1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bình chọn những trận đánh trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi thainhi_vn, 15/02/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. trieuthien

    trieuthien Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    19
    Mời bác TLV phân tích các trận đánh ấy
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Canh quân chính đi qua Đại Áng, Khương Đình, Tả Oai,. Ở đây có làng quê Ngô Gia Văn Phái đã viết "Hoàng Lê Nhất Thống ", Ca ngợi chiến dịch này bằng nhứng câu từ hào hùng nhất. Ở khu vực này cũng diễn ra những trận đánh khủng khiếp nhất để cánh quân "kỳ binh" này bất ngờ thần tốc tiến vào Thăng Long từ hướng không ngờ. Những trận này là Đại Áng, Đầm Mực, Khương Trung, Đống Đa. Ở Đống Đa (hiện em chưa biết ở đâu), voi cùng dân đã lấy rơm đốt thành rồng lửa bao vây đồn, Sầm Nghi Đống hết đường chạy tự tử. Vài giờ sau khi qua Đống Đa, vào cửa ô Chợ Dừa, Tôn Sĩ Ngị không kịp đóng yên chạy qua sông, binh lính mất chủ tan vỡ chạy theo, gẫy cầu phao, xác chết tắc sông Hồng. Ở Đại Áng, Đầm Mực, Khương Trung, Đống Đa xác chết quân Thanh được chôn thành 12 gò, nay đã mất dấu vết. Gò Đống Đa hiện nay là vào đầu thế kỷ, đào mương Đống Đa-Ngọc Hồi, các xác chết nhặt được chất vào, rồi người Hoa ở phố Tạ Hiền lập miếu thờ và góp tiền xây cổng (miếu Sầm Công, nay là ngõ Sầm Công). Nếu quân Tây Sơn đi như bác nói, thì Ngô Gia Văn Phái chết cả, lấy đâu ra mà viết văn hay như vậy.
    À, trong chiến dịch này có kể đến trận Hà Hồi-Ngọc Hồi không nhỉ, Trung Quân (toàn tân binh) do Vua Quan Trung đích thân cầm, bao vây đồn rồi gọi hàng, cả đồn mấy vạn người ra hàng một lúc. Rồi lấy ván tấn công đồn tiếp theo, cũng mấy vạn quân vỡ đồn trong một buổi. Tuy ở hướng này (chính binh nhưng thực là nghi binh) quân yếu hơn và chiến thắng không dữ dội như ở hướng Tây do Đô Đốc Long cầm quân (kỳ binh nhưng thực lại là chính binh), nhưng hiệu quả cũng cực cao. Đã thế, các chiến thắng từ Gián Khẩu (nay là cầu Gián) đều diễn ra cực hiệu quả, Thăng Long chỉ hai giờ phi ngựa không biết tí gì, tạo điều kiện cho Đô Đốc Long đưa đòn sát thủ, hai tướng tư lệnh khựa không kịp biết gì thì một đã chết, một tháo chạy.

    À, trên kia các bác có nói đến trận Đa Bang. Chiến tranh này là cuộc chiến lớn nhất khựa đánh ta, lại đang lúc "nhân nhà Hồ chính sự phiền hà". 80 vạn quân, chia làm hai hướng (như thường, quảng Tây đi đường Lao Cai và Quảng Đông đi đường Lạng Sơn). Các bác có thể nói rõ hơn về chiến tranh này không.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 09:53 ngày 22/02/2005
  3. trieuthien

    trieuthien Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    19
    Theo sử tàu viết thì trước thế kỷ thứ 20, nước tàu đánh VN với binh lực lớn nhất là vào thời nhà Minh với quân số 215,000.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Em cũng có tham gia bình chọn trong sách đấy bác ạ! Nhưng phần bình... lọan thì ko chơi!
    Em ko có ý nói khái gì đâu! Vì trong vụ bình chọn này, các sếp ko đưa ra trận nào đời Nguyễn cả! Theo em thì trận đại đồn Chí Hòa là cay nhất! Nếu như một thời gian dài liên quân Pháp-Tây Ban Nha chiếm đóng Gia Định chỉ có 300 quân, chỉ riêng Tôn Thất Hiệp đã có 6.000 mà ko đánh. Lúc Nguyễn Tri Phương vào, có tổng quân số là 45.000, trong khi Pháp chỉ có 5.000. Vậy mà ông chọn phòng ngự tiêu cực! đại đồn xây cả năm trời, vậy mà chỉ giữ được hơn 1 ngày! Sau trận này, Pháp xây dựng được bàn đạp để chiếm Việt Nam.
    Còn sau trận Mang Cá, tòan bộ Đại Nam chính thức mất chủ quyền vào tay Pháp!
  5. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Các bác có biết trận chiến giữa hai trình độ quân sự kỹ thuật chênh hẳn nhau như vậy diễn ra thế nào không mà bảo là cay? Theo tôi thua là đúng rồi vì đã thua từ khi chưa đánh kìa.
  6. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Có nên xếp cuộc bắc phạt ghẻ của Nùng Trí Cao người Lạng Sơn vào làm mọt trong những chiến công của đất nước ko nhỉ ? Ông ta là một người dân tộc và được triều Lý ( hay Trần ) cho phép dân Lạng Sơn được lập đền thờ, và bây giờ ở đó người dân vẫn còn thờ ông ta. Cuộc tấn công Lưỡng Quảng của Nùng Trí Cao xét ra còn lớn hơn cả của Thái úy Lý Thường Kiệt.
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Đọc trong quyển Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, thì thời Tây Sơn có hạm đội rất hùng hậu. Theo mô tả của những người Pháp trong quân Nguyễn Ánh thì thủy quân Tây Sơn có nhiều loại tàu chiến, loại lớn chở 500 quân và 60 pháo hoặc 400 quân và 50 pháo, loại cỡ vừa chở 200 quân và 16 pháo, loại nhỏ có 1 pháo hoặc không có, chở từ 50-100 quân. Riêng trận Thị Nại năm 1801, thủy quân Tây Sơn có khoảng 15 thuyền loại lớn, khoảng 40-50 loại vừa, loại nhỏ đến hàng trăm chiếc, và 1.600 thuyền vận tải. Trong khi đa phần thuyền Nguyễn Ánh chỉ chở được 200 quân và vài khẩu pháo. Trong chiến dịch đánh quân Trịnh, Nguyễn Huệ cũng đã dùng một hạm đội 1.000 thuyền chiến và thuyền vận tải.
    Ngoài ra pháo dưới thời Tây Sơn cũng chiếm số lượng lớn và rất quan trọng, gồm cả tự chế lẫn pháo do Pháp, Bồ Đào Nha chế tạo. Ở luỹ Trấn Ninh năm 1802, quân Tây Sơn khi rút lui đã bỏ lại tới 700 khẩu pháo.
    Trận RG-XM, thủy quân Tây Sơn tuy ít hơn nhưng theo tác giả thì có hoả lực pháo trên thuyền chiến vượt trội thủy quân Xiêm.
    Trận RG-XM, đúng như bác danngoc nói, diễn ra rất đơn giản. Hạm đội Xiêm tiến đánh Mĩ Tho bị các đội khiêu chiến Tây Sơn dẫn dắt vào khu vực phục kích. Khi toàn bộ hạm đội Xiêm đã lọt vào khúc sông dài 7km thì thuỷ quân Tây Sơn từ rạch Gầm và rạch Xoài Mút tiến ra khoá chặt, phối hợp với các thuyền chiến ẩn sau cù lao Thới Sơn tiến ra đánh tổng lực vào thuỷ quân Xiêm. Trong khi đó, pháo binh và bộ binh Tây Sơn bố trí bí mật 2 bên bờ và trên cù lao Thới Sơn đánh vào sườn địch.
    Như vậy trận đánh đơn thuần là cuộc đọ pháo giữa thủy quân Xiêm và thuỷ quân+lục quân Tây Sơn. Pháo là vũ khí chính và quyết định, mặc dù có thể quân Tây Sơn cũng xử dụng thêm tên nỏ, hoả hổ... nhưng chỉ là phụ. Còn "đội quân người nhái" hay "các kị binh cảm tử" cũng như trận đánh của nữ tướng Bùi Thị Xuân chỉ là thêu dệt.
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Vâng, nhân chủ đề này xin được đi sâu phân tích từng trận đánh, chủ yếu là về tương quan lực lượng, nghệ thuật chiến dịch? dựa theo phân tích của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Còn diễn biến trận đánh chỉ nói sơ lược hoặc bỏ qua vì hầu như ở đây ai cũng biết.
    ----
    TRẬN BẠCH ĐẰNG (938)
    Trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ 2 (938), trận Bạch Đằng do Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy là trận quyết chiến chiến lược, là cuộc đọ sức giữa dân tộc ta và giặc Nam Hán. Trận đánh này có những nét rất độc đáo và có ý nghĩa lớn trên nhiều lĩnh vực.
    Cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và mang đầy tham vọng này của Nam Hán được che đậy dưới chiêu bài ?ocứu giúp? Kiều Công Tiễn. Quân đội Nam Hán đã dày dạn trong chiến tranh ở vùng Hoa Nam và trong cuộc đàn áp các phong trào chống đối của các ?oMan trại? ở vùng Quảng Đông và Quảng Tây. Vua Nam Hán sử dụng 1 lực lượng binh thuyền lớn, giao cho con là Vạn Vương Hoàng Thao làm Tỉnh hải quân tiết độ sứ thống lĩng đạo quân viễn chinh và tự mình làm tướng dẫn 1 đạo quân quân đóng ở trấn Hải Môn, sát biên giới, làm kế thanh viện, kịp thời yểm trợ cho Hoàng Thao.
    Như vậy, Hoàng Thao vừa được sự tiếp ứng của Lưu Cung phía sau, vừa có lực lượng nội ứng của bọn phản bội Kiều Công Tiễn ở trong nước.
    Được tin quân Nam Hán chuẩn bị kéo sang xâm lược, việc làm cần kíp trước hết của Ngô Quyền là tổ chức đạo quân từ châu Ái tiến ra Bắc để trị tội tên Việt gian phản bội. Thế lực phản bội nhanh chóng bị dẹp tan. Thành công này vừa làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của địch, vừa tạo ra thế chủ động cho cuộc kháng chiến.
    Bấy giờ Hoàng Thao đã được lệnh chỉ huy đạo thủy quân tiến vào sông Bạch Đằng. Trước tình hình đó, tại thành Đại La, Ngô Quyền họp các tướng, bàn rằng :
    ?oHoàng Thao là 1 đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta có sức mạnh địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song họ có lợi thế ở thuyền. Nếu ta sai đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vát nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không cho chiếc nào ra thoát? (Đại Việt SKTT)
    Nhận định của Ngô Quyền chứng tỏ ông là 1 viên tướng biết địch biết ta. Hoàng Thao rất hung hăng nhưng còn hạn chế. Quân địch từ xa đến còn mệt mỏi lại mất nội ứng, tinh thần yếu kém; trong khi đó khí thế quân ta đang mạnh, lại làm chủ tình hình. Đó là điều kiện dẫn đến sự tất thắng của quân ta, sự bại vong không thể tránh khỏi của địch. Tuy vậy Ngô Quyền cũng chỉ ra được lợi thế của địch là việc chúng có thuyền chiến mạnh. Nếu ta chủ quan không phòng bị chu đáo thì kết cục thắng bại của cuộc kháng chiến chưa thể lường trước.
    Về lực lượng của các bên, sử cũ không nói rõ cụ thể. Qua lời bình của sư gia Lê Văn Hưu ?oTiền Ngô Vương có thể lấy quân ?omới họp? của đất Việt mà đánh tan được trăm vạn quân Hoàng Thao?, thì chúng ta có thể biết được tương quan lực lượng giữa ta và địch là rất chênh lệnh.
    Về phía Nam Hán, từ hàng ngàn năm, Quảng Châu là 1 trung tâm mậu dịch đối ngoại lớn, có nhiều thuyền buôn trên biển. Nam Hán có thủy quân mạnh và quân đội của họ đã trải qua kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng chiến đấu của thủy quân hầu hết là những người đã từng làm nghề đánh cá, làm muối, những thủy thủ và ? cướp biển ?" Những người lính đã được huấn luyện chu đáo vì mục đích chinh phục và ? ăn cướp.
    Vũ khí trang bị của Nam Hán là bạch binh, ngoài câu liêm, móc treo, gươpm giáo, còn có nhiều cung nỏ.
    Nỏ có nhiều loại, trong đó nỏ nặng với hiệu suất chiến đấu cao và được trang bị tối đa. Quân Nam Hán rất giỏi sử dụng nỏ. Sử Trung Quốc gọi họ là đội quân ?oThần nỏ?
    Về phía quân đội của Ngô Quyền, chúng ta chỉ biết rằng số đó bao gồm quân riêng của Ngô Quyền trấn giữ châu Ái trước đây, những đơn vị trung thành với Dương Đình Nghệ, cùng với quân của các tướng, các hào kiệt địa phương đến tụ hội và các đội dân binh do các làng xã tổ chức.
    Về mặt vũ khí, chiến thuyền còn nhiều hạn chế hơn so với quân Nam Hán. Qua nghiên cứu khảo cổ học cùng với tư liệu đối chiếu của Trung Quốc có thể đoán rằng quân đội của Ngô Quyền được trang bị các loại cung nỏ, khiên, mộc, lao, gậy, kiếm, dao găm, giáo, kích? Ngoài ra khi chiến đấu trên thuyền quân sỹ còn dùng cả câu liêm, móc treo, lưới cá?
    Về thuyền, có thể lúc đó quân đội của Ngô Quyền đã dùng nhiều loại thuyền, trong đó có thuyền ?omông đồng? mà sử sách thường nói tới. Thuyền ?omông đồng? ?omỗi thuyền có có 25 thủy thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi nhanh như gió? (Đại Việt SKTT) là loại thuyền hẹp và dài, có 2 đáy, lớn nhỏ khác nhau, rất tiện sử dụng trong chiến đấu.
    Như vậy xét trên góc độ tiềm lực vật chất, trang bị quân sự thì quân ta thua kém quân giặc, nhưng về ?othiên thời, địa lợi, nhân hòa? thì quân ta hơn. Chính vì thế Ngô Quyền đã khẳng định quân địch sẽ ?odễ bề chế ngự? và ?otất phá được?.
    Trên cơ, đánh giá 1 cách chính xác tương quan lực lượng giữa ta và địch, thấy mặt mạnh của địch và hạn chế của ta, đồng thời lại thấy rõ mặt yếu chí mạng của quân địch và mạnh cơ bản của ta, Ngô Quyền đi đến xác định mưu lược đánh địch bằng kế tổ chức một trận đánh lớn tiêu diệt đạo binh thuyền giặc ngay tại vùng cửa sông Bạch Đằng, nơi chúng tất phải đi qua để có thể tiến vào nội địa nước ta.
    Trong lời bàn với các tướng, Ngô Quyền đã đề xuất kế sách đánh thủy quân giặc là sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa sông và lợi dụng quy luật lên xuống của nước triều để chế ngự thuyền giặc, không cho chúng chạy thoát. Đó chính là mưu lược phản công với quyết tâm đánh thắng địch ngay khi chúng vừa xâm phạm đến bờ cõi nước ta.
    Qua mưu lược chống giặc mà Ngô Quyền đã bàn với các tướng có thể thấy mục đích của trận đánh là nhằm tiêu diệt toàn bộ đạo binh thuyền lớn do hoàng Thao chỉ huy khi chúng vượt biển tiến tới vùng cửa sông Bạch Đằng.
    - Đạo binh thuyền lớn của Hoàng Thao là chủ lực.
    - Còn đạo quân của Lưu Cung ở Hải Môn là đạo tiếp theo, lực lượng dự bi.
    - Nếu đạo quân Hoàng Thao tiến sang thuận lợi, hoặc chỉ bị quân ta chặn đánh tiêu hao, nhưng vẫn tiến được, thì đạo quân dự bị của lưu Cung ắt sẽ tràn sang tăng cường để đè bẹp lực lượng kháng chiến.
    - Nhưng nếu đạo quân Hoàng Thao bị tiêu diệt gọn nhanh chóng thì đạo quân của Lưu Cung sẽ không kịp sang tăng viện, mà chỉ còn cách duy nhất là hạ cờ rút lui để an toàn tính mạng
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 21:54 ngày 22/02/2005
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Qua lời Ngô Quyền định kế chống giặc có thể thấy rõ một số điểm thuộc cách đánh trong trận quyết chiến này như sau :
    - Về đối tượng tác chiến : Toàn bộ đoàn binh thuyền lớn của địch do Hoàng Thao chỉ huy, gồm hàng vạn quân với hàng trăm thuyền cỡ lớn.
    - Về địa bàn tác chiến : Ngô Quyền chọn 1 cửa sông mà khả năng quân địch sẽ tiến vào để bố trí trận địa mai phục, đó là cửa sông Bạch Đằng, nơi có địa thế hiểm trở có thể bố trí 1 trận thủy chiến
    - Về cách đánh : Ngô Quyền chủ trương bố trí trận địa mai phục với những cọc gỗ bịt sắt nhọn đóng ngầm dưới nước để cản phá thuyền giặc, kết hợp giữa vận động tiến công và mai phục, đợi khi nước triều lên sẽ khiêu chiến nhử địch vào trận địa cọc ngầm rồi tiến công tiêu diệt chúng khi nước triều xuống.
    - Về sử dụng lực lượng : Lực lượng chiến đấu sẽ có 2 bộ phận :
    + Một lực lượng với những chiến thuyền nhỏ và nhẹ, cơ động nhanh có nhiệm vụ khiêu chiến, nhử địch
    + Bộ phận chủ lực gồm phần lớn quân thủy bộ bố trí mai phục để tiến công tiêu diệt khi chúng đã lọt vào trận địa cọc ngầm.
    Quân đội chủ lực của Ngô Quyền sửa soạn chiến đấu trong sự phối hợp với các đội dân binh của các làng xã và sự tham gia phục vụ chiến đấu của nhân dân trong vùng. Ngoài Ngô Quyền là vị chỉ huy tối cao, còn có các tướng Ngô Xương Ngập (con cả Ngô Quyền), Dương Tam Kha (Con Dương Đình Nghệ, em vợ Ngô Quyền), Đỗ Cảnh Thạc.
    Sau khi đánh tan bọn phản bội Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền và bộ tham mưu tiến quân về vùng biển đông bắc cùng với nhân dân địa phương chuẩn bị thế trận đón đánh quân Nam Hán.
    Vùng sông Bạch Đằng, nơi được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến là 1 vùng địa lý quan trọng, là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ biển Đông vào nội địa nước ta. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ vùng đông bắc Bắc Bộ đổ ra vịnh Hạ Long. Từ cửa biển ngược lên gần 20 km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi đá vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng hiểm trở. Trước cửa sông Bạch Đằng, về phía bắc là những đảo nhỏ từ vịnh Hạ Long kéo tới. Thuyền từ biển vào sông, len qua vùng quần đảo này khi gặp sóng to gió mạnh vẫn bảo đảm an toàn. 2 bên bờ sông (nay là đồng ruộng và xóm làng) xưa kia còn nhiều cánh rừng rậm?
    Giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, Ngô Quyền khẩn trương xây dựng 1 thế trận mai phục lợi hại để chủ động phá giặc.

  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Trận đại đồn Chí Hòa, Việt ta gọi là đồn Kỳ Hòa, Pháp gọi là Chí Hòa. Đây thực ra là một hệ thống chiến lũy liên hoàn, nhằm mục đích bao vây quân Pháp trong thành Gia Định.
    Điểm sơ qua tình hình quân đội ta lúc đó, thấy khá giống bây giờ. Vũ khí thực ra cũng đầy đủ nhưng lạc hậu, thường là cất kỹ trong kho hơn là phát cho lính. Bởi vậy 50 tên quân mới có 5 tên trang bị súng điểu thương châm ngòi. Mỗi năm tập bắn chỉ có một lần, mỗi lần 6 viên. Ai bắn quá thì phải bồi thường. Mà theo cụ Vương Hồng Sển thì lúc quân Pháp chiếm thành Gia Định có chiếm được
    -Hai mươi ngàn (20.000) cây súng tay đủ cỡ, và một số binh khí như gươm giáo v.v... nhiều không thể đếm.
    - Tám mươi lăm (85) thùng thuốc súng và vô số kể nào bì súng, hỏa pháo, diêm sanh, tiêu thạch (salpêtre), chì v.v...
    - Một số lúa trữ trong kho đủ sức nuôi từ sáu đến tám ngàn (6.000 ?" 8.000) nhân khẩu trong vòng một năm. Số lúa này đốt, cháy âm ỉ gần 3 năm trời.
    - Lại với một số tiền bản xứ (điếu và kẽm) để trong kho ước định và trị giá bằng 130.000 quan tiền lang sa thời đó.
    Năm 1860, quân Pháp và Y Pha Nho rút khỏi Đà Nẵng, chỉ để lại non 1000 quân tại Gia Định cố thủ, còn đâu kéo tuốt sang Tàu theo Anh đánh nhau với nhà Thanh.
    Cụ Nguyễn Tri Phương được điều vào Nam chỉ huy quân đội. Cụ áp dụng lại kế sách vây giặc ở Đà Nẵng, đắp đồn lũy tứ phía nhằm tuyệt đường lương. Cụ làm vậy vì biết sức quân ta có hạn. Nhưng cẩn thận quá hóa hỏng, khiến cho quân Pháp cầm cự được cho đến khi viện binh đến. Lúc đó quân Pháp theo đúng cách đánh của Nã Phá Luân, tập trung quân đội thành một khối chủ lực mà đánh. Quân Pháp có 3500 quân tiếp viện+ 1000 quân có sẵn, quân ta có hơn 1 vạn người (hoặc 4 vạn). Sau 2 ngày chiến đấu quân ta phải bỏ chạy lên Biên Hòa, quân Pháp hạ đồn mà mất có 300 quân. Sau này quân Pháp bổ sung thêm nhiều là do bọn giáo dân theo giúp.
    Thành Hà Nội và thành Gia Định thời Tự Đức quy mô hết sức nhỏ bé, tất cả đều do vua Minh Mạng sợ phản loạn mà sai phá đi. Kết quả là quân Pháp, vốn gỏi về công thành, dễ dàng hạ xong chỉ trong một buổi mà chết có vài chục tên lính.

Chia sẻ trang này