1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Box về ngành môi trường đây ! Ai cần tài liệu chuyên ngành nào !

Chủ đề trong 'Khoa học công nghệ và môi trường' bởi NTA, 05/04/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tuuphung

    tuuphung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2005
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    1
    TP đang làm research về noise effect.
    Mong các bạn có những tiêu chuẩn hoặc bài báo nào liên quan đến noise in industry vui lòng chỉ giúp.
    Hiện tại cụ thể là TP đang tìm kiếm những tài liệu sau:
    ISO 1999:1990
    - Occupational Safety and Health Administration: Permissible Exposure Limit (29 CFR 1910.95)
    - British Health and Safety Executive: Noise at Work regulations, 1989 Daily Personal Eposure to Noise
    - Australia (National) Worksafe: National Standard for Occupational NOise (NOHSC:1007 (2000)
    Cám ơn nhiều.
    Cheers.
  2. aster

    aster Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/07/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    huhu, mình cũng muốn hỏi!
    Mình đang phải viết bài về "Con người là công dân sinh thái".
    Khái niệm này có vẻ hơi mới ở VN hay sao ý mà chẳng tìm thấy tài liệu gì cả. Tiếng Anh thì mình cũng chưa tìm được chỗ nào nói đầy đủ, hệ thống một chút.
    Bạn nào biết thì chỉ cho mình với được ko?
    Many thanks!
  3. nqt82

    nqt82 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2003
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0
    Hi!!! chào các bạn!!!
    Minh đang làm về "dự án cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn". Mình chỉ làm dự án mang tính chất tiền khả thi thôi. Bạn nào biết về dạng dự án này có thể chỉ giúp minh ko? Mình muốn biết về cách làm nó như thế nào?Bạn nào có biết một dự án dạng này của 1 tỉnh nào đã làm thì chỉ cho mình biết mình tham khảo với.
    Hy vọng nhận được hồi âm sờm từ các bạn. cảm ơn nhiều!!!!!
  4. khongaibiet2000

    khongaibiet2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/07/2005
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    không biết cái này có giúp được bạn không:
    1. Giới thiệu hội thảo khoa học về giáo dục môi trường nhân văn lần thứ nhất:
    25-26/08/1999
    Tại diễn đàn cuộc hội thảo khoa học về giáo dục môi trường nhân văn do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ chức ngày 25-26/8/1999 tại Tam Ðảo với sự tham gia của trên 120 Ðại biểu là cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu. trong cả nước, đang có nhiều ý kiến tranh luận xung quanh khái niệm "Môi trường nhân văn".
    Mặc dù, chưa có sự thống nhất sau hội thảo về khái niệm "Môi trường nhân văn" nhưng hội nghị đã nhất trí coi, giáo dục môi trường nhân văn là giáo dục đạo đức môi trường và phải đưa nhanh chóng nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình hệ thống giáo dục quốc dân.
    Ðặc biệt, hội nghị cũng lưu ý rằng: để phản ánh đầy đủ những quan điểm giáo dục môi trường nhân văn thì coi đạo đức bảo vệ môi trường là một trong những chuẩn mực đạo đức của mỗi công dân vì sự phát triển bền vững.
    Giáo dục môi trường nhân văn nhằm góp phần thiết thực xây dựng người công dân hiện đại cũng như trong tương lai, coi trọng đạo đức bảo vệ môi trường: có thái độ và hành vi ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người, giữa con người với giới tự nhiên.
    Hội nghị cũng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta đang triển khai mạnh mẽ nghị quyết Trung ương V về "Giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" và chỉ thị số 36 CT/TW của Bộ Chính trị về " Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".

    2. Bàn về giáo dục môi trường nhân văn/đạo đức môi trường
    Giáo dục môi trường nhân văn/đạo đức môi trường là một lĩnh vực rất mới mẽ về cả khái niệm, nội dung, phương pháp tiếp cận và các giải pháp. Khái niệm về môi trường theo luật bảo vệ môi trường nước ta được hiểu là môi trường tự nhiên chịu sự tác động của các họat động con người. Luật bảo vệ môi trường chủ yếu nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phức tạp giữa các họat động của con người sao cho có lợi về sức khỏe, đời sống, bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa lợi ích giữa con người và môi trường.
    Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một điều là: con người và môi trường thiên nhiên là hai bộ phận của một thể thống nhất- "Hệ thống sự sống tổng thể" trái đất, ngôi nhà chung của loài người, chúng luôn phụ thuộc vào nhau, tương tác qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, để nâng cao hơn chất lượng của cuộc sống con người cũng như để tránh được các hủy hoại về sinh thái môi trường thì cần phải có nhận thức sâu sắc hơn về sự sống và phải xác định cho được một hệ thống các chuẩn mực đạo đức môi trường. Không còn cách nào khác chúng ta phải xem xét đến các giá trị, các nguyên tắc làm cơ sở cho mối quan hệ thân thiện giữa chúng ta với trái đất.
    Cần phải nhận thấy rằng: cuộc khủng hoảng môi trường toàn cầu hiện nay là hậu quả của hệ thống giá trị, hướng theo tính tham lam của con người và chủ nghĩa vật chất quá mức , cũng như của sai lầm tự mãn cho rằng, khoa học và công nghệ sẽ giải quyết được mọi vấn đề của tự nhiên. Ðiều này đã dẫn đến các hoạt động của con người đang làm biến đổi môi trường tự nhiên một cách mạnh mẽ nhất.
    Các hoạt động này bao gồm hai nhóm: Hoạt động bảo vệ môi trường và hoạt động phá hoại môi trường. Nội dung và hệ quả của hai nhóm hoạt động đều trái ngược nhau, nhưng cùng giống nhau ở một điểm là đều xuất phát từ những quyết định của con người. Những quyết định này được đưa ra dựa vào 3 khả năng của con người:
    - Tri thức môi trường (Environmental knowledge)
    - Khả năng hành động cụ thể về môi trường (Environmental practice)
    - Thái độ đối với môi trường (Environmental attitude)
    Giáo dục và đào tạo về khoa học, công nghệ môi trường sẽ giúp cho con người xây dựng và phát triển khả năng thứ nhất và thứ hai; giáo dục môi trường nhân văn/đạo đức môi trường giúp con người xây dựng và phát triển khả năng thứ ba.
    Mục tiêu của giáo dục môi trường nhân văn/đạo đức môi trường là trên cơ sở một vũ trụ quan và nhân sinh quan nhất định, tạo cho con người có một cảm nhận, thái độ và hành vi đúng đắn về những vấn đề môi trường mà họ gặp phải trong cuộc sống, từ đó có ý thức, quyết tâm hành động để bảo vệ môi trường. Các quyết định của chúng ta cần phải được xác định bởi ý thức của chính chúng ta, về sức mạnh tinh thần, tâm hồn cao thượng và trân trọng, yêu quí cuộc sống, môi trường thiên nhiên .
    Vì vậy, chúng ta phải có một khuôn mẫu chung về đạo đức, phải cùng nhau chia sẽ một cách bình đẳng các lợi ích trách nhiệm khi sử dụng môi trường chung. Ðặc biệt cần phải bình đẳng giữa các quốc gia, các tộc người và các thế hệ con người trong phân chia lợi ích kinh tế, xã hội của môi trường trái đất.
    Con người và giới tư nhiên đã lập nên một " hệ thống sự sống tổng thể " trên trái đất tức là một thể toàn vẹn bao gồm con người, các yếu tố và lực lượng tự nhiên cùng tồn tại một cách phụ thuộc nhau trong một thể thống nhất. Môi trường tự nhiên là một phần của sự sống. Khả năng tồn tại của hệ thống tổng thể phụ thuộc hoàn toàn vào sự tồn tại và thống nhất của mọi thành phần cấu tạo nên nó, đồng thời không có loài nào có quyền riêng biệt với trái đất.
    Như vậy, giáo dục môi trường nhân văn (theo nghĩa hẹp là giáo dục đạo đức môi trường) là việc phải xây dựng được hành vi, thái độ đúng mực, thân thiện với môi trường cũng như xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong toàn bộ hành tinh. Con người tồn tại không thể thiếu được giới tự nhiên, mà giới tự nhiên cũng không thể tồn tại và phát triển mà không có sự tác động của trí tuệvà sự điều khiển của con người. ời không chia sẽ vơ
    Không thể có môi trường nhân văn: nếu con ngư i nhau niềm vui hay nỗi buồn, nếu mỗi con người, mỗi tổ chức thiếu tinh thần trách nhiệm với xã hội, nếu con người chặt phá rừng, săn bắt động vật hoang dã vô tội vạ, nếu con người có hành động tàn phá môi trường, hủy diệt tự nhiên .
    Như vậy, môi trường nhân văn thực chất là môi trường nghiên cứu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên mà hai lĩnh vực này liên kết chặt chẽ nhau trong một hệ thống hoàn thiện và ra đời gắn liền với bề dày lịch sử của loài người. Mối quan hệ giữa hệ tự nhiên và hệ xã hội là mối quan hệ biện chứng mà trong đó sự thay đổi của hệ thống này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến cơ cấu và chức năng của hệ thống kia.
    Do đó, trong môi trường nhân văn của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đều có một mục tiêu chung là vì xã hội của cộng đồng con người và phát triển bền vững mà nòng cốt là giải quyết mối quan hệ giữa cộng đồng con người và thế giới tự nhiên. Có thể nêu cấu trúc của môi trường nhân văn như sau:
    5.2 CÁC QUAN ÐIỂM VỀ GIÁO DỤC NỘI DUNG MÔI TRƯỜNG NHÂN VĂN
    Tiêu chí tiên quyết của môi trường nhân văn là: Giải quyết mối quan hệ giữa cộng đồng con người và thế giới tự nhiên để đạt tới phúc lợi, bình đẳng cho toàn thể cộng đồng nhân loại. Vì vậy, môi trường nhân văn có hai nội dung cơ bản:

    1. Lành mạnh hóa mối quan hệ giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa những cộng đồng con người với nhau trên phạm vi thế giới
    Một nguyên tắc cơ bản của xã hội loài người là để có một cuộc sống bền vững thì đòi hỏi giữa con người với con người phải có mối quan hệ tốt đẹp, thân ái, thương yêu nhau và có sự hợp tác, giúp đỡ nhau. Ðó là một nguyên tắc về đạo đức, có nghĩa là sự phát triển ở nơi này không được làm hại đến sự phát triển ở nơi khác, phải chia sẽ một cách công bằng các phúc lợi xã hội và chi phí trong việc sử dụng tài nguyên cũng như bảo vệ môi trường giữa các cộng đồng, giữa người giàu và người nghèo, giữa thế hệ hiện tại và tương lai.
    Ðó là lối sống của con người hiện đại, phản ảnh "tính người" và "vì con người". Ðiều này đã được thế giới công nhận. Chính vì vậy, trong hội nghị thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) đã kêu gọi các quốc gia phải hợp tác giúp đỡ nhau cùng giải quyết vấn đề môi trường. Hội nghị cũng yêu cầu các nước giàu phải giúp đỡ các nước nghèo vì các nước này đã tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên và đã thải ra nhiều chất độc làm ô nhiễm môi trường toàn cầu. Các nước giàu đã thừa nhận và đồng ý trích 0,7% tổng sản phẩm quốc nội để giúp đỡ các nước đang phát triển, khắc phục những hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra.
    Hội nghị cũng đã đưa ra một vấn đề đòi được giải quyết đó là: Cuộc chạy đua để giành hiệu quả kinh tế cao và tốc độ phát triển nhanh nhưng không được tiêu diệt các nguồn sinh thái cơ bản và yêu cầu phát triển bền vững của loài người. Hội nghị cũng phê phán những mặt tiêu cực của chủ nghĩa thực dụng và thiển cận kinh tế của các nước phát triển.
    Tuy nhiên, trong thực tế ở mỗi vùng, mỗi nước khác nhau thì vấn đề giáo dục môi trường nhân văn chưa có sự thay đổi nhiều. Các sự cố môi trường ở nơi này đang xảy ra như: mưa, bão, lũ lụt, chết chóc mất nhà cửa . thì ở nơi kia, con người vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù từng con người hàng ngày, hàng giờ đang góp phần vào công cuộc phá hoại sự hài hòa, cân bằng sinh thái của tự nhiên trong cuộc chạy đua tìm kiếm lợi nhuận tối đa và kế sinh nhai cho cuộc sống hàng ngày.
    Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Vì vậy, mỗi con người, mỗi quốc gia phải cùng nhau chia sẽ một cách bình đẳng các quyền lợi và trách nhiệm khi sử dụng môi trường chung, đặc biệt là bình đẳng với lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội giữa các quốc gia, giữa các thế hệ. Mọi người đều có quyền bình đẳng sống trong một môi trường an toàn cũng như theo đuổi hạnh phúc và sự phồn vinh cá nhân vì rằng phúc lợi và chất lượng sống của từng cá nhân đã góp phần cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống "sự sống tổng thể trên trái đất".
    Sự lành mạnh hóa quan hệ giữa người với người là sự lành mạnh hóa mối quan hệ giữa các dân tộc, công bằng trong phân phối, tiêu thụ, bảo đảm cho phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người già cả, neo đơn, người thiểu số, người tàn tật . đều có quyền chia sẽ những lợi ích thu được từ các chính sách môi trường và phát triển. Cần khuyến khích việc sử dụng các công nghệ "thân thiện với môi trường", đồng thời xúc tiến những điều kiện thích hợp, để mọi người cùng tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định trong sự phát triển của kinh tế xã hội.
  5. khongaibiet2000

    khongaibiet2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/07/2005
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    5.2 CÁC QUAN ÐIỂM VỀ GIÁO DỤC NỘI DUNG MÔI TRƯỜNG NHÂN VĂN
    Tiêu chí tiên quyết của môi trường nhân văn là: Giải quyết mối quan hệ giữa cộng đồng con người và thế giới tự nhiên để đạt tới phúc lợi, bình đẳng cho toàn thể cộng đồng nhân loại. Vì vậy, môi trường nhân văn có hai nội dung cơ bản:
    1. Lành mạnh hóa mối quan hệ giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa những cộng đồng con người với nhau trên phạm vi thế giới
    Một nguyên tắc cơ bản của xã hội loài người là để có một cuộc sống bền vững thì đòi hỏi giữa con người với con người phải có mối quan hệ tốt đẹp, thân ái, thương yêu nhau và có sự hợp tác, giúp đỡ nhau. Ðó là một nguyên tắc về đạo đức, có nghĩa là sự phát triển ở nơi này không được làm hại đến sự phát triển ở nơi khác, phải chia sẽ một cách công bằng các phúc lợi xã hội và chi phí trong việc sử dụng tài nguyên cũng như bảo vệ môi trường giữa các cộng đồng, giữa người giàu và người nghèo, giữa thế hệ hiện tại và tương lai.Ðó là lối sống của con người hiện đại, phản ảnh "tính người" và "vì con người". Ðiều này đã được thế giới công nhận. Chính vì vậy, trong hội nghị thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) đã kêu gọi các quốc gia phải hợp tác giúp đỡ nhau cùng giải quyết vấn đề môi trường. Hội nghị cũng yêu cầu các nước giàu phải giúp đỡ các nước nghèo vì các nước này đã tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên và đã thải ra nhiều chất độc làm ô nhiễm môi trường toàn cầu. Các nước giàu đã thừa nhận và đồng ý trích 0,7% tổng sản phẩm quốc nội để giúp đỡ các nước đang phát triển, khắc phục những hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra. Hội nghị cũng đã đưa ra một vấn đề đòi được giải quyết đó là: Cuộc chạy đua để giành hiệu quả kinh tế cao và tốc độ phát triển nhanh nhưng không được tiêu diệt các nguồn sinh thái cơ bản và yêu cầu phát triển bền vững của loài người. Hội nghị cũng phê phán những mặt tiêu cực của chủ nghĩa thực dụng và thiển cận kinh tế của các nước phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế ở mỗi vùng, mỗi nước khác nhau thì vấn đề giáo dục môi trường nhân văn chưa có sự thay đổi nhiều. Các sự cố môi trường ở nơi này đang xảy ra như: mưa, bão, lũ lụt, chết chóc mất nhà cửa . thì ở nơi kia, con người vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù từng con người hàng ngày, hàng giờ đang góp phần vào công cuộc phá hoại sự hài hòa, cân bằng sinh thái của tự nhiên trong cuộc chạy đua tìm kiếm lợi nhuận tối đa và kế sinh nhai cho cuộc sống hàng ngày.Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Vì vậy, mỗi con người, mỗi quốc gia phải cùng nhau chia sẽ một cách bình đẳng các quyền lợi và trách nhiệm khi sử dụng môi trường chung, đặc biệt là bình đẳng với lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội giữa các quốc gia, giữa các thế hệ. Mọi người đều có quyền bình đẳng sống trong một môi trường an toàn cũng như theo đuổi hạnh phúc và sự phồn vinh cá nhân vì rằng phúc lợi và chất lượng sống của từng cá nhân đã góp phần cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống "sự sống tổng thể trên trái đất".
    Sự lành mạnh hóa quan hệ giữa người với người là sự lành mạnh hóa mối quan hệ giữa các dân tộc, công bằng trong phân phối, tiêu thụ, bảo đảm cho phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người già cả, neo đơn, người thiểu số, người tàn tật . đều có quyền chia sẽ những lợi ích thu được từ các chính sách môi trường và phát triển. Cần khuyến khích việc sử dụng các công nghệ "thân thiện với môi trường", đồng thời xúc tiến những điều kiện thích hợp, để mọi người cùng tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định trong sự phát triển của kinh tế xã hội.
    2. Giải quyết mối quan hệ giữa cộng đồng con người với thế giới tự nhiên
    Ðây là tiêu chí chủ yếu, là nội dung cơ bản nhất của môi trường nhân văn, là cái đích để vươn tới của sự phát triển bền vững. Cho đến nay có 2 quan điểm nhìn nhận con người và thiên nhiên
    - Quan điểm thứ 1: Coi con người là trung tâm. Do đó, con người phải đối xử tốt với trái đất thì trái đất sẽ đối xử tốt với con người.
    - Quan điểm thứ 2: Coi thiên nhiên là trung tâm. Do đó, con người phải tôn trọng thiên nhiên, tôn trọng trái đất vì rằng trái đất và những sinh vật của nó cũng có quyền được tồn tại như con người.
    Bàn luận: Nhận thức thứ nhất gọi là "xanh nhạt"; nhận thức thứ hai gọi là "xanh đậm". Trong cùng một thời điểm, 2 quan điểm trên có thể dẫn đến các hành động khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay con người được thừa nhận rộng rãi là không tách khỏi thiên nhiên nên 2 quan điểm trên gần như trở thành một: chất lượng môi trường trái đất và sức khỏe nhân loại là không tách rời nhau.
    Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người là tiền đề và động lực để xây dựng và củng cổ cho thái độ "cư xử" với thiên nhiên, xây dựng một lối sống " thân thiện với môi trường" và "vì môi trường". Ðây cũng là cơ sở để phát triển và duy trì một cuộc sống lành mạnh, lâu bền của con người.
    Trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, với những thành tựu to lớn và vượt bực của khoa học và công nghệ, của sự phát triển kinh tế và phúc lợi đã làm cho nhận thức cũng như nếp sống, phong cách sống của con người thay đổi. Tuy nhiên, vì cuộc sống sinh nhai hay máu làm giàu, tham lam đã dẫn đến người nghèo cũng như kẻ giàu có đều ra sức phá hoại môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên. Người nghèo thì tìm mọi cách bòn rút thiên nhiên, khai thác nguồn lợi, phá hoại môi trường không thương tiếc. Hầu như cảnh chặt phá rừng, đốt cháy rừng, săn bắn thú vật hoang dã, khai thác cùng kiệt đất đai. là thường xuyên với người nghèo vì họ không có con đường nào khác để xóa cái đói, giảm cái nghèo, giải quyết cái đói đang bám lấy gia đình họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người giàu thì có mức tiêu dùng cao, hưởng lợi cao và điều này có nghĩa là đã tỷ lệ thuận với mức độ phá hoại môi trường thiên nhiên.
    Các nghiên cứu cho thấy: một đứa trẻ ở Mỹ gây hư hại cho môi trường gấp 35 lần so với một đứa trẻ ở Ấn Ðộ, gấp 280 lần ở HaiTi. Chỉ nói về khả năng sử dụng năng lượng hiện nay ở Mỹ thì lượng dầu mỏ phải tăng thêm 3 lần; lượng hơi đốt tăng thêm 7 lần, lượng than đá tăng thêm 10 lần; số nhà máy điện hạt nhân tăng thêm 60 lần; buôn bán động vật quý hiếm giành cho người giàu lên tới 10 tỷ USD/năm..(Lê Văn Khoa, 1999).
    Mối quan hệ "không thân với môi trường" của con người đã dẫn đến các hiểm họa về sinh thái môi trường và sự tồn tại lâu dài của trái đất, của các sinh vật, trong đó có con người. Sự ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước ngày càng trầm trọng ở lục địa, vùng ven biển và đới bờ. đã làm cho khí hậu trái đất thay đổi, nhiệt độ tăng lên, lỗ thủng ozon ngày càng rộng ra ở hai địa cực, các khí hiệu ứng nhà kính tăng. nhiều hệ sinh thái bị thay đổi hoặc mất đi, nhiều loài động thực vật bị tiêu diệt. cũng đều xuất phát từ mối quan hệ không lành mạnh giữa con người với nhau. Sự cách biệt giữa thu nhập và mức sống giữa các quốc gia, giữa các nhóm người trong một nước đang ngày càng phổ biến. Rồi chiến tranh vì nguồn tài nguyên, khoáng sản, năng lượng, đất đai, nguồn nước. xảy ra liên tục trên thế giới, đã làm cho nguồn tài nguyên, các sinh vật, các cơ sở hạ tầng của loài người: nhà cửa, đường xá , công xưởng. các di tích, công trình văn hóa bị hủy diệt. Các tệ nạn xã hội như: xì ke, ma túy, mại dâm, rượu chè, mê tín dị đoan... đã làm băng hoại thuần phong mỹ tục, phá hủy gia phong, đạo đức tốt đẹp vốn có của con người. Các hiện tượng như cha giết con, vợ giết chồng, chồng giết vợ, cháu giết ông bà, cướp giật, hãm hiếp, buôn bán ******** trẻ em, buôn bán phụ nữ qua biên giới. không còn là hiếm nữa. Các tệ nạn xã hội còn làm biến đổi nguồn gen, gây dịch bệnh cho con người. Ðại dịch bệnh AIDS thế kỷ là hậu quả của lối sống buông thả, thiếu hiểu biết của con người: Tiêm chích ma túy, nghiện hút, mại dâm. Khi con người yếu, ốm thì không thể có khả năng tạo ra một cuộc sống lành mạnh, trong sạch được. Chỉ có những bộ óc minh mẫn trong những cơ thể tráng kiện mà thôi.Một điều đáng nói là hậu quả của mặt trái trong cơ chế thị trường hiện nay đã dẫn đến một bộ phận con người quá coi trọng vật chất, tiền bạc hơn cả tình người. Quan điểm cho rằng: "Có tiền là có tất cả", " có tiền mua tiên cũng được"; "nén bạc đâm toạc tờ giấy". đã dẫn đến nhiều sự việc, hiện tượng, hành động phũ phàng, chà đạp nhân phẩm và đạo đức của con người, làm cho mối quan hệ giữa người và người ngày càng xấu đi, lòng tin vào chế độ tốt đẹp bị giảm sút. Nạn tham ô, lộng quyền, hối lộ, đặc quyền, đặc lợi, gây chia rẽ, đoàn kết nội bộ, vi phạm luật pháp. có nguy cơ phát triển trong một bộ phận xã hội. Ðặc biệt đáng lo ngại là dấu hiệu băng hoại về đạo đức đã bắt đầu len lõi không ít vào tầng lớp xưa nay được quý trọng: "Thầy thuốc, thầy giáo", chà đạp lên nguyên lý tốt đẹp của giáo dục" Tiên học lễ, hậu học văn"; hủy hoại y đức "Thầy thuốc như mẹ hiền". Một số chính khách vi phạm luật, tha hóa đạo đức, bao che và tham gia nhiều vụ án kinh tế, xã hội như:" Tân Trường Sanh"; " Nguyễn văn Mười Hai"; "Minh Phụng Epco". và gần đây nhất là vụ án "Năm Cam".Rõ ràng rằng: mối quan hệ "không thân thiện với môi trường" của con người đã xuất phát từ mối quan hệ không lành mạnh giữa con người với nhau. Muốn giải quyết tốt vấn đề môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững thì phải xây dựng được mối quan hệ lành mạnh giữa con người với nhau, phải có sự tiếp cận đa ngành trong một hành động thống nhất giữa khoa học, công nghệ và nhân văn, giữa mối liên hệ chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội- nhân văn.

    3. Nguyên nhân nảy sinh các vấn đề trong môi trường nhân văn
    Hai vấn đề cơ bản của môi trường nhân văn như vừa mới bàn bạc, đó là: Quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với thế giới tự nhiên, đã đặt ra nhiều thách thức cho chúng ta. Các vấn đề này hiện đang tồn tại, có thể do các nguyên nhân sau đây:

    a. Quan điểm con người về tài nguyên thiên nhiên, trái đất
    Kể từ khi loài người tách ra khỏi thế giới động vật với thế mạnh của mình là có ngôn ngữ, có tiếng nói, có tư duy cùng các điều kiện trao đổi thông tin rất đa dạng, phong phú đã tác động vào giới tự nhiên bằng "trí quyển của mình". Con người đã chiếm một vị trí quan trọng, có ý nghĩa mang tính chất quyết định trong sự tồn tại và phát triển của trái đất.
    Ngay từ khi xã hội người nguyên thủy xuất hiện cách đây gần 2 triệu năm, họ đã biết khai thác tài nguyên thiên nhiên, săn bắn, hái lượm, chặt cây, phá rừng, đào đất, khai mỏ. để bảo tồn sự sống của mình. Mức độ khai thác sử dụng tài nguyên, khoáng sản càng gia tăng ở các xã hội kế tiếp: xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến và đặc biệt ở xã hội tư bản. Cách đây khoảng 200 năm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác và sử dụng lên đến đỉnh cao ở các nước tư bản chủ nghĩa có nền công nghiệp, cơ khí phát triển. Ðồng thời lượng chất thải cũng bắt đầu được đổ ra môi trường ngày càng nhiều.
    Con người lúc này cứ nhầm tưởng rằng: Thiên nhiên rất hào phóng, giàu có, tài nguyên là vô tận, cứ thả sức mà khai thác, sử dụng, không bao giờ nghĩ đến việc giành cơ hội cho thiên nhiên hồi phục và tái tạo trở lại. Từng quốc gia, thậm chí cả cộng đồng quốc tế đều ra sức phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên thiên nhiên-không đặt vấn đề trái đất là một ngôi nhà chung của loài người.
    Khoa học, công nghệ, kỹ thuật ngày càng phát triển, tốc độ khai thác tài nguyên ngày càng quyết liệt hơn và hậu quả tất yết môi trường bị biến đổi. Ảnh hưởng xấu ngược lại sự phát triển kinh tế của xã hội loài người. Ðặc biệt, từ những năm 70 của thế kỷ 20, cùng với những tăng trưởng to lớn về kinh tế, trái đất bắt đầu chịu những hiểm họa, sự cố về môi trường cũng như sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự suy giảm đa dạng sinh học bởi các hoạt động hỗn loạn của con người. Vì lợi nhuận, các nước phát triển đã đẩy các chất thải sang các nước đang phát triển- nước nghèo. Ðó là các cơ sở sản xuất kinh doanh gây độc, các thiết bị lạc hậu. để giảm bớt ô nhiễm môi trường cho nước mình. Còn các nước ngèo, đành phải hy sinh môi trường cho sự phát triển kinh tế, chấp nhận nhập công nghệ, thiết bị gây ô nhiễm môi trường vì họ thiếu vốn và dân trí trình độ thấp, nên không thể hiện đại hóa nền sản xuất ngay được. Nếu không tiếp nhận thì không có gì để phát triển. Như vậy, về môi trường, xét trên toàn cục, thì chất thải chỉ được chuyển từ nước này sang nước khác mà thôi.
    Do đó, vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay là phải đấu tranh với các nước phát triển, giàu có rằng, họ phải có trách nhiệm chủ yếu trong vấn dề môi trường toàn cầu vì rằng, chỉ có họ mới có khả năng, phương tiện để bảo vệ trái đất- ngôi nhà chung của loài người. Sự cố và thảm họa môi trường không còn là của riêng quốc gia nào, nó là vấn đề xuyên biên giới, không của riêng ai. Tự nhiên có những qui luật thép của nó và nó không phải là nguồn tài nguyên vô tận để con người tự do khai thác, con người phải có thái độ thân thiện và tôn trọng các qui luật của tự nhiên.

    b. Quan niệm về tài năng và trí tuệ của con người
    Khoa học và công nghệ đã có vai trò quyết định trong lịch sử phát triển của nhân loại và sẽ còn là một trong các yếu tố then chốt của việc định hình một tương lai bền vững. Dựa trên các thành tựu vượt bực của khoa học, công nghệ trong một thời gian dài, con người đã tự mình xem là các bậc " siêu phàm", là "chúa tể của muôn loài" mà quên rằng: mọi quyết định của con người đưa ra và thực thi đều dựa trên tiền đề là sự tồn tại của mọi sự sống, kể cả sự sống của con người. Nó chỉ được duy trì khi bảo vệ được toàn vẹn và phát triển của hệ thống "sự sống tổng thể".
    Ðặc biệt, ngày nay khoa học và công nghệ đã có tác động lớn đến mức, có thể làm thay đổi các hệ sinh thái và xã hội loài người. Có thể có lúc, chính con người không thể khắc phục được các hậu quả do chính hành động của mình gây cho thiên nhiên và phải chịu sự "trả đủa" của thiên nhiên. Nếu con người tự hủy hoại thiên nhiên thì cũng chính con người tự tiêu diệt mình.
    Nếu chúng ta không muốn bị tiêu diệt như nền văn minh cổ xưa bởi sự hủy hoại tàn khốc của môi trường thì chúng ta phải xây dựng được môi trường nhân văn trong mọi người tức là mọi hành động của chúng ta phải phù hợp với các qui luật của tự nhiên, sản xuất cũng như tiêu dùng phải nằm trong giới hạn cân bằng sinh thái tự nhiên.
    Môi trường sinh thái và môi trường kinh tế chưa bao giờ phát triển theo cùng một hướng. Vì vậy, cần phải suy nghĩ đến cái hữu hạn của tài nguyên mà có kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên sao cho hợp lý, bảo đảm sự phát triển bền vững. Các nguyên tắc, định hướng chỉ đạo về phát triển và sử dụng công nghệ cần phải xem xét đến khả năng chịu đựng của thiên nhiên và tính kết nối phức tạp của hệ thống "sự sống tổng thể".

    c. Sự bùng nổ dân số trên thế giới
    Sự gia tăng dân số ngày càng cao đã là sức ép nặng nề lên nguồn tài nguyên thiên nhiên và là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Mặc dù, công tác kế hoạch hóa gia đình đã có nhiều tiến triển tốt đẹp trên toàn thế giới, nhưng dân số thế giới vẫn tiếp tục gia tăng.
  6. khongaibiet2000

    khongaibiet2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/07/2005
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    0
    5.3. THÁI ÐỘ ỨNG XỬ CỦA CON NGƯỜI VỚI THIÊN NHIÊN
    1. Con người và thiên nhiên
    Mối quan hệ giữa môi trường và con người đã có một lịch sử rất lâu đời, kể từ khi con người xuất hiện trên trái đất. Nhưng việc con người tác động lên môi trường tự nhiên và để lại một dấu ấn sâu đậm và rõ ràng cho môi trường là một khoảng thời gian rất dài. Có thể nói, họat động đầu tiên có ý nghĩa quan trọng cho môi trường, đó là việc tìm ra lửa và sử dụng nó trong cuộc sống của loài người nguyên thủy cho đến nay. Song, trong thời kỳ đó, do mật độ dân cư thưa thớt, tài nguyên thiên nhiên còn nhiều, nhu cầu con người còn ít, nên những tác động của con người cho môi trường chưa đáng kể mà chủ yếu là con người chịu tác động của thế giới tự nhiên và hành động của mình.
    Tác động của con người vào tự nhiên ngày càng tăng khi nhu cầu về đời sống của con người gia tăng. Việc phát triển chăn nuôi, trồng trọt, khai khẩn đất đai, mở rộng vùng sản xuất, việc phát minh ra nghề gốm, sứ . của thời kỳ đồ đá, cùng sự gia tăng dân số đã làm cho cường độ tác động của con người và tự nhiên tăng mạnh. Tuy nhiên, thời kỳ con người tiền sử, con người cổ đại và một phần con người Trung Cổ có cuộc sống vẫn phụ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên nhiều hơn, nên tác động của tự nhiên vào con người là tác động chủ yếu.
    Sự gia tăng dân số thế giới ngày càng nhanh thì tác động của con người vào môi trường càng mãnh liệt. Từ đầu công nguyên đến thời kỳ cận đại, dân số thế giới tăng khoảng từ 2-3 lần. Ðầu thế kỷ 17, có khoảng 500- 550 triệu người và đầu thế kỷ 19 có khoảng 1 tỉ người. Ðầu thế kỷ 20, có khoảng 2 tỷ người. Tốc độ tăng dân số cũng tăng theo thời gian. Năm 1960, thế giới có khoảng 3 tỷ người, đến 1975 có 4 tỷ người, 1988 có 5,2 tỷ người và theo dự báo thì 2025 sẽ có 8 tỷ người. Năm 2050 có 10 tỷ người. Dân số tăng, con người phải mở rộng diện tích đất đai để làm nông nghiệp, khai thác nguyên liệu, nhiên liệu từ lục địa đến biển khơi, xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp. đã làm cho môi trường biến đổi ngày càng mạnh mẽ.
    Vấn đề môi trường mới thực sự được đặt ra cho toàn thể nhân loại, sau khi đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc. Các nước giàu có như Mỹ, Anh, Pháp. có nền công nghiệp phát triển, nền kinh tế- công nghệ tăng trưởng nhanh, nên họ tự cho họ có quyền khai thác một vùng rộng lớn các tài nguyên của thế giới. Với các kỹ thuật, công nghệ và khoa học phát triển nhảy vọt sau chiến tranh, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cực điểm. Lúc nầy, sự tác động của con người vào tự nhiên càng ngày càng mạnh lên và cho đến những năm 60-70 của thế kỷ 20, người ta bắt đầu lo lắng về các "cú đá hậu" của tự nhiên đến sự phát triển của con người. Con người mới như chợt "sực tỉnh" và bắt đầu đặt vấn đề về tương lai của trái đất sẽ đi đến đâu, nếu con người tiếp tục có những hành động tiêu cực đến tự nhiên, trong Hội Nghị Liên Hiệp Quốc, 1972 về môi trường tại Stockhom, Thụy Ðiển.
    Tư duy mới về việc giảm mức khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và có biện pháp bảo vệ thiên nhiên, đưa lại sự trong lành và đẹp đẽ của hành tinh được khởi rộ. Cũng từ đó, các khoa học về môi trường trái đất ra đời và phát triển mạnh mẽ, con người bắt đầu nhìn nhận trái đất như là một ngôi nhà chung, chật hẹp của vũ trụ, cần phải cùng nhau bảo vệ, cùng phải được quản lý tổng hợp, bởi mọi quốc gia trên thế giới. Tính cách "xâm chiếm" của con người đối với tự nhiên dần dần bị giảm đi.
    Xu thế tối đa hóa sự sản xuất hàng hóa, tối đa hóa tiêu dùng, tối đa hóa trong khai thác tài nguyên thiên nhiên. chỉ tính toán đến chi phí trong (internal cost) và bỏ qua chi chí ngoài (external cost) đã được đưa ra bàn bạc trong các hội nghị Quốc tế về môi trường vì xu thế nầy đã dẫn loài người đến tình trạng làm cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại hệ sinh thái trái đất. Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức phi chính phủ ra đời để kêu gọi mọi người hãy sống vì một trái đất xanh, sạch, đẹp như trào lưu "chính trị sinh thái". ngày càng trở thành một lực lượng có ảnh hưởng to lớn đến đời sống, chính trị xã hội và có thể có ảnh hưởng quyết định đến con đường phát triển của nhân loại trong thế kỷ 21 ở thời đại được gọi là nền "văn minh hậu công nghiệp".
    Nếu cách đây hơn 30 năm, thuật ngữ "môi trường" còn là một cái gì mới lạ, chủ yếu là đối tượng thảo luận của các nhà triết học, các nhà khoa học thì giờ đây nó đã trở thành ngôn ngữ cửa miệng của hầu hết mọi người, kể cả những người ở vùng xa, vùng sâu. Ðiều đó, nói lên sự thành công của công tác giáo dục môi trường cho cộng đồng đồng thời nó cũng nói lên tính quan trọng thực sự của vấn đề bảo vệ môi trường đã được thế giới đề cập trong một vài năm gần đây như "vì sự sống trên trái đất", "trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta", "vì một môi trường cho sự phát triển bền vững".

    2. Hai trường phái ứng xử với thiên nhiên ngày nay
    Trên cơ sở quan điểm về triết học và tôn giáo của con người, hiện nay có 2 kiểu ứng xử khác nhau của con người với thế giới tự nhiên.
    a. Thái độ thứ nhất: Cách ứng xử hạn chế, không bền vững
    Xuất phát từ thuyết " Chế ngự thiên nhiên" xuất hiện và phổ biến ở phương Tây với luận điểm nổi tiếng về "con người chinh phục thiên nhiên".
    Từ quan điểm tôn giáo của phương Tây về bản chất thần thánh của con người, từ vũ trụ quan coi: trái đất là trung tâm và thế giới này được tạo ra bởi chúa trời và chúa trời đã ban tặng cho con người tất cả để sử dụng. Ðại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa duy lý, phương Tây thế kỷ 17 là nhà triết học Pháp R. Descartes (1569-1650) đã nói: "Nếu nhận biết được sức mạnh và các tác dụng của lửa, nước, không khí, sao trời và tất cả các vật thể xung quanh chúng ta. thì chúng ta sẽ có thể sử dụng những lực lượng ấy với tất cả công dụng của chúng và do đó, trở thành người chủ và nguồn thống trị thiên nhiên".
    Với luận điểm đó, các quan điểm về "Con người là trung tâm của thế giới" và cách ứng xử " Con người thống trị tự nhiên" ra đời. Tài nguyên thiên nhiên là vô tận, cuộc sống con người được cải thiện bởi vật chất... Các quan điểm này đã mở đường cho khoa học và kỹ thuật phát triển, nhân lên gấp bội sức mạnh của bàn tay, khối óc con người trong việc khai thác tài nguyên và sử dụng các lực lượng của tự nhiên, để nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của con người.
    Trong kinh tế, người ta thường đặt vấn đề hiệu quả kinh tế trong quá trình đưa ra các quyết định, chỉ tính chi phí trong mà không tính đến chi phí ngoài. Ðại diện cho trường phái kinh tế nầy là nhà kinh tế học Kenneth Boulding.
    Khi bàn luận về vấn đề này, trong các tác phẩm "Nhỏ và đẹp", 1973 nhà kinh tế học E.F Schumacher đã phải thốt lên rằng: " Ngày nay, trong những từ để kết tội, không có từ nào có ý nghĩa phán quyết cuối cùng bằng từ "không kinh tế" (uneconomic). Một hoạt động nào đó được gán cho từ này thì có nghĩa là hoạt động đó không thể tồn tại. Trong kinh tế có luật đạo đức của nó, theo đó mệnh lệnh đầu tiên là phải hành động một cách kinh tế. Lúc tư tưởng này ngự trị xã hội thì mọi việc không được trả bằng USD như vẽ đẹp, sức khỏe, hạnh phúc, bình yên rất hiếm hoi được xét đến trong các quyết định".
    Rõ ràng rằng, đạo đức về hiệu quả kinh tế cũng như hành động xâm lăng của con người với thế giới tự nhiên, đã đem lại nền văn minh, tiến bộ của con người trong các thế kỷ trước đây, nhưng hiện nay đang dẫn con người đến chỗ bế tắc về nguy cơ suy giảm về tăng trưởng kinh tế, về sức khỏe, về môi trường đạo đức xã hội do cạn kiệt tài nguyên, khí hậu môi trường thay đổi toàn cầu, các hệ sinh thái bị hủy diệt hoặc biến đổi.
    Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, một số nhà khoa học phương Tây vẫn còn ra sức chứng minh cho quan điểm cực đoan và những ảo tưởng về quyền năng tuyệt đỉnh của con người trước giới tự nhiên. Họ còn cho rằng: khi tất cả các sinh vật khác trên hành tinh nầy bị tiêu diệt thì con người vẫn cứ tồn tại và phát triển. Ðiều này là trái với thực tế. Nền đạo đức " Hiệu quả kinh tế", tính " Xâm lăng " của con người với giới tự nhiên cần phải thay đổi bằng nền đạo đức mới, nền đạo đức vì sự "phát triển bền vững", "thân thiện với môi trường, làm bạn với thiên nhiên".

    b. Thái độ thứ hai: Cách ứng xử đúng đắn, bền vững
    Xuất phát từ thuyết Gaia được phổ biến rộng rãi hiện nay với quan điểm "Con người phải hợp tác với thiên nhiên".
    Bắt nguồn từ quan điểm tôn giáo phương Ðông của phật giáo và triết lý của Lão tử, Khổng Tử. Triết lý này chủ trương: thân thiện với môi trường hòa hợp với thiên nhiên.
    - Ðạo phật lấy lòng từ bi làm gốc, không sát sinh, từ bỏ lòng ham muốn vật chất để đạt đến sự giác ngộ chân lý đạo (Dharma), nhờ đó có thể cứu độ giải thoát chúng sinh khỏi mọi sự đau khổ trần thế. Ðức Phật dạy phải giữ thái độ tôn trọng không chỉ đối với mọi động vật mà còn đối với cả thực vật.
    - Khổng Tư cũng có quan niệm về trời và người tương cảm, tương hỗ với nhau. Theo Khổng Tử, người mà đúng đắn, yên ổn, sáng suốt, mưu trí thì mưa, nắng, nóng, lạnh điều hòa. Người mà ngông cuồng, tiếm loạn, nóng nảy, u mê thì mưa, nắng, nóng, lạnh, gió bão thất thường xảy ra.
    - Học thuyết Lão Tử thì gần gủi với đạo phật hơn và các đồ đệ của ông còn cho đó là cội nguồn của đạo phật, cho rằng đạo là bản thể của vũ trụ. Nó tồn tại phổ biến trong vạn vật, vô hạn về thời gian và không gian. Còn đức là bản tính, năng động tính và tác dụng của Ðạo. Ðạo và Ðức sinh thành biến hóa, mọi vật đều theo phép tắc, qui luật của tự nhiên. Muốn thực hiện được phép tự nhiên thì mọi người phải tuân theo 3 điều: Quả dục (hạn chế lòng ham muốn); vô vi và khiêm nhường (tai họa không có gì hơn là không biết đủ).
    Từ các triết lý của phương Ðông, giả thuyết của Gaia cho rằng: tất cả vật sống và vật không sống trên trái đất đều là bộ phận của một hệ thống lớn tự điều chỉnh. Loài người cũng chỉ là một tế bào hoặc một mô trong một cơ thể sống khổng lồ đó. Tài nguyên trên trái đất là hữu hạn, con người không phải là kẻ "chế ngự" thiên nhiên mà chỉ là một bộ phận của thiên nhiên.
    Từ giả thiết của Gaia, nhà sinh vật học J. Lovelock coi rằng: trái đất không chỉ là quê hương của mọi sinh vật, mà bản thân trái đất cũng là một sinh vật. Con người với những cơ chế sinh lý nội tại, duy trì thân nhiệt, tỷ lệ đường trong máu một cách ổn định, đó là cơ chế ổn định nội thể (home ostasis).
    Trái đất cũng tương tự như vậy, cũng có cân bằng nội tại của nó về nhiệt độ, tỷ lệ oxy trong khí quyển. P. Russell cho rằng: Trong cơ thể sống khổng lồ, mà loài người chỉ là một tế bào hoặc một mô thì con người là hệ thần kinh, do nhận thức được, chuyển giao được các thông tin, các hiểu biết về trái đất. Hệ thần kinh cũng chỉ là một bộ phận của cơ thể mà thôi.
    Như vậy, giả thuyết của Gaia là nền tảng của đạo đức môi trường mới, đạo đức vì sự phát triển bền vững. Trong nền đạo đức này, mọi vật sống và không sống trên trái đất đều phải được tôn trọng, con người phải tự đánh giá đúng vị trí mình và biết tự hạn chế bản thân mình trong các hoạt động phát triển, để gìn giữ sự cân bằng nội tại của trái đất.
    Trước hết, cần xem xét các quyết định về sự phát triển, bên cạnh lợi ích trước mắt, cần xem xét đến lợi ích lâu dài, các ích lợi về kinh tế phải được cùng xem xét với lợi ích về tài nguyên, môi trường, xã hội, văn hóa, phải loại bỏ tâm lý tiêu xài, chạy đua theo lợi ích vật chất tầm thường, thiện cận.
    Nhiều việc chúng ta có khả năng làm, nhưng sẽ không làm nếu như chưa biết được việc đó sẽ tác động với môi trường thế nào?
    3. Thái độ của chúng ta đối với tự nhiên
    Ðể từ bỏ tính cách xâm chiếm môi trường và chấp nhận sống hài hòa, thân thiện với môi trường, con người đã, đang và sẽ phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh gay go, chính với bản thân mình.
    Với xu thế thân thiện, hòa hợp với thiên nhiên của triết lý phương Ðông, Việt Nam và các nước phương Ðông ít bị sức ép hơn về sự suy thoái môi trường như các nước phương Tây. Cách xử thế bền vững của Gaia hiện được thế giới công nhận nhiều hơn và ngày càng chiếm ưu thế trên cộng đồng thế giới. Triết lý nầy sẽ tạo ra mô hình sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường, có tác dụng tích cực đến việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, giữ vững được cân bằng sinh thái của trái đất.
    Tuy nhiên, cả hai cách ứng xử trên đều có những ưu và nhược điểm của nó. Quan điểm "nhân trị thiên" của người phương Tây đã có tác dụng vô cùng to lớn trong việc khai thác tài nguyên, cải tạo môi trường tự nhiên của con người và đã làm môi trường kinh tế thế giới phát triển mãnh liệt. Nhưng khi vượt qua giới hạn nào đó (Những gì chúng ta thấy ở cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21) thì nguy cơ hủy diệt môi trường sống đang hiển hiện trước mắt. Quan điểm sống hòa hợp với thiên nhiên của người phương Ðông hiện nay được thừa nhận là phù hợp với mô hình phát triển bền vững hơn, nhưng nó có hạn chế là làm cho nền kinh tế phát triển chậm.
  7. aster

    aster Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/07/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Phải nói là rất cảm ơn bạn khongaibiet2000. Nó giúp mình rất nhiều.
    Chỉ xin hỏi bạn là bạn lấy nguồn từ đâu vậy? từ kỷ yếu hội thảo? nếu thế chắc ko phải bạn type đấy chứ? hay là bạn lấy được từ chỗ khác?
    rất cảm ơn!
  8. aster

    aster Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/07/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    à, thêm 1 điều nữa, bạn có biết là sau hội thảo lần thứ 1 như vậy từ năm 99 thì còn hội thảo nào khác ko?
  9. aquariusenator

    aquariusenator Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2006
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Chào bà con, tui đang " bơ vơ " với một núi tài liệu về xử lý nước thải tinh bột mỳ đây .
    Ai có biết nhiều ( nhiều hay ít cũng được ,miễn biết là được rùi ) về những hướng áp dụng để xử lý nước thải tinh bột mỳ hiện nay không ( nhất là việc ứng dụng những công nghệ mới đấy) ????????
  10. sensitiveman

    sensitiveman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/01/2006
    Bài viết:
    32
    Đã được thích:
    0
    Chào cháu,
    Cháu có thể ghé thăm website này www.vlir.be và download cái brocedure của nó và dọc về khoa Environment, cháu có thể download luôn hồ sơ ở đó và apply kip thời. Hình như củng sắp dến ngày deadline thì phải.
    Chúc cháu thành công

Chia sẻ trang này