể đặt hàng, những món ăn dân tộc hôi hổi mang tới từ chuyến bay siêu thanh gần nhất. Cũng không chỉ một nguồn hàng đơn điệu như xưa. Người Việt đã lần mò ra rất nhiều mối hàng từ khắp nơi trên thế giới và khống chế hoàn toàn các khu bán buôn này. Không như ở Nga hay Ba Lan?, người Việt bán buôn bị người Hoa chèn lấn và ép vía. Cộng đồng bán buôn tại Đức đủ kinh nghiệm và sức mạnh vẫn đang làm chủ trận chiến, dẫu là đám bán buôn người Trung Hoa đã đặt chân tại đây từ khi trước khi Honkon trở về tay Trung Hoa lục địa, thèm khát vô cùng trước mặt trận béo bở này mà đến hôm nay vẫn bó tay nem nép vài quầy hàng trong các trung tâm bán buôn tại Đức.
    Sự phát triển của hệ thống bán buôn thực chất bởi sự thúc đẩy từ hệ thống bán lẻ của người Việt tại khắp nước Đức. Suốt hơn chục năm qua, từ tư cách thợ khách chăm chỉ trong xưởng thợ, người Việt trở thành người bán hàng rong cần mẫn không biết tới một ngày nghỉ trong năm trên khắp các xó xỉnh ở địa phần đông Đức. Mười làm năm trôi qua rồi, nhiều người bán lẻ đã cố gắng làm ăn và ít nhiều có chút ít tiền phòng khi bất trắc; Cũng có người từ bán lẻ, vượt lên xoay chuyển bán buôn hay ngành khác mang lại hiệu quả bất ngờ và đầu tư cả nhà máy sản xuất ngay tại quê hương họ ở Việt Nam trị giá cả triệu US. Nhưng có nhiều người trong số họ, do thiếu kinh nghiệm chống lạnh, dù thành đạt hay chưa, khi đã để buốt đôi chân thời họ đi chợ trời chợ sớm, tới nay khi đã về chiều đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe. Có người thường bị đau lưng, nhức vai; có người bị phù thận và chả thiếu kẻ trở về với cát bụi, trong lọ tro bay trở lại quê nhà, để lại không ít đồng tiền ngấm đầy mồ hôi và nhiều đau khổ của thân phận tha hương!
    Nhiều người trong họ ít nhiều khi đã có tích lũy đã mang tiền về Việt Nam để mua nhà mua cửa, hoặc về hẳn kinh doanh ngay tại quê hương. Song có số ít người quyết định ở lại dài lâu, đã mua nhà mua đất. Giá trị bất động sản này, giao động từ ba bốn trăm ngàn Eu tới cả triệu tùy theo khả năng tài chính hay khả năng vay ngân hàng trả dần của từng cá thể. Nhưng thực tế con số này rất ít trong số những người thợ khách
    Tại Đức có bốn đại gia là nữ. Từ bán lẻ rồi chuyển nhanh sang bán buôn có đại gia M, tài sản không thể lường được. Chị nhanh nhậy và đầu tư cả khách sạn khá hiện đại tại Hàng Bông ngay từ thời Hà Nội những năm đầu 90 chư acó nhiều nững khách sạn có cầu thang máy hiện đại. Năm kia chị gặp hạn, bị trôi tuột cả triệu US mà khi gặp tôi vẫn nhởn nhơ như không! Một đại gia nữa kinh doanh chợ, khu trung tâm bán buôn Gê len dê ngay từ thời mấy đấng mày râu còn ngu ngơ như bò đội nón về lĩnh vực này. Nhưng thành đạt hơn cả phải tính tới cử nhân luật Minh Tâm. Vốn xuất thân từ thành phần quý tộc tại Việt Nam, chị là một phụ nữ vừa đẹp vừa sắc sảo và có thần kinh như thép. Hơn chục năm gom góp cơ đồ, phát triển từ một quán ăn nhanh bên nhà ga tại đông Berlin. Minh Tâm hôm nay là một doanh nghiệp có trong tay cả hơn hai chục quán ăn nhanh sang trọng, thiết kế mầu sắc rất Châu á tại các Zentrum hiện đại vừa xây cất ở nhiều trung tâm và nhà ga đầu mối. Hiện tại, công ty của chị đang thò vòi chiếm lĩnh trên thị trường phía Tây. Chị đang có kế hoạch trở thành nhà sản xuất chế biến vịt với quy mô vừa, đáp ứng một nhu cầu lớn của ngành ăn uống tại cả Âu Châu! Những con người như thế, bằng sự nhậy cảm tinh tế với thời cuộc, bằng cả nghị lực và sự liều lĩnh cần thiết khi làm ăn lớn, đã vượt qua những năm tháng làm ăn ấu trĩ, đã hòa nhập vào thế giới kinh doanh hợp pháp tại Châu Âu hiện tại và tương lai. Sự thành đạt của họ cả nam và nữ làm vinh danh cho người Việt lao động (đã có vài doanh nhân được các đài truyền hình Đức chú ý và giới thiệu cho công chúng Đức) và tạo ra không ít công ăn việc làm cho đồng bào của mình dẫu khi, đã là chủ, tất yếu khi nào đã là ông bà chủ, ít nhiều cũng mang theo cả sự nghiệt ngã trong kinh doanh, đôi khi có cảm giác tới khắt khe tưởng như rơi vãi chút tình quê!
    Nhưng trong số đội quân bán lẻ đông đúc thủa hàn vi ấy, không thiếu kẻ vì nhiều nguyên nhân không những thua thiệt nhiều mặt mà vẫn tay trắng hoàn tay trắng . Có kẻ tan nát gia đình, trở thành lang bạt kì hồ, trong tài khoản nhiều khi âm. Có kẻ lên voi xuống chó chỉ vì khi có ít tiền chui vào Casino nướng tới cháy túi cả triệu Dm để hôm nay vật vờ như cái xác cô hồn thương nuối một thời xông xênh. Có người như số phận định đoạt ngoài tầm nỗ lực bản thân. Đ là một cán bộ cảnh sát sang Đức từ 88 rất ít khi gặp may dẫu là anh rất chăm chỉ cần cù.lao động. Hơn chục năm anh về phép hai lần để ?tìm vợ. Cưới được vợ chưa hết tuần trăng mật, Đ bán phá giá cửa hàng bán lẻ lỗ nặng, để nợ đầm đìa. Hơn mười năm sương gió, Đ hôm nay quắt queo như như bộ xương còn dính chút da thịt vì bại thận(?) Anh hoàn toàn mất sức lao động, hàng tuần phải lọc máu chờ về với tổ tiên và nhìn đời bằng đôi mắt u hoài không bút nào nói hết. H là một kỹ sư được đào tạo ở Đức hẳn hoi quê xứ nghệ. Thương nhớ vùng đất nghèo xác toàn sỏi đá hoa mua có gia đình của vợ con, anh tiết kiệm tới không giám mua cả củi sưởi. Mỗi lần phép là một túi nặng chịch cả ba bốn trăm hộp cao con hổ Sao Vàng, để mỗi tối một hộp xoa khắp người, chui vào chăn chống lại cái lạnh tới âm mười độ trong phòng! Anh chưa bao giờ có miếng ăn miếng để. Khỉ thực, những người như thế chẳng mấy ai giầu và ráo mồ hôi là hết tiền!
    Rất nhiều gia đình người Việt sau biến động của sự đổi tiền mới Euro, khi sức mua tại Đức giảm quá nhanh đã tạo thành giây chuyền phá sản trong kinh doanh bán lẻ áo quần của người Việt. Nhiều người đành giã từ vũ khí sang Tây Đức làm thuê cho những công xưởng mà người Đức chả ham hố bao giờ. Bạn vợ tôi là một người như thế trong số họ. Chị kể, em hàng ngày có mặt hơn mười tiếng trong nhà lạnh, xẻ thịt những chú gà tây khổng lồ, có con tới gần 50 kí lô. Nhà lạnh phải âm 40 độ để bảo quản thịt. Xa nhau một năm gặp lại, chị từ một người phụ nữ còn mởn mai mai đào, nay da dẻ săn lại nhăn nheo. Lớp da mặt khô xác bởi không thể làm quen với độ lạnh khô chưa khi nào hợp với người gốc xứ nhiệt đới, nguy hiểm cho sức khỏe hơn cả cái lạnh tự nhiên Nam hay Bắc cực.
    Người ta không thể biết rằng, có nhiều kẻ cả hơn mười năm nay về phép với cha mẹ ở Việt Nam chỉ một lần, thậm chí chưa một lần. Ai có thấu cho họ rằng, bên những điều giả, thật xông xênh của đám Việt Kiều khi về nước, có những chuyến về mà sau đó là cái gánh nặng tới oằn vai vì nợ nần nơi xứ người chỉ vì quà cáp, vì sĩ diện, vì nhiều khi phải bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng ở vài cuộc chơi đẹp với đám bạn bè cũ.
    Cho tới hôm nay, có thể nhận ra có nhiều cách kiếm sống trong kinh doanh quy mô nhỏ tại Đức còn tồn tại. Nó giống như một làng Việt Nam thu nhỏ tại xứ người. Đa phần còn buôn bán lẻ quần áo, tất ấm các loại và đồ tạp hóa. Một số người xoay ra bán hoa và trái cây. Một bộ phận tới 25% kinh doanh hàng ăn, còn lại số rất ít là những nhà chế biến các món ăn quê hương như đậu, giò, chả, chè sôi, phở và vài chục quầy cắt tóc, gội đầu. Ngành dịch vụ có phiên dịch, du lịch, bán vé máy bay, chữa xe ô tô, bảo hiểm và chỉ chỏ các loại. Đây là một bộ phận nhiều khi ăn trắng mặc trơn, khi nào cũng óng ả và máy tính sách tay, điện thoại di động run rảy liên miên trong túi áo! Tất nhiên nghề nào cũng có cái khó nhọc của nó, nhưng dù sao họ cũng tránh được cái đối mặt với thiên nhiên tuyết gió, những con đường nhầy nhụa mồ hôi và tuyết trắng, nhất là khi trực diện nơi chợ trời với lũ choai choai đầu trọc sẵn sàng nhẩy sổ vào bạn và đấm đá bằng những chiếc gầy cao cổ da dầy, đen sì cùng với chiếc gậy đánh bóng chày chỉ vướng một đòn là nhớ đến suốt đời!
    Cách nhà xuất bản Hội Nhà Văn, phố Nguyễn Du không xa có quầy điện tử ăn dỗ trẻ con của anh bạn tôi đã từ bỏ thế giới vàng về với mẹ. Anh bán hàng như tôi tại bãi đỗ ô tô tại thị trấn Teltow. Một ngày tháng năm gió nhẹ, nắng he năm ấy, anh bị bốn thanh niên cao lớn, nặng cả tạ, từ đâu lao đến trên một chiếc xe, không nói một câu đánh Hùng một trận đòn chí tử. Người bạn ấy, xưa đã từng chiến đấu ở binh chủng đặc biệt trên phía Bắc, cắn răng chịu đòn và đánh trả không lại với bốn người. Chúng cướp đi hơn bẩy trăm D tiền hàng và để lại anh ngất lịm trên hè phố... Tôi mang anh từ sở công an thành phố, về dìm vào bể tắm pha nước gừng và muối. Bồn nuớc hồng lên vì máu. Hùng, sau đó nhiều khi chẳng nhớ lại một cách cụ thể điều gì. Bây giờ gặp lại, nước Đức với anh, nhiều kỷ niệm vừa vui vừa buồn, vừa hạnh phúc vừa khốn nạn bởi những thế lực khủng bố còn như nhọt bọc làm nhức nhối bao người dân lương thiện.
    Cuộc di dời dân xuất khẩu lao động tại Đức mang lại rất nhiều quyền lợi tính bằng tiền cho nhiều gia đình người Việt, nhưng từ đặc thù trong kiếp tha hương khi tiếp xúc với nền văn hóa khác, trong sự cô đơn tới cùng cực và cần phải liên kết để sống, nhiều mối tình đã nảy nở ngay trong lòng những người đã có gia đình. Chính điều ấy đã gây nên biết bao bi kịch cho rất nhiều con người và phá vỡ hạnh phúc cũ. Tôi đã hỏi chuyện rất nhiều chị em phụ nữ, hàng ngàn gia đình và hàng ngàn đứa trẻ đã sống trong cảnh li tán. Bên cạnh sự phê phán về tính chung thủy của người đàn bà Việt khi xa xứ, nhiều nhà văn đã vội vã thường đổ tất cả lên đầu chị em, khi lấy họ xây dựng nhân vật tiêu cực. Phải chăng, người ta cũng nên lưu tâm, rằng phải xét tới hoàn cảnh nghiệt ngã khi phải nai lưng ra kiếm sống để gửi tiền về nuôi chồng con nơi quê nhà! Và, chính hoàn cảnh thân cô thế cô ấy đã đẩy nhiều chị em tới điều họ hoàn toàn không muốn và ham hố. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự tan vỡ, chia lìa của nhiều gia đình có vợ con đi Đức của ngày hôm qua và xét tới cùng, đại đa số, người đau khổ nhất trên đời trong bi kịch này luôn luôn bao giờ vẫn là người đàn bà. Mấy ai hiểu thấu cho họ? Những dòng sông nước mắt nơi đất khách khi tôi ngồi với chị T, một phụ nữ ngay tại khu Rihn Str ăm ắp tiền, hàng quanh chị, khi chị kể cho tôi nghe về cuộc: đi trở lại mắc núi, về trở lại mắc sông, sau hơn chục năm lăn lộn, để đổi lấy đồng tiền mầu xanh có in hình tổng thống Hoa Kỳ, hàng năm gửi về Việt Nam nuôi hai con ăn học nên người và ít nhiều cho người chồng chưa khi nào phải lo tới vật chất?! Và sau cả sự đổ vỡ thứ nhất ấy, không thiếu gì nhiều sự đổ vỡ kế tiếp để tạo nên sự nhắc nhớ về biết bao thân phận nàng Kiều, những cô gái đáng yêu Việt Nam vốn dĩ yếu mềm, trên đất Đức, đất Nga, Tiệp trong cuộc tha phương cầu thực lắm nỗi truân chuyên này!
    Được B.Fut sửa chữa / chuyển vào 08:54 ngày 01/11/2003
  8. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0
    3-Buôn thuốc lá lậu và xã hội đen
    Ngay từ những năm đầu thập kỉ chín mươi, nguồn thuốc lá lậu chảy qua biên giới Ba Lan, Tiệp bằng con đường đưa trộm bằng sức người qua biên giới. Nhưng con đường ấy chỉ là giọt nước so với bát nước, số thuốc lá người Việt đã tiêu thụ hàng tháng, kéo suốt cả gần ba năm tại Đức. Nguồn thuốc khủng khiếp thứ hai ấy là từ các đại gia giấu mặt của thế giới ngầm Âu Châu đã thao túng người Việt. Không có sự tiếp tay ấy, không thể có những chuyến thuốc lá mỗi tuần hai ba lần từ những chuyến xe xuyên lục địa dài ngoãng gần trăm mét, vận chuyển thuốc lá lậu bay qua biên giới vào Đức. Người ta dùng cả thủ thuật vận chuyển quá cảnh từ cảng Hamburg để bất ngờ đổ tuột hàng, hàng triệu gói thuốc một lần trong các khu rừng cho hai ba chục chiếc xe vệ tinh nhỏ của người Việt ăn hàng. Từ đó sinh ra hệ thống khâu phân phối bán buôn thuốc lá, khâu trung gian thứ hai nữa cho người bán lẻ trên đường phố.
    Nguồn hàng lớn nữa được đổ bí mật từ những sân bay quân sự của nước X tại Đông Đức. Tôi từng nghe kể lại có cả vị tướng trong đội quân chiếm đóng Đông Đức tham gia vào mối làm ăn này. Hàng tuần, máy bay trực thăng quân sự, loại khổng lồ được huy động từ sân bay bí mật nào đó đổ xuống một điểm Z. Tại đó, điện thoại di động báo cho các xe Bus của người Việt. Thường là khi nhập nhoạng tối hay sáng sớm. Các xe ô tô vệ tinh của người Việt được dấu bí mật và cùng nổ máy cất hàng khi nhận được tín hiệu.
    Các đại gia người da trắng chỉ làm việc với một đầu mối. Đầu mối người Việt này gom tiền của hàng loạt ông chủ Việt khác chia nhau một xe cả chục ngàn cây thuốc mỗi chuyến. Thường là tiền trao cháo múc trong rừng khi ăn hàng. Nhưng cũng có khi họ nhận tiền trước một phần và sau khi ăn hàng xong nhận nốt từ đầu mối thứ nhất. Không thể lấy hàng rồi chuồn. Thế giới đen không biết đùa !
    Mùa đông năm 1991. Tôi theo xe của Khánh. Khánh xưa là bạn thân của đám tay chơi Bình Tẩu sau học điện ảnh, mà tôi cũng sơ sơ giao tiếp, quen biết nhau từ hồi còn họ còn choai choai ở Hà Nội. Anh là đầu mối của năm sáu người khác và đã nạp tiền gom cho B tại Berlin. Xe xuất phát từ bốn giờ chiều và lên đường cao tốc. Điện thoại di động hai chiếc, bắt liên lạc không ngừng tới nóng cả máy. Chúng tôi không được biết trước nơi đổ hàng. Tám giờ tối, xe chúng tôi đột ngột đổi hướng chạy sang Bradenburg. Ô tô chạy tốc độ trăm sáu chục cây, mưa tuyết thưa, bay chéo quất mạnh vào kính trước, phát sáng trắng trong ánh đèn pha. Chúng tôi đột ngột rẽ xuống đường Land và tiến vào một khu rừng không một bóng người. Từ đâu đó cũng đồng loạt xuất hiện hơn hai chục chiếc Bus cũng tắt đèn và rì rầm bò theo sự hướng dẫn đường từ điện thoại. Trước mắt tôi, trên một trảng cỏ rộng giữa rừng, hiện ra đột ngột, chềnh ềnh một chiếc xuyên lục địa dài cả bẩy tám chục mét cao như tòa nhà. Trong chớp mắt, bạt hậu được tháo bung và chiếc xe thứ nhất tiến vào ăn hàng. Tôi nhìn rõ bốn năm người da trắng ném như xiếc, rào rào những thùng thuốc Gold, Maln xuống mặt đất. Bất chợt có tiếng động xé gió rất lớn và từ đâu như phù thủy biến ảo hiện ra ánh đèn pha sáng trắng rọi từ một chiếc trực thăng đã bay rất thấp bất ngờ nhao tới xế lưng đầu chúng tôi. Quang cảnh chợt hỗn độn như hồi đánh trận, bị phục kích. Khánh nắm tay tôi bỏ xe chạy thục mạng, tạt sang cánh rừng bên trái. Tôi nhận ra rất nhiều bóng quân phục Zohnspandung ?" Hải quan đặc biệt và cảnh sát dã chiến bịt mặt chống buôn lậu. Đèn pin lia khắp rừng. Tôi nhắm mắt nhẩy quàng như điên vào một bụi rậm rồi bò nhanh sang bên kia, rơi vào một khe suối cạn. Cứ thế thục mạng chạy như bị chó đuổi, thoát hiểm khỏi vòng vây.
    Chuyến đi thực tế ấy làm tôi nhớ đời và chẳng khi nào dám mạo hiểm tái hiện thêm một lần. Bởi nếu tôi bị tóm, có thể nhận án tù từ một tới hai năm hoặc trục xuất lập tức. Người ta dùng cả biện pháp phạt tới bốn trăm D Mark một cây thuốc tang vật. Nếu tôi không có tiền trả, phải ngồi tù, mỗi ngày tù tương ứng 50 DM cho tới khi nào hết tiền phạt. Khánh cũng thoát hiểm trong vụ ấy, mất một số tiền khá lớn. Sau này anh còn dính vào vụ khác, bị ngay bạn hàng Polan chĩa súng vào đầu trong rừng biên giới lột hết tiền hàng. Hai năm buôn lậu, Khánh có tiền như nước rồi lại hoàn tay trắng và một lần nữa tí bị bắn khi giao dịch đổ bể công việc với một băng khác. Anh từ bỏ thế giới vàng chuyển sang nghề Imbis ?" quán ăn nhanh, làm lại từ đầu. Thương thay, người bạn có tiếng nghĩa cử hay đùm bọc bè bạn tha phương, nổi danh trong đám giang hồ lại rất yêu văn chương này năm ngoái đã biến thành tro tàn bình gốm khi chuẩn bị có miếng ăn miếng để. Trời bắt anh về! Anh mải mê công việc, không biết trong đầu mình có cái u ác tính hay gây những cơn đau đầu để anh chết bất ngờ. Khi đọc lời điếu tự tôi viết cho anh, cho người bạn văn nhiều lỡ hẹn ấy, trước hàng trăm người bè bạn thân sơ có mặt trong lễ tang tại Potsdam, tôi chợt nghĩ tới cái bóng anh vọt lên kéo tay tôi chạy thoát hiểm nguy ở mùa đông năm nào và không cầm nổi nước mắt xót xa!
    Việc buôn bán mang lại siêu lợi nhuận luôn cập kè với bất trắc. Cũng là nơi mầm độc sinh ra thế giới ngầm ngay trong cộng đồng người Việt tại Đức. Từ đầu những năm 92 đã xuất hiện nhiều băng nhóm tranh dành nhau ảnh hưởng trong việc chiếm lĩnh vùng bảo kê, thực chất là việc bán chỗ cho người bán thuốc lá lẻ. Anh làm ăn phi pháp, bán thuốc lậu trốn thuế, anh không dám trình diện tố cáo với cảnh sát hành vi phi pháp khác. Đấy là gót chân Acsin của người sống ngoài vòng pháp luật! Chính vì vậy nhiều người Việt tị nạn hiện nay khi bán thuốc lậu vẫn tự nguyện nộp tiền cho nhiều băng nhóm xã hội đen này. Tôi đã hỏi một bạn trẻ, hàng tháng nộp năm trăm Eu tiền chỗ bán thuốc gần chợ Biên Giới, anh trả lời bình thản: người ta như mình, xã hội nương tựa nhau để sống!!
    Sự nhượng bộ ấy vô hình chung tạo thành mảnh đất tốt cho mầm ác. Sau năm 92, có nhiều băng nhóm mang tính chất Mafia người Việt hoạt động ở Đức. Một giai đoạn dài, nhóm Từ Thiện là mạnh nhất. Họ là nỗi kinh hồn cho nhiều nhóm người tại ngay Berlin. Những nhóm người này đôi khi ngang nhiên bắn nhau ban ngày ban mặt như những phim bạo lực của Mỹ. Người ta, những ai sống ở khu trung cư hình móng ngựa Rihn Str 139 hẳn còn nhớ hôm nào, hai tay súng chống trả hơn bẩy tám tay súng ngay giữa sân chơi rộng kẹp giữa ba khu nhà lớn của người Việt. Đạn réo cầy tung bụi mặt đất. Người ta cũng hẳn không quên cuộc ám sát Vân biệt danh Vân Bụng, người có nhiều ảnh hưởng tới nhóm Từ Thiện. Bốn phát súng của sát thủ nổ vang trên hành lang hạ gục Vân khi anh ta vừa bước chân khỏi phòng ngủ với hai vệ sỹ. Sự đau lòng còn tiếp diễn cho những đứa con xứ Việt là sau đó, là nhiều cuộc thanh trừng, thanh toán đẫm máu đã xảy ra giữa nhiều băng nhóm, mà cho tới nay còn nhiều người mất tích chưa có câu trả lời trong các khu rừng ôn đới.
    Có một điều lạ là khi đó cảnh sát Đức dường như thờ ở với việc điều tra nghiên cứu về tình trạng bất an này. Chỉ tới khi một cuộc tàn sát thanh trừng đẫm máu xảy ra, bẩy mạng người Việt bị bắn chết trong phòng ngủ vào một buổi sớm tại khu Aren làm chấn động lương tâm toàn nước Đức thì lực lượng chống tội phạm đặc biệt của Đức từ Bonn mới được điều về để lần lượt đưa những trùm băng nhóm và đồng đảng, chân tay tội ác vào nhà đá.
    Theo thống kê đánh giá của nhiều tổ chức điều nghiên đã đăng tải trên báo chí Châu Âu thì các băng nhóm tội phạm người Việt chưa được xếp hạng ở Âu Châu về quy mô và trình độ chuyên môn, nhưng về tính chất dã man thì tội ác họ gây ra đối với đồng bào mình ở Đức không kém bất cứ tổ chức tội ác nào ở Châu Âu. Thậm chí tính chất dã man và số người chết vì bị bắn, bị chém, bị chôn ngoài rừng trong vài năm đầu thập kỉ 90 mà báo chí Đức đã đưa tin thì Mafia VN tại Đức dẫn đầu thành tích trong các băng nhóm tội ác kể cả với ý, Nga hay Thổ!
    Có thể do ý thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của các băng nhóm tội ác người Việt nếu không có biện pháp tức thời phản ứng, nên nhiều năm gần đây cơ quan an ninh Đức đã tích cực truy quét và giải giáp nhiều nhân vật quan trọng trong các băng nhóm tội ác người Việt. Cảnh sát Đức đã áp dụng nhiều biện pháp và chi khá nhiều tiền cho những hoạt động này, họ lập ra cả những trạm liên lạc tự động ghi âm và trả lời tiếng Việt cùng sự tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng thông qua đài phát thanh tiếng Việt tại Đức nhằm giúp các công dân Việt Nam hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ giúp đỡ chính quyền chính là cách tạo nên thêm điều kiện an toàn tốt nhất để bảo đảm cuộc sống lâu dài của người Việt.
    Thực tế những cố gắng ấy về phía Đức mấy năm gần đây đã hạn chế rất nhiều số vụ việc xảy ra gây tổn thất tiền và tính mạng người Việt Nam. Nhưng một nguyên nhân nữa đưa đến hoạt động của xã hội đen người Việt giảm thiểu, chính là việc buôn bán thuốc lá trốn thuế đã bị các lực lượng an ninh, thuế vụ, hải quan Đức dùng nhiều hình thức kỹ thuật nghiệp vụ dập tắt. Họ bịt kín các con đường chuồn thuốc lậu vào Đức trên quy mô lớn. Lùng bắt ráo riết và trừng phạt rất nặng những ai buôn thuốc lá lậu theo luật định. Giờ đây, những người Việt theo dạng Thợ khách hoàn toàn từ bỏ việc dấp dính với thuốc lá lậu. Như vậy, tức là họ, đám thợ khách đã cắt đứt mối liên hệ với thế giới đen. Thi thoảng trên các nhà ga hay đường vào vài chợ biên giới cũ, vẫn thấy dăm ba kẻ buôn thuốc lá phất phơ đứng nép vào các vật khuất. Họ là những người tị nạn mới từ Việt Nam sang, trót nghe theo sự lừa phỉnh của các tổ chức đưa người trái phép về một thiên đường chưa bao giờ có, nay cố kiếm tiền trả cái nợ 7000 Us khi nuôi mộng hão chi phí từ Việt Nam sang Đức làm giầu!?
    Nước Đức đã qua giai đoạn chập chững về quản lý vi mô và vĩ mô sau thống nhất tại phần Đông Đức cũ. Giờ đây với sự kiểm soát công dân của thời đại máy tính, hãy quên đi thời kỳ nhộm nhoạm làm giầu phi pháp. Và đặc biệt sau khi đổi tiền thì việc buôn bán làm ăn quy mô nhỏ của không riêng người Việt giảm sút một cách báo động. Do vậy nó hoàn toàn không phải miền đất hứa cho mộng làm giầu của bất cứ những ai, nhất là họ tới từ Việt Nam, không đồng vốn, không biết tiếng Đức, không có tri thức, kinh nghiệm và hiểu biết về một xã hội đã ổn định và có rất nhiều kinh nghiệm về quản lý hành chính xã hội.
    Được B.Fut sửa chữa / chuyển vào 08:50 ngày 01/11/2003
  9. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0
    3-Buôn thuốc lá lậu và xã hội đen
    Ngay từ những năm đầu thập kỉ chín mươi, nguồn thuốc lá lậu chảy qua biên giới Ba Lan, Tiệp bằng con đường đưa trộm bằng sức người qua biên giới. Nhưng con đường ấy chỉ là giọt nước so với bát nước, số thuốc lá người Việt đã tiêu thụ hàng tháng, kéo suốt cả gần ba năm tại Đức. Nguồn thuốc khủng khiếp thứ hai ấy là từ các đại gia giấu mặt của thế giới ngầm Âu Châu đã thao túng người Việt. Không có sự tiếp tay ấy, không thể có những chuyến thuốc lá mỗi tuần hai ba lần từ những chuyến xe xuyên lục địa dài ngoãng gần trăm mét, vận chuyển thuốc lá lậu bay qua biên giới vào Đức. Người ta dùng cả thủ thuật vận chuyển quá cảnh từ cảng Hamburg để bất ngờ đổ tuột hàng, hàng triệu gói thuốc một lần trong các khu rừng cho hai ba chục chiếc xe vệ tinh nhỏ của người Việt ăn hàng. Từ đó sinh ra hệ thống khâu phân phối bán buôn thuốc lá, khâu trung gian thứ hai nữa cho người bán lẻ trên đường phố.
    Nguồn hàng lớn nữa được đổ bí mật từ những sân bay quân sự của nước X tại Đông Đức. Tôi từng nghe kể lại có cả vị tướng trong đội quân chiếm đóng Đông Đức tham gia vào mối làm ăn này. Hàng tuần, máy bay trực thăng quân sự, loại khổng lồ được huy động từ sân bay bí mật nào đó đổ xuống một điểm Z. Tại đó, điện thoại di động báo cho các xe Bus của người Việt. Thường là khi nhập nhoạng tối hay sáng sớm. Các xe ô tô vệ tinh của người Việt được dấu bí mật và cùng nổ máy cất hàng khi nhận được tín hiệu.
    Các đại gia người da trắng chỉ làm việc với một đầu mối. Đầu mối người Việt này gom tiền của hàng loạt ông chủ Việt khác chia nhau một xe cả chục ngàn cây thuốc mỗi chuyến. Thường là tiền trao cháo múc trong rừng khi ăn hàng. Nhưng cũng có khi họ nhận tiền trước một phần và sau khi ăn hàng xong nhận nốt từ đầu mối thứ nhất. Không thể lấy hàng rồi chuồn. Thế giới đen không biết đùa !
    Mùa đông năm 1991. Tôi theo xe của Khánh. Khánh xưa là bạn thân của đám tay chơi Bình Tẩu sau học điện ảnh, mà tôi cũng sơ sơ giao tiếp, quen biết nhau từ hồi còn họ còn choai choai ở Hà Nội. Anh là đầu mối của năm sáu người khác và đã nạp tiền gom cho B tại Berlin. Xe xuất phát từ bốn giờ chiều và lên đường cao tốc. Điện thoại di động hai chiếc, bắt liên lạc không ngừng tới nóng cả máy. Chúng tôi không được biết trước nơi đổ hàng. Tám giờ tối, xe chúng tôi đột ngột đổi hướng chạy sang Bradenburg. Ô tô chạy tốc độ trăm sáu chục cây, mưa tuyết thưa, bay chéo quất mạnh vào kính trước, phát sáng trắng trong ánh đèn pha. Chúng tôi đột ngột rẽ xuống đường Land và tiến vào một khu rừng không một bóng người. Từ đâu đó cũng đồng loạt xuất hiện hơn hai chục chiếc Bus cũng tắt đèn và rì rầm bò theo sự hướng dẫn đường từ điện thoại. Trước mắt tôi, trên một trảng cỏ rộng giữa rừng, hiện ra đột ngột, chềnh ềnh một chiếc xuyên lục địa dài cả bẩy tám chục mét cao như tòa nhà. Trong chớp mắt, bạt hậu được tháo bung và chiếc xe thứ nhất tiến vào ăn hàng. Tôi nhìn rõ bốn năm người da trắng ném như xiếc, rào rào những thùng thuốc Gold, Maln xuống mặt đất. Bất chợt có tiếng động xé gió rất lớn và từ đâu như phù thủy biến ảo hiện ra ánh đèn pha sáng trắng rọi từ một chiếc trực thăng đã bay rất thấp bất ngờ nhao tới xế lưng đầu chúng tôi. Quang cảnh chợt hỗn độn như hồi đánh trận, bị phục kích. Khánh nắm tay tôi bỏ xe chạy thục mạng, tạt sang cánh rừng bên trái. Tôi nhận ra rất nhiều bóng quân phục Zohnspandung ?" Hải quan đặc biệt và cảnh sát dã chiến bịt mặt chống buôn lậu. Đèn pin lia khắp rừng. Tôi nhắm mắt nhẩy quàng như điên vào một bụi rậm rồi bò nhanh sang bên kia, rơi vào một khe suối cạn. Cứ thế thục mạng chạy như bị chó đuổi, thoát hiểm khỏi vòng vây.
    Chuyến đi thực tế ấy làm tôi nhớ đời và chẳng khi nào dám mạo hiểm tái hiện thêm một lần. Bởi nếu tôi bị tóm, có thể nhận án tù từ một tới hai năm hoặc trục xuất lập tức. Người ta dùng cả biện pháp phạt tới bốn trăm D Mark một cây thuốc tang vật. Nếu tôi không có tiền trả, phải ngồi tù, mỗi ngày tù tương ứng 50 DM cho tới khi nào hết tiền phạt. Khánh cũng thoát hiểm trong vụ ấy, mất một số tiền khá lớn. Sau này anh còn dính vào vụ khác, bị ngay bạn hàng Polan chĩa súng vào đầu trong rừng biên giới lột hết tiền hàng. Hai năm buôn lậu, Khánh có tiền như nước rồi lại hoàn tay trắng và một lần nữa tí bị bắn khi giao dịch đổ bể công việc với một băng khác. Anh từ bỏ thế giới vàng chuyển sang nghề Imbis ?" quán ăn nhanh, làm lại từ đầu. Thương thay, người bạn có tiếng nghĩa cử hay đùm bọc bè bạn tha phương, nổi danh trong đám giang hồ lại rất yêu văn chương này năm ngoái đã biến thành tro tàn bình gốm khi chuẩn bị có miếng ăn miếng để. Trời bắt anh về! Anh mải mê công việc, không biết trong đầu mình có cái u ác tính hay gây những cơn đau đầu để anh chết bất ngờ. Khi đọc lời điếu tự tôi viết cho anh, cho người bạn văn nhiều lỡ hẹn ấy, trước hàng trăm người bè bạn thân sơ có mặt trong lễ tang tại Potsdam, tôi chợt nghĩ tới cái bóng anh vọt lên kéo tay tôi chạy thoát hiểm nguy ở mùa đông năm nào và không cầm nổi nước mắt xót xa!
    Việc buôn bán mang lại siêu lợi nhuận luôn cập kè với bất trắc. Cũng là nơi mầm độc sinh ra thế giới ngầm ngay trong cộng đồng người Việt tại Đức. Từ đầu những năm 92 đã xuất hiện nhiều băng nhóm tranh dành nhau ảnh hưởng trong việc chiếm lĩnh vùng bảo kê, thực chất là việc bán chỗ cho người bán thuốc lá lẻ. Anh làm ăn phi pháp, bán thuốc lậu trốn thuế, anh không dám trình diện tố cáo với cảnh sát hành vi phi pháp khác. Đấy là gót chân Acsin của người sống ngoài vòng pháp luật! Chính vì vậy nhiều người Việt tị nạn hiện nay khi bán thuốc lậu vẫn tự nguyện nộp tiền cho nhiều băng nhóm xã hội đen này. Tôi đã hỏi một bạn trẻ, hàng tháng nộp năm trăm Eu tiền chỗ bán thuốc gần chợ Biên Giới, anh trả lời bình thản: người ta như mình, xã hội nương tựa nhau để sống!!
    Sự nhượng bộ ấy vô hình chung tạo thành mảnh đất tốt cho mầm ác. Sau năm 92, có nhiều băng nhóm mang tính chất Mafia người Việt hoạt động ở Đức. Một giai đoạn dài, nhóm Từ Thiện là mạnh nhất. Họ là nỗi kinh hồn cho nhiều nhóm người tại ngay Berlin. Những nhóm người này đôi khi ngang nhiên bắn nhau ban ngày ban mặt như những phim bạo lực của Mỹ. Người ta, những ai sống ở khu trung cư hình móng ngựa Rihn Str 139 hẳn còn nhớ hôm nào, hai tay súng chống trả hơn bẩy tám tay súng ngay giữa sân chơi rộng kẹp giữa ba khu nhà lớn của người Việt. Đạn réo cầy tung bụi mặt đất. Người ta cũng hẳn không quên cuộc ám sát Vân biệt danh Vân Bụng, người có nhiều ảnh hưởng tới nhóm Từ Thiện. Bốn phát súng của sát thủ nổ vang trên hành lang hạ gục Vân khi anh ta vừa bước chân khỏi phòng ngủ với hai vệ sỹ. Sự đau lòng còn tiếp diễn cho những đứa con xứ Việt là sau đó, là nhiều cuộc thanh trừng, thanh toán đẫm máu đã xảy ra giữa nhiều băng nhóm, mà cho tới nay còn nhiều người mất tích chưa có câu trả lời trong các khu rừng ôn đới.
    Có một điều lạ là khi đó cảnh sát Đức dường như thờ ở với việc điều tra nghiên cứu về tình trạng bất an này. Chỉ tới khi một cuộc tàn sát thanh trừng đẫm máu xảy ra, bẩy mạng người Việt bị bắn chết trong phòng ngủ vào một buổi sớm tại khu Aren làm chấn động lương tâm toàn nước Đức thì lực lượng chống tội phạm đặc biệt của Đức từ Bonn mới được điều về để lần lượt đưa những trùm băng nhóm và đồng đảng, chân tay tội ác vào nhà đá.
    Theo thống kê đánh giá của nhiều tổ chức điều nghiên đã đăng tải trên báo chí Châu Âu thì các băng nhóm tội phạm người Việt chưa được xếp hạng ở Âu Châu về quy mô và trình độ chuyên môn, nhưng về tính chất dã man thì tội ác họ gây ra đối với đồng bào mình ở Đức không kém bất cứ tổ chức tội ác nào ở Châu Âu. Thậm chí tính chất dã man và số người chết vì bị bắn, bị chém, bị chôn ngoài rừng trong vài năm đầu thập kỉ 90 mà báo chí Đức đã đưa tin thì Mafia VN tại Đức dẫn đầu thành tích trong các băng nhóm tội ác kể cả với ý, Nga hay Thổ!
    Có thể do ý thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của các băng nhóm tội ác người Việt nếu không có biện pháp tức thời phản ứng, nên nhiều năm gần đây cơ quan an ninh Đức đã tích cực truy quét và giải giáp nhiều nhân vật quan trọng trong các băng nhóm tội ác người Việt. Cảnh sát Đức đã áp dụng nhiều biện pháp và chi khá nhiều tiền cho những hoạt động này, họ lập ra cả những trạm liên lạc tự động ghi âm và trả lời tiếng Việt cùng sự tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng thông qua đài phát thanh tiếng Việt tại Đức nhằm giúp các công dân Việt Nam hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ giúp đỡ chính quyền chính là cách tạo nên thêm điều kiện an toàn tốt nhất để bảo đảm cuộc sống lâu dài của người Việt.
    Thực tế những cố gắng ấy về phía Đức mấy năm gần đây đã hạn chế rất nhiều số vụ việc xảy ra gây tổn thất tiền và tính mạng người Việt Nam. Nhưng một nguyên nhân nữa đưa đến hoạt động của xã hội đen người Việt giảm thiểu, chính là việc buôn bán thuốc lá trốn thuế đã bị các lực lượng an ninh, thuế vụ, hải quan Đức dùng nhiều hình thức kỹ thuật nghiệp vụ dập tắt. Họ bịt kín các con đường chuồn thuốc lậu vào Đức trên quy mô lớn. Lùng bắt ráo riết và trừng phạt rất nặng những ai buôn thuốc lá lậu theo luật định. Giờ đây, những người Việt theo dạng Thợ khách hoàn toàn từ bỏ việc dấp dính với thuốc lá lậu. Như vậy, tức là họ, đám thợ khách đã cắt đứt mối liên hệ với thế giới đen. Thi thoảng trên các nhà ga hay đường vào vài chợ biên giới cũ, vẫn thấy dăm ba kẻ buôn thuốc lá phất phơ đứng nép vào các vật khuất. Họ là những người tị nạn mới từ Việt Nam sang, trót nghe theo sự lừa phỉnh của các tổ chức đưa người trái phép về một thiên đường chưa bao giờ có, nay cố kiếm tiền trả cái nợ 7000 Us khi nuôi mộng hão chi phí từ Việt Nam sang Đức làm giầu!?
    Nước Đức đã qua giai đoạn chập chững về quản lý vi mô và vĩ mô sau thống nhất tại phần Đông Đức cũ. Giờ đây với sự kiểm soát công dân của thời đại máy tính, hãy quên đi thời kỳ nhộm nhoạm làm giầu phi pháp. Và đặc biệt sau khi đổi tiền thì việc buôn bán làm ăn quy mô nhỏ của không riêng người Việt giảm sút một cách báo động. Do vậy nó hoàn toàn không phải miền đất hứa cho mộng làm giầu của bất cứ những ai, nhất là họ tới từ Việt Nam, không đồng vốn, không biết tiếng Đức, không có tri thức, kinh nghiệm và hiểu biết về một xã hội đã ổn định và có rất nhiều kinh nghiệm về quản lý hành chính xã hội.
    Được B.Fut sửa chữa / chuyển vào 08:50 ngày 01/11/2003
  10. B.Fut

    B.Fut Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    0
    4-Đi về đâu? Mối lo âu của người Việt còn tồn tại.
    Số người Việt ở Đức, nhất là diện thợ khách cũ sau hơn chục năm sóng gió giờ đây đã ổn định về cuộc sống. Những ai đã thành đạt thì thành đạt rồi và tiếp tục củng cố giữ vững sự làm ăn của họ. Những người không có khả năng kinh doanh, chỉ giỏi bắt chước dần bị quy luật cạnh tranh tự nhiên loại bỏ khỏi thương trường và đẩy về thất nghiệp hay đi làm với tư cách nhân công bán sức lao động cho các hãng của Đức hay Việt. Nhiều người trong số thợ khách đã đón gia đình vợ con đoàn tụ để quy về một mối. Quay lại với quy luật của con người Việt nam, giờ đây họ lo âu cho con cái học hành mong sau này chúng đỡ vất vả một tuyết hai sương như bố mẹ chúng. Họ bắt đầu nghĩ tới đời sống tinh thần sau nhiều năm lãng quên bởi đồng tiền. Nhiều nơi lập ra tổ chức Hội Người Việt để giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, lúc trái gió trở trời trên xứ người. Mấy năm gần đây, sứ quán Việt Nam, ban cộng đồng cũng hết sức quan tâm vấn đề này và giúp đỡ họ trong hy vọng hòa nhập ổn định cuộc sống tại Đức và hướng về nguồn cội. Nhiều tổ chức văn hóa văn nghệ dưới hình thái Câu lạc bộ hình thành mang lại mầu sắc mới trong đời sống tinh thần của người Việt. Một số nhân sỹ, nghệ sỹ cũng có nhiều nỗ lực trong nhiều hoạt động văn hóa như tổ chức ca nhạc, nói chuyện về văn học nghệ thuật, phổ biến phim ảnh của nền điện ảnh Việt Nam v..v?
    Người ta hẳn không quên năm kia, hàng ngàn người Việt, có người vượt qua cả nửa ngàn cây, tới tập trung tại nhà văn hóa của Đào Minh Quang để nghe nhà thơ Trần Đăng Khoa tới đọc thơ và nói chuyện tếu. Nhà Thơ Nguyễn Duy cũng tới đây triển lãm ảnh trên giấy gió và buổi nói chuyện của anh về thơ cũng thức dậy tới nghẹn ngào biết bao con tim xứ Việt để nhớ về một mảnh đất chữ S có biết bao thương yêu?Việc phát sóng VT 4 trên vệ tinh cũng rút ngắn khoảng cách vời vợi ngàn trùng của người xa xứ với nơi chôn nhau cắt rốn của người Việt. Có ngạc nhiên không ở một nơi như Đức, những người lính cũ đã muốn thành lập hội cựu chiến binh bởi họ chưa khi nào quên một thời kỳ mà cả dân tộc cam go trong chiến tranh có sự đóng góp không nhỏ cả đời thanh xuân của họ. Tháng 11 năm ngoái, khi dẫn nhà làm phim tài liệu đài truyền hình trung ương, đạo diễn Chu Hòa đi thu thập tài liệu về người lính cũ tại Đức, chúng tôi khi quay được những thước phim về họ, đã quay cả bức sơn mài Bác cùng chúng cháu hành quân trang trọng treo trên tường một thương gia nổi tiếng thành công về ngành ăn uống khách sạn tại thành phố du lịch Swerin và nhiều câu chuyện cảm động tới trào nước mắt về những năm tháng gian khổ chiến đấu ở chiến trường.
    Cũng giống như nhiều người Việt ở các nơi khác, người Việt tại Đức chưa khi nào quên đi mảnh đất họ sinh ra và lớn lên. Rất nhiều cuộc quyên góp bấy nay dành cho đồng bào lũ lụt thiên tai ở Việt nam. Nhưng điều quan trọng và lớn lao hơn cả là họ giáo dục con cái họ về tổ quốc. Nhiều gia đình đã ý thức vấn đề này từ kinh nghiệm xương máu của đồng bào họ bên Pháp và Mỹ, nhiều gia đình tại Đức buộc trẻ con trong gia đình phải dùng ngôn ngữ , dạy dỗ con cái họ đọc và viết tiếng Việt. Anh chị Tiến - Uyên và anh chị Phương Huyền tại Potsdam dạy con cái họ đọc thông viết thạo tiếng Việt. Họ tâm sự, nếu ở Đức thành thạo một ngoại ngữ lại quên đi ngay tiếng mẹ đẻ tức bằng không và đâu còn người Việt? Chị Ngọc Trai nguyên phó tổng biên tập tờ báo Văn Nghệ mỗi lần tới thăm cháu nội ở Đức không phải lo âu canh canh như vài người cũng làm văn học ở nước khác.
    Cũng giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, thế hệ thứ hai ở Đức của cộng đồng người Việt đang phát triển và có nhiều hứa hẹn, thoát ra khỏi cuộc sống lầm than sương gió trên đường phố. Học sinh Việt Nam đa phần học giỏi và thông minh. Năm kia một cháu gái Việt Nam đoạt bằng tú tài với số điểm 1 là điểm giỏi tuyệt đối. Cháu nội nhà văn Cao Nhị ?" cháu Mai Ninh từ 12 tuổi nổi tiếng khắp thị trấn Moelln vì năng khiếu hội họa. Mai ninh hôm nay đã là chàng trai sắp tốt nghiệp một trường cao đẳng kỹ thuật và dự tính sau khi ra trường sẽ lập một công ty riêng thiết kế trên máy tính phần mềm động và tĩnh. Cách đây mấy tuần Mai ninh là tác giả của bìa sách tập truyện ngắn Vàng Xưa của tôi. Bìa sách của cậu làm nhiều họa sỹ nổi tiếng trong nuớc ngạc nhiên khâm phục.
    Rất nhiều tấm gương học tập và tài năng như vậy trên đất Đức của thế hệ con cái những Thợ Khách Việt Nam đã qua cả gần 15 năm sương tuyết chân lấm tay bùn vật lộn với cuộc sống trên xứ người. Nó hứa hẹn nhiều đIều chưa thể lường hết về khả năng sống và làm việc phục vụn cho xã hội, con người và tổ quốc Việt Nam. Tất nhiên bố mẹ chúng vẫn phảI tiếp tục lăn lộn trên thương trường đối phó với nhiều biến động trên đất Đức và những tác động tương hỗ trong mối tương quan tình hình chính trị của thế giới. Nhất là sau khi đồng Euro ngự trị trên cộng đồng chung Châu Âu đã gây không ít khó khăn trong đời sống kinh tế của người sống ở Đức, không kiêng nể bạn là ai, sắc tộc nào.
    Không nắm được những thông tin về tình hình nước Đức, nhiều người Việt cho tới nay vẫn mắc lừa nhiều nhóm đưa người trái phép tiếp tục bằng mọi giá tới Đức. Họ không biết rằng, ngày nay khó có cơ hội kiếm tiền, dầu chỉ là để trả cho xong món nợ chi phí để họ tới Đức. Năm ngoái tôi và cô Chu Vân Anh cháu nội cố thượng tướng Chu Văn Tấn gặp một người ngu ngơ như vậy trên đường phố Berlin. Trả hơn bẩy ngàn U.S cho một người tên là X, người đàn ông đã hơn bốn chục tuổi này qua Nga được đưa tới Đức. Sau hơn một tuần chỉ ăn mì và uống nước lã trong một khu rừng bí mật hẻo lánh, anh bị đẩy ra đường phố trong túi không một đồng Cent, quần áo lấm lem bẩn thỉu và trong trạng thái đói lả. Trong khi nuốt vội bánh mỳ và súp nóng do Vân Anh mua tặng, anh nghẹn ngào kể:
    - Tôi chót bán hết gia sản, một cái nhà nát bên đường một tại Việt nam, sang tới Nga rồi qua đây. Họ đã giam tôi hơn một tuần trong rừng để buộc tôi thanh toán thêm số tiền 500 Eu nữa phát sinh vì những điều quái quỷ nào đó. Thực ra tôi không thể thanh toán bởi người quen tôi ở đây bặt âm vô tín và họ buộc thả tôi tại thành phố này từ một cái xe con rồi mất biến.
    Chỗ tôi bán hàng gần sở ngoại kiều bang. Tôi đã hỏi rất nhiều người Việt tị nạn tới đây ra hạn giấy tờ được biết nhiều người Việt đã vỡ mộng khi tới đây tị nạn và hoàn toàn không biết xoay sở ra sao nếu bị buộc phải quay về nhà vì đa số gia đình họ đều nợ đầm đìa cho họ ra đi.
    Có thể vì nhiều nguyên nhân, nhưng nhiều người trong số tôi nói trên sau biết bao nỗ lực kiếm tiền trả nợ đã thối chí và chán đời rơi vào bẫy nghiệnn ngập. Người ta kể với tôi rằng ở Berlin hiện tại có ba lò nghiện và vài tụ điểm gái điếm Việt Nam. Ma túy bây giờ đang là nỗi lo của cộng đồng người Việt tại Đức vài năm gần đây. Bởi tại Đức việc mua bán thứ chết người này không khó khăn lắm. Sau khi mắc nghiện, người ta không còn con đường nào khác là đi chôm vặt trong các siêu thị và đập hộp chính những người đồng hương bà con của mình. Sự thể này sẽ đi về đâu khi cha mẹ nhiều đứa trẻ hàng ngày đầu tắt mặt tối từ sớm tới tối mịt khó thể kiểm soát con cái họ ở những thành phố đông người Việt quần tụ. Những quán Karaoke, những phòng nhẩy và cả ngay bên cạnh vài trung tâm buôn bán giờ đây đang ẩn chứa mối nguy hiểm khó có thể tính hết về vấn đề này.
    Nhiều người Việt sớm có ý thức đang đề nghị các tổ chức hội người Việt Nam tại Đức, các câu lạc bộ và những văn phòng giúp đỡ người Việt do người Đức lập ra tổ chức tuyên truyền giáo dục thanh thiếu niên và cha mẹ của chúng những hiểu biết về tác hại của Matúy và những kinh nghiệm kiểm soát con cái. Chắc chắn sau thời gian nữa, khi tệ nạn Ma túy phát triển, cộng đồng người Việt tại Đức sẽ phải đương đầu với khả năng kèm theo của nó là căn bệnh thế kỷ: Si đa! Bởi cái không thể lường được là, ai biết được số gái điếm từ Việt Nam và Nga sang đang hành nghề lén lút tại Đức có kèm theo Siđa hay không?
    Mười lăm năm trôi qua có bao nhiêu ngày? Biết bao câu chuyện có thể kể liên miên không dứt về từng ngày mang nặng biết bao điều được và mất của những đứa con Việt Nam trên xứ người. Khi viết những dòng cuối này, trước mắt tôi hiện lên biết bao người đã gặp. Những cảnh huống khi vui đến nổ trời và khi buồn tới sa lệ của biết bao gia đình, con người và số phận của họ đã được bầy đặt trong hoàn cảnh lịch sử của đất nước và thế giới. Không thể đoán trước những gì sẽ tới trong tương lai của cộng đồng người Việt tại Đức, bởi con đường kiếm sống và thương trường thế giới chẳng hề giản đơn bao giờ; bởi không riêng gì Đức mà ngay toàn Châu Âu đang và cả thế giới đang biết bao lo ngại với những diễn biến chính trị căng thẳng hôm nay tại vùng dầu mỏ Irắc và Trung Cận Đông. Nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi vẫn hy vọng từ những ưu điểm cơ bản của người Việt, ở đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, ở khả năng chịu đựng mà tồn tại và phát triển trong bất cứ hoàn cảnh nào v..v? Hãy cầu chúc cho những đứa con của đất nước trên Đức và nhiều nước trên thế giới bớt đi những điều đau lòng trong chuyến đi dài vừa qua, gặt hái thêm nhiều thành quả và may mắn để luôn nhìn thấy khuôn mặt rạng rỡ, hạnh phúc của người Việt trên những chuyến bay trở về thăm tổ quốc mỗi dịp lại xuân về.
    Hà Nội - Xuân 2003
    Được B.Fut sửa chữa / chuyển vào 08:49 ngày 01/11/2003

Chia sẻ trang này