1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bộ luật tố tụng hình sự 2003- ý kiến đóng góp cho Dự thảo và NHỮNG ĐIỂM MỚI

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Constancy, 08/08/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
    Trên báo Nhân dân điện tử có đăng tải về các điểm mới trong Bộ luật tố tụng hình sự mới. Vậy mình post lên đây cho các bạn cùng tham khảo nhé. Đề nghị mod đổi tên cho topic là: Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 - Ý kiến đóng góp cho dự thảo và những điểm mới.
    Để tiện, mình làm cái mục lục sau:
    ----------------------------
    Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003
    --------------------------------------------------------------------------------
    * Quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
    * Quyền và trách nhiệm của cơ quan điều tra
    * Chức năng giám sát của Viện Kiểm sát
    * Về giám định tư pháp
    * Về giới hạn của việc xét xử
    * Thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu giải quyết án
    * Vai trò, trách nhiệm cá nhân của người tiến hành tố tụng ở giai đoạn xét xử
    * Thi hành hình phạt tù
    * Về kháng cáo quá hạn và việc thông báo kháng cáo, kháng nghị
    * Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
    * Về những biện pháp ngăn chặn
    *Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự

    Được constancy sửa chữa / chuyển vào 23:50 ngày 01/05/2004
  2. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa​
    Chúng tôi xin giới thiệu một sổ điểm mới cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003.
    Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn bị hạn chế nên thường hiểu người bào chữa là luật sư, còn những người khác như bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo thì không được coi là người bào chữa. Do vậy trong quá trình tham gia tố tụng, luật sư luôn là điểm trọng tâm trong hoạt động bào chữa và trợ giúp về mặt pháp lý.
    Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:
    - Về quyền của người bào chữa: Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 58 của Bộ luật này. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Ngoài ra, người bào chữa còn được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và có thể được hỏi người tạm giữ, bị can nếu điều tra viên đồng ý cũng như được có mặt trong các hoạt động điều tra khác; được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra... Đồng thời theo quy định tại Điều 19 của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa còn được bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ ở giai đoạn tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
    Bên cạnh việc bảo đảm các quyền cho người bào chữa khi tham gia tố tụng thì tại khoản 3 Điều 58 của BLTTHS năm 2003 còn quy định nghĩa vụ của người bào chữa, là phải sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can, bị cáo tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng. Đặc biệt, Bộ luật này còn quy định người bào chữa không được xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và không được tiết lộ các bí mật về hoạt động điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa...
    Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS năm 2003, đặc biệt là việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra được thực hiện nghiêm túc và triệt để sẽ góp phần làm cho việc điều tra - truy tố - xét xử được đúng người, đúng tội bảo đảm tính dân chủ, khách quan và công minh của pháp luật.
    (Báo Pháp luật)
  3. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa​
    Chúng tôi xin giới thiệu một sổ điểm mới cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003.
    Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn bị hạn chế nên thường hiểu người bào chữa là luật sư, còn những người khác như bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo thì không được coi là người bào chữa. Do vậy trong quá trình tham gia tố tụng, luật sư luôn là điểm trọng tâm trong hoạt động bào chữa và trợ giúp về mặt pháp lý.
    Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:
    - Về quyền của người bào chữa: Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 58 của Bộ luật này. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Ngoài ra, người bào chữa còn được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và có thể được hỏi người tạm giữ, bị can nếu điều tra viên đồng ý cũng như được có mặt trong các hoạt động điều tra khác; được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra... Đồng thời theo quy định tại Điều 19 của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa còn được bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ ở giai đoạn tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
    Bên cạnh việc bảo đảm các quyền cho người bào chữa khi tham gia tố tụng thì tại khoản 3 Điều 58 của BLTTHS năm 2003 còn quy định nghĩa vụ của người bào chữa, là phải sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can, bị cáo tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng. Đặc biệt, Bộ luật này còn quy định người bào chữa không được xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và không được tiết lộ các bí mật về hoạt động điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa...
    Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS năm 2003, đặc biệt là việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra được thực hiện nghiêm túc và triệt để sẽ góp phần làm cho việc điều tra - truy tố - xét xử được đúng người, đúng tội bảo đảm tính dân chủ, khách quan và công minh của pháp luật.
    (Báo Pháp luật)
  4. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Quyền và trách nhiệm của cơ quan điều tra

    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định quyền và trách nhiệm của cơ quan điều tra như sau:
    Để góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới, với tiêu chí "không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm sự công bằng và công minh của pháp luật", Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt có sự sửa đổi căn bản về tổ chức của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối cũng như việc phân định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân.
    Theo quy định tại Điều 94 BLTTHS năm 1988 thì nhiệm vụ và quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên chưa được quy định cụ thể mà chỉ mang tính chung chung; không phân biệt được chức năng quản lý và chức năng tố tụng của người đứng đầu cơ quan điều tra. BLTTHS năm 2003 đã khắc phục những thiếu sót trên. Thông qua việc quy định một cách đầy đủ và cụ thể về các nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra, đồng thời có sự phân định rõ ràng các chức năng quản lý và chức năng tố tụng, cụ thể là: Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTHS 2003 thì khi thực hiện chức năng quản lý, thủ trưởng cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, phân công phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên trong việc điều tra vụ án hình sự và kiểm tra các hoạt động của họ, quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của phó thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
    Tại khoản 2 Điều 34 của Bộ luật này quy định quyền và nhiệm vụ của thủ trưởng cơ quan điều tra khi tham gia tố tụng, cụ thể là: Tham gia với tư cách là người tiến hành điều tra vụ án hình sự; được ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án như quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, khởi tố bị can áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; truy nã bị can, trưng cầu giám định, kết luận điều tra...
    Ngoài ra, thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra, thực hiện việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa khi được yêu cầu.BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định cụ thể và chi tiết về nhiệm vụ và quyền hạn của điều tra viên khi được phân công điều tra vụ án hình sự; đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của điều tra viên bằng việc chịu trách nhiệm cá nhân về chính những hành vi của mình, cụ thể theo quy định tại Điều 35 BLTTHS thì điều tra viên có trách nhiệm lập hồ sơ vụ án, triệu tập, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; quyết định áp giải bị can, dẫn giải người làm chứng; thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, kê biên tài sản, đối chất, thực nghiệm điều tra... khi được phân công điều tra vụ án hình sự và phải tự chịu trách nhiệm về hành vi cũng như quyết định của mình trước thủ trưởng cơ quan điều tra và trước pháp luật. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 đã có một quy định mới về một chức danh tố tụng độc lập mà BLTTHS năm 1988 không quy định đó là nhiệm vụ, quyền hạn của phó thủ trưởng cơ quan điều tra được quy định cụ thể tại khoản 3, 4 Điều 34 Bộ luật này.(Báo Pháp luật)
  5. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Quyền và trách nhiệm của cơ quan điều tra

    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định quyền và trách nhiệm của cơ quan điều tra như sau:
    Để góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới, với tiêu chí "không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm sự công bằng và công minh của pháp luật", Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt có sự sửa đổi căn bản về tổ chức của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối cũng như việc phân định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân.
    Theo quy định tại Điều 94 BLTTHS năm 1988 thì nhiệm vụ và quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên chưa được quy định cụ thể mà chỉ mang tính chung chung; không phân biệt được chức năng quản lý và chức năng tố tụng của người đứng đầu cơ quan điều tra. BLTTHS năm 2003 đã khắc phục những thiếu sót trên. Thông qua việc quy định một cách đầy đủ và cụ thể về các nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra, đồng thời có sự phân định rõ ràng các chức năng quản lý và chức năng tố tụng, cụ thể là: Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTHS 2003 thì khi thực hiện chức năng quản lý, thủ trưởng cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, phân công phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên trong việc điều tra vụ án hình sự và kiểm tra các hoạt động của họ, quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của phó thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
    Tại khoản 2 Điều 34 của Bộ luật này quy định quyền và nhiệm vụ của thủ trưởng cơ quan điều tra khi tham gia tố tụng, cụ thể là: Tham gia với tư cách là người tiến hành điều tra vụ án hình sự; được ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án như quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, khởi tố bị can áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; truy nã bị can, trưng cầu giám định, kết luận điều tra...
    Ngoài ra, thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra, thực hiện việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa khi được yêu cầu.BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định cụ thể và chi tiết về nhiệm vụ và quyền hạn của điều tra viên khi được phân công điều tra vụ án hình sự; đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của điều tra viên bằng việc chịu trách nhiệm cá nhân về chính những hành vi của mình, cụ thể theo quy định tại Điều 35 BLTTHS thì điều tra viên có trách nhiệm lập hồ sơ vụ án, triệu tập, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; quyết định áp giải bị can, dẫn giải người làm chứng; thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, kê biên tài sản, đối chất, thực nghiệm điều tra... khi được phân công điều tra vụ án hình sự và phải tự chịu trách nhiệm về hành vi cũng như quyết định của mình trước thủ trưởng cơ quan điều tra và trước pháp luật. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 đã có một quy định mới về một chức danh tố tụng độc lập mà BLTTHS năm 1988 không quy định đó là nhiệm vụ, quyền hạn của phó thủ trưởng cơ quan điều tra được quy định cụ thể tại khoản 3, 4 Điều 34 Bộ luật này.(Báo Pháp luật)
  6. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Chức năng giám sát của Viện Kiểm sát

    Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định chức năng giám sát của Viện Kiểm sát (VKS) như sau:
    Xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn tố tụng, BLTTHS năm 2003 quy định hết sức cụ thể các hoạt động của VKS, với mục đích nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để VKS làm tốt chức năng giám sát của mình.
    Trước hết, trong giai đoạn khởi tố . Trước đây, nếu nhận được tố giác hoặc tin báo tội phạm, trong phạm vi trách nhiệm của mình VKS phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Ngoài VKS thì trách nhiệm này còn thuộc về cơ quan điều tra. Thực tế thực hiện đã gặp nhiều bất cập do hoạt động chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm giữa hai cơ quan này. BLTTHS năm 2003 đã giải quyết tình trạng này khi quy định tập trung việc xác minh, điều tra tội phạm vào cơ quan điều tra. VKS chỉ tiếp nhận tin báo về tội phạm và chuyển ngay các thông tin đó cho cơ quan điều tra (Điều 103). Những trường hợp này, VKS không có quyền ra quyết định khởi tố, mà chỉ có kiến nghị khởi tố gửi cho cơ quan điều tra, trên cơ sở đó cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án.
    VKS chỉ được trực tiếp khởi tố một số trường hợp nhất định như HĐXX yêu cầu hoặc trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan như thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ trưởng các cơ quan khác của CAND và QĐND được giao tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 104).
    Như vậy, BLTTHS 2003 đã phân công rõ hơn trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án.
    Trong hoạt động điều tra : BLTTHS 2003 có quy định mới, phân định rạch ròi hoạt động thực hiện quyền công tố và hoạt động kiểm sát điều tra (Điều 112 và 113). Cụ thể, hoạt động thực hiện quyền công tố trong giai đoạn điều tra gồm: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; yêu cầu thay đổi điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn... Còn hoạt động kiểm sát điều tra gồm kiểm sát việc khởi tố, các hoạt động điều tra và lập hồ sơ vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tố tụng; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra... Với việc phân định rõ quyền công tố và kiểm sát điều tra như vậy đã thể hiện được nội dung cải cách tư pháp được đề cập trong các nghị quyết của Đảng, đồng bộ, thống nhất với các văn bản pháp luật hiện hành từ Hiến pháp đến Luật Tổ chức VKSND, đồng thời là cơ sở pháp lý để VKS hoạt động dễ dàng, thuận lợi hơn.
    Cũng với mục đích nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để VKS làm tốt chức năng công tố, kiểm sát điều tra, tránh bỏ lọt người phạm tội, làm oan người vô tội, BLTTHS 2003 có thay đổi quan trọng liên quan đến thẩm quyền của VKS, đó là quy định VKS có trách nhiệm xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Điều 126) và quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 128). Ngoài ra, VKS còn có trách nhiệm phê chuẩn các lệnh bắt, giam giữ của cơ quan điều tra. Chẳng hạn như đối với bắt khẩn cấp, trước đây chỉ quy định hết sức chung chung là VKS phải kiểm sát chặt các căn cứ bắt, còn BLTTHS mới quy định trong trường hợp cần thiết VKS phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt trước khi quyết định phê chuẩn hay không và thời hạn phê chuẩn là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị.
    Cùng với việc tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư pháp cấp huyện thì thẩm quyền gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam để điều tra của VKS cũng được sửa đổi cho phù hợp theo hướng tăng thẩm quyền gia hạn cho VKS cấp dưới. Nếu như trước đây đối với tội phạm nghiêm trọng khi gia hạn điều tra lần hai phải là VKS cấp tỉnh thì hiện nay quyền đó thuộc VKS cấp huyện (Điều 119) và VKS cấp huyện còn có quyền gia hạn tạm giam đối với tội rất nghiêm trọng (Điều 120).
    Thực hiện chủ trương thu gọn đầu mối cơ quan điều tra theo các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và để bảo đảm sự đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành, BLTTHS 2003 sửa đổi căn bản tổ chức bộ máy và thẩm quyền điều tra của VKS, đó là chỉ thành lập cơ quan điều tra ở VKSNDTC, chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Điều 110). Tuy nhiên, với quy định này, nhiều người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp e ngại hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra này không cao mà chân rết ở các tỉnh hỗ trợ chưa có quy định.
    Trong giai đoạn xét xử : Với mục đích tăng tính độc lập, tự chịu trách nhiệm, BLTTHS quy định kiểm sát viên căn cứ vào diễn biến tranh tụng tại tòa có quyền quyết định ngay một mức án khác với mức án trước đây đề nghị (Điều 221).
    Với những quy định như trên, chắc chắn VKS thuận lợi hơn khi thực hiện chức năng giám sát của mình; mặt khác, đòi hỏi VKSND các cấp đặc biệt là cấp huyện phải nâng cao trình độ cho cán bộ của mình để đáp ứng yêu cầu mới.
    Theo báo Pháp luật
  7. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Chức năng giám sát của Viện Kiểm sát

    Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định chức năng giám sát của Viện Kiểm sát (VKS) như sau:
    Xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn tố tụng, BLTTHS năm 2003 quy định hết sức cụ thể các hoạt động của VKS, với mục đích nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để VKS làm tốt chức năng giám sát của mình.
    Trước hết, trong giai đoạn khởi tố . Trước đây, nếu nhận được tố giác hoặc tin báo tội phạm, trong phạm vi trách nhiệm của mình VKS phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Ngoài VKS thì trách nhiệm này còn thuộc về cơ quan điều tra. Thực tế thực hiện đã gặp nhiều bất cập do hoạt động chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm giữa hai cơ quan này. BLTTHS năm 2003 đã giải quyết tình trạng này khi quy định tập trung việc xác minh, điều tra tội phạm vào cơ quan điều tra. VKS chỉ tiếp nhận tin báo về tội phạm và chuyển ngay các thông tin đó cho cơ quan điều tra (Điều 103). Những trường hợp này, VKS không có quyền ra quyết định khởi tố, mà chỉ có kiến nghị khởi tố gửi cho cơ quan điều tra, trên cơ sở đó cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án.
    VKS chỉ được trực tiếp khởi tố một số trường hợp nhất định như HĐXX yêu cầu hoặc trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan như thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ trưởng các cơ quan khác của CAND và QĐND được giao tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 104).
    Như vậy, BLTTHS 2003 đã phân công rõ hơn trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án.
    Trong hoạt động điều tra : BLTTHS 2003 có quy định mới, phân định rạch ròi hoạt động thực hiện quyền công tố và hoạt động kiểm sát điều tra (Điều 112 và 113). Cụ thể, hoạt động thực hiện quyền công tố trong giai đoạn điều tra gồm: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; yêu cầu thay đổi điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn... Còn hoạt động kiểm sát điều tra gồm kiểm sát việc khởi tố, các hoạt động điều tra và lập hồ sơ vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tố tụng; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra... Với việc phân định rõ quyền công tố và kiểm sát điều tra như vậy đã thể hiện được nội dung cải cách tư pháp được đề cập trong các nghị quyết của Đảng, đồng bộ, thống nhất với các văn bản pháp luật hiện hành từ Hiến pháp đến Luật Tổ chức VKSND, đồng thời là cơ sở pháp lý để VKS hoạt động dễ dàng, thuận lợi hơn.
    Cũng với mục đích nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để VKS làm tốt chức năng công tố, kiểm sát điều tra, tránh bỏ lọt người phạm tội, làm oan người vô tội, BLTTHS 2003 có thay đổi quan trọng liên quan đến thẩm quyền của VKS, đó là quy định VKS có trách nhiệm xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Điều 126) và quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 128). Ngoài ra, VKS còn có trách nhiệm phê chuẩn các lệnh bắt, giam giữ của cơ quan điều tra. Chẳng hạn như đối với bắt khẩn cấp, trước đây chỉ quy định hết sức chung chung là VKS phải kiểm sát chặt các căn cứ bắt, còn BLTTHS mới quy định trong trường hợp cần thiết VKS phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt trước khi quyết định phê chuẩn hay không và thời hạn phê chuẩn là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị.
    Cùng với việc tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư pháp cấp huyện thì thẩm quyền gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam để điều tra của VKS cũng được sửa đổi cho phù hợp theo hướng tăng thẩm quyền gia hạn cho VKS cấp dưới. Nếu như trước đây đối với tội phạm nghiêm trọng khi gia hạn điều tra lần hai phải là VKS cấp tỉnh thì hiện nay quyền đó thuộc VKS cấp huyện (Điều 119) và VKS cấp huyện còn có quyền gia hạn tạm giam đối với tội rất nghiêm trọng (Điều 120).
    Thực hiện chủ trương thu gọn đầu mối cơ quan điều tra theo các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp và để bảo đảm sự đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành, BLTTHS 2003 sửa đổi căn bản tổ chức bộ máy và thẩm quyền điều tra của VKS, đó là chỉ thành lập cơ quan điều tra ở VKSNDTC, chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Điều 110). Tuy nhiên, với quy định này, nhiều người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp e ngại hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra này không cao mà chân rết ở các tỉnh hỗ trợ chưa có quy định.
    Trong giai đoạn xét xử : Với mục đích tăng tính độc lập, tự chịu trách nhiệm, BLTTHS quy định kiểm sát viên căn cứ vào diễn biến tranh tụng tại tòa có quyền quyết định ngay một mức án khác với mức án trước đây đề nghị (Điều 221).
    Với những quy định như trên, chắc chắn VKS thuận lợi hơn khi thực hiện chức năng giám sát của mình; mặt khác, đòi hỏi VKSND các cấp đặc biệt là cấp huyện phải nâng cao trình độ cho cán bộ của mình để đáp ứng yêu cầu mới.
    Theo báo Pháp luật
  8. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về giám định tư pháp
    --------------------------------------------------------------------------------
    Giám định tư pháp có vị trí đặc biệt trong việc tìm ra sự thật khách quan, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử.
    Giám định tư pháp là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, các tranh chấp theo quyết định trưng cầu của cơ quan công an, VKSND, TAND nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử. Do vậy, giám định tư pháp ngày càng thể hiện vị trí đặc biệt trong việc tìm ra sự thật khách quan, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử. Để nâng cao hiệu quả của công tác này, trong một số điều luật của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung và mở rộng hơn về đối tượng giám định.
    Điều 155. Trưng cầu giám định. Ngoài những mục đã nêu trong Bộ luật Hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng sửa đổi năm 2003 còn quy định thêm hai trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
    - Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
    - Chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả.
    Đây là những bổ sung cần thiết, phù hợp với vai trò của pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền, vì: Xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại giúp cho các cơ quan điều tra, xét xử có thể xác định chính xác trách nhiệm của đương sự... Như vậy giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng hoàn chỉnh hồ sơ vụ án, ngăn ngừa được những phức tạp có thể xảy ra như khiếu nại, kháng cáo kéo dài.
    Trong những vụ án liên quan đến chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả, các kết luận giám định là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác tội danh, mức độ phạm tội của bị can; bị cáo. Đó là cơ sở để xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm cũng như động cơ, mục đích, phương pháp và thủ đoạn gây án của tội phạm kể cả việc định khung hình phạt.
    Điều 73 được bổ sung "Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản", quy định này tạo ra sự thống nhất về thủ tục pháp lý đồng thời cũng xác định tầm quan trọng của kết luận giám định đã được Bộ luật quy định tại Điều 64: Kết luận giám định là nguồn chứng cứ nhằm sử dụng khả năng của khoa học kỹ thuật vào việc xác định chứng cứ. Kết luận giám định có thể được sử dụng làm chứng cứ phải dựa trên những yếu tố sau đây:
    1. Bản quyết định trưng cầu giám định phải có đủ cơ sở pháp lý.
    2. Mẫu gửi giám định, mẫu so sánh bảo đảm chất lượng và số lượng.
    3. Những thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu giám định đầy đủ, chính xác.
    4. Có giám định viên chuyên khoa đủ trình độ và điều kiện giám định.
    5 . Có đủ điều kiện vật chất, phương tiện cần thiết để tiến hành giám định.
    Tất cả những yếu tố trên đều quan trọng, nhưng yếu tố thứ ba phụ thuộc vào cơ quan trưng cầu giám định cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, cũng như giúp đỡ giám định viên thu nhận những thông tin cần thiết để phục vụ công tác giám định của mình. Do vậy, kết luận giám định phải được lưu giữ trong hồ sơ của vụ án cùng với những tài liệu giám định khác như: Biên bản giám định; bản án giám định (nếu có); quyết định trưng cầu giám định ; biên bản kiểm tra và giao nhận mẫu gửi giám định, mẫu so sánh. Những văn bản trên được lưu trong hồ sơ giám định, rất cần thiết cho việc giám định lại và giám định bổ sung, điều quan trọng hơn cả là để các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở đánh giá tính chân thực, khoa học và khách quan của kết luận giám định.
    Giám định tư pháp trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã khẳng định quyền của những người tham gia tố tụng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, việc này hoàn toàn phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Đảng. Việc Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi và bổ sung một số điều luật liên quan đến công tác giám định đã phần nào định hướng cho công tác này theo đúng trình tự pháp lý, giúp cho các cơ quan giám định và người giám định cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trước những nguyên tắc mang tính bắt buộc trong việc thực hiện thủ tục giám định. Ngoài những quyền của người giám định đã được quy định trong Bộ luật, người giám định phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự chính xác của kết luận giám định, không được vì bất cứ lý do hoặc áp lực nào cố tình kết luận sai.
    Để những điều luật trên đi vào thực tế một cách có hiệu quả khi Bộ luật bắt đầu có hiệu lực thi hành từ 1-7-2004 thì việc ban hành những văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành hoặc thể chế những quy định của Bộ luật cần được nhanh chóng triển khai như: Pháp lệnh về giám định tư pháp, cụ thể hóa những điều luật liên quan đến công tác giám định trong đó có hồ sơ giám định, thủ tục và các bước tiến hành giám định, trả lời kết luận giám định...
    (Báo Pháp luật)


  9. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về giám định tư pháp
    --------------------------------------------------------------------------------
    Giám định tư pháp có vị trí đặc biệt trong việc tìm ra sự thật khách quan, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử.
    Giám định tư pháp là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, các tranh chấp theo quyết định trưng cầu của cơ quan công an, VKSND, TAND nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử. Do vậy, giám định tư pháp ngày càng thể hiện vị trí đặc biệt trong việc tìm ra sự thật khách quan, xác lập chứng cứ phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử. Để nâng cao hiệu quả của công tác này, trong một số điều luật của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung và mở rộng hơn về đối tượng giám định.
    Điều 155. Trưng cầu giám định. Ngoài những mục đã nêu trong Bộ luật Hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng sửa đổi năm 2003 còn quy định thêm hai trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
    - Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
    - Chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả.
    Đây là những bổ sung cần thiết, phù hợp với vai trò của pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền, vì: Xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại giúp cho các cơ quan điều tra, xét xử có thể xác định chính xác trách nhiệm của đương sự... Như vậy giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng hoàn chỉnh hồ sơ vụ án, ngăn ngừa được những phức tạp có thể xảy ra như khiếu nại, kháng cáo kéo dài.
    Trong những vụ án liên quan đến chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả, các kết luận giám định là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác tội danh, mức độ phạm tội của bị can; bị cáo. Đó là cơ sở để xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm cũng như động cơ, mục đích, phương pháp và thủ đoạn gây án của tội phạm kể cả việc định khung hình phạt.
    Điều 73 được bổ sung "Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản", quy định này tạo ra sự thống nhất về thủ tục pháp lý đồng thời cũng xác định tầm quan trọng của kết luận giám định đã được Bộ luật quy định tại Điều 64: Kết luận giám định là nguồn chứng cứ nhằm sử dụng khả năng của khoa học kỹ thuật vào việc xác định chứng cứ. Kết luận giám định có thể được sử dụng làm chứng cứ phải dựa trên những yếu tố sau đây:
    1. Bản quyết định trưng cầu giám định phải có đủ cơ sở pháp lý.
    2. Mẫu gửi giám định, mẫu so sánh bảo đảm chất lượng và số lượng.
    3. Những thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu giám định đầy đủ, chính xác.
    4. Có giám định viên chuyên khoa đủ trình độ và điều kiện giám định.
    5 . Có đủ điều kiện vật chất, phương tiện cần thiết để tiến hành giám định.
    Tất cả những yếu tố trên đều quan trọng, nhưng yếu tố thứ ba phụ thuộc vào cơ quan trưng cầu giám định cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, cũng như giúp đỡ giám định viên thu nhận những thông tin cần thiết để phục vụ công tác giám định của mình. Do vậy, kết luận giám định phải được lưu giữ trong hồ sơ của vụ án cùng với những tài liệu giám định khác như: Biên bản giám định; bản án giám định (nếu có); quyết định trưng cầu giám định ; biên bản kiểm tra và giao nhận mẫu gửi giám định, mẫu so sánh. Những văn bản trên được lưu trong hồ sơ giám định, rất cần thiết cho việc giám định lại và giám định bổ sung, điều quan trọng hơn cả là để các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở đánh giá tính chân thực, khoa học và khách quan của kết luận giám định.
    Giám định tư pháp trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã khẳng định quyền của những người tham gia tố tụng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, việc này hoàn toàn phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Đảng. Việc Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi và bổ sung một số điều luật liên quan đến công tác giám định đã phần nào định hướng cho công tác này theo đúng trình tự pháp lý, giúp cho các cơ quan giám định và người giám định cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trước những nguyên tắc mang tính bắt buộc trong việc thực hiện thủ tục giám định. Ngoài những quyền của người giám định đã được quy định trong Bộ luật, người giám định phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự chính xác của kết luận giám định, không được vì bất cứ lý do hoặc áp lực nào cố tình kết luận sai.
    Để những điều luật trên đi vào thực tế một cách có hiệu quả khi Bộ luật bắt đầu có hiệu lực thi hành từ 1-7-2004 thì việc ban hành những văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành hoặc thể chế những quy định của Bộ luật cần được nhanh chóng triển khai như: Pháp lệnh về giám định tư pháp, cụ thể hóa những điều luật liên quan đến công tác giám định trong đó có hồ sơ giám định, thủ tục và các bước tiến hành giám định, trả lời kết luận giám định...
    (Báo Pháp luật)


  10. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về giới hạn của việc xét xử
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định giới hạn của việc xét xử như sau:
    So với nội dung quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 1988 thì Điều 196 BLTTHS năm 2003 được bổ sung quy định: "Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố". Theo quy định mới này, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật, có nghĩa là có thể xét xử bị cáo theo khoản nhẹ hơn hoặc theo khoản nặng hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn cần phải bảo đảm các quy định về thành phần Hội đồng xét xử, về bào chữa cho bị cáo. Cũng theo quy định mới này, Tòa án không chỉ có thể xét xử bị cáo về một tội nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố như thực tiễn hiện nay đang thực hiện, Tòa án còn có thể xét xử bị cáo về một tội bằng với tội mà Viện Kiểm sát truy tố.
    Về nguyên tắc chung để so sánh tội bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố như sau:
    Tội bằng tội mà Viện Kiểm sát truy tố là hai tội đó có hậu quả pháp lý như nhau, tức là đối với hai tội đó đều có quy định hình phạt chính và hình phạt bổ sung như nhau.
    Tội nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố được xác định theo thứ tự sau đây:
    Trước hết chúng ta lấy hình phạt chính quy định đối với hai tội để so sánh:
    - Đối với tội nào có loại hình phạt chính nặng hơn thì tội đó nặng hơn. Ví dụ: Đối với tội A có quy định hình phạt tử hình, đối với tội B không có quy định hình phạt tử hình mà quy định hình phạt nặng nhất là tù chung thân, thì tội A nặng hơn.
    - Đối với hai tội có hình phạt chính nặng nhất như nhau, thì tội nào có mức khởi điểm của loại hình phạt chính nhẹ nhất thấp hơn hoặc có loại hình phạt chính khác nhẹ hơn thì tội đó nhẹ hơn. Ví dụ 1: Đối với hai tội A và B đều có quy định các loại hình phạt chính là tù có thời hạn, tù chung thân, nhưng đối với tội A có mức khởi điểm của tù có thời hạn là 12 năm, còn đối với tội B có mức khởi điểm của tù có thời hạn là 10 năm, thì tội B nhẹ hơn. Ví dụ 2: Đối với hai tội A và B đều quy định hình phạt tù như nhau, nhưng đối với tội B còn quy định thêm hình phạt cải tạo không giam giữ, thì tội B nhẹ hơn.
    Trong trường hợp hình phạt chính như nhau thì lấy hình phạt bổ sung quy định đối với hai tội để so sánh.
    - Đối với hai tội, tội nào có quy định thêm hình phạt bổ sung, thì tội đó nặng hơn.
    - Đối với hai tội cùng có quy định hình phạt bổ sung, thì tội nào có quy định nhiều hình phạt bổ sung hơn là tội đó nặng hơn.
    - Đối với hai tội có cùng quy định hình phạt bổ sung, thì tội nào quy định bắt buộc là nặng hơn tội quy định lựa chọn (có thể).
    (Báo Pháp luật)


Chia sẻ trang này