1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Box về ngành môi trường đây ! Ai cần tài liệu chuyên ngành nào !

Chủ đề trong 'Khoa học công nghệ và môi trường' bởi NTA, 05/04/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nguyenvubao

    nguyenvubao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/06/2002
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    Chao cac Ban!!
    Ban nào có những hình ảnh về đất đai,và đồi núi bị tàn phá và rừng bị tàn phá do chất độc hóa học,hay do phân bón thuốc trừ sâu không cho minh xin hoặc chỉ đ/c cho mình dowload cũng được.
    Chân thành cám ơn
    Bao
  2. ngthhuan

    ngthhuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    1.391
    Đã được thích:
    0
    Bài toán phát triển bền vững
    Quảng Hà (báo Lao Ðộng)
    400.000 hộ du canh du cư tiếp tục phá rừng, 300.000 hộ ở nông thôn vẫn còn thiếu đói. Các áp lực về kinh tế và dân cư sẽ vẫn tiếp tục đè nặng và làm suy giảm diện tích rừng, nguồn nước, đất đai, khí hậu... cho đến khi VN thực sự có được mô hình phát triển bền vững. Ðó là thực trạng các nhà khoa học nêu ra tại Hội thảo Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững ở Việt Nam (ngày 14-15.8).
    Thực trạng vẫn đầy lo ngại
    Trong nhiều vấn đề môi trường mà VN đang phải đối đầu, nghiêm trọng nhất là nạn phá rừng, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, xuống cấp tài nguyên đất, bảo tồn nguồn nước ngọt kém hiệu quả, thiếu nước ngọt và ô nhiễm gia tăng, và tác động của chiến tranh đến môi trường. Những vấn đề rắc rối trên ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng nhanh và nạn đói nghèo chưa được giải quyết căn bản. Ðây là nhận định của cả một tập thể các nhà khoa học "tên tuổi" và các nhà quản lý, như GS.VS Vũ Tuyên Hoàng, GS Võ Quý, TS Nguyễn Hữu Ninh, GS Ðặng Trung Thuận, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LÐ-TB-XH) Nguyễn Thị Hằng, Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường (KH-CN-MT) Phạm Khôi Nguyên...
    Thực trạng môi trường mà các nhà khoa học nêu ra trong cuộc Hội thảo Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững ở VN cho thấy môi trường VN hoàn toàn chưa thoát khỏi sự đe doạ bị huỷ hoại do tác động của phát triển kinh tế. Không những thế, theo nhận định của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Ðình Cự, bước sang thế kỷ 21, những yêu cầu mới về bảo vệ môi trường ngày càng làm lộ rõ những yếu kém và bất cập của chúng ta. Trong vòng chưa đầy 50 năm, diện tích che phủ rừng giảm từ 43% xuống còn 28% diện tích cả nước, và chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên thuỷ. Rừng phía bắc giảm sút trầm trọng nhất, trong vòng 48 năm giảm từ 95% xuống còn 17%. Nhiều tỉnh miền núi cũng chỉ còn rất ít rừng như Lai Châu (7,88%), Lào Cai (5,38%). Trong 4 năm từ 1995 đến 1999 ở 4 tỉnh Tây Nguyên có hơn 18.500ha rừng bị khai phá. Các diện tích rừng bị phá dưới áp lực kinh tế và dân cư phần lớn trở thành đất hoang cằn cỗi. Ðến nay, cả nước có tới 33,3% diện tích tự nhiên là đồi núi trọc. Ðộ che phủ của rừng phòng hộ đầu nguồn chỉ còn 20%, mà mức báo động là 30%. Mặc dù các nỗ lực khôi phục rừng vẫn được tiến hành, nhưng nhìn chung rừng vẫn suy thoái, còn cách xa mức ổn định và đạt hiệu quả bảo vệ môi trường. Tỉ lệ tổn thất về rừng và lâm sản chưa ước tính được, nhưng có thể ước định tỉ lệ mất rừng hàng năm là 120.000 - 150.000ha. Cho dù chương trình trồng 5 triệu hécta rừng được hoàn thành và tốc độ trồng rừng được đẩy nhanh đến mức mong muốn là 300.000 ha/năm thì cũng chưa thể bù đắp ngay được mức phá rừng hiện tại.
    Phá rừng đã trực tiếp làm suy giảm chất lượng đất đai. Hiện nay cả nước đã có tới 8,5 triệu hécta đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi, 0,5 triệu hécta đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá; còn các loại đất phèn, mặn, cát, đất xám bạc màu, lầy úng... cũng có tới hơn 4,1 triệu hécta. Tổng cộng có tới hơn 12,5 triệu hécta đất xấu và 50% đất đồng bằng "có vấn đề". Ðất bazan màu mỡ ở Tây Nguyên hàng năm cũng bị mất đến hơn 6.000kg chất dinh dưỡng (chất hữu cơ, nitrogen, phốt pho, Ca, Mg). Suy thoái đất kéo theo suy thoái cả hệ động thực vật.
    Mặc dù là một trong những nước có nguồn tài nguyên nước phong phú nhất thế giới (khoảng 64.000m3/người/năm) nhưng cũng đã có lúc các nhà máy thuỷ điện bị thiếu nước vào mùa khô. Nhiều vùng như Lai Châu, Hà Tĩnh, Quảng Trị, nhân dân phải đi xa nhiều cây số kiếm nước. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp làm nhiễm bẩn nguồn nước ở nhiều nơi. Một số vùng ven biển nguồn nước bị nhiễm mặn hoặc chua do quá trình phát triển kinh tế hoặc khai thác nước ngầm quá mức. Tỉ lệ dân được sử dụng nước sạch ở VN mới chỉ có 50%. Tiếp đó là các vùng môi trường biển và ven biển xuống cấp, diện tích vùng ngập nước suy giảm, đa dạng sinh học cũng giảm sút, các đô thị bị ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Môi trường nông thôn, do cơ sở hạ tầng yếu kém, cũng đang gặp phải các vấn đề cấp bách về nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường.
    Người và tiền... đều ít
    Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu nhiều thứ: Người ít, tổ chức chưa tương xứng với nhiệm vụ. Với 70 cán bộ ở Cục Môi trường và cán bộ ở các tỉnh, VN có tỉ lệ 4 cán bộ môi trường/1 triệu dân. Tỉ lệ này quá ít ngay cả so với những nước như Campuchia 955 người/1 triệu dân). Công tác kế hoạch về bảo vệ môi trường yếu, đầu tư ít (chỉ 200 tỉ đồng/ năm), phải lấy cả vốn từ nguồn sự nghiệp khoa học công nghệ. Vốn viện trợ từ nước ngoài có chiều hướng tăng, nhưng trực tiếp về địa phương ít. Vẫn còn thiếu các văn bản về quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường. Nhưng cho dù các hoạt động quản lý có hiệu quả hơn, thì sức ép của tăng trưởng kinh tế và dân số lên môi trường vẫn còn rất nặng nề. Vì thế hiện nay vấn đề phát triển bền vững, trong đó đặc biệt là phát triển nông nghiệp bền vững và xoá đói giảm nghèo, đang được nêu ra như các mắt xích quan trọng nhất trong chiến lược bảo vệ môi trường của VN. Tuy vậy thực hiện được những điều này không phải dễ dàng: Trong thời gian qua, chính hoạt động phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng phần nào phá vỡ môi trường sinh thái. Tỉ lệ nghèo vẫn còn lớn, ý thức bảo vệ môi trường kém nên nạn phá rừng của 400.000 hộ du canh du cư khó có thể đẩy lùi một sớm một chiều. Ðể đi đến được một nền nông nghiệp bền vững, còn cần rất nhiều các quy hoạch, các lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu kinh tế nông thôn, các chính sách khuyến khích dân làm giàu và bảo vệ môi trường, nâng cao dân trí... Và cuối cùng, tất cả các phương hướng, giải pháp đều cần phải có thời gian.

    AI BIẾT ĐÂU NÈ !
  3. ngthhuan

    ngthhuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    1.391
    Đã được thích:
    0
    Bài toán phát triển bền vững
    Quảng Hà (báo Lao Ðộng)
    400.000 hộ du canh du cư tiếp tục phá rừng, 300.000 hộ ở nông thôn vẫn còn thiếu đói. Các áp lực về kinh tế và dân cư sẽ vẫn tiếp tục đè nặng và làm suy giảm diện tích rừng, nguồn nước, đất đai, khí hậu... cho đến khi VN thực sự có được mô hình phát triển bền vững. Ðó là thực trạng các nhà khoa học nêu ra tại Hội thảo Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững ở Việt Nam (ngày 14-15.8).
    Thực trạng vẫn đầy lo ngại
    Trong nhiều vấn đề môi trường mà VN đang phải đối đầu, nghiêm trọng nhất là nạn phá rừng, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, xuống cấp tài nguyên đất, bảo tồn nguồn nước ngọt kém hiệu quả, thiếu nước ngọt và ô nhiễm gia tăng, và tác động của chiến tranh đến môi trường. Những vấn đề rắc rối trên ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng nhanh và nạn đói nghèo chưa được giải quyết căn bản. Ðây là nhận định của cả một tập thể các nhà khoa học "tên tuổi" và các nhà quản lý, như GS.VS Vũ Tuyên Hoàng, GS Võ Quý, TS Nguyễn Hữu Ninh, GS Ðặng Trung Thuận, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LÐ-TB-XH) Nguyễn Thị Hằng, Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường (KH-CN-MT) Phạm Khôi Nguyên...
    Thực trạng môi trường mà các nhà khoa học nêu ra trong cuộc Hội thảo Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững ở VN cho thấy môi trường VN hoàn toàn chưa thoát khỏi sự đe doạ bị huỷ hoại do tác động của phát triển kinh tế. Không những thế, theo nhận định của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Ðình Cự, bước sang thế kỷ 21, những yêu cầu mới về bảo vệ môi trường ngày càng làm lộ rõ những yếu kém và bất cập của chúng ta. Trong vòng chưa đầy 50 năm, diện tích che phủ rừng giảm từ 43% xuống còn 28% diện tích cả nước, và chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên thuỷ. Rừng phía bắc giảm sút trầm trọng nhất, trong vòng 48 năm giảm từ 95% xuống còn 17%. Nhiều tỉnh miền núi cũng chỉ còn rất ít rừng như Lai Châu (7,88%), Lào Cai (5,38%). Trong 4 năm từ 1995 đến 1999 ở 4 tỉnh Tây Nguyên có hơn 18.500ha rừng bị khai phá. Các diện tích rừng bị phá dưới áp lực kinh tế và dân cư phần lớn trở thành đất hoang cằn cỗi. Ðến nay, cả nước có tới 33,3% diện tích tự nhiên là đồi núi trọc. Ðộ che phủ của rừng phòng hộ đầu nguồn chỉ còn 20%, mà mức báo động là 30%. Mặc dù các nỗ lực khôi phục rừng vẫn được tiến hành, nhưng nhìn chung rừng vẫn suy thoái, còn cách xa mức ổn định và đạt hiệu quả bảo vệ môi trường. Tỉ lệ tổn thất về rừng và lâm sản chưa ước tính được, nhưng có thể ước định tỉ lệ mất rừng hàng năm là 120.000 - 150.000ha. Cho dù chương trình trồng 5 triệu hécta rừng được hoàn thành và tốc độ trồng rừng được đẩy nhanh đến mức mong muốn là 300.000 ha/năm thì cũng chưa thể bù đắp ngay được mức phá rừng hiện tại.
    Phá rừng đã trực tiếp làm suy giảm chất lượng đất đai. Hiện nay cả nước đã có tới 8,5 triệu hécta đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi, 0,5 triệu hécta đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá; còn các loại đất phèn, mặn, cát, đất xám bạc màu, lầy úng... cũng có tới hơn 4,1 triệu hécta. Tổng cộng có tới hơn 12,5 triệu hécta đất xấu và 50% đất đồng bằng "có vấn đề". Ðất bazan màu mỡ ở Tây Nguyên hàng năm cũng bị mất đến hơn 6.000kg chất dinh dưỡng (chất hữu cơ, nitrogen, phốt pho, Ca, Mg). Suy thoái đất kéo theo suy thoái cả hệ động thực vật.
    Mặc dù là một trong những nước có nguồn tài nguyên nước phong phú nhất thế giới (khoảng 64.000m3/người/năm) nhưng cũng đã có lúc các nhà máy thuỷ điện bị thiếu nước vào mùa khô. Nhiều vùng như Lai Châu, Hà Tĩnh, Quảng Trị, nhân dân phải đi xa nhiều cây số kiếm nước. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp làm nhiễm bẩn nguồn nước ở nhiều nơi. Một số vùng ven biển nguồn nước bị nhiễm mặn hoặc chua do quá trình phát triển kinh tế hoặc khai thác nước ngầm quá mức. Tỉ lệ dân được sử dụng nước sạch ở VN mới chỉ có 50%. Tiếp đó là các vùng môi trường biển và ven biển xuống cấp, diện tích vùng ngập nước suy giảm, đa dạng sinh học cũng giảm sút, các đô thị bị ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Môi trường nông thôn, do cơ sở hạ tầng yếu kém, cũng đang gặp phải các vấn đề cấp bách về nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường.
    Người và tiền... đều ít
    Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu nhiều thứ: Người ít, tổ chức chưa tương xứng với nhiệm vụ. Với 70 cán bộ ở Cục Môi trường và cán bộ ở các tỉnh, VN có tỉ lệ 4 cán bộ môi trường/1 triệu dân. Tỉ lệ này quá ít ngay cả so với những nước như Campuchia 955 người/1 triệu dân). Công tác kế hoạch về bảo vệ môi trường yếu, đầu tư ít (chỉ 200 tỉ đồng/ năm), phải lấy cả vốn từ nguồn sự nghiệp khoa học công nghệ. Vốn viện trợ từ nước ngoài có chiều hướng tăng, nhưng trực tiếp về địa phương ít. Vẫn còn thiếu các văn bản về quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường. Nhưng cho dù các hoạt động quản lý có hiệu quả hơn, thì sức ép của tăng trưởng kinh tế và dân số lên môi trường vẫn còn rất nặng nề. Vì thế hiện nay vấn đề phát triển bền vững, trong đó đặc biệt là phát triển nông nghiệp bền vững và xoá đói giảm nghèo, đang được nêu ra như các mắt xích quan trọng nhất trong chiến lược bảo vệ môi trường của VN. Tuy vậy thực hiện được những điều này không phải dễ dàng: Trong thời gian qua, chính hoạt động phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng phần nào phá vỡ môi trường sinh thái. Tỉ lệ nghèo vẫn còn lớn, ý thức bảo vệ môi trường kém nên nạn phá rừng của 400.000 hộ du canh du cư khó có thể đẩy lùi một sớm một chiều. Ðể đi đến được một nền nông nghiệp bền vững, còn cần rất nhiều các quy hoạch, các lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu kinh tế nông thôn, các chính sách khuyến khích dân làm giàu và bảo vệ môi trường, nâng cao dân trí... Và cuối cùng, tất cả các phương hướng, giải pháp đều cần phải có thời gian.

    AI BIẾT ĐÂU NÈ !
  4. ngthhuan

    ngthhuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    1.391
    Đã được thích:
    0
    Thử Tìm Hiểu Những Nguyên Nhân Lũ Lụt Lớn tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
    Trần Tiễn Khanh (8/2001)
    Những năm gần đây đã có những trận lũ lụt lớn chưa từng thấy xảy ra tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đặc biệt là cơn lũ lụt từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2000 được gọi cơn lũ thế kỷ. Cơn lũ này đã làm gần 1000 người thiệt mạng và tổn thất về tài sản và mùa màng được ước lượng đến 500 triệu Mỷ Kim. Hiện nay mực nước sông Cửu Long đang ở trong tình trạng báo động. Để đề phòng lũ lụt môt cách hửu hiệu và giảm thiểu tổn thất, các nguyên nhân gây nên lũ lụt cần được xác định một cách khoa học và khách quan.
    Lũ lụt là một hiện tượng thiên nhiên xảy ra hàng năm tại vùng ĐBSCL. Các cơn lũ bắt đầu khi nước sông Cửu Long dâng cao làm ngập vùng Savannakhet và Pakse ở miền Nam Lào rồi đến vùng Kratie ở miền Đông Cao Miên. Nước lũ từ thượng lưu theo sông Tiền và sông Hậu chảy vào nước ta rồi thoát ra biển Đông. Mùa lũ thường kéo dài từ cuối tháng 6 cho đến cuối tháng 12 và được chia ra ba giai đoạn. Trong giai đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 8, nước lũ chảy vào các kinh và các mương rạch thiên nhiên vùng Đồng tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cao điểm lũ lụt xảy ra trong giai đoạn 2 khi mực nước sông Tiền ở Tân Châu cao hơn 4,2 m, và mực nước sông Hậu ở Châu Đốc cao hơn 3,5 m. Đây là những tiêu chuẩn của Ủy ban Quốc tế Sông Mekong (Mekong River Commission) dùng để định nghỉa mổi khi ĐBSCL bị lụt. Giai đoạn 3 bắt đầu từ tháng 10 khi mực nước hạ thấp dần cho đến cuối tháng 12.
    Như trên đã trình bày lũ lụt ở ĐBSCL bắt đầu do nước lũ ở thượng lưu sông Cửu Long. Nước lũ vùng thượng lưu do đâu mà có? Hàng năm những trận bão biển và gió mùa Tây Nam đã gây nên những trận mưa lớn làm mực nước sông Cửu Long dâng cao. Đặc biệt vào năm 2000, gió mùa bắt đầu sớm đến 6-8 tuần. Những trận mưa lớn vào tháng 7 ở phía Bắc Lào và vùng Tây Nam Trung Hoa đã nâng cao mực nước sông Cửu Long ở Vạn Tượng. Mực nước cứ dâng cao trong vòng hai tháng tới. Đến cuối tháng 8, sông chính và các sông phụ ở Nam Lào đả tràn bờ. Cọng thêm những cơn bão biển Đông đã liên tiếp mang đến những trận mưa lớn ở miền Trung nuớc ta, những tỉnh thành miền Đông nước Cao Miên, và vùng ĐBSCL. Đến đầu tháng 10 đã có một vùng biển nội địa sâu đến 2 m, phá hoại các đê đập và cô lập hoá nhiều làng mạc ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Tiền Giang. Cơn lũ năm 2000 đã gây nên những tổn thất nặng nề nhất từ trước đến nay ở miền Nam. Trong số gần 1000 người bị thiệt mạng, 80% là trẻ em, và hơn 500,000 gia đình đã phải xin cứu trợ.
    Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu, còn có nhiều lý do thường được nhắc đến như (1) các đập thủy điện ở thượng nguồn Trung Hoa, (2) sự di dân đến những vùng lũ lụt, (3) nạn phá rừng và (4) hệ thống kinh thủy nông và đê đập ngăn mặn.
    Trong các lý do nêu trên, hai lý do đầu tiên có thể trả lời một cách dể dàng nhất. Các đập ở Vân Nam, Trung Hoa chỉ ảnh hưởng tối đa 2% lưu lượng sông Cửu Long; hơn 50% lưu lượng này do các sông phụ ở Lào chảy vào. Các đập thủy điện có thể không ảnh hưởng gì mấy đến lũ lụt, nhưng có nhiều ảnh hưởng tai hại đến môi sinh, nông nghiệp và ngư nghiệp của ĐBSCL. Sự di dân đến những vùng như Đồng Tháp có thể gây thêm nhiều thiệt hại hơn, vì các di dân mới này thường đến từ những vùng ít lũ lụt cho nên họ không quen với các biện pháp đề phòng lũ lụt.
    Ảnh hưởng của nạn phá rừng đối với lũ lụt đã và đang đuợc tranh luận trên khắp thế giới. Theo Cơ quan Lương Nông của Liên Hiêp Quốc (FAO), mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á Châu, từ 9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980. Dựa theo nghiên cứu của FAO, diện tích rừng được ước tính khoảng 37% trong hạ lưu vực sông Cửu Long. Rừng vẫn chiếm hơn phân nửa diện tích của Lào và Cao Miên, nơi cung cấp 60-75% lưu lượng lũ của sông Cửu Long tại Kratie, Cao Miên. Dữ kiện thủy học đo được tại Kratie từ năm 1924 đến 1986 cho thấy chu kỳ tái diển, lưu lượng lũ cao nhất, và khối lượng lũ cao nhất của các trận lụt lớn trong khoảng thời gian này đã không vượt qua các con số của các những trận lụt lớn xảy ra trong thập niên 1930. Các cuộc nghiên cứu và điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã chứng minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra trong một số điều kiện thuận lợi, và việc phá rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với những trận lũ lụt nhỏ trong các lưu vực hạn hẹp.
    Từ giữa thập niên 1980, các kinh hiện có đã được nới rộng. Một số lớn kinh chính và một mạng lưới kinh phụ đã được đào xuyên qua vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và các vùng khác trên khắp ĐBSCL với mục đích chính là thủy nông. Hệ thống kinh này đã trở thành những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ từ Cao Miên chảy vào Việt Nam sớm hơn, nhiều hơn và nhanh hơn. Đồng thời, một hệ thống đê đập ngăn mặn đã được xây dựng ở cuối đường thoát lũ ở hạ lưu cùng với một hệ thống đường giao thông được nâng cao. Vì không đủ khả năng thoát lủ, hệ thống đê đập ngăn mặn và đường giao thông này đã làm cản trở nước lũ trong vùng ĐBSCL thoát ra biển Đông và vịnh Thái Lan. Hậu quả là mực nước ngập trong vùng ĐBSCL ngày càng sâu hơn và thời gian ngập ngày càng dài hơn.
    Nói tóm lại nguyên nhân chính của lũ lụt ở ĐBSCL là những trận mưa lớn ở thượng lưu và ĐBSCL. Các nguyên nhân khác như nạn phá rừng, di dân và đê đập chỉ có thể làm lũ lụt trầm trọng hơn mà thội. Những trận mưa lớn do các cơn bão biển Đông và gió mùa Tây Nam gây nên. Từ tháng 7 năm 2001, chúng tôi đã thành lập một trang Web tên http://www.vnbaolut.com để cung cấp miễn phí các dự báo bão biễn và gió mùa. Hàng ngày trang Web VNBAOLUT.COM cho biết thời tiết trước 48 tiếng đồng hồ ở 60 tỉnh thành từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Riêng ĐBSCL có dự báo cho Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Mỹ Tho và Sóc Trăng. Các dự báo được cập nhật bốn lần trong ngày (1 giờ, 7 giờ, 13 giờ và 19 giờ) và có thể tự động gởi qua e-mail. Một mô hình tối tân và chính xác nhất hiện nay, mô hình MM5, được dùng để làm các dự báo. Ngoài ra trang Web VNBAOLUT.COM còn cung cấp ảnh vệ tinh và tin tức thời tiết cũng như dự báo lũ lụt sông Cửu Long của Uûy ban Quốc tế Sông Mekong. Tất cả các dịch vụ nói trên đều miển phí!

    AI BIẾT ĐÂU NÈ !
  5. ngthhuan

    ngthhuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    1.391
    Đã được thích:
    0
    Thử Tìm Hiểu Những Nguyên Nhân Lũ Lụt Lớn tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
    Trần Tiễn Khanh (8/2001)
    Những năm gần đây đã có những trận lũ lụt lớn chưa từng thấy xảy ra tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đặc biệt là cơn lũ lụt từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2000 được gọi cơn lũ thế kỷ. Cơn lũ này đã làm gần 1000 người thiệt mạng và tổn thất về tài sản và mùa màng được ước lượng đến 500 triệu Mỷ Kim. Hiện nay mực nước sông Cửu Long đang ở trong tình trạng báo động. Để đề phòng lũ lụt môt cách hửu hiệu và giảm thiểu tổn thất, các nguyên nhân gây nên lũ lụt cần được xác định một cách khoa học và khách quan.
    Lũ lụt là một hiện tượng thiên nhiên xảy ra hàng năm tại vùng ĐBSCL. Các cơn lũ bắt đầu khi nước sông Cửu Long dâng cao làm ngập vùng Savannakhet và Pakse ở miền Nam Lào rồi đến vùng Kratie ở miền Đông Cao Miên. Nước lũ từ thượng lưu theo sông Tiền và sông Hậu chảy vào nước ta rồi thoát ra biển Đông. Mùa lũ thường kéo dài từ cuối tháng 6 cho đến cuối tháng 12 và được chia ra ba giai đoạn. Trong giai đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 8, nước lũ chảy vào các kinh và các mương rạch thiên nhiên vùng Đồng tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cao điểm lũ lụt xảy ra trong giai đoạn 2 khi mực nước sông Tiền ở Tân Châu cao hơn 4,2 m, và mực nước sông Hậu ở Châu Đốc cao hơn 3,5 m. Đây là những tiêu chuẩn của Ủy ban Quốc tế Sông Mekong (Mekong River Commission) dùng để định nghỉa mổi khi ĐBSCL bị lụt. Giai đoạn 3 bắt đầu từ tháng 10 khi mực nước hạ thấp dần cho đến cuối tháng 12.
    Như trên đã trình bày lũ lụt ở ĐBSCL bắt đầu do nước lũ ở thượng lưu sông Cửu Long. Nước lũ vùng thượng lưu do đâu mà có? Hàng năm những trận bão biển và gió mùa Tây Nam đã gây nên những trận mưa lớn làm mực nước sông Cửu Long dâng cao. Đặc biệt vào năm 2000, gió mùa bắt đầu sớm đến 6-8 tuần. Những trận mưa lớn vào tháng 7 ở phía Bắc Lào và vùng Tây Nam Trung Hoa đã nâng cao mực nước sông Cửu Long ở Vạn Tượng. Mực nước cứ dâng cao trong vòng hai tháng tới. Đến cuối tháng 8, sông chính và các sông phụ ở Nam Lào đả tràn bờ. Cọng thêm những cơn bão biển Đông đã liên tiếp mang đến những trận mưa lớn ở miền Trung nuớc ta, những tỉnh thành miền Đông nước Cao Miên, và vùng ĐBSCL. Đến đầu tháng 10 đã có một vùng biển nội địa sâu đến 2 m, phá hoại các đê đập và cô lập hoá nhiều làng mạc ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Tiền Giang. Cơn lũ năm 2000 đã gây nên những tổn thất nặng nề nhất từ trước đến nay ở miền Nam. Trong số gần 1000 người bị thiệt mạng, 80% là trẻ em, và hơn 500,000 gia đình đã phải xin cứu trợ.
    Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu, còn có nhiều lý do thường được nhắc đến như (1) các đập thủy điện ở thượng nguồn Trung Hoa, (2) sự di dân đến những vùng lũ lụt, (3) nạn phá rừng và (4) hệ thống kinh thủy nông và đê đập ngăn mặn.
    Trong các lý do nêu trên, hai lý do đầu tiên có thể trả lời một cách dể dàng nhất. Các đập ở Vân Nam, Trung Hoa chỉ ảnh hưởng tối đa 2% lưu lượng sông Cửu Long; hơn 50% lưu lượng này do các sông phụ ở Lào chảy vào. Các đập thủy điện có thể không ảnh hưởng gì mấy đến lũ lụt, nhưng có nhiều ảnh hưởng tai hại đến môi sinh, nông nghiệp và ngư nghiệp của ĐBSCL. Sự di dân đến những vùng như Đồng Tháp có thể gây thêm nhiều thiệt hại hơn, vì các di dân mới này thường đến từ những vùng ít lũ lụt cho nên họ không quen với các biện pháp đề phòng lũ lụt.
    Ảnh hưởng của nạn phá rừng đối với lũ lụt đã và đang đuợc tranh luận trên khắp thế giới. Theo Cơ quan Lương Nông của Liên Hiêp Quốc (FAO), mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á Châu, từ 9.5% trong thập niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980. Dựa theo nghiên cứu của FAO, diện tích rừng được ước tính khoảng 37% trong hạ lưu vực sông Cửu Long. Rừng vẫn chiếm hơn phân nửa diện tích của Lào và Cao Miên, nơi cung cấp 60-75% lưu lượng lũ của sông Cửu Long tại Kratie, Cao Miên. Dữ kiện thủy học đo được tại Kratie từ năm 1924 đến 1986 cho thấy chu kỳ tái diển, lưu lượng lũ cao nhất, và khối lượng lũ cao nhất của các trận lụt lớn trong khoảng thời gian này đã không vượt qua các con số của các những trận lụt lớn xảy ra trong thập niên 1930. Các cuộc nghiên cứu và điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi khác trên thế giới đã chứng minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt là có quá nhiều mưa xảy ra trong một số điều kiện thuận lợi, và việc phá rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với những trận lũ lụt nhỏ trong các lưu vực hạn hẹp.
    Từ giữa thập niên 1980, các kinh hiện có đã được nới rộng. Một số lớn kinh chính và một mạng lưới kinh phụ đã được đào xuyên qua vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và các vùng khác trên khắp ĐBSCL với mục đích chính là thủy nông. Hệ thống kinh này đã trở thành những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ từ Cao Miên chảy vào Việt Nam sớm hơn, nhiều hơn và nhanh hơn. Đồng thời, một hệ thống đê đập ngăn mặn đã được xây dựng ở cuối đường thoát lũ ở hạ lưu cùng với một hệ thống đường giao thông được nâng cao. Vì không đủ khả năng thoát lủ, hệ thống đê đập ngăn mặn và đường giao thông này đã làm cản trở nước lũ trong vùng ĐBSCL thoát ra biển Đông và vịnh Thái Lan. Hậu quả là mực nước ngập trong vùng ĐBSCL ngày càng sâu hơn và thời gian ngập ngày càng dài hơn.
    Nói tóm lại nguyên nhân chính của lũ lụt ở ĐBSCL là những trận mưa lớn ở thượng lưu và ĐBSCL. Các nguyên nhân khác như nạn phá rừng, di dân và đê đập chỉ có thể làm lũ lụt trầm trọng hơn mà thội. Những trận mưa lớn do các cơn bão biển Đông và gió mùa Tây Nam gây nên. Từ tháng 7 năm 2001, chúng tôi đã thành lập một trang Web tên http://www.vnbaolut.com để cung cấp miễn phí các dự báo bão biễn và gió mùa. Hàng ngày trang Web VNBAOLUT.COM cho biết thời tiết trước 48 tiếng đồng hồ ở 60 tỉnh thành từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Riêng ĐBSCL có dự báo cho Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Mỹ Tho và Sóc Trăng. Các dự báo được cập nhật bốn lần trong ngày (1 giờ, 7 giờ, 13 giờ và 19 giờ) và có thể tự động gởi qua e-mail. Một mô hình tối tân và chính xác nhất hiện nay, mô hình MM5, được dùng để làm các dự báo. Ngoài ra trang Web VNBAOLUT.COM còn cung cấp ảnh vệ tinh và tin tức thời tiết cũng như dự báo lũ lụt sông Cửu Long của Uûy ban Quốc tế Sông Mekong. Tất cả các dịch vụ nói trên đều miển phí!

    AI BIẾT ĐÂU NÈ !
  6. HuongTuyet

    HuongTuyet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/02/2002
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0
    Phát hiện 'hiệu ứng nhà kính ngược'

    Các bóng khí cổ đại bị kẹt trong băng.
    Với hiệu ứng nhà kính, CO2 biến hành tinh chúng ta thành một cái bẫy nhiệt khổng lồ, khiến cho nó nóng lên. Tuy nhiên, một phân tích mới đây của nhà khoa học Pháp về băng Nam cực cổ đại đã phát hiện thấy chính CO2 cũng là sản phẩm của quá trình tích nhiệt của trái đất.
    ?oDữ liệu của chúng tôi cho thấy hiện tượng ấm lên xuất hiện trước, rồi sau đó hàm lượng CO2 trong bầu khí quyển mới tăng theo", Jean Jouzel của Viện Pierre-Simon Laplace ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nhận định.
    Cho tới nay, các nhà khoa học đều nhất trí rằng ngoài hơi nước, thì CO2 là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, thật khó có thể phân định được yếu tố nào xuất hiện trước: việc tăng hàm lượng carbon, hay hiện tượng ấm lên. Vì rằng chỉ cần nhiệt độ tăng lên chút xíu cũng đủ để kích thích các cánh rừng và đại dương nhả nhiều CO2 hơn, và đến lượt nó, CO2 lại tích lũy nhiệt cho khí quyển.
    Đi tiên phong trong một công nghệ mới, nhóm của Jouzel đã thăm dò các bóng khí bị nhốt trong một khối băng 240.000 năm tuổi (đây là thời kỳ trái đất ấm lên sau một kỷ băng hà). Họ xác định hàm lượng CO2 và so sánh tỷ lệ của hai dạng nguyên tố khí argon trong các bóng khí đó (tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm mà nó bị kẹt vào băng).
    Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một đợt tăng nhiệt độ xảy ra trước khi CO2 tích lũy nhiều trong bầu khí quyển. Phát hiện này trùng hợp với những bằng chứng tìm thấy trên băng hà xung quanh và các hồ sơ khí hậu khác. Jouzel và cộng sự kết luận rằng, một yếu tố khác có thể là từ ngoài trái đất (chứ không phải CO2), đã dẫn tới hiện tượng ấm lên đầu tiên này.
    Tuy nhiên, "phát hiện mới cũng sẽ không làm thay đổi quan điểm (sự cảnh giác) của chúng ta về hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay", Martin Siegert, Đại học Bristol, Anh, cho biết. Theo ông, nồng độ CO2 thực tế đang tăng lên, và vì vậy, cái gì kích hoạt nó đầu tiên đôi khi không quan trọng lắm. Vấn đề là giờ đây, CO2 sẽ khuếch đại hiệu ứng ấm lên đó.
    Và điều này cũng sẽ quan trọng trong tương lai, cho việc xây dựng các mô hình khí hậu chuẩn xác hơn.
    B.H. (theo Nature)
  7. HuongTuyet

    HuongTuyet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/02/2002
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0
    Phát hiện 'hiệu ứng nhà kính ngược'

    Các bóng khí cổ đại bị kẹt trong băng.
    Với hiệu ứng nhà kính, CO2 biến hành tinh chúng ta thành một cái bẫy nhiệt khổng lồ, khiến cho nó nóng lên. Tuy nhiên, một phân tích mới đây của nhà khoa học Pháp về băng Nam cực cổ đại đã phát hiện thấy chính CO2 cũng là sản phẩm của quá trình tích nhiệt của trái đất.
    ?oDữ liệu của chúng tôi cho thấy hiện tượng ấm lên xuất hiện trước, rồi sau đó hàm lượng CO2 trong bầu khí quyển mới tăng theo", Jean Jouzel của Viện Pierre-Simon Laplace ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nhận định.
    Cho tới nay, các nhà khoa học đều nhất trí rằng ngoài hơi nước, thì CO2 là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, thật khó có thể phân định được yếu tố nào xuất hiện trước: việc tăng hàm lượng carbon, hay hiện tượng ấm lên. Vì rằng chỉ cần nhiệt độ tăng lên chút xíu cũng đủ để kích thích các cánh rừng và đại dương nhả nhiều CO2 hơn, và đến lượt nó, CO2 lại tích lũy nhiệt cho khí quyển.
    Đi tiên phong trong một công nghệ mới, nhóm của Jouzel đã thăm dò các bóng khí bị nhốt trong một khối băng 240.000 năm tuổi (đây là thời kỳ trái đất ấm lên sau một kỷ băng hà). Họ xác định hàm lượng CO2 và so sánh tỷ lệ của hai dạng nguyên tố khí argon trong các bóng khí đó (tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm mà nó bị kẹt vào băng).
    Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một đợt tăng nhiệt độ xảy ra trước khi CO2 tích lũy nhiều trong bầu khí quyển. Phát hiện này trùng hợp với những bằng chứng tìm thấy trên băng hà xung quanh và các hồ sơ khí hậu khác. Jouzel và cộng sự kết luận rằng, một yếu tố khác có thể là từ ngoài trái đất (chứ không phải CO2), đã dẫn tới hiện tượng ấm lên đầu tiên này.
    Tuy nhiên, "phát hiện mới cũng sẽ không làm thay đổi quan điểm (sự cảnh giác) của chúng ta về hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay", Martin Siegert, Đại học Bristol, Anh, cho biết. Theo ông, nồng độ CO2 thực tế đang tăng lên, và vì vậy, cái gì kích hoạt nó đầu tiên đôi khi không quan trọng lắm. Vấn đề là giờ đây, CO2 sẽ khuếch đại hiệu ứng ấm lên đó.
    Và điều này cũng sẽ quan trọng trong tương lai, cho việc xây dựng các mô hình khí hậu chuẩn xác hơn.
    B.H. (theo Nature)
  8. HuongTuyet

    HuongTuyet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/02/2002
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0

    Bao moi day!
    Phát hiện 'hiệu ứng nhà kính ngược'

    Các bóng khí cổ đại bị kẹt trong băng.
    Với hiệu ứng nhà kính, CO2 biến hành tinh chúng ta thành một cái bẫy nhiệt khổng lồ, khiến cho nó nóng lên. Tuy nhiên, một phân tích mới đây của nhà khoa học Pháp về băng Nam cực cổ đại đã phát hiện thấy chính CO2 cũng là sản phẩm của quá trình tích nhiệt của trái đất.
    ?oDữ liệu của chúng tôi cho thấy hiện tượng ấm lên xuất hiện trước, rồi sau đó hàm lượng CO2 trong bầu khí quyển mới tăng theo", Jean Jouzel của Viện Pierre-Simon Laplace ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nhận định.
    Cho tới nay, các nhà khoa học đều nhất trí rằng ngoài hơi nước, thì CO2 là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, thật khó có thể phân định được yếu tố nào xuất hiện trước: việc tăng hàm lượng carbon, hay hiện tượng ấm lên. Vì rằng chỉ cần nhiệt độ tăng lên chút xíu cũng đủ để kích thích các cánh rừng và đại dương nhả nhiều CO2 hơn, và đến lượt nó, CO2 lại tích lũy nhiệt cho khí quyển.
    Đi tiên phong trong một công nghệ mới, nhóm của Jouzel đã thăm dò các bóng khí bị nhốt trong một khối băng 240.000 năm tuổi (đây là thời kỳ trái đất ấm lên sau một kỷ băng hà). Họ xác định hàm lượng CO2 và so sánh tỷ lệ của hai dạng nguyên tố khí argon trong các bóng khí đó (tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm mà nó bị kẹt vào băng).
    Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một đợt tăng nhiệt độ xảy ra trước khi CO2 tích lũy nhiều trong bầu khí quyển. Phát hiện này trùng hợp với những bằng chứng tìm thấy trên băng hà xung quanh và các hồ sơ khí hậu khác. Jouzel và cộng sự kết luận rằng, một yếu tố khác có thể là từ ngoài trái đất (chứ không phải CO2), đã dẫn tới hiện tượng ấm lên đầu tiên này.
    Tuy nhiên, "phát hiện mới cũng sẽ không làm thay đổi quan điểm (sự cảnh giác) của chúng ta về hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay", Martin Siegert, Đại học Bristol, Anh, cho biết. Theo ông, nồng độ CO2 thực tế đang tăng lên, và vì vậy, cái gì kích hoạt nó đầu tiên đôi khi không quan trọng lắm. Vấn đề là giờ đây, CO2 sẽ khuếch đại hiệu ứng ấm lên đó.
    Và điều này cũng sẽ quan trọng trong tương lai, cho việc xây dựng các mô hình khí hậu chuẩn xác hơn.
    B.H. (theo Nature
  9. HuongTuyet

    HuongTuyet Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/02/2002
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0

    Bao moi day!
    Phát hiện 'hiệu ứng nhà kính ngược'

    Các bóng khí cổ đại bị kẹt trong băng.
    Với hiệu ứng nhà kính, CO2 biến hành tinh chúng ta thành một cái bẫy nhiệt khổng lồ, khiến cho nó nóng lên. Tuy nhiên, một phân tích mới đây của nhà khoa học Pháp về băng Nam cực cổ đại đã phát hiện thấy chính CO2 cũng là sản phẩm của quá trình tích nhiệt của trái đất.
    ?oDữ liệu của chúng tôi cho thấy hiện tượng ấm lên xuất hiện trước, rồi sau đó hàm lượng CO2 trong bầu khí quyển mới tăng theo", Jean Jouzel của Viện Pierre-Simon Laplace ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nhận định.
    Cho tới nay, các nhà khoa học đều nhất trí rằng ngoài hơi nước, thì CO2 là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, thật khó có thể phân định được yếu tố nào xuất hiện trước: việc tăng hàm lượng carbon, hay hiện tượng ấm lên. Vì rằng chỉ cần nhiệt độ tăng lên chút xíu cũng đủ để kích thích các cánh rừng và đại dương nhả nhiều CO2 hơn, và đến lượt nó, CO2 lại tích lũy nhiệt cho khí quyển.
    Đi tiên phong trong một công nghệ mới, nhóm của Jouzel đã thăm dò các bóng khí bị nhốt trong một khối băng 240.000 năm tuổi (đây là thời kỳ trái đất ấm lên sau một kỷ băng hà). Họ xác định hàm lượng CO2 và so sánh tỷ lệ của hai dạng nguyên tố khí argon trong các bóng khí đó (tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm mà nó bị kẹt vào băng).
    Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một đợt tăng nhiệt độ xảy ra trước khi CO2 tích lũy nhiều trong bầu khí quyển. Phát hiện này trùng hợp với những bằng chứng tìm thấy trên băng hà xung quanh và các hồ sơ khí hậu khác. Jouzel và cộng sự kết luận rằng, một yếu tố khác có thể là từ ngoài trái đất (chứ không phải CO2), đã dẫn tới hiện tượng ấm lên đầu tiên này.
    Tuy nhiên, "phát hiện mới cũng sẽ không làm thay đổi quan điểm (sự cảnh giác) của chúng ta về hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay", Martin Siegert, Đại học Bristol, Anh, cho biết. Theo ông, nồng độ CO2 thực tế đang tăng lên, và vì vậy, cái gì kích hoạt nó đầu tiên đôi khi không quan trọng lắm. Vấn đề là giờ đây, CO2 sẽ khuếch đại hiệu ứng ấm lên đó.
    Và điều này cũng sẽ quan trọng trong tương lai, cho việc xây dựng các mô hình khí hậu chuẩn xác hơn.
    B.H. (theo Nature
  10. NTA

    NTA Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Hi Hương Tuyết !
    Hôm nay anh vào diễn đàn mới thấy em cũng đang online đấy !
    Bài viết của em hay lắm ... và mới nữa chứ ! Khi nào có bài tin nào hay thì post lên cho anh và mọi người biết nhé :)
    Chuyện tốt nghiệp của em dạo này thế nào rồi ? Em đã chọn được con đường đi của mình chưa ?
    Chào mừng các bạn đến với diễn đàn KHCN&MT

    Công ty môi trường xử lý nước thải & xử lý khí thải
    Lần cập nhật cuối: 11/04/2014

Chia sẻ trang này