1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Bùi Giáng - Đi vào cõi thơ

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi psychocolate, 22/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguoi_thuong

    nguoi_thuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/01/2004
    Bài viết:
    967
    Đã được thích:
    0
    post nhầm, nhờ Mod xóa dùm! thanks
    Được nguoi_thuong sửa chữa / chuyển vào 03:43 ngày 12/11/2005
  2. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Du và Hegel
    Hegel ?" Ngài làm thơ rất khá, tuy nhiên ta cũng lấy làm tiếc cho ngài.
    Nguyễn Du ?" Tiếc gì thế Hegel ?
    Hegel ?" Tiếc rằng ngài vay mượn truyện Tàu, và ngôn ngữ Tàu. Té ra ngài chả có tinh thần sáng tạo.
    Nguyễn Du ?" Các hạ còn điều gì chỉ giáo thêm cho chăng ?
    Hegel ?" Có chứ. Ta khuyên ngài nên gắng thử dựng nên một triết thuyết mới mẻ cho dân tộc Việt Nam.
    Nguyễn Du ?" Còn gì nữa chăng ?
    Hegel ?" Còn chứ. Ta khuyên ngài hãy gắng tìm hiểu triết thuyết của ta, thì mới mong mai sau tiến bộ nhanh chóng.
  3. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Hoài Khanh
    Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của gió, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê hương.
    Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông gượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.
    Riêng biệt những bài ?oxuất thần? bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.
    Ngày sương thành phố dâng mùa
    Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng
    Tôi hoài trên bước lang thang
    Yêu em vô lượng mà man dại buồn
    Tóc huyền đó lạnh như sương
    Mắt huyền đó mộng bình thường không em
    Mỗi đêm gió nhớ trăng tìm
    Bãi sông triều giậy đi niềm chia phôi
    Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.
    Mắt em hồ vỡ cung đàn
    Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
    Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
    Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh
    Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.
    Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một dòng sông đi. Một triều sóng động.
    Người ta chấp nhận bài thơ như chấp thuận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.
    Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự do phóng nhiệm hoà vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi sĩ :
    Biển mù mịt đó mưa đan
    Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
    Vi vu màu gió đi mùa
    Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
    Đà nghe đất giậy môi trường
    Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
    Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
    Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào.
    Ta lại nhớ cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:
    Lối xưa mây xám nghẹn màu
    Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
    Tóc huyền chìm mấy mông mênh
    Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
    Cố nhân chưa vẹn câu thề
    Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
    Vào thu mây trắng tim rồi
    Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm
    Nhưng tại sao phải ghi ra nhiều nữa ? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở giậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:
    Người ơi năm tháng là gì ?
    Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn
    Đố ai che mảnh trăng tròn
    Đố ai đo được lòng son của đời
    Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phát như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:
    Biết bao giờ ! đến bao giờ
    Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
    Khách qua tàu đã xa rồi
    Là thôi còn một góc trời chênh vênh
    Nắng mưa còn thắm ân tình
    Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
    Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế ? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không ? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang chở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:
    Tàu qua tàu lại vẫn còn
    Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu
    Sáo ai buông xuống lưng chiều
    Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay
    Tàu qua tàu lại đêm ngày
    Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm
    Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
    Tàu qua thì cả ân tình theo qua
    Theo qua là qua mất ? Hay theo qua là qua về ? Qua lại ? Qua đi ? Qua bờ bỉ ngạn ? Kết tụ thử sinh ? Không biết. Không biết ? Không biết.
    Chỉ biết rằng thy sỹ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.
    Nát từng nếp áo hoàng hoa
    Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
    Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
    Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi
    Lòng ga còn trọn cuộc đời
    Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì ?
    Đón đưa gì chỉ ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa Như Tử Tố Như ? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì hết cả ?
    Chút riêng chọn đá thử vàng
    Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
    Còn như vào trước ra sau
    Ai cho kén chọn vàng thau tự mình ?
    Mặc người mưa sở mây Tần
    Những mình nào biết có xuân là gì ?
    Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào một chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thuý Kiều ? Anh định làm cái gì thế ?
    Mùa thu chừ đã đi qua
    Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều
    Lỡ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng ?
    Lần lần tháng trọn ngày qua
    Nỗi gần nào biết đường xa thế này
    Song sa vò võ phương trời
    Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
    Lần lần thỏ bạc ác vàng
    Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn
    Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa vào mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hỗng Lĩnh.
    Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
    Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm
    Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quanh, những chiều gió nồm, quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thuỷ:
    Em ơi tháng sẽ về năm
    Tình ơi chung thuỷ về thăm mộng lành
    Ngàn ngày núi biếc hương xanh
    Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi
    Chung tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa ? những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.
    Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
    Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân
    Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều ?oxa quê hương nghe gió nồm?, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thy sĩ gọi lại những âm thanh không lời những lời không có tiếng:
    Cố nhân ơi đã đành xa
    Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa
    Khói hương còn quyện mái chùa
    Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
    Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
    Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ
    Rồi mai lá rụng cành trơ
    Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời
    Dâng Rừng
    Ngậm ngùi một nửa quê hương
    Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu
    Hồn về sáng lại đêm thâu
    Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình
    Không gian chiều xuống thay hình
    Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta
    Sầu chiều
    Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là ?okhuyết điểm? theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm, của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đánh mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải là kín đáo u huyền).
    Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được ? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:
    Chim bay tàn bóng xa mù
    Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
    Nằm đây lạnh suốt mặt trời
    Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
    Phố xưa hồn đẫm lệ mình
    Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa
    Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
    Con chim lại hót trên mùa lang thang
    Mắt em hồ vỡ cung đàn
    Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
    Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
    Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh ...
  4. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Đi Vào Cõi Thơ
    Ghé chơi một trận
    Bằng bước gót phiêu bồng
    Cõi thơ là cõi bồng phiêu
    Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
    Hoặc phiêu bồng tâm ý du tương tiếu
    Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty
    Hoặc sao thì hoặc
    Dù sao thì dù
    Thể thái sao thì thể thái
    Cốt cách nghiễm nhiên rất mực
    Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng
    Vậy kẻ nào
    Tự xét mình
    Từ trong tinh thể mà ra
    Chả có chi là phiêu bồng tí chút
    Thì chả nên cưỡng cầu
    Tự ép uổng
    Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi
    Cho luống cái công lao trí hải
    Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện
    Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ
    BÙI GIÁNG
    Ví đem vào Sổ Đoạn Trường
    Thì treo giải Một mà nhường cho hai
    (Thuý Vân và Tam Hợp Đạo Cô)
    THI CA TƯ TƯỞNG
    (SỔ ĐOẠN TRƯỜNG)
    Tức Đi Vào Cõi Thơ Cuốn Hai​
  5. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Phạm Hầu
    Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
    Chẳng biết xa lòng có những ai
    Đó là hai câu cuối bài Vọng Hải Đài. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.
    ?oChúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó làm niềm vui vậy?
    (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
    Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.
    Chẳng biết trong lòng ghi những ai ?
    Thềm son từng dội gót vân hài
    Hỡi ơi ! người chỉ là du khách
    Giây phút dừng chân vọng hải đài
    Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.
    Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
    Chưa đủ sao ? Đời đòi hỏi thêm chi ?
    Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
    Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
    Phạm Hầu viết những lời thơ như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong tâm hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ ?odưỡng chất trần gian? và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
    Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.
    Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa ?oy bát? của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai tinh thể văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi ? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương cổ kim.
    Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
    Chưa đủ sao ? Đời đòi hỏi thêm chi ?
    Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
    Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
    Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niêm ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo ? lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sĩ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. ?oMãi Dâng Trọn Hồn Vui? là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Toà Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ ấy
    Mãi dâng trọn hồn vui
    Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
    Chưa đủ sao ? Đời đòi hỏi thêm chi ?
    Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
    Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
    Tiếng rên xiết giờ tàn khi chấm hết
    Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu
    Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu
    Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng
    Hay đời hỏi thịt êm và tuỷ nóng
    Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay
    Nắng có lên không mượn rợp cây bày
    Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa
    Trong đày ải mình trần tê ngọn lửa
    Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn
    Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn
    Chắc hoa núi vui lay ngàn đoá mộng
    Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng
    Muôn chân say lay động khúc quân thiều
    Nếu tôi đau mà người được tin yêu
    Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ
    Trên đêm thuý hoa nô liều áp má
    Đôi bạn đời tay dính nhựa a giao
    Nếu tôi đau, Trời đẹp ! Nếu tôi đau
    Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.
    Jésus Christ lúc lên Calvaire, ắt ngày cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.
    Còn Như Lai ? Như Lai lại ỡm ờ niêm hoa vi tiếu: - ?oTa có thấy bụi hồng nào đâu ? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa ? ?" Tu Bồ Đề ! ư ý vân hà ? ??
    Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề ?oKim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà La Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh ??. Xoá hết và chép lại là: Như-Lai-đích-đánh-trống-lảng-tài-tình-tuyệt-kỹ-kinh.
  6. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Hồ Dzếnh
    Ta không muốn nắn cung đàn
    Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em
    Bền gì mấy thoáng hương duyên
    Đẹp gì mấy sợi mây huyền gợi mơ
    Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ
    Máu tươi hoen ố những giờ ái ân
    Quên chân là khách dương trần
    Trái tim đau xót bao lần vì yêu
    Bình minh về ánh cao siêu
    Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa
    Ta cười thấy cháy duyên mơ
    Hân hoan khi xé những tờ... rất thơm
    Ý thiêng choán hết linh hồn
    Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca
    Lần đầu trước bóng em xa
    Không nghe run trái tim và... rất vui.
    (Hoa Xuân đất Việt)
  7. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Du
    Sen tàn cúc lại nở hoa
    Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân ?
    Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.
    Mày xanh trăng mới in ngần
    Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa ?
    Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo vệ rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v ?
    Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của liệp hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như : ?onhất tịch nhất hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông ??
    Hoặc : ?ophù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị dĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở ??
    Hoặc: ?oNguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loạn giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trị nhi bất vọng loạn ??
    Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ ?ovô khả, vô bất khả?.
    Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy lâu nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.
    (Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân ?)
    Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.
    Đừng nói chi xa xuôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập loè đâm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thuý tắm thôi, đã có gì như một ?obiến cố? hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi - nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc ? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái toà thiên nhiên dày dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì ? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng ?
    Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa lại chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi ! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỉ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra.
    Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ
    Mỹ nhân thừa tuý khiết cù du
    Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ
    Tuyết thái hoa âm bán hữu vô
    Sơ khởi đái tu hô bạn thức
    Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò
    Lâm ty khoái nhập phù dung trướng
    Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô ?
    Bây giờ chúng ta nghĩ sao ? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn ? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân ?
    Nêu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.
    Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thuý Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có !
    Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán ?okim tịch thị hà tịch ?? những thở than ?ovấn quân hà nhựt tái quy đầu ?, bất tri hà nhựt thị quy kỳ ?? ?ochiêm vọng hương quan hà xứ thị ?? ? Thúc Sinh đi rồi, Thuý Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những ?otự quân chi xuất hỹ?, những ?obất cảm thượng thanh lâu?, những ?obất ngôn diệt bất ngữ?, những ?ovô nhựt bất nam tư?, ?otư quân quân bất chí? ? vân vân ?
    Kinh khủng thật.
    Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: - ?oCả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thuý Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế ??
  8. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Phạm Hầu
    Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
    Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
    Một cột đèn cao mơ goá bụa
    Đường dài toan nối hận gian truân
    Bốn câu thơ đầu bài Lý Tưởng của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước. Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính ? cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Quảng Nam, chiều Sơn Tây ?
    Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là ?oLý Tưởng?. Người thy sỹ đi theo bóng lý tưởng, đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đây ? Thiết tha đeo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không ? Phải o bế hư không ? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng ? Lý tưởng là mộng hờ ? Biết rõ là mộng hờ mơ goá bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với goá bụa ?
    Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
    Phung phí đời tôi mấy độ tươi
    Cổ kim có một thi nhân, nghệ sĩ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu ?
    Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
    Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ
    Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:
    Thả mồi bắt bóng
    Bóng chẳng bắt được
    Mồi kia không còn
    Há chẳng là
    Đáng tiếc lắm ru ?
    Vâng. Biết rành rành rằng như thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia ? Vì sao như thế ?
    Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:
    Thằng thy sỹ có cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là tránh được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi ! chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn nhất trong mọi sự đáng tiếc ở đời.
    Do đó, dù biết rằng đuổi theo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại v.v, vẫn cứ ù lỳ đuổi đeo theo mãi mãi suốt một bình sinh.
    Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dắt dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học ! ! ! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô !
    Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hoà, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.
    Đó là cái tạm gọi là rapprochement des extrêmes: participation totale et solitude.
    Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài Lý Tưởng kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của ?oLý Tưởng?.
    Lý Tưởng
    Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
    Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
    Một cột đèn cao mơ goá bụa
    Đường dài toan nối hận gian truân
    Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
    Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
    Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng
    Những giờ mới lạ có bao nhiêu ?
    Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy ****
    Giờ không mơ **** lại mơ thơ
    Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
    Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ
    Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
    Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn
    Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện
    Quên thổi giùm tôi hận chập chờn
    Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi !
    Dẫu xa, xa cách mấy phương trời
    Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
    Phung phí đời tôi mấy độ tươi
    Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng ?olý tưởng? của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn ?ohợp thời trang?, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xoá sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng tôi nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thuỷ của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái ?oký ức? lếu láo, cái ?okinh nghiệm? bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường ?otrải qua một cuộc biển dâu ??
    Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì ? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo ?omới? và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.
    Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thuỷ của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại trong cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.
    Bài thơ của Phạm Hầu đang đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long ? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật. Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giềng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra cái gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó là cũng một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:
    Một cột đèn cao mơ goá bụa
    Đường dài toan nối hận gian truân
  9. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Ngân Giang nữ sỹ
    Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở :
    Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh
    Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành
    Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở
    Can tràng ai hẹn với ngày xanh
    Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản hoạ thơ bà, tôi cũng xin nối điêu chút ít. Tôi không biết hoạ thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng.
    Mưa thu buổi sáng ướt thềm
    Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì
    Dâng lên từng đợt lỗi nghì
    Mùa xuân đã chết ai về gọi thu
    Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng trang trọng như thơ Bà Huyện Thanh Quan ? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm ? Bà hiện bây giờ ở đâu ? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn ? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm viếng thăm bà.
    Bài Xuân Tưởng, bà có ghi : ?oDám mong các bạn thơ trả lời bằng thơ những câu hỏi thơ này?.
    Tôi không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thể viết câu hỏi ra trở lại, và nhờ bà đáp trở lại cho câu hỏi của bà đã nêu ra:
    Hoa đào múa cánh cuối đông rồi
    Một vẫy tay tiên đủ tám bài
    Ngày muộn trường văn tàn nét bút
    Người làm thơ muộn đấy là ai ?
    Là ai ? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.
    Cách đây mươi năm giấy mực già
    Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa
    Người làm thơ muộn nêu câu hỏi
    Kẻ muộn làm thơ họa há là ?
    Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.
    1. Ngày xưa
    Ngày xưa có một người thơ
    Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo
    Chim hôm loáng thoáng qua đèo
    Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga ?
    2. Thế ra
    Thế ra thu đã đến rồi
    Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm
    Xa xôi ai đấy có buồn ?
    Thôn Dương nhành liễu võ vàng tương tư
    3. Đêm mưa
    Gió mưa ướt áo đủ rồi
    Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này
    Ốm đau đã mấy tuần nay
    Nét cười đã với tháng ngày trôi xa
    Giờ không gạn chút vui thừa
    Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn
    Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn
    Đã vì đau giận rũ tan khắp trời
    Mưa rơi từng giọt mưa rơi
    Lòng ai có lạnh như tôi thế này.
    Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ !
    Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hoả thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông ? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực ?
    Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn ? - Chả hạn : tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thuỷ bão giông, tới con hùm thiêng thuỷ nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba ? ?" Đáp rằng : tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lỳ le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều : trà kia không có pha thêm những bột phấn hồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả.
  10. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    Vân Đài
    Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu hình, hơn hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ. Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau.
    Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sỹ và Vân Đài nữ sỹ là có linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì ấy cũng là cái sáo của sông núi phát tiết ra.
    Yêu thương dậy lại đầy trời
    Lòng ơi ! đường cũ núi đồi còn đây
    Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thuỷ. Kể chuyển Nerval Heidegger cho bà nghe.
    Bà cũng biết uống rượu
    Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi
    Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi
    Vui không có hạn sầu không có
    Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
    Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ
    Tay ôm hương sắc những mùa tươi
    Quên nghe thời khắc quên năm tháng
    Say uống hương hoa giữa suối đời
    Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải là la de hoặc rượu đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt, ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít.
    Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn bối phần nào :
    Vui không có hạn sầu không có
    Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
    Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống, thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe.
    Lục bát của bà trong bài Biệt Ly cũng thật dịu dàng. Ta phải coi Vân Đài nữ sỹ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh mông trong mấy vần này:
    Lòng ta tràn ngập nỗi buồn
    Như người đứng ngã ba đường nhớ ai
    Trái tim hồi hộp thở dài
    Hoà theo với tiếng bốn trời tiễn đưa
    Sáng nay mây trắng bơ phờ
    Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn
    Thuyền đi sông nước ngại ngùng
    Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày
    Giang lăng cách trở đâu đây
    Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu
    (Tặng cảnh Cát Bà)
    Được psychocolate sửa chữa / chuyển vào 17:49 ngày 04/12/2005

Chia sẻ trang này