1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bộ luật tố tụng hình sự 2003- ý kiến đóng góp cho Dự thảo và NHỮNG ĐIỂM MỚI

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Constancy, 08/08/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về giới hạn của việc xét xử
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định giới hạn của việc xét xử như sau:
    So với nội dung quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 1988 thì Điều 196 BLTTHS năm 2003 được bổ sung quy định: "Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố". Theo quy định mới này, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật, có nghĩa là có thể xét xử bị cáo theo khoản nhẹ hơn hoặc theo khoản nặng hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn cần phải bảo đảm các quy định về thành phần Hội đồng xét xử, về bào chữa cho bị cáo. Cũng theo quy định mới này, Tòa án không chỉ có thể xét xử bị cáo về một tội nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố như thực tiễn hiện nay đang thực hiện, Tòa án còn có thể xét xử bị cáo về một tội bằng với tội mà Viện Kiểm sát truy tố.
    Về nguyên tắc chung để so sánh tội bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố như sau:
    Tội bằng tội mà Viện Kiểm sát truy tố là hai tội đó có hậu quả pháp lý như nhau, tức là đối với hai tội đó đều có quy định hình phạt chính và hình phạt bổ sung như nhau.
    Tội nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát truy tố được xác định theo thứ tự sau đây:
    Trước hết chúng ta lấy hình phạt chính quy định đối với hai tội để so sánh:
    - Đối với tội nào có loại hình phạt chính nặng hơn thì tội đó nặng hơn. Ví dụ: Đối với tội A có quy định hình phạt tử hình, đối với tội B không có quy định hình phạt tử hình mà quy định hình phạt nặng nhất là tù chung thân, thì tội A nặng hơn.
    - Đối với hai tội có hình phạt chính nặng nhất như nhau, thì tội nào có mức khởi điểm của loại hình phạt chính nhẹ nhất thấp hơn hoặc có loại hình phạt chính khác nhẹ hơn thì tội đó nhẹ hơn. Ví dụ 1: Đối với hai tội A và B đều có quy định các loại hình phạt chính là tù có thời hạn, tù chung thân, nhưng đối với tội A có mức khởi điểm của tù có thời hạn là 12 năm, còn đối với tội B có mức khởi điểm của tù có thời hạn là 10 năm, thì tội B nhẹ hơn. Ví dụ 2: Đối với hai tội A và B đều quy định hình phạt tù như nhau, nhưng đối với tội B còn quy định thêm hình phạt cải tạo không giam giữ, thì tội B nhẹ hơn.
    Trong trường hợp hình phạt chính như nhau thì lấy hình phạt bổ sung quy định đối với hai tội để so sánh.
    - Đối với hai tội, tội nào có quy định thêm hình phạt bổ sung, thì tội đó nặng hơn.
    - Đối với hai tội cùng có quy định hình phạt bổ sung, thì tội nào có quy định nhiều hình phạt bổ sung hơn là tội đó nặng hơn.
    - Đối với hai tội có cùng quy định hình phạt bổ sung, thì tội nào quy định bắt buộc là nặng hơn tội quy định lựa chọn (có thể).
    (Báo Pháp luật)


  2. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu giải quyết án
    --------------------------------------------------------------------------------


    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã xây dựng chương mới (XXXIV) quy định về thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng.
    Lần đầu tiên, thủ tục rút gọn được đưa vào Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thành một chương riêng (7 điều từ Điều 318 - 324). Đây là thủ tục rút ngắn áp dụng đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, góp phần giải quyết nhanh tình trạng phạm tội hiện nay đồng thời bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
    Thực ra, từ trước năm 1985, thủ tục rút gọn đã được quy định trong những văn bản dưới luật và đã được áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, thủ tục rút gọn cũng được quy định, áp dụng nhằm xử lý nhanh một số trường hợp phạm tội cụ thể. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị cũng đã xác định: "Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng".
    Thể chế hóa Nghị quyết này, BLTTHS năm 2003 đã xây dựng chương mới: Thủ tục rút gọn(Chương XXXIV).
    Trước hết, về điều kiện áp dụng: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm để giải quyết những vụ án khi người phạm tội bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng (Điều 319).
    BLHS năm 1999 đã hành chính hóa rất nhiều tội (thí dụ chiếm đoạt, lừa đảo, cướp từ dưới 500.000 đồng).
    Về thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn là VKS. Quyết định này phải được gửi cho cơ quan điều tra và bị can trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định. Các đối tượng nói trên có thể khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Cơ quan giải quyết khiếu nại là VKS đã ra quyết định. (Điều 320).
    Về thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn gồm điều tra, truy tố xét xử sơ thẩm là không quá 30 ngày, trong đó thời hạn điều tra là 12 ngày (khoản 1 Điều 321), thời hạn truy tố là 4 ngày (khoản 1 Điều 323); thời hạn xét xử sơ thẩm là 14 ngày (khoản 1+2 Điều 324).
    Có thể nói, BLHS 1999 đã hành chính hóa rất nhiều tội (thí dụ chiếm đoạt, lừa đảo dưới 500.000 đồng...) và với quy định thời hạn rất ngắn nói trên, những người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp tin tưởng sẽ đáp ứng được thực tiễn phạm tội hiện nay trong khâu giải quyết án.
    Khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án, vẫn có thế áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo. Thời hạn tạm giữ, tạm giam không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể: Tạm giữ không quá 3 ngày (khoản 2 Điều 322); tạm giam để điều tra, truy tố không quá 16 ngày (khoản 3 Điều 322); tạm giam để xét xử không quá 14 ngày (khoản 4 Điều 324).
    Điểm khác cơ bản của thủ tục rút gọn so với thủ tục chung là khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho VKS. Việc quyết định truy tố bị can trước tòa chỉ được thực hiện bằng một quyết định truy tố mà không cần phải có bản cáo trạng.
    Như vậy, thủ tục rút gọn sẽ khắc phục được tình trạng những vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, rõ ràng mà bị kéo dài thời gian điều tra, truy tố, xét xử không cần thiết, hạn chế giam giữ oan sai. Những vụ án được giải quyết theo thủ tục này chắc chắn sẽ tập trung nhiều ở cơ quan tố tụng cấp huyện. Vì vậy, vấn đề điều kiện cơ sở vật chất và con người tại các cơ quan tố tụng cấp huyện cần được quan tâm hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới.
    (Báo Pháp luật)


  3. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu giải quyết án
    --------------------------------------------------------------------------------


    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã xây dựng chương mới (XXXIV) quy định về thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng.
    Lần đầu tiên, thủ tục rút gọn được đưa vào Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thành một chương riêng (7 điều từ Điều 318 - 324). Đây là thủ tục rút ngắn áp dụng đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, góp phần giải quyết nhanh tình trạng phạm tội hiện nay đồng thời bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
    Thực ra, từ trước năm 1985, thủ tục rút gọn đã được quy định trong những văn bản dưới luật và đã được áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, thủ tục rút gọn cũng được quy định, áp dụng nhằm xử lý nhanh một số trường hợp phạm tội cụ thể. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị cũng đã xác định: "Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng".
    Thể chế hóa Nghị quyết này, BLTTHS năm 2003 đã xây dựng chương mới: Thủ tục rút gọn(Chương XXXIV).
    Trước hết, về điều kiện áp dụng: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm để giải quyết những vụ án khi người phạm tội bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng (Điều 319).
    BLHS năm 1999 đã hành chính hóa rất nhiều tội (thí dụ chiếm đoạt, lừa đảo, cướp từ dưới 500.000 đồng).
    Về thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn là VKS. Quyết định này phải được gửi cho cơ quan điều tra và bị can trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định. Các đối tượng nói trên có thể khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Cơ quan giải quyết khiếu nại là VKS đã ra quyết định. (Điều 320).
    Về thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn gồm điều tra, truy tố xét xử sơ thẩm là không quá 30 ngày, trong đó thời hạn điều tra là 12 ngày (khoản 1 Điều 321), thời hạn truy tố là 4 ngày (khoản 1 Điều 323); thời hạn xét xử sơ thẩm là 14 ngày (khoản 1+2 Điều 324).
    Có thể nói, BLHS 1999 đã hành chính hóa rất nhiều tội (thí dụ chiếm đoạt, lừa đảo dưới 500.000 đồng...) và với quy định thời hạn rất ngắn nói trên, những người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp tin tưởng sẽ đáp ứng được thực tiễn phạm tội hiện nay trong khâu giải quyết án.
    Khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án, vẫn có thế áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo. Thời hạn tạm giữ, tạm giam không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể: Tạm giữ không quá 3 ngày (khoản 2 Điều 322); tạm giam để điều tra, truy tố không quá 16 ngày (khoản 3 Điều 322); tạm giam để xét xử không quá 14 ngày (khoản 4 Điều 324).
    Điểm khác cơ bản của thủ tục rút gọn so với thủ tục chung là khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho VKS. Việc quyết định truy tố bị can trước tòa chỉ được thực hiện bằng một quyết định truy tố mà không cần phải có bản cáo trạng.
    Như vậy, thủ tục rút gọn sẽ khắc phục được tình trạng những vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, rõ ràng mà bị kéo dài thời gian điều tra, truy tố, xét xử không cần thiết, hạn chế giam giữ oan sai. Những vụ án được giải quyết theo thủ tục này chắc chắn sẽ tập trung nhiều ở cơ quan tố tụng cấp huyện. Vì vậy, vấn đề điều kiện cơ sở vật chất và con người tại các cơ quan tố tụng cấp huyện cần được quan tâm hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới.
    (Báo Pháp luật)


  4. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Vai trò, trách nhiệm cá nhân của người tiến hành tố tụng ở giai đoạn xét xử
    --------------------------------------------------------------------------------


    Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 có những quy định mới về quyền và trách nhiệm của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử của tòa án (chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án).
    Nhiệm vụ và quyền hạn của chánh án, phó chánh án
    Theo quy định tại các điều 30, 31, 145 BLTTHS năm 1988 thì mới chỉ dừng lại ở việc quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, về các trường hợp thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa chứ không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử.
    Để khắc phục vấn đề trên, BLTTHS năm 2003 đã có những quy định đầy đủ và cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án trong quá trình tố tụng tại các điều 38, 39, 40, 41 của Bộ luật này. Đồng thời, theo quy định của Điều 38 cũng thấy được sự phân định rõ ràng giữa hai chức năng: Chức năng quản lý và chức năng tố tụng của chánh án, phó chánh án. Cụ thể là:
    - Trong công tác quản lý, điều hành mọi hoạt động của Tòa án, chánh án có nhiệm vụ tổ chức công tác xét xử của Tòa án; phân công phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm, thư ký Tòa án; quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; quyết định xóa án tích; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền (khoản 1 Điều 38).
    Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 thì khi trực tiếp tham gia giải quyết vụ án hình sự, chánh án có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng. Trong trường hợp phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình thì có quyền ra quyết định chuyển vụ án để giải quyết theo thẩm quyền. Việc cấp thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa trong giai đoạn xét xử do chánh án Tòa án thực hiện.
    Bên cạnh việc quy định quyền và trách nhiệm của chánh án, khoản 3 và 4 Điều 38 còn quy định quyền và trách nhiệm của phó chánh án, cụ thể: phó chánh án là người giúp chánh án thực hiện công tác quản lý, điều hành hoạt động của Tòa án; đồng thời phó chánh án Tòa án cũng tham gia tố tụng với tư cách là người tiến hành tố tụng, tham gia giải quyết xét xử vụ án hình sự. Khi đó, phó chánh án có những nhiệm vụ và quyền hạn như của chánh án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình
    Nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm phán, thư ký và hội thẩm nhân dân
    Tại Điều 39 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể và chi tiết quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán nhằm nâng cao trách nhiệm của họ trong hoạt động tố tụng, đó là: Khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, thẩm phán có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; tham gia xét xử, biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử và tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng đối với thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài quyền hạn của thẩm phán nói chung còn có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (trừ biện pháp tạm giam) và ra các quyết định tố tụng khác liên quan đến việc giải quyết vụ án như trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình hoặc chỉ tạm đình chỉ vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử... Đối với thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC, BLTTHS năm 2003 còn quy định thêm cho người này quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. Bên cạnh việc quy định quyền và trách nhiệm của Chánh tòa, Phó Chánh tòa và thẩm phán, BLTTHS năm 2003 còn quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án tại các Điều 40, 41 của Bộ luật này, đó là việc: Khi được phân công xét xử vụ án hình sự, hội thẩm có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa, tham gia phiên tòa xét xử và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Còn đối với thư ký Tòa án khi được phân công tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phổ biến nội quy phiên tòa cho tất cả những người có mặt tại phòng xử án, báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được Tòa án triệu tập có mặt tại phiên tòa và ghi biên bản phiên tòa. Ngoài ra, theo sự phân công của chánh án Tòa án, thư ký Tòa án có thể tiến hành các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với những quy định mới về quyền hạn, trách nhiệm của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử của Tòa án trên đây sẽ góp phần vào việc giải quyết vụ án được chính xác cũng như phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của cá nhân khi tham gia các hoạt động tố tụng nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao trong công cuộc cải cách tư pháp.

    (Báo Pháp luật)
  5. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Vai trò, trách nhiệm cá nhân của người tiến hành tố tụng ở giai đoạn xét xử
    --------------------------------------------------------------------------------


    Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 có những quy định mới về quyền và trách nhiệm của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử của tòa án (chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án).
    Nhiệm vụ và quyền hạn của chánh án, phó chánh án
    Theo quy định tại các điều 30, 31, 145 BLTTHS năm 1988 thì mới chỉ dừng lại ở việc quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, về các trường hợp thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa chứ không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử.
    Để khắc phục vấn đề trên, BLTTHS năm 2003 đã có những quy định đầy đủ và cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký Tòa án trong quá trình tố tụng tại các điều 38, 39, 40, 41 của Bộ luật này. Đồng thời, theo quy định của Điều 38 cũng thấy được sự phân định rõ ràng giữa hai chức năng: Chức năng quản lý và chức năng tố tụng của chánh án, phó chánh án. Cụ thể là:
    - Trong công tác quản lý, điều hành mọi hoạt động của Tòa án, chánh án có nhiệm vụ tổ chức công tác xét xử của Tòa án; phân công phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm, thư ký Tòa án; quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; quyết định xóa án tích; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền (khoản 1 Điều 38).
    Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 thì khi trực tiếp tham gia giải quyết vụ án hình sự, chánh án có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng. Trong trường hợp phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình thì có quyền ra quyết định chuyển vụ án để giải quyết theo thẩm quyền. Việc cấp thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa trong giai đoạn xét xử do chánh án Tòa án thực hiện.
    Bên cạnh việc quy định quyền và trách nhiệm của chánh án, khoản 3 và 4 Điều 38 còn quy định quyền và trách nhiệm của phó chánh án, cụ thể: phó chánh án là người giúp chánh án thực hiện công tác quản lý, điều hành hoạt động của Tòa án; đồng thời phó chánh án Tòa án cũng tham gia tố tụng với tư cách là người tiến hành tố tụng, tham gia giải quyết xét xử vụ án hình sự. Khi đó, phó chánh án có những nhiệm vụ và quyền hạn như của chánh án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình
    Nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm phán, thư ký và hội thẩm nhân dân
    Tại Điều 39 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể và chi tiết quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán nhằm nâng cao trách nhiệm của họ trong hoạt động tố tụng, đó là: Khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, thẩm phán có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; tham gia xét xử, biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử và tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật. Riêng đối với thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài quyền hạn của thẩm phán nói chung còn có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (trừ biện pháp tạm giam) và ra các quyết định tố tụng khác liên quan đến việc giải quyết vụ án như trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình hoặc chỉ tạm đình chỉ vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử... Đối với thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC, BLTTHS năm 2003 còn quy định thêm cho người này quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa. Bên cạnh việc quy định quyền và trách nhiệm của Chánh tòa, Phó Chánh tòa và thẩm phán, BLTTHS năm 2003 còn quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án tại các Điều 40, 41 của Bộ luật này, đó là việc: Khi được phân công xét xử vụ án hình sự, hội thẩm có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa, tham gia phiên tòa xét xử và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Còn đối với thư ký Tòa án khi được phân công tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phổ biến nội quy phiên tòa cho tất cả những người có mặt tại phòng xử án, báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được Tòa án triệu tập có mặt tại phiên tòa và ghi biên bản phiên tòa. Ngoài ra, theo sự phân công của chánh án Tòa án, thư ký Tòa án có thể tiến hành các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với những quy định mới về quyền hạn, trách nhiệm của các chức danh tố tụng trong giai đoạn xét xử của Tòa án trên đây sẽ góp phần vào việc giải quyết vụ án được chính xác cũng như phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của cá nhân khi tham gia các hoạt động tố tụng nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao trong công cuộc cải cách tư pháp.

    (Báo Pháp luật)
  6. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Thi hành hình phạt tù
    --------------------------------------------------------------------------------


    Các điều 261, 262, 263 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về việc hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 đã quy định về việc hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án cũng như việc quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ thi hành án tại các điều 231, 232 và 233 nhưng thực tế các điều luật này vẫn chưa quy định rõ thủ tục ra quyết định thi hành án và việc tổ chức thi hành án khi các quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án hết thời hạn. Để khắc phục vấn đề trên và bảo đảm tính chặt chẽ trong việc thực hiện các quy định về việc hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung quy định về những vấn đề nêu trên tại các điều 261, 262 và 263 của Bộ luật. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 261 và điểm b khoản 1 Điều 262 thì: Chậm nhất là 7 ngày trước khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án (cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp hoãn thi hành án) cho cơ quan công an cùng cấp và người bị kết án. Nếu quá thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
    Ngoài ra tại điểm a khoản 1 Điều 262 và khoản 2 Điều 263 của BLTTHS năm 2003 còn quy định thẩm quyền cho tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù cũng như việc hủy bỏ các quyết định đó. So với quy định tại Điều 232 BLTTHS năm 1988 thì thẩm quyền tạm đình chỉ thi hành án quy định một cách chung chung đó là chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án, còn BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể là giao cho chánh án Tòa án cấp tỉnh. Theo đó: Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người đó được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong trường hợp người bị kết án bị bệnh nặng. Trong trường hợp người bị kết án có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. Quyết định thi hành án được gửi cho cơ quan công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết định. Đồng thời, để bảo đảm việc thi hành án của Tòa án, BLTTHS năm 2003 còn bổ sung quy định về việc chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan điều tra cùng cấp ra quyết định truy nã người bị kết án phạt tù trong trường hợp người này đang tại ngoại mà bỏ trốn tại khoản 4 Điều 256 của Bộ luật này.

    (Báo Pháp luật)
  7. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Thi hành hình phạt tù
    --------------------------------------------------------------------------------


    Các điều 261, 262, 263 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về việc hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
    Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 đã quy định về việc hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án cũng như việc quản lý người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ thi hành án tại các điều 231, 232 và 233 nhưng thực tế các điều luật này vẫn chưa quy định rõ thủ tục ra quyết định thi hành án và việc tổ chức thi hành án khi các quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án hết thời hạn. Để khắc phục vấn đề trên và bảo đảm tính chặt chẽ trong việc thực hiện các quy định về việc hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, BLTTHS năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung quy định về những vấn đề nêu trên tại các điều 261, 262 và 263 của Bộ luật. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2 Điều 261 và điểm b khoản 1 Điều 262 thì: Chậm nhất là 7 ngày trước khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án (cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp hoãn thi hành án) cho cơ quan công an cùng cấp và người bị kết án. Nếu quá thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
    Ngoài ra tại điểm a khoản 1 Điều 262 và khoản 2 Điều 263 của BLTTHS năm 2003 còn quy định thẩm quyền cho tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù cũng như việc hủy bỏ các quyết định đó. So với quy định tại Điều 232 BLTTHS năm 1988 thì thẩm quyền tạm đình chỉ thi hành án quy định một cách chung chung đó là chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án, còn BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể là giao cho chánh án Tòa án cấp tỉnh. Theo đó: Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người đó được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong trường hợp người bị kết án bị bệnh nặng. Trong trường hợp người bị kết án có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. Quyết định thi hành án được gửi cho cơ quan công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết định. Đồng thời, để bảo đảm việc thi hành án của Tòa án, BLTTHS năm 2003 còn bổ sung quy định về việc chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan điều tra cùng cấp ra quyết định truy nã người bị kết án phạt tù trong trường hợp người này đang tại ngoại mà bỏ trốn tại khoản 4 Điều 256 của Bộ luật này.

    (Báo Pháp luật)
  8. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về kháng cáo quá hạn và việc thông báo kháng cáo, kháng nghị
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung những quy định về kháng cáo quá hạn và việc thông báo kháng cáo, kháng nghị như sau:
    Về việc kháng cáo quá hạn, tại khoản 2 Điều 209 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định: Tòa án cấp phúc thẩm xét lý do kháng cáo quá hạn và ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không quy định việc xét đó như thế nào. Do đó, trong thực tiễn thi hành không được thống nhất. Mặc dù đã có hướng dẫn của các ngành Trung ương, nhưng thông thường Tòa án cấp phúc thẩm thành lập HĐXX để xét lý do kháng cáo quá hạn trong trường hợp nếu vụ án đó chỉ có một bị cáo, còn trong trường hợp có nhiều bị cáo, có bị cáo kháng cáo quá hạn, có bị cáo kháng cáo trong hạn luật định thì việc xét kháng cáo quá hạn này được tiến hành tại phiên tòa phúc thẩm. Để bảo đảm thống nhất, tuân theo đúng trình tự này tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung như sau: Tòa án cấp phúc thẩm thành lập HĐXX gồm ba thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. HĐXX có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Như vậy, kể từ ngày BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành (ngày 1-7-2004) thì khi có kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp phúc thẩm phải thực hiện đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS năm 2003. Chỉ trong trường hợp chấp nhận kháng cáo quá hạn mới mở phiên tòa phúc thẩm xét xử đối với bị cáo đó như đối với bị cáo có kháng cáo trong thời hạn luật định.
    Về việc thông báo kháng cáo, kháng nghị , Điều 210 BLTTHS năm 1988 quy định thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị còn quá chung chung, đặc biệt là không quy định thời hạn thông báo. Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi ý kiến của mình cho Tòa án cấp phúc thẩm nhưng không quy định ý kiến về vấn đề gì. Ý kiến của họ có giá trị như thế nào? Để khắc phục những thiếu sót này, Điều 236 BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung như sau:
    Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
    Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
    Có thể nói đây là những sửa đổi quan trọng, khắc phục những thiếu sót mà BLTTHS năm 1988 không quy định cụ thể, tránh áp dụng tùy tiện trong việc thi hành BLTTHS.

    Theo báo Pháp luật

  9. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về kháng cáo quá hạn và việc thông báo kháng cáo, kháng nghị
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung những quy định về kháng cáo quá hạn và việc thông báo kháng cáo, kháng nghị như sau:
    Về việc kháng cáo quá hạn, tại khoản 2 Điều 209 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định: Tòa án cấp phúc thẩm xét lý do kháng cáo quá hạn và ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận mà không quy định việc xét đó như thế nào. Do đó, trong thực tiễn thi hành không được thống nhất. Mặc dù đã có hướng dẫn của các ngành Trung ương, nhưng thông thường Tòa án cấp phúc thẩm thành lập HĐXX để xét lý do kháng cáo quá hạn trong trường hợp nếu vụ án đó chỉ có một bị cáo, còn trong trường hợp có nhiều bị cáo, có bị cáo kháng cáo quá hạn, có bị cáo kháng cáo trong hạn luật định thì việc xét kháng cáo quá hạn này được tiến hành tại phiên tòa phúc thẩm. Để bảo đảm thống nhất, tuân theo đúng trình tự này tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS năm 2003 đã được sửa đổi bổ sung như sau: Tòa án cấp phúc thẩm thành lập HĐXX gồm ba thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. HĐXX có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Như vậy, kể từ ngày BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành (ngày 1-7-2004) thì khi có kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp phúc thẩm phải thực hiện đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS năm 2003. Chỉ trong trường hợp chấp nhận kháng cáo quá hạn mới mở phiên tòa phúc thẩm xét xử đối với bị cáo đó như đối với bị cáo có kháng cáo trong thời hạn luật định.
    Về việc thông báo kháng cáo, kháng nghị , Điều 210 BLTTHS năm 1988 quy định thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị còn quá chung chung, đặc biệt là không quy định thời hạn thông báo. Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi ý kiến của mình cho Tòa án cấp phúc thẩm nhưng không quy định ý kiến về vấn đề gì. Ý kiến của họ có giá trị như thế nào? Để khắc phục những thiếu sót này, Điều 236 BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung như sau:
    Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
    Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
    Có thể nói đây là những sửa đổi quan trọng, khắc phục những thiếu sót mà BLTTHS năm 1988 không quy định cụ thể, tránh áp dụng tùy tiện trong việc thi hành BLTTHS.

    Theo báo Pháp luật

  10. Constancy

    Constancy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    2.620
    Đã được thích:
    0
    Về những biện pháp ngăn chặn
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 có những điểm sửa đổi, bổ sung về những biện pháp ngăn chặn như sau:
    Những hiện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong một số trường hợp khác còn áp dụng đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm của họ, ngăn ngừa họ bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những "công cụ" hữu hiệu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng có hiệu quả, đáp ứng được kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
    So với BLTTHS 1988, chế định những biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS 2003 có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
    Về biện pháp bắt người
    So với BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 thu hẹp diện những người có quyền ra lệnh bắt, theo đó: Trưởng Công an cấp huyện, Phó Trưởng Công an cấp huyện; thẩm phán TAND cấp tỉnh trở lên được phân công chủ tọa phiên tòa không có quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Thay vào đó Luật bổ sung: Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp huyện; thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
    Theo khoản Điều 80 BLTTHS 2003 thì những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam là:
    - Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Viện kiểm sát Quân sự (VKSQS) các cấp;
    - Chánh án, Phó Chánh án TAND và VKSQS các cấp;
    - Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử;
    - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành.
    Về căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp tại Điều 81 (K1) BLTTHS 2003 không có gì mới so với BLTTHS 1988, nhưng có bổ sung quy định cụ thể về việc kiểm sát việc bắt khẩn cấp của VKS nhằm tránh việc bắt oan, sai. Theo đó, Luật bổ sung: "VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
    Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt" (đoạn 2,3 k4 Điều 81).
    So với Điều 65 BLTTHS 1988, Điều 83 BLTTHS 2003 có bổ sung những việc cụ thể cần làm sau khi nhận người bị bắt theo quyết định truy nã như sau:
    "Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã biết.
    Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được VKS cùng cấp phê chuẩn cho cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
    Về tạm giữ
    BLTTHS 2003 có bổ sung một số vấn đề cụ thể sau:
    - Bổ sung một chủ thể có quyền ra quyết định tạm giữ là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển;
    - Bổ sung thời hạn gửi lệnh tạm giữ cho VKS và việc kiểm sát tạm giữ của VKS cùng cấp: "Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp".
    - Bổ sung quy định về việc kiểm sát gia hạn tạm giữ: "Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn tạm giữ và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn" (khoản 2 Đ87).
    Về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm (Đ91; 92; 93)
    So với quy định tại BLTTHS 1988, các quy định này trong BLTTHS 2003 có bổ sung các căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng nhằm tăng cường tính khả thi và hiệu quả của các quy định đó. Cụ thể như sau:
    - Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, Luật bổ sung điều kiện: "... được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng..." (khoản 1 Đ91); bổ sung thủ tục "người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó" (khoản 2 Đ91).
    - Đối với biện pháp bảo lãnh: Luật bổ sung căn cứ áp dụng là: "Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo (khoản 1 Đ92); bổ sung điều kiện của người nhận bảo lãnh "cá nhân nhận báo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lãnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lãnh thì việc bảo lãnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức". (Khoản 4 Đ92).
    - Đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, Luật mở rộng đối tượng được áp dụng: được áp dụng đối với bị can, bị cáo là công dân Việt Nam (trong BLTTHS 1988 chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo là người nước ngoài); bổ sung căn cứ áp dụng "Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo" (khoản 1 Đ93)
    - Về thẩm quyền áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, Luật quy định rõ hơn về người có thẩm quyền áp dụng. Theo đó, những người có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền áp dụng các biện pháp nói trên.
    Ngoài ra, Luật còn quy định Biện pháp bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam.


Chia sẻ trang này