Bộ binh cùng làm 1 bài về bộ binh Thời hiện đại, tuy nhiều cuộc chiến tranh đã được tiến hành bằng vũ khí thông minh, vũ khí công nghệ cao nhưng người lính bộ binh vẫn có một vai trò quyết định. Tại sao như vậy? Để hiểu rõ vai trò quyết định này, chúng ta hãy xem bộ binh là gì? Thứ nhất, bộ binh là lính đi bộ, nghĩa là một binh chủng của lục quân, hành quân và tác chiến bằng chính đôi chân của mình. Thứ hai, ngay từ trong những quân đội đầu tiên trên thế giới, bộ binh đã ra đời trước mọi binh chủng, chí ít cũng là trước chiến xa và kị binh. Thứ ba, bộ binh chiếm thành phần đa số trong mọi quân đội. Thứ tư, chức năng, nhiệm vụ trực tiếp của bộ binh là tiêu diệt sinh lực địch, tiến đánh và chiếm giữ đất đai. Nhìn một cách khái quát, quá trình hình thành và phát triển của người lính bộ binh, trong một thời gian dài, là một quá trình đầy những nổi chìm, gian lao, vất vả. Dưới thời cổ đại, khoảng từ 3000 trước Công nguyên, chiến tranh bắt đầu xuất hiện. Phương tiện chiến tranh, là quân đội, ra đời. Trừ những bộ lạc du mục, còn phần lớn quân đội của các dân tộc, nếu như không phải toàn bộ, bao giờ cũng chỉ gồm có bộ binh. Vì điều dễ hiểu là chỉ cần trang bị một cây giáo, một chiếc cung hay sau này là một khẩu súng cầm tay cho một người dân để biến thành người lính, mặc nhiên, người lính đó là bộ binh. Vả lại, vào thời điểm ấy, chiến trường chỉ là một bãi đất rộng, dọc ngang chỉ khoảng trên dưới 100m, vũ khí giao tranh chủ yếu là gươm giáo, cung tên chỉ làm việc hỗ trợ nên việc cơ động trong chiến đấu chỉ là đôi chân người lính. Bởi vậy, bộ binh luôn luôn giữ vai trò quyết định. Nói như thế, không có nghĩa là loại bộ binh nào dưới thời cổ đại cũng giữ vai trò quyết định. Điều đó phụ thuộc vào thành phần giai cấp người lính. Ở phương Đông, vào thời Xuân Thu-Chiến Quốc, với thân phận hèn kém, vào quân ngũ, người lính bộ binh chỉ là đồ binh-tay trần, không có vũ khí. Còn ở phương Tây, chẳng hạn như ở Hi Lạp, những công dân tự do được trang bị đầy đủ vũ khí, giáp trụ, trở thành bộ binh nặng, được xếp ở hàng đầu của đội hình chiến đấu. Những thành phần khác đều là bộ binh nhẹ, trang bị không có gì ngoài tấm lá chắn che thân. Đến cuối thời cổ đại, chiến tranh ngày càng phát triển, chiến trường cũng mở rộng theo. Để đáp ứng nhu cầu cơ động trong tác chiến, binh chủng chiến xa đã ra đời và sau đó, kị binh đã xuất hiện. Bước vào thời trung đại, kị binh từng bước chiếm ưu thế so với bộ binh. Khoảng từ thế kỷ VI-VII trở đi, nhất là đến thế kỷ X, trên phạm vi toàn thế giới, kị binh đã giữ vai trò quyết định. Bộ binh bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Khi đó, ở châu Âu cũng như ở châu Á, người ta rất coi thường bộ binh vì đấy là đội quân gồm toàn người nghèo, chủ yếu là nô lệ và nông nô, không có một tổ chức chắc chắn, không có vũ khí tiến công, và đến phương tiện phòng hộ cũng thiếu. Ở thời trung đại, nếu trên thế giới, bộ binh bị coi khinh "hầu như không ai còn có ý đồ tổ chức nó nữa" thì trái lại ở Việt Nam, đặc biệt là ở thế kỷ XIII, bộ binh lại là lực lượng đột kích chủ yếu đã ba lần chiến thắng quân kị binh Mông Cổ. Phương pháp thích hợp và hiệu quả ở đây là sử dụng số lượng đông đảo của "trăm họ là lính". Những người dân binh, những người lính bộ binh của mọi miền đất nước đã tạo thành "thế trận hình người", với hạt nhân là "du quân" tinh binh thường trực của triều đình, tinh túy về chất lượng, chống lại quân kị binh xâm lược. So với các quân đội thế giới trong suốt cả chiều dài lịch sử, bộ binh Việt Nam lúc nào cũng được coi trọng.bài về bộ binh nào Bác nào biết thêm gì thì góp ý thêm với . Em chỉ biết vậy thôi
Ở Trung Quốc cổ đại, bộ binh được phát triển sau chiến xa. Từ thời nhà Thương, khi chiến xa ra đời thì nó trở thành chủ lực của quân đội. Cho đến thời Xuân Thu, các cuộc chiến vẫn chủ yếu là giữa chiến xa với nhau. Người ta đo lường sức mạnh của một quốc gia dựa trên số chiến xa. Thiên tử có vạn thặng, bá có nghìn thặng, chư hầu trăm thặng. Điều khiển chiến xa có 3 người: hành nhân đánh xe, cung thủ và 1 xa trưởng trang bị 1 cây kích ngắn chiến đấu, hoặc có thể là 1 chiếc mộc. Cả 3 đều thuộc giai cấp quý tộc. Mỗi xe biên chế từ 7-10 nông dân theo để mang vác, chăn ngựa, hầu hạ,...Mỗi khi xung trận, đám nông dân chỉ đứng từ xa hò hét để cổ vũ, chủ thắng thì ùa theo cướp bóc, chủ thua thì chạy, ai chậm bị bắt làm nô lệ. Dần dà do nhu cầu chiến trường, cũng như bảo vệ bản thân họ được trang bị thêm 1 cây kích (hoặc qua, vũ khí chủ yếu thời thượng cổ, phát triển từ cây liềm cắt cỏ). Rồi từ đó nắm vai trò chủ đạo. Giới chiến sỹ quý tộc ít, bại trận 1 lần là chết hết, tiêu vong cả 1 nước. Cho đến cuối đời Xuân Thu, bộ binh vẫn chưa được tổ chức chu đáo, vẫn là 1 đám lộn xộn chạy theo chiến xa. Hai quốc gia đầu tiên phát triển, hoàn thiện bộ binh là Ngô, Việt. 2 nước này nằm ở hạ lưu sông Dương Tử, vùng dày đặc sông ngòi, không thuận lợi cho xa chiến, nên họ chú trọng vào thủy binh. Cho đến khi tiến lên phương Bắc tranh hùng với các quốc gia Trung Nguyên, họ phải phát triển bộ binh. Bộ binh được tổ chức thành đội ngũ quy củ, nếu ko có tổ chức rất dễ bị chiến xa lao vào gây rối loạn, lúc đó chỉ còn làm mồi cho cung thủ trên xe hoặc ăn một nhát kích. Từ cuối thời Xuân Thu ta mới thấy có các đạo quân đông hàng vạn người, chứ lúc trước chỉ vài trăm chiến xa. Chiến xa thời nhà Thương, rất đơn giản, ngựa thuộc giống pony nhỏ bé. Chiến sỹ thuộc giai tầng quý tộc trang bị kích (qua), một vũ khí phát triển từ cây liềm cắt cỏ Vệ binh thời Tây Chu Chiến xa Chu Bộ binh thời xuân thu- chiến quốc Bộ binh trang bị đơn giản, có lẽ là phụ binh hoặc các quốc gia vùng sông Dương tử như Sở, Ngô, Việt
Ở Trung Hoa, tùy từng giai đoạn mà bộ binh trở nên quan trọng hay đẩy xuống thứ yếu. Thời Tần bộ binh là chủ lực quân đội, tất cả đều trang bị giáp trụ đầy đủ. Thời Đường cũng vậy, thậm chí áo giáp cho bộ binh được sản xuất hàng loạt, chia làm 3 kích cỡ giống như size quần áo ngày nay. Từ thời Tam quốc cho đến Nam Bắc triều là thời hoàng kim của quân thiết kỵ. Kỵ binh được phủ giáp từ đầu đến chân, giáp phủ kín cả ngựa. Bộ binh trang bị giáp nhẹ. Kỵ binh, bộ binh thời Nam Bắc triều Thiết kỵ nặng Kỵ binh nhẹ Bộ binh
Tôi cũng có lần đọc 1 bài viết trên tạp chí Lịch sử quân sự của Bộ QP nói về vấn đề này. Thuở ban đầu khi lực lượng vũ trang được hình thành, bộ binh chiếm vị trí chủ đạo nhưng trải qua quá trình phát triển người ta càng ngaỳ càng chú trọng cho các binh chủng khác, lúc đó bộ binh không được coi nữa. Lực lượng bộ binh sau này giữ vai trò chính trong việc đồn trú, giữ thành, phòng vệ; trang bị cho lực lượng này ko tốt. Trong tác chiến người ta lấy lực lượng kỵ binh làm nòng cốt, do tính cơ động và linh hoạt... Còn Việt Nam mình do hoàn cảnh và điều kiện nên suốt quá trình đâú tranh chống ngoại xâm, cha ông ta luôn lấy bộ binh làm lực lượng tác chiến chính, bên cạnh đó có kết hợp các binh chủng nhỏ khác như kỵ binh, tượng binh... Nói chung vũ khí, chiến thuật... là quan trọng nhưng quyết định chính cho chiến thắng là ở con người. Việt Nam vượt qua được những cuộc chiến là ở chỗ đó. Đế quốc bách chiến bách thắng với đoàn kỵ binh tinh nhuệ của Mông Cổ cũng đã phải 3 tháo chạy thục mạng trước sự tấn công mạnh mẽ của các đội quân "đi bộ" của người Việt đó thôi Mongols at the gates of Leignitz in 1241, after defeating the White army of Duke Henry. They are carrying Henry''s head on a lance. Kỵ binh Mông Cổ Một số ông vua của đế chế Nguyên Mông Còn đây là bản đồ đế chế Mông Cổ