1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bùi Giáng - Đi vào cõi thơ

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi psychocolate, 22/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Bùi Giáng - Đi vào cõi thơ

    Tặng Muse và Khương Hà ...
     
    BÙI GIÁNG
     
     
     
     
    ĐI VÀO
    CÕI THƠ
    (Cuốn một)
     
    Tuệ Sỹ - Trương Cam Vũ - René Crayssac - Huy Cận - Nguyễn Du - Hồ Xuân Hương - Ngọa Long Sinh - Rimbaud - Paul Eluard - Mai Vân Thu - Trần Cũ Một - Vương Quốc Quyên - Tiêu Quỳnh - Lục Vân Bình - Chế Lan Viên - Nguyễn Trãi - Nguyên Sa - Đỗ Long Vân - Nhất Hạnh - Trần Trọng Kim - Chu Mạnh Trinh - Thanh Tâm Tuyền - Thế Phong - J.Leiba - Bùi Như Sơn - Xuân Diệu - Phạm Quang Bình - Nhượng Tống - Dương Minh Loan - Apollinaire - Quang Dũng - Huy Tưởng - Bùi Giáng - Thùy Dương Tử - Kiên Giang - Tạ Ký - Lý Bạch - Trí Hải - Tản Đà - Whitman - Emily Dickinson - Dylan Thomas - Hòai Khanh
     
    CADAO xuất bản lần thứ nhất 10/69
    SAIGON - VIỆT NAM
     

     
     
    TỰA
     
    Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu nhiên tao ngộ.
    Cơ duyên sẽ dun dủi ...
    Chẳng nên gò ép cưỡng cầu.
    Người viết sách này có dụng tâm không sắp đặt
    theo thứ tự thứ loại thường thấy.
    Những bài thơ đến rồi đi.
    Lời ?onhận định? cũng đi rồi đến ....
    BÙI GIÁNG
  2. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
     
    Tuệ Sỹ
          Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật Học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u....
          Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :
    ?oThâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùyHiện tiền vị liễu lạc hoa phi?
          Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt.
          Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :
    Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùyHiện tiền vị liễu lạc hoa phiPhiêu bồng tâm sự tân toan lệTrí hải đa tàm trúc loạn ty
          Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
          Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :
    Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũÁo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoangPhút vội vã bỗng thấy mình du thủThắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ...
          Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuởĐỉnh đá này và hạt muối đó chưa tanCười với nắng một ngày sao chóng thếNay mùa đông mai mùa hạ buồn chăngĐếm tóc bạc tuổi đời chưa đủBụi đường dài gót mỏi đi quanhGiờ ngó lại bốn vách tường ủ rũSuối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
          Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
          Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
  3. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0

    Đôi mắt ướt tuổi vàngCung trờiHội cũ
          Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
                Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ...
          Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
          Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
          Người thi sỹ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.
          Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne.
          Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
          Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : - "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".
          Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
          Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn như cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
          Đáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
    Đôi mắt ướt tuổi vàngCung trời hội cũ
          Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?
          Thi sỹ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
          Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.
          Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
                "Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
          Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
          Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
    Đôi mắt ướt tuổi vàngKhung trời hội cũÁo màu xanhKhông xanh mãiTrên đồi hoang
    Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tànPhút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?
          Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?
          Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuởĐỉnh đá này và hạt muối đó chưa tanCười với nắng một ngày sao chóng thếNay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
          Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
    Từ núi lạnh đến biển im muôn thuởĐỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
          Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
          Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ?
          Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuết nguyệt phiêu du :
    Cười với nắng một ngày sao chóng thếNay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
          Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường :
    Sen tàn cúc lại nở hoaSầu dài ngày ngắn đông đà sang xuânĐếm tóc bạc tuổi đời chưa đủBụi đường dài gót mỏi đi quanh
    Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :Đếm tóc bạcTuổi đờiChưaĐủBụi đường dàiGótMỏiĐiQuanh
          Tiết điệu cũng rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi Xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?
    Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũSuối nguồn xaNgược nướcXuôi ngàn ...
          Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
          Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
  4. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Trương Cam Vũ
         Trương Cam Vũ là người thy sỹ Trung Hoa đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi.
          Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều ở trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.
  5. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    René Crayssac
          René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp.
          Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère.
          Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.
  6. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Huy Cận
               Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa          Yêu một người ta dâng cả tình thương
             Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng.       Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính.
          Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành đằm thắm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có.
                Bóng đêm tõa không lấp niềm thương nhớ
                Tình đi mau sầu ở lại lâu dài
                Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
                Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai
          Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để tòan thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu huơng vang bóng.
          Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tịnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi đời bất khả tư nghị. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.
          Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.
          Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc ?oLữ? huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày này không thể nào quan niệm được ra.
                Xa nhau mười mấy tỉnh dài
                Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung
                Tâm tình một nẻo quê chung
                Người vế cố quận muôn trùng ta đi
          Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc ?oLữ? như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.
                Trông vời trời biển mênh mang
                Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruỗi rong
                Dừng cương nghỉ ngựa non cao 
                Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
                Đi rồi khuất ngựa sau non
                Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
          Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu nay ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng.
          Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài ?oThuyền Đi? của Huy Cận.
    Trăng lên trong lúc đang chiềuGió về trong lúc ngọn triều mới lênThuyền đi sông nước ưu phiềnBuồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơiSang đêm thuyền đã xa vờiNgười ra cửa biển nghe hơi lạnh lùngCanh khuya tạnh vắng bên cồnTrăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang.Thuyền người đi một tuần trăngSầu ta theo nước trường giang lững lờTiễn đưa đôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
          Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và tòan thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
          Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngòai vòng lục bát Huy Cận kia chăng.
          Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bác Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.
          Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết máu me thân thể của chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamurti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái thân phận con ngợm.
          Đó chính là cõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi ? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thy sỹ trung niên. Cái trò ma quái lăn lóc nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Bà Tú đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.
  7. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn - càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.
          Chúng ta thà chui vào một cái hang giế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi đứng thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.
          Nghĩ cùng kỳ dị thật. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lai luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mộng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marylin những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu câu thơ thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài điệu ông Vương Dương Minh.
                Thôi thì thôi cũng chiều lòng
                Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai
          Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc:
                Hỡi Thượng Đế ! Tôi cúi đầu trả lại
                Linh hồn tôi đã một kiếp đi hoang
                Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
                Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường ...
          Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế ? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường ?
          Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ ủ ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ.
          Và đọc Huy Cận, chư vị bồ tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:
          - ?oChư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định tướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực ...? (xem Sương Bình Nguyên - trang 490)
          Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử:
          - ?oHữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã ... Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi. Cố thụ chi dĩ Sư ... vân vân vân vân vân vân...?
          Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài Thuyền Đi.
    Trăng lên trong lúc đang chiềuGió về trong lúc ngọn triều mới lên .
  8. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
    Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn...
  9. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Thuyền đi
          Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi ? biệt ly, nói tóm lại ?
          Nhưng tại sao bài thơ Thuyền Đi của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế ?
    Trăng lên trong lúc đang chiềuGió về trong lúc ngọn triều mới lênThuyền đi sông nước ưu phiềnBuồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơiSang đêm thuyền đã xa vờiNgười ra cửa biển nghe hơi lạnh lùngCanh khuya tạnh vắng bên cồnTrăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang.Thuyền người đi một tuần trăngSầu ta theo nước trường giang lững lờTiễn đưa đôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
          Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.
    Trăng lên trong lúc đang chiềuGió về trong lúc ngọn triều mới lên
          Một cái gì bỗng dưng về giữa câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc ? Phải là Thời gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi ? Về trong một lúc ? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp ? Cuộc Nảy Nở của Càn khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng ?otrăng lên, triều lên?. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng ?ogió về trong lúc, trăng lên, đang chiều...?
          Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu., Thời gian và Thời thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng ?olà là? nhị điệp của Nguyễn Du.
                Thanh minh trong tiết tháng ba
                Lễ là tảo mộ hội là Đạp Thanh
          Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ.
          Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi.
    Trăng lên trong lúc đang chiềuGió về trong lúc ngọn triều mới lênThuyền đi sông nước ưu phiềnBuồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi
          Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. - ?oLữ chi thời nghĩa đại hỹ tai !?          
          Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay !
          Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường.
    Sang đêm thuyền đã xa vờiNgười ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng
          Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.
          Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi ?
    Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể ? Cõi thái hư tịch mịch ? Cõi sầu bi siêu thóat.
    Canh khuya tạnh vắng bên cồnTrăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang.Thuyền người đi một tuần trăngSầu ta theo nước trường giang lững lờ
          Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phần chia cắt xén thời gian ra làm khỏanh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trời nào thiểu nảo.
    Thuyền người đi một tuần trăngSầu ta theo nước trường giang lững lờTiễn đưa đôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
          Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành ... Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. ?oDeviens ce que tu es? - Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó ? - phát nguyện đại từ bi ?
          Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần:       "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân ... Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông ...?
  10. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài.
                                        Chết
    Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bướcMiệng trao lời rồi đến buổi làm thinhThân có đôi chờ lúc ngủ một mìnhKhông bạn lứa cũng không mền ấm nóngTai dưới đất để nghe chừng tiếng sóngỞ trên đời - đầu ấy ngửng lên caoSẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nàoThân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tíMột dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷNgày sẽ về gió sẽ mát hoa tươiMuôn trai tơ đi hái vạn môi cườiLàn nắng ấm vào khua trong lá sắcNhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặcCòn biết gì trời đất ở bên kia;**** bay chi! tay nhậy đã chia lìaTình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng.Bỏ chung chạ để nằm khô một bóngChẳng ai vào an ủi nắm bàn tayKhổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngàyTìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc.
          Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng thần chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc sống ôi ! Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao ?
          Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết.
          Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nổi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống.
          Tiếc sao ! Tiếc sao ! Một sự thật quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng.
          Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.
          Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun ... Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẵn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương.
          Đức Phật ôi ! Chính ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn ...
          Cái chết được thể hiện sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh-thể-cho-tử-diệt.
          Tinh thể con người là: sinh-thể-cho-tử-vong ?
          Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh thể sẽ ôm cái tặng vật đó mà đi khắp mặt biển dâu lao đảo.
          Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen ...
          Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn da đen? Cái da trắng văn minh hơn da đỏ?
          Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thế giới mất ân tình. Cõi đời mất đời cõi. Thì Lễ Hội mất đi cái gọi là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:
                Thanh minh trong tiết tháng ba
                Lễ là tảo mộ hội là Đạp Thanh           
          Hội đạp thanh mất đi  cái nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ...
    Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thươngCủa cuộc đời ...
    Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng ...
                Tôi nhớ lại tháng ngày chuyển dịch
                Những thay hình đổi dạng mở phơi
                Trong ly nước mộng tuyệt vời
                Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa
                                        (Apollinaire)
          Cuộc sống thay hình đổi dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng ...Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo sĩ? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng ? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ gia? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy..
          Ngày còn đi học, hai bài thơ ?oChết, Nhạc Sầu? của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu !
          Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marylin Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàng tính mệnh như thế.
          Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài Nhạc Sầu ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới Suối Vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui.
                                        Nhạc sầu
    Ai chết đó ? Nhạc buồn chi lắm thếChiều mồ côi đời rét mướt ngòai đườngPhố đìu hiu màu đá cũ lên sươngSương hay chính bụi phai tàn lả tảTừng tiếng lệ ấy mộng sầu úa láChim vui đâu ? Cây đã gẫy vài cành.Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manhMôi tái nhạt nào cười mà héo vậyAi chết đó ? Trục xoay và bánh đẩyXe tang đi về tận thế giới nàoChiều đông tàn lạnh xuống tự trời caoKhông lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó.Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏTrần gian sao ? Đây thành phố đang quenNhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miềnĐường xá lạ thôi lạnh lùng biết mấyVà ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảyKẻo thân đau chưa quên nệm giường đời.Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơiChớ quay lại nửa đường mà làm tủi.Người đã chết. Một vài ba đầu cúiDăm bảy lòng thương xót đến bên mồĐể cho hồn khi sắp xuống hư vôCòn được thấy trên mặt người ấm ápHình dáng cuộc đời từ đây xa tắpXe tang đi xin đường chớ gập ghềnh.Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênhẢo não quá trời buổi chiều vĩnh biệtVà ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiếtXin lặng dùm cho nhẹ bớt cô đơn.Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờnBáo tin xấu, dẫn hồn người đã xếAi chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thươngCủa cuộc đời ? Ai rút tự trong xươngTiến nức nở gởi gió đường quạnh quẽSầu chi lắm trời ơi chiều tận thế ...
          Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kỵ. Nó có tính ăn hiếp. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta

Chia sẻ trang này