1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bình Định xưa

Chủ đề trong 'Bình Định' bởi tranhanam, 13/09/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. pumpkin_misa

    pumpkin_misa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/10/2006
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0
    Những di tích về Bác Hồ trên quê hương Bình Định
    03/06/2005
    Bình Định - vùng đất rất vinh dự và tự hào là nơi Bác Hồ dừng chân trong những năm vào Nam bôn ba tìm đường ra nước ngoài hoạt động cứu nước. Bình Khê, An Nhơn, Quy Nhơn? là những địa danh ghi dấu bước chân của Người cùng một ý chí sắt đá, ra đi tìm đường làm người cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Và, cũng chính mảnh đất này đã ghi nhận những công lao của cụ Nguyễn Sinh Huy (thân sinh Bác Hồ), từng làm Tri huyện Bình Khê (huyện Tây Sơn ngày nay) từ ngày 1-7-1909 đến ngày 17-1-1910 và bị triều đình nhà Nguyễn giáng xuống 4 cấp, sau đó thải hồi vì tội "yêu nước thương dân".
    Trên đường từ Huế vào Sài Gòn để đáp tàu ra nước ngoài "tìm con đường giúp đồng bào thoát khỏi ách thống trị của Pháp", Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu- đã dừng chân lại tỉnh Bình Định gần 1 năm. Trong thời gian này, Người có đến nhiều nơi, nhưng chủ yếu sống tại Quy Nhơn ở nhà giáo học Phạm Ngọc Thọ- bạn thân của cụ Nguyễn Sinh Huy, dạy trường Pháp - Việt Quy Nhơn- để học thêm tiếng Pháp. Thỉnh thoảng Người lên Bình Khê thăm cha, hoặc cụ Huy xuống Quy Nhơn thăm con. Trong "Búp sen xanh", Sơn Tùng viết về ngày đầu tiên Nguyễn Tất Thành đến Bình Khê: "Sau những ngày vượt núi trèo non, Nguyễn Tất Thành đã tới huyện Bình Khê. Anh bâng khuâng tắm ánh mắt vào dòng sông Côn hiền hòa và ngẫm nghĩ trước những tầng núi cao hùng vĩ, nơi sinh ra người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Thành bước vào cửa Huyện đường Bình Khê lúc chiều tà. Quan huyện Nguyễn Sinh Huy và vài người lính lệ đang làm vườn?". Trong "Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc", Nguyễn Hữu Tiến kể lại rằng: "Những lần Cung (tức Nguyễn Tất Thành) từ Quy Nhơn lên thăm cha đều được cụ Huy đưa đi thăm di tích lịch sử vùng Tây Sơn để chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ?".
    Ngoài Quy Nhơn và Bình Khê, trong thời gian lưu lại Bình Định, Nguyễn Tất Thành còn đến một số nơi khác như: tỉnh thành Bình Định (huyện An Nhơn) là nơi thỉnh thoảng cụ Huy đến làm việc và chờ trở về Huế sau khi thôi chức Tri huyện Bình Khê; thăm nhà cụ Đào Tấn (ở Vinh Thạnh, Phước Lộc, Tuy Phước) - là bạn vong niên với cụ Huy, lúc ấy đã cáo quan về quê; hoặc "thỉnh thoảng cụ Huy đưa anh Thành thăm những người quen ở Hữu Giang?".
    Những ký ức trong nhân dân về "Quan Tri huyện thanh liêm", "Người con trai thứ có đôi mắt tinh anh, đôi lần có lên Đồng Phó thăm cha"? (ý nói Nguyễn Tất Thành) và những di tích gắn với sự nghiệp của Người còn lưu mãi đến ngày nay như:
    Di tích Huyện đường Bình Khê:
    Địa điểm Huyện đường Bình Khê xưa - nơi cụ Nguyễn Sinh Huy làm Tri huyện - thuộc thôn Thượng Giang, xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, tại trụ sở UBND xã Tây Giang ngày nay. Xưa kia, Huyện đường nằm hướng mặt về phía đông, trông ra dòng sông Côn. Công đường kiến trúc kiểu chữ "Môn", dãy chính là nơi Tri huyện làm việc, hai bên là nơi làm việc của Lại mục, Thừa phái và Lệ mục. Phía sau công đường có nhà bông - nơi Tri huyện ăn ở, nghỉ ngơi ngoài giờ làm việc - và nhà tạm giữ thường phạm ở Huyện đường. Các dãy nhà công đường kiến trúc theo kiểu nhà lá mái 3 gian 2 chái, khung gỗ chắc chắn, vách tường bằng đất tô trát ngay thẳng, mái nhà lợp tranh săng, cửa gỗ đóng kiểu bàn pha. Nền nhà đắp cao, xung quanh kè đá. Lối vào Huyện đường ở phía đông theo con đường từ bến đò lên, cổng ngõ làm bằng gỗ, hàng rào bao quanh bằng cây xanh. Từ cổng vào sân hai bên có hai cây vông đồng tạo bóng mát. Ngoài ra, trong khuôn viên Huyện đường còn có khu vực trồng cây cảnh, trồng rau để quan và lính lệ thưởng ngoạn, chăm sóc lúc rảnh rỗi. Tuy nhiên, đến nay toàn bộ phần kiến trúc cũ không còn dấu tích gì.
    Trường Pháp - Việt Quy Nhơn:
    Nơi Nguyễn Tất Thành học thêm tiếng Pháp trong thời gian ở Bình Định. Trước kia trường thường được gọi là trường Sở Cò, vì ở gần cơ quan cảnh sát (Gendarmerie) Pháp. Cổng trường ghi mấy chữ quốc ngữ "Pháp - Việt trường". Trường xây gạch lợp ngói vảy nhỏ, trên mái đắp các đường vôi dày đè ngói; có các gian mở lớp Đồng ấu (Enfantin), Dự bị (Préparatoire) và Sơ đẳng (Elémentaire). Trường nằm cạnh bờ đầm, sau Tòa giám mục, trước mặt là Trạm khí tượng (Météorologie) và sân vận động (khu vực từ đường Trần Bình Trọng xuống đường Phan Chu Trinh ngày nay). Địa điểm của trường hiện nay là khu vực sau Tòa giám mục giáo phận Quy Nhơn, nằm phía bắc đường Bạch Đằng, bên trái đường Trần Bình Trọng. Đây là trường công đầu tiên do Pháp mở cho thành phố Quy Nhơn và cả tỉnh Bình Định trong thập kỷ đầu của thế kỷ XX.
    Nhà ông giáo Phạm Ngọc Thọ:
    Từ nhiều nguồn tài liệu, các nhà nghiên cứu cho rằng, khả năng Alliance Francaise Quy Nhơn là nơi gia đình giáo học Phạm Ngọc Thọ ở từ 1905 -1910, tức nơi Nguyễn Tất Thành trú ngụ một thời gian, khi dừng chân lại Bình Định trong những năm 1909 - 1910, Alliance Francaise lúc đó gọi là "Pháp truyền học hội" tại Quy Nhơn, vừa mở các lớp học, vừa là nơi ở của các thầy giáo trường Pháp - Việt Quy Nhơn và số học sinh các dân tộc ít người Tây Nguyên. Vị trí Alliance Francaise Quy Nhơn trước kia, phần lớn nằm trong khuôn viên Khu tập thể cán bộ, dưới đường Trần Bình Trọng và trên Trường Quân chính binh đoàn Tây Nguyên hiện nay.
    Tỉnh thành Bình Định (An Nhơn):
    Tại Tỉnh thành Bình Định xưa, Nguyễn Tất Thành gặp cha trong khoảng thời gian cụ Nguyễn Sinh Huy chấm thi Hương (từ 18-5 đến 17-6-1909); và lúc cụ Huy bị cách chức Tri huyện Bình Khê, về nằm chờ tại Tỉnh thành, đợi ngày đưa ra Huế. Do đó có thể nói, trong thời gian dừng chân ở Bình Định, ngoài Quy Nhơn, Bình Khê, Nguyễn Tất Thành có đến và lưu lại thị trấn Bình Định một thời gian ngắn. Nguyễn Tất Thành có khả năng ở Dịch đình (còn gọi là Dịch xá, Thừa dịch) hoặc trường học tỉnh Bình Định (còn gọi là Trường tỉnh học, Trường Đốc, Ký túc đình?). Dịch đình là một ngôi nhà vuông, lợp ngói vảy; phía sau có dãy nhà gỗ lợp tranh, có giếng nước. Khi Tỉnh thành chưa dời về Quy Nhơn, Dịch đình là nơi đón tiếp các quan từ xa đến, các quan trong tỉnh về làm việc với quan Tổng đốc. Dịch đình xưa nằm cạnh quốc lộ 1, tại ngã ba vào thành Bình Định, nay là góc phía nam Nhà văn hóa huyện An Nhơn.
    Những địa điểm nói trên, dấu tích còn lại không bằng các di tích khác có liên quan đến thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các tỉnh như Nghệ An, Huế, Bình Thuận, Đồng Tháp?, nhưng đó là những nơi ghi dấu một sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu về Hồ Chủ tịch. Thời gian cụ Nguyễn Sinh Huy làm Tri huyện Bình Khê tuy ngắn ngủi, cũng như những ngày tháng Nguyễn Tất Thành lưu lại ở Bình Định không là bao, nhưng đó là một sự kiện lịch sử quan trọng đưa Nguyễn Tất Thành bước vào cuộc trường chinh tìm đường cứu nước, cứu dân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do dân tộc và trở thành Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Điều này buộc chúng ta suy nghĩ cần tạo dựng hình thức lưu niệm như thế nào về Bác Hồ trên quê hương Bình Định ?
    (Baobinhdinh)

  2. pumpkin_misa

    pumpkin_misa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/10/2006
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0

    HUYỀN THOẠI VỀ KHO BÁU CHĂM Ở THÁP CỔ BÌNH ĐỊNH
    Vương quốc Chămpa (192-1822) đã sáng tạo ra một nền văn hóa độc đáo, mang đậm sắc thái riêng biệt. Đến nay, tỉnh Bình Định đã phát hiện khoảng 117 cổ vật thời Chămpa và 414 sản phẩm làm bằng gốm cổ thuộc nhiều giai đoạn khác nhau. Đáng chú ý là kỹ thuật xây dựng tháp Chàm - một trong những đề tài được đưa ra khảo luận khoa học...

    Bí ẩn của tháp Chàm
    Theo Viện Khảo cổ học Việt Nam, di tích văn hóa Chăm được phân bổ đều khắp trên dải đất các tỉnh duyên hải miền Trung, từ vĩ tuyến 11 đến 18, từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận. ở Tây nguyên, các di tích Chăm cũng xuất hiện rải rác ở các địa phương như: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Bình Định xưa kia từng là kinh đô của Vương quốc Chăm, hiện ở đây vẫn còn lưu lại 14 ngôi tháp cổ. Những cuộc khai quật tự phát của cư dân đã tìm thấy nhiều di vật cổ có giá trị như buồng cau, lá trầu, những vật thờ cúng bằng vàng... nằm sâu dưới lòng đất từ cả ngàn năm nay. Bình Định thuộc vùng Vijava từ thế kỷ X đến XV, từng là kinh đô của Chămpa (1000-1471). Cùng với thành Chà Bàn, hàng loạt công trình tôn giáo cũng đã được xây dựng ở đây. Khác với di tích Chăm ở Quảng Nam rất tập trung, các di tích ở Bình Định lại được xây dựng rải rác khắp nơi. Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh: Bánh ít, Dương Long, Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Phú Lốc, Phú Thiện, Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra, còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, An Thành, Uất Trì và hàng loạt tác phẩm điêu khắc - những phế tích của tháp Chàm như giếng cổ hình vuông, rắn Naga, trụ văn bia, tượng thần điểu Garuđa, phù điêu Lăng Ông, tượng tu sĩ, khu mộ cổ... đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong khi canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa Phật Lồi. ở Quy Nhơn, hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Chăm tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Vương quốc Chămpa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi tháp cổ với những kiểu kiến trúc, chạm trổ độc đáo, bí hiểm. Ở khu vực duyên hải miền Trung hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi tháp cổ lớn nhỏ.
    Và con tàu gặp nạn...
    Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les Tours kiames de la Province de Binh Dinh như sau: ?oTrong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá...".
    Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp). Đến tháng 10.1995, sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển..., R. Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R. Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ XX, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương - Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến đi định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách cùng hàng tấn cổ vật bằng vàng và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorbio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorbio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thỏi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.
    Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại... kho báu mà tàu Mêkông có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijava từ Quảng Nam đến Bình Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Vương quốc Chămpa.
    Những thỏi vàng ròng biến mất
    Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng, đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí... Truyền thuyết cũng cho biết rằng, người Chăm sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Chămpa được các nhà khoa học Pháp nhắc đến từ khá lâu. Kho báu cuối cùng - nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được đề cập trong tác phẩm Un royaume disparu - Les Chams et leur art - 1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Chămpa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Chàm cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng: Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại.
    Ngàn năm còn một chút này...
    Tháp Đôi được xây dựng vào cuối thế kỷ XII còn được gọi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được Nhà nước xếp vào danh mục những di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. So với các ngọn tháp khác trong vùng, Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng, đến nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lý do của sự khác thường này.
    Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng "Tây Sơn hạ đạo" để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long. Ngày xưa người Pháp gọi đây là Tháp Ngà, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 m. Các hệ thống cửa phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy, nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại, chúng ta liên tưởng đến những nghệ nhân Chăm đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ XII. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ Văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi, tháp Dương Long là tháp Cánh Tiên và tháp Bánh ít. Tháp Cánh Tiên được người Chăm xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo tài liệu của người Pháp, tháp Cánh Tiên còn được gọi là Tháp Đồng, nhưng vì sao có tên gọi này thì vẫn chưa xác định được. Tháp cao khoảng 20 m, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi tháp cổ một dáng vẻ độc đáo. Khác với tháp Cánh Tiên, cụm tháp Bánh ít có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh ít bởi vì khi đứng từ xa nhìn lại, cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai - một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là Tháp Bạc. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20 km. 4 ngôi tháp cổ này đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Chăm cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước). Người dân ở đây kể lại rằng, thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Chàm Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất. Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995, ngọn tháp này đã được Nhà nước xếp hạng di tích. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Chàm khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc. Người Pháp đặt tên là Tháp Vàng. Phú Lốc nằm giáp ranh giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 m so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp Hòn Chuông ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp cổ này cùng nhiều tháp Chàm khác đang đòi hỏi có sự trùng tu.
    Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Chàm mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng ở đó còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần được làm sáng tỏ.
  3. pumpkin_misa

    pumpkin_misa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/10/2006
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0
    Thương Lắm Tiếng "Nẫu"
    Khải Nhân

    Cần nói ngay, người viết bài này, vốn chẳng phải người xứ nẫu. Nói vậy từ đầu để bạn khỏi trách tôi cứ đi "ca" tiếng nói của quê mình.
    Ấy, ngày mới đến đất này, nghe tiếng nẫu, chẳng phải tôi cứ dỏng tai lên nghe, tròn xoe cả mắt để nhìn miệng đến? mỏi. Vậy rồi, qua năm qua tháng, nay thì tiếng nẫu đã thật quen, một ngày đi đâu xa không nghe là thấy? nhơ nhớ. Tôi nhớ tiếng nẫu, cũng như người Việt mình nhớ điệu quan họ, như người Nghệ nhớ câu ví dặm và cũng như chính người xứ nẫu yêu điệu bài chòi. Hẳn, trong từng thanh âm mến thương ấy, lắng lại một nét hồn dân tộc, hồn miền đất "đã hóa tâm hồn" mình.
    Tiếng nẫu nghe thật trìu mến, nó khác với tiếng Huế ngọt ngào, tiếng Bắc lịch lãm, tiếng Nghệ thân thương. Này là một người vợ gọi chồng: "Anh ơi! Dìa ăn cum" (về ăn cơm). Này là tiếng người mẹ dặn với: "Túi thui túi thít, đi đứng cẩn thận nghen con!" (Tối thui tối thít). Này là lời bà ru cháu: "Ai dìa ai ở mặc ai/ Bậu thì ở lại sáng mơi hãy dìa" (về?. mai)?
    Ai người xứ nẫu nghe mà không thấy mát lòng, như giữa trưa bức mà có ngọn gió từ ngoài đồng thổi qua, nghe thơm thảo như bát cơm gạo tám xới giữa ngày đông lạnh giá?
    Tiếng nẫu ra đời bởi đâu? Hổng rành về lịch sử ngôn ngữ nên đành tạm lý giải thế này: Từ năm 1470 trở đi, cấu trúc xã hội trên vùng đất mới có sự xáo trộn đáng kể. Bên người Chiêm ở lại, còn có người Việt vào khai hoang lập ấp. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được cho kiêm lãnh cả trấn Quảng Nam, "chính sự khoan hòa, việc gì cũng làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ" làm cho vùng đất đàng Trong nhanh chóng trở thành nơi an cư lạc nghiệp cho những người di dân vào cuối thế kỷ XVI sang thế kỷ XVII. Rồi người Minh Hương phản Thanh phục Minh bỏ xứ di cư sang, hay người Hoa đi giao thương buôn bán trên vùng đất mới của người Việt, một số đã dừng chân lập nghiệp trên mảnh đất này.
    Sự tụ cư của những dòng người ấy trên một mảnh đất với những điều kiện địa - sinh thái có nhiều điểm khác biệt với quê hương họ, đã tạo thành một cuộc hợp lưu về văn hóa, từ nết ăn, nếp mặc, sinh hoạt hàng ngày đến các nghi lễ thờ cúng và hẳn nhiên, trong đó có cả tiếng nói.
    Cần nhớ là trong những cuộc chuyển cư, di cư của người Việt, cư dân phần nhiều là dân Thanh - Nghệ. Mà tiếng Nghệ, theo các nhà ngôn ngữ học, vốn mang nhiều sắc thái tiếng Việt cổ. Khi vào cộng cư trên đất này, tiếng ấy hợp với tiếng cư dân bản địa tạo thành một phương ngữ riêng, ấy là tiếng xứ nẫu.
    Nhưng tại sao, tiếng nẫu chỉ có ở vùng Nam Bình Định vào tới Phú Yên, còn Bắc Bình Định lại mang nhiều âm điệu xứ Quảng? Đến đây thì tôi? chịu và xin nhường cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ vậy.
    Một nhà văn nọ đã cất công tra trong Đại Nam thực lục tiền biên để hiểu "nậu" nguyên nghĩa là làm cỏ ruộng, sau dùng chỉ đám đông họp lại để làm ruộng, rồi chỉ làng xóm. Vậy ra đó là nguyên nghĩa của chữ Nẫu, nhưng còn tiếng địa phương của xứ nẫu thì hẳn ra đời cùng với quá trình mở làng, lập ấp ngay từ thời Lê Thánh Tông vậy.
    Ở hoài xứ nẫu, đâm ra tôi cũng dần biết nói tiếng nẫu, mến người xứ nẫu. Người xứ nẫu ăn cục nói hòn, nhưng chắc thiệt. Yêu hổng yêu thì thâu, nói dứt phát (Yêu không yêu thì thôi, nói dứt khoát). Cái khí chất ăn sóng, nói gió của những cư dân đất này cũng góp vào tiếng nẫu cái mạnh mẽ trong sắc thái ngôn ngữ, cái độ nồng như mang theo cả gió biển và cát nóng.
    Người Bình Định xa quê, nghe tiếng nẫu là nhớ đến quê nhà. Nhà thơ Xuân Diệu những ngày trên đất Bắc, nhớ về vạn Gò Bồi là nhớ những câu ca dao xứ nẫu má ru, bà ru thuở nhỏ, để thấy thương mến những cây xoài Bình Định, những cột đình làng Luật Bình, bãi biển Quy Nhơn, dưa hấu Phương Mai, những thuyền mắm ở Vạn Gò Bồi, cái thành Bình Định cũ buồn như quá khứ... để rồi mang ơn, từ câu hát ru thuở nhỏ, đến hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi, chắt chiu lại trong một người thơ "Trong hơi thở chót dâng trời đất/ Tôi vẫn si tình đến ngất ngây".
    Một tác giả viết về anh hùng Nguyễn Hồng Nhị (người Bình Định) cũng bắt đầu từ "Tiếng mẹ ru từ vành nôi Bình Định/ Giọng à ơi ngọt lịm những trưa hè". Tiếng nói ấy, lời ru ấy nuôi lớn những hồn người, hồn thơ.
    Tôi viết bài này khi đang đọc Tìm hiểu con người xứ Quảng (Nguyên Ngọc chủ biên). Lạ vậy, đọc những dòng chữ viết về vùng đất khác mà lại nghĩ đến đất này - một vùng đất từng một thời chỉ là viễn châu, một thời là kinh thành, đến những con người chỉ chân chất, mộc mạc mà ân cần, hồn hậu nhưng cũng lắm khí phách, ngang tàng, dám sống hết mình. Rồi mong, có ai tâm huyết bỏ lòng nghiên cứu tiếng nẫu, con người xứ nẫu thì hẳn sẽ gặt hái bao điều thú vị. Ta có hẳn mấy tập thật dày địa chí Bình Định mà sao thấy mờ nhạt về con người Bình Định quá - có người đã nhận xét với tôi vậy.
    Chợt nhớ, cách đây vài hôm, trên một diễn đàn ở trang web nọ, tự dưng có người băn khoăn, sao dạo này phát thanh viên Đài Truyền hình Bình Định chỉ thấy nói toàn giọng Bắc. Tự dưng lại thấy thương thương tiếng nẫu (quê người mà nay đã hóa quê mình).

Chia sẻ trang này