1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bồ-đề Đạt-ma có phải là sư tổ của võ phái Thiếu Lâm hay không.

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi cuonglhvt, 29/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Vove

    Vove Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    1.048
    Đã được thích:
    0
    Thế bên Tàu, thời Đông chu liệt quốc, không có võ à ? Rồi các vị nầy phải đợi đến ông Đạt ma qua mới đi tu được à ? Và võ thuật tụi Nam Mỹ, tụi Phi châu cũng bắt nguồn từ Thiếu lâm ?
    Võ thuật sản sinh là do bản năng con người, rồi dần dà được đúc kết thành hệ thống, quyền pháp, etc..
    Tụi Tàu, dù văn hoá rất phong phú, ẩm thực cũng đủ nghề, nhưng phẩn thì cũng thối như ai, có khi thối hơn . Bọn Tàu phù bày ra cái màn Thiếu lâm với Đạt ma ***** để gôm hết xuất phát của võ thuật mọi nơi vào cái nơi nầy . Các vị xem phim Tàu, đọc kiếm hiệp nhiều quá, nên bị hoang tưởng đấy .
  2. lega

    lega Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/02/2002
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    0
    Tớ Học Thiếu Lâm nhưng mà chưa từng tập Khí Công bao giờ ? Nhưng tớ cũng xin trích 1 đoạn bài viết do Giáo Sư Vũ Đức viết về Khí Công Dưỡng Sinh để mọi người cùng tham khảo :
    KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH​
    GS Vũ Đức
    I. Khí công là gì?
    "Khí" người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật Bản, "Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất Hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ, tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.
    "Công" do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian.
    Do đó, "khí công" có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí" (oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.
    Trong võ thuật cổ truyền đông phương, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.
    II. Lược Sử Khí Công:
    Trong ý nghĩa quân bình hơi thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diên loài người trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương, khí công đã được áp dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn học: Y học, Đao học, và Võ học.
    Theo y như Hoàng Đế Nội Kinh (2697 ?" 2597 B.C. trước Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây lịch), nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.
    Vào thời nhà Thương (1783 ?" 1122 B.C trước Tây lịch), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.
    Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề cập đếnn vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 ?" 221 B.C. trước Tây lịch). Sau đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến 220 A.C. sau Tây lịch), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vì y sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.
    Vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và Chim.
    Vào năm 520 ?" 529 sau Tây lịch, ***** Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài đã soạn ra sách Dịch Cân Kinh, đ dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng sức mạnh trong việc luyện võ.
    Về sau, dựa vào nguyên lý khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...
    Theo truyền thuyết, vào triều đại nhà Tống (950 ?" 1279 sau T.L.), tại núi Võ Đang, đạo sĩ Trương Tam Phong sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực Quyền, gồm những động tác giúp người tập luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.
    Về sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ, ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền thuộc ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và Vũ Gia, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục Hợp Bát Pháp Quyền...
    III. Triết Lý Khí Công
    A. Vũ trụ quan
    Theo quan niệm Đông phương, khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận. Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:
    "- Khí tụ lại thành hình, khí tán đi hình loại, muôn vật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh, Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "-Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.
    Hai tính chất căn bản là Âm và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.
    Thiên Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió thổi, mưa rơi, bão tố, sấm sét...d xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.
    "Địa Khí đến từ quả đất, cũng như từ sự thấm những nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên những tai họa động đất, chính làn nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất quân bình âm dương tính trong địa khí.
    "Nhân Khí" là sinh lực con người.`con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.
    B. Nhân Sinh Quan
    Con người khi còn là thai nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sãn có trong hài nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận: tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch , nước uống và thực phẩm (đọn vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: Tim, phổi, bao tử, lá mía, ruột già, ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)
    Vớ tuổi thọ tăng dần, các đường ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.
    Để tái tạo sức khỏe bình thường, việc khai thông hệ thống kinh mạch , cũng như, quân bình Ân Dương tính trong nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Ơû điểm này, Đông Y Học đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốn hóa học ở các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và tể dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...
    Trong phép dương sinh, người ta cần phải biết sống hòa hợp với luật thiên nhiên, để khia thác tối đa lợi thế của Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ quân bình âm dương tính cho Nhân Khí của con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ các mầm móng bệnh chứng, có thể xảy ra cho con người.
    Ngoài ra, viện tập luyện khí công rất ích lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của các tế báo trong cơ thể, cũng như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí và Địa Khí từ bên ngoài.
    IV.Phương Thế Thực Hành
    Trong khí công gồm có ba loại thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một trong ba tư thế chánh yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong mổi tư thế chánh này còn được chia ra kàm nhiều tư thế phụ như sau:
    Với tư thế đứng còn có thế đứng tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân dang rộng ra hai ben trái phải).
    Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ gối.
    Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng người với lưng tựa phía dưới.
    Trong các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi của tư thế đứng:
    - Tư thế đứng rất thuận tiện, khi tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....
    - Tư thế đứng còn giúp cho máu lưu thông dễ dàng trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể.
    - Ngoài ra, tư thế đứng tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.
    V. Hiệu Quả Của Khí Công
    Việc tập luyện khí công có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích cho chức năng sinh lý của các bộ phận trong cơ thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động của nhiều triệu mao quản bị đình trệ, và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ thể.
    Trong phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép kiêng cử, cơ thể tái tạo sức khỏe bình thường cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu, bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh nhức đầu, bệnh nhứ mỏi khớp xương và bắp thịt...
    Ngoài ra, việc tập luyện khí công còn giúp ích cho học viên gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội tâm, tâm hồn thanh tịnh, và bình tĩnh để có một đời sống tình cảm an hòa, khắc phục được những trở ngại bất thường trong đời sống loạn hàng ngày. Để đạt được thành quả trong lúc tập luyện khí công, tùy theohoan cảnh, học viên nên tuân hành nghiêm chỉnh theo một thời dụng biểu tập luyện đều đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi, từng bước một, tuần tự tiến hành. Nếu vội vã, đốt giai đoạn tập luyện, sức khỏe của học viên dễ bị tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn thận tránh những khuyết điểm. Việc tập luyện sai phép có thể tạo nên những biến chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc tập luyện.
    (Trích trong sách sắp xuất bản "Khí Công Dưỡng Sinh của Vũ Đức Hiền Âu.)
    Giáo Sư Vũ Đức N.D.
    [​IMG]
    Cơn giận là kẻ thù của chính bạn
  3. lega

    lega Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/02/2002
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    0
    Bạn nói thế mà nghe được, ko tin vào truyền thuyết là quyền của mỗi cá nhân con người nhưng mà ko phải vì xem nhiều phim hay đọc nhiều truyện kiếm hiệp mà bị hoang tưởng, thực tế bây giờ bạn ko thấy sao ? chùa Thiếu Lâm Tự ở Trung Quốc tại sao lại nỗi tiếng như vậy nếu ko có thực lực, những màn biễu diễn nội công, quyền thuật của phái Thiếu Lâm bạn có thể phủ nhận hay ko ? Thiếu Lâm Tự của Trung Quốc đã từng công diễn nhiều nước trên thế giới chẳng bạn nói đó là những pha ảo thuật hay sao ? nói như bạn thì 15 thế kỉ qua ko ít người bị hoang tưởng đó !
    [​IMG]
    Cơn giận là kẻ thù của chính bạn
  4. DHN

    DHN Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/03/2002
    Bài viết:
    876
    Đã được thích:
    0
    Chả hiểu sao cứ nghe các chú hô "võ công xuất Thiếu Lâm" mình lại buồn cười :-) :-) Các chú hô khẩu hiệu vừa vừa thui, thế kỷ 21 rùi có phải ai cũng ngu đâu.
    Chưa biết chừng "võ công tập trung ve^` Thieu Lâm" ấy chứ :-)
    Nếu nói về cội nguồn của nhiều dòng võ hiện nay thì phải nói Ấn Độ mới là nơi bắt nguồn các nghiên cứu về cơ thể con người, về kinh mạch huyệt đạo.
    nothing is forever
  5. lega

    lega Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/02/2002
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    0
    Chẳng có ai ko biết rằng cội nguồn võ thuật xuất phát từ Ấn Độ cả vì Bồ Đề Đạt Ma là người Ấn Độ chu du sang Trung Quốc, nhưng bác thử nghĩ xem tại sao Ấn Độ lại ko được coi là Cội Nguồn của võ thuật. Đạt Ma sau khi dừng chân tại Thiếu Lâm Tự trong 9 năm diện bích ông đã nghiên cứu và đúc kết ra hai công trình khai sáng là Thiền Tông và Võ Học, và từ hai công trình này các ***** đời sau như :
    Nhị Tổ Huệ Khả
    Tam Tổ Tăng Xán
    Tứ Tổ Đạo Tín
    Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
    Lục tổ Huệ Năng
    Trong khoảng hai trăm năm, sáu vị ***** đã gia công hưng thịnh Thiền Tông và Võ Học Trung hoa. Từ đó, Thiền Tông và Võ Học được bành trướng sâu rộng vào các nước thuộc miền Đông Châu Á, điển hình như các nước Nhật, Đại Hàn, Việt Nam, Đài Loan, HongKong, ... vậy theo bác nghĩ thì võ thuật bắt nguồn từ đâu nếu như ko phải từ Thiếu Lâm Tự. Bác nên nhớ hai Công Trình Thiền Tông và Võ Học được Bồ Đề Đạt Ma Nghiên cứu và đúc kết sau khi ông dừng chân tại Thiếu Lâm Tự.
    [​IMG]
    Cơn giận là kẻ thù của chính bạn
  6. DHN

    DHN Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/03/2002
    Bài viết:
    876
    Đã được thích:
    0
    lega nì, thế còn Pencak Silat, còn MuayThai, còn ... NHất Nam, còn Võ Ta, có cái gì về Thiền Tông hay chất thiếu lâm trong đó không ??
    rồi còn Nga MI, KHông Động, v...v
    đây chỉ nói đến phạm vi châu Á là đủ thấy thiếu lâm chỉ là 01 trường phái luyện võ thui nhá, cái gì mà cội nguồn hay nguồn gốc võ thuật được, vớ vỉn quá
    nothing is forever
  7. lega

    lega Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/02/2002
    Bài viết:
    842
    Đã được thích:
    0
    Nếu cậu đã nói vậy mình chẳng còn gì để nói nữa !!!!!!1
    Không gặp người thơ chớ nói thơ
    Không gặp kiếm khách không trình kiếm ​
    [​IMG]
    Cơn giận là kẻ thù của chính bạn
    Được lega sửa chữa / chuyển vào 18:26 ngày 02/12/2003
  8. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Xin chào các bạn! Rất vui vì thấy topic này được các bạn quan tâm và thảo luận sôi nổi.
    Tôi cho rằng tất cả các bạn quan tâm đến Bồ-đề Ðạt-ma đều là những bạn đã từng học võ hoặc đã từng học Thiền.
    Ðức tính của người học võ là không khinh suất trong khi xuất chiêu. (vì điều này là coi thường đối thủ).
    Ðức tính của người học Thiền là không khinh suất trong khi xuất niệm.
    Vì vậy tôi cũng mong các bạn không khinh suất trong việc đặt câu hỏi hay trả lời.
    Trong mộc cuộc thi đấu võ hay một cuộc thảo luận
    Có thể tôi thua.
    Có thể tôi thắng.
    Ðiều đó không có gì là quan trọng. Quan trọng là ta rút được điều gì bổ ích sau một cuộc đấu.
    Ðọc những câu trả lời của các bạn, tôi hết sức chán nản vì những mâu thuẫn không đáng có.
    1. Ban Lonelymanus: Bạn đã có mâu thuẫn trong trật tự thời gian. Trước hết, ta phải thống nhất với nhau về thời đại mà Ðạt -ma sư tổ sống nhé. Sau khi cướp ngôi của họ Tào và đánh thắng Thục, Ngô, Tư Mã Viêm thống nhất Trung Hoa và lập ra nhà Tấn. Sau nhà Tấn là Nam Bắc Triều (khoảng 360 năm). Sau Nam Bắc Triều là nhà Tuỳ (khoảng 50 năm). Sau nhà Tuỳ là nhà Ðường (Khoảng 300 năm). Sau nhà Ðường là thời Ngũ Ðại (khoảng 60 năm). Sau đó là nhà Tống. Vậy là từ đầu thời Ðường tới đầu thời Tống là khoảng hơn 300 năm. Bạn có đồng ý với tôi về trật tự lịch sử này không? Nếu đồng ý thì tôi tiếp.
    Theo như những dẫn chứng bạn đưa ra là 13 võ tăng Thiếu Lâm (học võ của Ðạt-ma?) đã giúp Ðường Thái Tông (Ðầu đời Ðường) dẹp giặc. Trong khi Ðạt-ma lại viên tịch vào đời Tống Thái Tông (Ðầu đời Tống). Nghĩa là ông chết 300 năm sau khi các đệ tử ông dẹp giặc? Trong khi tuổi thọ của ông là 140 tuổi. Ðiều này có hợp lý không? Chưa kể đến là Thần Tú (đệ tử của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn) và Huệ Năng - Người thừa kế đời thứ 6 của Ðạt-ma sinh sống trong thời Ðường. Thần Tú là người thường đến giảng kinh Phật cho Võ Tắc Thiên. Bạn có thể nói rằng số liệu về lịch sử tôi đưa ra không chính xác, nhưng tôi chắc chắn với bạn hai điều rằng nhà Ðường tồn tại không dưới 300 năm và nhà Tống là sau nhà Ðường. Nếu bạn bắt tôi tin vào một trật tự thầy trò "lộn đầu lộn đũa" như thế thì tôi xin chịu thua.
    2. Bạn lega, bạn khinh suất trong câu trả lời và câu hỏi.
    Bạn bảo rằng "Huệ Khả là Tổ đời thứ hai của Thiếu Lâm Tự" là ý gì: Là Tổ đời thứ 2 của Thiền Tông Thiếu Lâm, của võ thuật Thiếu Lâm Tự, hay cả hai (Hay bạn cố tình lập lờ trong việc dùng con chữ - Nên nhớ rằng đối thủ của bạn lúc nào cũng tỉnh táo). Tôi không hỏi về Thiền Tông vì Huệ Khả là đệ nhị tổ Thiền Tông là điều tôi đã khẳng định trước đây. Bạn nghi ngờ về việc Bồ-đề Ðạt-ma không truyền võ cho Huệ Khả là vì "biết đâu lúc đó Bồ Đề Đạt Ma nghĩ rằng Huệ Khả ko phải là người thích hợp để luyện võ thì sao?" Nếu bạn còn nghi ngờ về điều này tại sao bạn lại chắc chắn là Ðệ nhị tổ của môn võ Thiếu Lâm là Huệ Khả? Hay bạn cho rằng một người không biết võ có thể truyền đạt được võ thuật cho người khác?
    Bạn bảo hỏi tôi rằng: "Trước khi Đạt ma tới Thiếu Lâm Tự thì nơi đây chỉ là 1 Ngôi Chùa truyền bá Đạo Phật bình thường, ko hề có võ thuật, nếu có cao thủ thì các nhà sư đã ko phải ngủ gật trong khi Hành Thiền rồi, Vậy đã đủ để chứng minh Đạt Ma là ***** của Phái Thiếu Lâm ko ?". Vậy tôi hỏi bạn: "trong giả thuyết tôi đưa ra có nói rằng các anh hùng hảo hán đến Thiếu Lâm trước khi Ðạt-ma ở đó không" Tôi nói rằng "Các anh hùng hảo hán học được tính trầm tĩnh của thiền môn cũng như học dịch cân kinh" không có nghĩa rằng họ đến Thiếu Lâm sau Ðạt-ma hay sao? (Tôi nhắc lại: Tôi rất tỉnh táo).
    Hãy tỉnh táo và xuất chiêu! Hãy tỉnh táo và xuất niệm! Vì đây là công án thiền bất hủ: "Như hà thị ***** Tây lai ý" (Cái gì là ý của ***** từ phương Tây sang?).
  9. mathotinhlang

    mathotinhlang Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/09/2003
    Bài viết:
    127
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn cuonglhvt!
    Mathotinhlang không phải là người biết Võ thuật, nhưng lại có chút ít hứng thú với Thiền.
    Đọc bài của bạn mathotinhlang có vài điều muốn hỏi như sau:
    Bạn viết:
    Xin bạn cho biết: xuất niệm nghĩa là sao hả bạn? và không khinh xuất trong việc xuất niệm nghĩa là sao? có phải bạn coi xuất niệm của người học Thiền cũng như xuất chiêu của người học võ?
    Còn phần dưới bạn luận về Công án trong Thiền môn. Bạn viết:
    Bạn có thể giải thích kỹ hơn câu bạn viết: Hãy tỉnh táo và xuất chiêu! Hãy tỉnh táo và xuất niệm! Vì đây là công án thiền bất hủ: "Như hà thị ***** Tây lai ý" cho mathotinhlang biết được không?
  10. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Nghe những gì mà bạn nói thì đúng là hảo võ sinh Thiếu Lâm rồi! Tiếc nhỉ, bạn lại chưa học KC Thiếu Lâm. Mình trước đây cũng tự học nhưng chỉ là tự học. Nghe TKA và mọi người đều nói là rất nguy hiểm nên đã thôi nhưng khi dừng tập thì mất phong độ liền... Mọi chuyện đều phải dựa vào chữ Duyên vậy!
    For 5 for you is worthy, dear.
    Let it be, what will be will be... Present is all!

Chia sẻ trang này