1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cả nhà ơi, bình bầu tác giả VN hay nhất năm 2005 đê

Chủ đề trong 'Văn học' bởi anjingruyu, 07/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Ng Văn Thọ viết bài này đúng vào thời điểm hoa thủy tiên và Tuối 20, chứ ko phải bi giờ mới viết. Trong bài này Thọ cũng vẫn ủng hộ Thiệp, trừ nhận xét về Tuổi 20 thôi.
  2. zixia

    zixia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2005
    Bài viết:
    255
    Đã được thích:
    0
    Mrs Thuận đã đổi sang quốc tịch Pháp từ rất lâu rồi bác ạ. Chỗ thân quen với madam, em khuyên thật sự bác đừng tô hồng tưởng tượng về tác giả mà làm gì... Mình đọc sách thì chỉ nghĩ về sách thôi ...
  3. anjingruyu

    anjingruyu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2005
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0

    Mrs Thuận đã đổi sang quốc tịch Pháp từ rất lâu rồi bác ạ. Chỗ thân quen với madam, em khuyên thật sự bác đừng tô hồng tưởng tượng về tác giả mà làm gì... Mình đọc sách thì chỉ nghĩ về sách thôi ...
    [/quote]
    Tin thật bao nhiêu % đấy ? Nếu thật, thảo nào không thấy các bác trong HNV ỏ e gì về Thuận cả, hoá ra là nhà văn ngoại kiều rôì à. Mà sao bạn lại nói câu vàng vàng ỡm ờ thế nhỉ. Bảo là đừng quan tâm đời tư nhà văn mà chơi câu đấy thì chỉ tổ càng làm người khác tò mò.
  4. conmeotamthe

    conmeotamthe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Tôi không tưởng tượng để tô hồng chị Thuận. Xin trích lạI đây lờI nhận xét của một số nhà văn khác (trong nước chứ không phải hải ngoại) về Thuận và tác phẩm của chị ấy.
    - ?oNăm vừa qua, tình hình văn học Việt có thể nói là khởi sắc. Một số cây bút đã ra được những tác phẩm gây được tiếng vang trong dư luận. Điển hình như Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận, Thuận với Paris 11 tháng 8...
    Nói riêng về nhà văn Thuận, theo tôi, dư luận trong nước chưa công bằng với tác giả này. Đây là một nhà văn có đóng góp lớn về thi pháp tiểu thuyết, có tầm văn hóa. Cô ấy có ý thức của một nhà tiểu thuyết chuyên nghiệp. Tôi tin rằng Thuận có thể đi xa hơn nữa với trữ lượng tiểu thuyết dồi dào của mình?. (Dạ Ngân, eVan, 19/01/2006)
    "Paris 11-8 là cuốn tiểu thuyết thứ ba của Thuận (sau Made in Vietnam và Chinatown), một nữ nhà văn VN 38 tuổi hiện sống ở Pháp (xin lỗi, hình như ở Pháp không nên nói về tuổi tác phụ nữ). Sở dĩ phải đề cập tuổi tác là vì cách hành văn. Câu truyện nhiều tình tiết và ít cốt truyện, lôi cuốn chủ yếu do cách hành văn. Đó là cách viết của người lịch lãm, mạnh mẽ, điêu luyện với một khối lượng từ ngữ được sử dụng rất hạn chế". (Đỗ Phước Tiến, Tuổi trẻ, 12/01/2006)
    "Về tiểu thuyết của Thuận, năm 2005 chị trình làng ở NXB Đà Nẵng hai cuốn tiểu thuyết được viết từ một bút pháp, một giọng văn khác lạ và từ một góc nhìn độc đáo về bối cảnh phương Tây hiện đại có chứa đựng những tâm tư Việt. Phố Tàu và Paris 11 tháng 8 như góp phần làm sinh động thêm một đời sống văn học vốn lâu nay chưa được mở rộng nhiều về đề tài và không gian văn hóa". (Nguyễn Hoà, Vietnamnet, 14/01/2006).
    Được conmeotamthe sửa chữa / chuyển vào 23:49 ngày 20/01/2006
    Được conmeotamthe sửa chữa / chuyển vào 23:52 ngày 20/01/2006
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Không hiểu sao tớ ko thích đọc văn của Thuận, cố gắng lắm mới đọc hết dc cuốn CHinatown. Tuy nhiên tác giả lại là 1 ngưới khá thông minh và có học qua mấy bài trả lời phỏng vấn và bình luận văn học. Tớ thích mấy bài cãi cọ của Thuận với Nguyên Ngọc và với Phạm Xuân Nguyên, rất thông minh, sắc sảo. Đến nỗi các bác này " tắt đài" hết không dám tranh luận tiếp với Thuận.
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Thị trường sách văn học năm 2005
    -
    Khép lại năm 2005, ngành xuất bản được đánh giá là có một năm sôi nổi, khác hẳn với vẻ trầm lắng trước đó. Người yêu sách năm qua không còn phải than vãn ?ochẳng có gì để đọc? mà ngược lại, họ có cái để suy tư sau khi gấp lại nhiều cuốn sách.
    Khuấy động dư luận trước tiên phải kể tới Tấm ván phóng dao của Mạc Can - người bắt đầu cầm bút khi tuổi đã luống. Hình như sự mở đầu có duyên của ông là bệ phóng cho nhiều tác phẩm sau đó. Năm 2005 cũng có thể nói là một năm nhiều niềm vui đối với nghệ sĩ hài rất có duyên này.

    Lối viết mới mẻ cộng với sự trau chuốt về hình thức trình bày của một họa sĩ vẽ bìa hàng đầu đã làm nên thành công của Năm, mười, mười lăm, hai mươi (Nguyễn Vĩnh Nguyên). Nằm trong bộ ?oVăn mới? đẹp, hiện đại, cuốn sách còn có sự nổi bật về nội dung nên nhanh chóng hút độc giả.

    Dù ra sách vào thời điểm cuối năm, khi độc giả đã có nhiều thứ để đọc, thì Nguyễn Ngọc Tư vẫn đủ sức làm độc giả ngạc nhiên với Cánh đồng bất tận - một lối viết hoàn toàn mới, bạo liệt, khiến người đọc như được xem một Mùa len trâu phần 2 đặc chất Nam Bộ. Cuốn sách, ngay từ những ngày đầu phát hành đã tạo nên cơn sốt, khiến nhiều độc giả ngoài Bắc phải nóng lòng chờ đợi. Và con số 30 nghìn bản in của nó là niềm mong ước của nhiều nhà văn.

    Có một số đầu sách được chú ý dù không thực sự nổi bật, những cuốn ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa như Nhật ký Mã Yến chất chứa khát khao cháy bỏng được đến trường của một cô bé Trung Quốc 13 tuổi. Đó còn là mối tình thầm lặng, bi thương của thiếu nữ Trung Quốc chơi cờ với chàng lính Nhật trong Thiếu nữ đánh cờ vây. Và nếu như ai đó đã đọc Ở đâu còn sự sống, nơi đó còn hy vọng (Phan Văn Hòa) chắc khó tránh khỏi suy tư trước mối tình yêu thương tha thiết của một cặp vợ chồng trẻ bất lực trước căn bệnh nan y.

    Mật mã Da Vinci (Dan Brown) ra mắt khá ấn tượng nhưng nhanh chóng bị coi là một ?othảm họa dịch thuật? khi một độc giả - dịch giả đối chiếu bản tiếng Việt với bản gốc.

    Cũng nên nhắc đến sự nở rộ của loại sách ?ophóng sự xã hội? của một số báo. Chuyện tử tù, *******, tham nhũng..., sự xuất hiện của những cuốn không thuộc dòng sách chính thống này cho thấy sắc thái đọc của một bộ phận công chúng. Nó đặt ra câu hỏi không biết có nên khuyến khích dạng sách như thế?

    Harry Potter - một hiện tượng văn học thế giới cũng làm xôn xao thị trường sách Việt. NXB Trẻ đã góp phần nâng cao uy tín của những người làm sách Việt Nam khi phát hành thành công tập 6 bản tiếng Anh của bộ truyện này cùng thời điểm với nhiều quốc gia khác. Không những thế, bản dịch tiếng Việt là bản chuyển ngữ sớm nhất của tập sách này.

    Tuy nhiên, sôi động kéo dài nhất phải kể đến Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Xuất hiện đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc chiến tranh, Mãi mãi tuổi hai mươi có được sự thuận lợi lớn về mặt tuyên truyền nhưng có lẽ không ai ngờ số bản in của nó đạt tới 40 vạn. Nhật ký Đặng Thùy Trâm xuất hiện sau một chút nhưng cũng nhanh chóng trở thành hiện tượng. Sách hấp dẫn vì số phận của cuốn nhật ký sau 30 năm lưu lạc, hấp dẫn vì tâm hồn trong sáng tuyệt vời của người con gái Hà Nội ở nơi chiến trường khốc liệt. Nhật ký Đặng Thùy Trâm có tần số xuất hiện dày đặc nhất trên các báo trong suốt một năm kể từ khi xuất hiện. Hai cuốn trên ra đời thậm chí tạo nên cả một dòng sách nhật ký chiến tranh như: Sống để yêu thương và dâng hiến, Nhật ký Vũ Xuân, Tây Tiến viễn chinh... Xuất hiện sau, giá bán khá cao (43.000 đồng so với giá ưu đãi của Mãi mãi tuổi hai mươi - 25.000 đồng) nhưng số lượng xuất bản của chúng vẫn đạt chừng 400.000 nghìn bản - ?onhư thời bao cấp? mà lại được độc giả nồng nhiệt đón nhận chứ không như diện sách ?ocấp phát?.

    Với những đầu sách mới xuất hiện năm 2005 kể trên, với những con số phát hành đáng kể đó, có thể thấy độc giả Việt Nam vẫn rất yêu sách văn học, không hề quay lưng lại với thể loại này như một số người lầm tưởng. Những cuốn sách sâu sắc, thấm đẫm chất nhân văn giúp người ta thấy mình lớn thêm lên, thấy rằng cuộc sống này thật đáng quý, rằng con người cần phải sống tốt hơn...

    Sự sôi động của sách văn học năm qua đã giúp chúng ta trả lời câu hỏi khó muôn thuở của người làm xuất bản: Sách nào bán chạy?
  7. anjingruyu

    anjingruyu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2005
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Bài về phát hành mình đã copy từ evan xuống đang định up lên đây thì bạn HV09 đã làm việc đó rồi. Thấy bài này cũng khá khách quan và nhìn nhận vấn đề từ góc độ xuất bản nhiều hơn nên không bị sa vào khen chê. Báo tôi cũng chọn 2 cuốn nhật ký chiến trường là 1 trong 6 sự kiện văn hoá của năm. Công nhận năm nay sách nhiều và sinh động, tuy nhiên bài viết còn chưa kể đến loạt văn học dịch kinh điển và văn học nước ngoài đương đại. Nếu chọn nhà phát hành nào ấn tượng thì mình chọn Văn mới. Năm nay có thêm kiểu tự in sách bán của Võ Thị Hảo, sau khi thành lập công ty riêng về phát hành. Mình thấy cũng bạo dạn, và quan trọng là họ có lãi. Khi mỗi NXB có 1 gu riêng chắc các đầu sách sẽ mang dấu ấn nhiều hơn, hy vọng sau này hình thành 1 số tủ sách tư nhân có giá trị. Ví dụ trong Nam có nhà sách Nghiêm Bích Hoan chuyên về sách tâm lý và giáo dục, rất chuyên ngành và độc quyền về mảng ấy luôn.
    Sau này có lẽ mình cũng làm về phát hành vì thích công việc này phết. Cũng cam go và cạnh tranh chả thua gì phát hành phim.
  8. pinksubmarine

    pinksubmarine Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2004
    Bài viết:
    212
    Đã được thích:
    0
    Tui nghe khen quá trời nên cũng ngó qua thử một đoạn. Cái này tui copy ở bên TPVH:
    Nếu so với hội họa thì viết kiểu này không phải là hình họa (drawing), không phải là hội họa (painting) mà là vẽ caricature, miêu tả (kể chuyện) không có da thịt, không có hơi thở, chỉ có mấy nét tiêu biểu & thậm xưng. Đây là một cách viết (hay vẽ) rất lười, người viết (vẽ) chỉ thích có nhiều tuyên ngôn nhất bằng con đường ngắn nhất.
    Nếu văn thế này có người đọc thấy rung động thì tui hết sức ngạc nhiên.
    Cũng có thể Thuận viết hay, ở những chỗ khác. Tui xui chỉ đọc được cái khúc này thì không còn đâu lòng dạ để đọc tiếp.
  9. hoanglan10

    hoanglan10 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/01/2006
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Gửi Pinksubmarine.
    Nên đọc hết tác phẩm mới có thể đưa ra nhận xét. Chỉ vì bạn xem lướt có một đoạn ngắn nên đã vội vàng chê.
    Tôi mạn phép giải thích một chút: Nhân vật hoạ sĩ của Thuận vẽ tranh chỉ để kiếm tiền, như vẽ hợp đồng, thế thì làm sao có thể nói về nghệ thuật một cách say sưa. Đó chính bản thể của nhân vật này. Thuận không có ý định xây dựng một nhân vật lý tưởng, theo kiểu vừa có tài, vừa có đức. Bạn thử nhìn xem xung quanh mình, có ai là hoàn hảo, hay phần lớn chúng ta đều bị sức ép của cuộc sống vật chất.. Ngoài đời, các họa sĩ tự chép tranh của mình chẳng qua cũng chỉ vì đồng tiền, vợ con lèo nhèo bên cạnh, đòi mua xe, xây nhà? Nào ai còn được như các cụ Phái, Sáng, Nghiêm?suốt đời hy sinh cho hội họa.
    Thế nên, nhân vật lý tưởng trong hoàn cảnh xã hội mình bây giờ thì e rằng sẽ không thật bạn ạ. Nhân vật hoạ sĩ của Thuận không chịu nổi hàng ngày vẽ tranh theo đơn đặt hàng của vợ, nhưng cũng không có khả năng hy sinh cho nghệ thuật, cuối cùng đã quay lại lối sống lang thang (nhảy tàu Thống Nhất)? Âu cũng là cái yếu ớt của con người bình thường.
    Nếu, có thời gian thì bạn cố đọc hết Chinatown, và nên chú ý Chinatown là tác phẩm văn học chứ không phải sách lý thuyết drawing hay painting.
  10. hanthuyen17

    hanthuyen17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/01/2006
    Bài viết:
    30
    Đã được thích:
    0
    Xin mời cả nhà đọc bài sau đây của Cao Việt Dũng đăng trên Vietnamnet.
    Suy nghĩ về dịch thuật và ngôn ngữ văn chương
    (Phần 2)
    Ngôn ngữ ở vị trí trung tâm của văn chương
    Trước hết, tôi xin được bày tỏ sự nghi ngờ lớn lao dành cho quan niệm khá phổ biến ở Việt Nam cho rằng một tác phẩm cần được nhìn nhận đầu tiên thông qua tư tưởng. Kinh nghiệm đọc của tôi cho thấy nhận định đó sai hoàn toàn. Với tôi, một tác phẩm chỉ có thể tạo ấn tượng khi nó có ngôn ngữ riêng. Có thể là tôi cực đoan, nhưng tôi luôn nghĩ thậm chí không cần đến tư tưởng có trước, theo lối tiên nghiệm, một tác phẩm vẫn hoàn toàn có thể tồn tại. Ví dụ tôi có thể đưa ra tức khắc là nhà văn đã quá quen thuộc với người Việt Nam dù chưa hề được nghiên cứu đầy đủ xứng đáng với tầm vóc: Flaubert; có lẽ còn phải chờ những công trình của Phùng Ngọc Kiên, người say mê Flaubert bậc nhất hiện nay, người đang vật lộn với lý thuyết Mimèsis của Aeurbach để tìm lối vào thế giới của tác giả Bà Bovary. Cần phải hiểu thế nào khi Flaubert tuyên bố mình sẽ viết một cuốn sách không về cái gì cả? Cuốn sách đó là L?TÉducation sentimentale (Giáo dục tình cảm)? Đó chính là cam kết của nhà văn sẽ chỉ dùng ngôn ngữ và phong cách để tạo tác phẩm. Và tác phẩm đó của Flaubert là một kiệt tác.
    Có thể nói đến tư tưởng, tầm vóc triết học này kia, nhưng đó hoàn toàn là chuyện sau này, theo lối hậu nghiệm. Ví dụ cao cấp hơn nữa vẫn thuộc về Flaubert: truyện ngắn Un coeur simple (Một trái tim đơn giản), nơi chúng ta phải kinh hoàng trước khả năng kể một câu chuyện không có gì hết, ngoài một bà già và một con vẹt, tất cả những gì nó chứa đựng chỉ là một nhịp điệu vô cùng khó giữ, một lối văn đơn giản chủ ý vô cùng chau chuốt mà không hề tạo cảm giác chau chuốt, nói ngắn gọn, một thứ ?okhông gì cả? tinh tế của một thiên tài. Nói thế này chắc nhiều người ghét, nhưng bây giờ ai còn đọc nổi những Jean Christophe của Romain Rolland, hay Les Communistes (Những người cộng sản) của Aragon (phải nói rõ là tôi không phủ nhận các tác phẩm khác của Aragon, đặc biệt là thơ và Le Paysan de Paris, Người nông dân Paris)?
    Tôi tin là nếu bắt buộc phải lựa chọn (với điều kiện sự lựa chọn hoàn toàn được tự do, không bị ai đe dọa ở sau lưng), bất kỳ người bình thường nào sẽ chọn Laclos, Nabokov, hoặc thậm chí Bataille chứ dại gì lao vào mớ bòng bong tư tưởng của Roland và Aragon. Quá nhiều tư tưởng giết chết tác phẩm văn học. Chỉ với một suy tư về ngôn ngữ, William Styron đã có thể viết nên cuốn tiểu thuyết mênh mông Sophie?Ts Choice (Lựa chọn của Sophie - xin lưu ý tôi muốn nói đến cuốn tiểu thuyết chứ không phải bộ phim với cô đào Meryl Streep), dựa trên sự tiến hóa và hoàn thiện ngôn ngữ qua nhiều sự kiện cuộc đời của một cô gái Mỹ nhập cư từ Ba Lan.
    Nhà văn Việt Nam rõ ràng là quá ?ongây thơ? trong lĩnh vực ngôn ngữ. Rất hiếm những tra vấn ngôn ngữ, dù là thể hiện trong tác phẩm văn học. Nhà văn Việt Nam tư duy bằng ngôn ngữ, chứ chưa hề tư duy về ngôn ngữ. Ngôn ngữ vẫn chỉ là một công cụ, thậm chí có khi còn là thứ công cụ hết sức bị rẻ rúng. Tôi thú thật là rất bất ngờ khi đọc Người sông Mê của nhà văn Châu Diên. Những lời khen ngợi dường như chỉ để ý đến những ý tưởng của tác phẩm, mà quên mất chiều còn lại của cuốn tiểu thuyết: ngôn ngữ. Ngay cả những người mà tôi khá tin vào cái ?ogu? thưởng thức chắc chắn cũng có những lời khen ngợi hết sức đáng ngờ.
    Cuốn tiểu thuyết của Châu Diên có những hướng đi rất độc đáo, những chủ đề rất lớn, nhưng ngôn ngữ mà ông dùng là ngôn ngữ trong nhật ký của một cậu sinh viên măng sữa, với một ham muốn duy nhất là tự chứng tỏ cho bản thân mình có biết viết văn. Chính tôi từng trải qua trạng thái tâm lý đó nên biết một cách chắc chắn rằng thứ ngôn ngữ bằng phẳng, với sự lặp lại liên tiếp đến lẩm cẩm những câu văn nhạt nhẽo, những cái nháy mắt láu lỉnh và nhí nhảnh đó chỉ đủ để chứng minh Châu Diên còn rất trẻ chứ không bao giờ đủ sức chở được những ý tưởng sâu sắc. Chính vì sử dụng ngôn ngữ một cách quá dễ dãi mà Châu Diên đã làm hỏng cuốn tiểu thuyết của mình. Giàn thiêu là một ?oca? khác, một biểu hiện khác của thứ phê bình văn học bốc đồng, bốc thơm người quen.
    Một cuốn tiểu thuyết lịch sử không thật sự có diễn giải mới về lịch sử, một cuốn tiểu thuyết trộn lẫn ngôn ngữ và kết cấu truyện ngắn, báo chí, chưa nói đến việc không kiểm soát được hết các chi tiết, nói tóm lại là một điển hình cho khái niệm ?okitsch văn học? mà được tán dương hết lời như vậy thì quả thật không những không thể ?olạc quan? mà còn phải thấy bi thảm cho cả một nền phê bình. Điều kiện để có phê bình, cũng khá giống với trong dịch thuật, là có một khoảng cách nhất định giữa nhà phê bình và nhà văn. Không quá xa, vì sẽ nhìn không rõ, nhưng cũng không thể quá gần, vì sẽ chỉ nhìn thấy toàn tiểu tiết.
    Trên thực tế James Joyce đã làm công việc tư duy về ngôn ngữ đó với Ulysses, và nhất là Finnigans Wake. Tristan Tzara trong thơ, rồi Samuel Beckett cũng không làm gì khác hơn với những vở kịch phi lý của mình. Tôi muốn nói kỹ hơn đến hai dẫn chứng khác nữa về suy tư ngôn ngữ văn chương ở tầm triết học: hai nhóm ?TPataphysique và Oulipo. ?TPataphysique là một kiểu ?ohọc phái? lấy cảm hứng từ tác phẩm của Alfred Jarry (tiêu biểu là Ubu), phá tan tành giấc mộng về một thế giới vo tròn, hoàn hảo, không cá tính. Oulipo là bước phát triển cao hơn (ban đầu, Oulipo chính là một nhánh phái sinh của ?TPataphysique). Với hai người sáng lập, Raymond Queneau và François Le Lionnais, cộng thêm sự trợ sức của nhà thơ và nhà toán học Jacques Roubaud, Oulipo tự đặt ra mục tiêu đưa toán học vào ngôn ngữ, và nhất là đề ra quy tắc ?ocontrainte? (bó buộc) trong sáng tạo văn chương. Một ?ocontrainte? gần như là một quy tắc mà người sáng tác phải chấp nhận theo.
    Ví dụ nhiều người biết đến hơn cả là tiểu thuyết không có chữ e của George Perec, La Disparition (Sự biến mất). Bó buộc để mở rộng, đó là triết lý của Oulipo, và Oulipo quả thật đã thực hiện được triết lý đó của mình. Họ có những kiệt tác không thể phủ nhận: tác phẩm Các bài tập phong cách của Raymond Queneau, Cosmicomics hay Nếu một buổi tối mùa đông một người lữ khách? của Italo Calvino, và nhất là tiểu thuyết Cuộc sống hướng dẫn sử dụng của Georges Perec.
    Chúng ta đang sống trong thời đại ngôn ngữ. Chính triết học ngôn ngữ, chứ không phải hiện tượng luận, càng không phải chủ nghĩa hiện sinh, mới là thứ triết học quan trọng nhất của thế kỷ XX, dấu ấn của thế kỷ XX. Tuy rằng Platon đã đưa ra một lý thuyết về ngôn ngữ, nhưng phải kể từ Ferdinand de Saussure, vấn đề suy tư theo tính hình thức về ngôn ngữ mới trở thành đòi hỏi bức thiết của ngôn ngữ học, cho đến khi đó vẫn bị thống trị bởi khoa ngữ văn học và các ngành phái sinh, đặc biệt là thông diễn học (herméneutique). Rồi kể từ Ludwig Wittgenstein, triết học cũng bắt buộc phải bước vào địa hạt ngôn ngữ, kể từ đó không một nhà tư tưởng thực thụ nào không đặt ra cho mình những vấn đề hành ngôn, văn bản, tự sự, ngữ dụng học, ngữ nghĩa học....
    Trong thế kỷ XX, không triết học nào phát triển nhanh và thay đổi không ngừng như triết học ngôn ngữ. Chính từ ngôn ngữ và suy tư về ngôn ngữ mà xuất hiện trường phái hình thức Nga, rồi cấu trúc luận Pháp, giải cấu trúc luận Mỹ. Trường phái phê bình liên văn bản Pháp cũng hưởng lợi to lớn từ phong trào ngôn ngữ học tuy ít khi bùng lên ầm ĩ nhưng kiên trì chảy ngầm ở tầng sâu tri thức thế kỷ XX. Chính những tra vấn gay gắt, trong đó có cả phủ nhận lẫn tiếp nối truyền thống tu từ học và thi pháp học bắt nguồn từ trước và kết tinh ở Aristote, mà những nhà phê bình kiệt xuất như Gérard Genette, Tzvetan Todorov hay Roland Barthes đưa được văn bản vào trung tâm của nghiên cứu văn học. Chỉ những nhà phê bình với đầu óc đơn giản hơn cả chiếc máy chữ thời kỳ đầu tiên mới dám làm cái công việc cực kỳ nguy hiểm là sử dụng ý thức hệ để phán xét thành tựu của trí thức nước ngoài, và chỉ dựa vào ý thức hệ để sổ toẹt tất cả các học thuyết mà mình không ưa. Thao tác đó thực ra rất dễ, và cũng không cần cả đến lý luận, lý thuyết lẫn lập luận. Mỗi thế kỷ đều có sai lầm của nó, nhưng không bao giờ có ?osai lầm thế kỷ? hết; nếu thế thì làm gì còn chỗ đứng cho biện chứng luận.
    Quay trở lại với tình hình văn chương Việt Nam. Ở Việt Nam, chỉ có rất ít nhà văn có suy tư thực sự về ngôn ngữ. Nguyễn Tuân và nhất là Phan Khôi là những con người hiếm hoi đó. Ở Phạm Thị Hoài cũng có một suy tư hết sức triệt để, thể hiện trong tác phẩm, về tình thế khi nhà văn bị buộc nằm vào giữa hai thứ ngôn ngữ khác nhau như hai mặt của một tấm huy chương: tiếng Đức và tiếng Việt. Tôi nhận ra một sự tương đồng rất quan trọng giữa Phạm Thị Hoài và Linda Lê, dù đó là một tương đồng mang chiều nghịch. Phạm Thị Hoài đưa cấu trúc, cảm giác ngôn ngữ, và cả các huyền thoại phương Tây, nói gọn là một ?ohình ảnh bên ngoài? vào tiếng Việt và văn học Việt Nam, còn Linda Lê đưa dấu ấn của huyền thoại Việt Nam kết hợp với huyền thoại phương Tây để tạo ra một hành ngôn độc đáo, cái đưa bà trở thành một trong những nhà văn xuất sắc nhất của Pháp hiện nay.
    Ngoài đó ra, nhóm Mở Miệng là một ví dụ hoàn toàn hiện đại về ?odòng văn học chủ ngôn? này. Phải cần rất nhiều công việc diễn giải và lý thuyết mới có thể ?ogiải mã? được thơ của một nhóm thơ Việt Nam hiếm có đã hình thành được cả một trường phái chỉ trong một thời gian rất ngắn. Tôi sợ rằng lịch sử văn học chỉ vài chục năm nữa thôi sẽ quên hết những tập thơ in vuông xinh xắn, hàng trăm bài thơ bay như bươm **** trên báo chí mỗi ngày, để mà chỉ quan tâm đến những hiện tượng như Mở Miệng, điều đã từng xảy ra ở thời kỳ Thơ Mới, với Hàn Mặc Tử qua lời tiên đoán chính xác của Chế Lan Viên.
    Theo tôi việc thiếu tư duy ngôn ngữ chính là một nguyên nhân căn bản khiến văn học Việt Nam thiếu hoàn toàn chiều triết học. Triết học là một công việc tra vấn liên tục bản thân mình và những gì liên quan đến bản thân, trong đó dĩ nhiên có ngôn ngữ. Không có tra vấn Tolstoi không thể đạt đến chiều sâu như vậy. Một nhà văn, người sử dụng ngôn ngữ văn chương hàng ngày, hàng giờ (trong điều kiện đó là một nhà văn làm theo lời khuyên của Stendhal: ?oViết hàng ngày. Dù có là thiên tài hay không.?) rất nên, và cũng sẽ không quá lời nếu nói rằng bắt buộc, phải có lúc hoạt động trí não ở tầm siêu ngôn ngữ (métalangage), hiểu theo nghĩa suy tư có phê bình về ngôn ngữ. Những câu hỏi triết học có mục đích đi tìm kiếm bản thể luận của ngôn ngữ, và sau đó, của chính bản thân nhà văn với tư cách một con người và với tư cách một nhà văn.
    Chẳng hạn mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, đề tài muôn thuở của văn chương Việt Nam, mới được xới lại gần đây qua truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu vẫn chỉ loanh quanh trong những ẩn ức lịch sử, cái cảm giác chen lẫn sợ hãi và khinh bỉ dành cho người láng giềng khổng lồ. Nhưng hoàn toàn có thể nhìn theo khía cạnh khác: khác biệt và tương đồng giữa hai ngôn ngữ Việt và Trung, đề tài không chỉ của ngôn ngữ học mà rất có thể rất rộng mở cho nhiều tác phẩm văn chương.
    Francis Ponge không thể viết thơ mà không có từ điển Émile Littré trong tầm tay. Những bài thơ văn xuôi nhỏ như bao diêm của ông tạo ra toàn bộ một vũ trụ tương liên giữa người và vật, và vật ở đây là những gì rất đỗi gần gũi, tầm thường, vô vị: quả cam, chiếc giỏ? nhưng tài năng và quyền lực của nhà thơ khiến chúng mang tầm vóc nghệ thuật, và hơn thế, tầm vóc của vũ trụ. Cách làm thơ của Dương Tường, theo tôi hiểu, cũng không khác nhiều lắm, dù có thể không đi đến mức cực đoan như vậy, không đạt được trình độ cao như vậy, và cũng có thể không xuất phát từ một chủ ý.
    Những bài thơ làm bằng tiếng nước ngoài (Anh và Pháp) của ông hấp dẫn ở những tìm tòi. Hãy để ý, những từ Dương Tường sử dụng đều là những từ lạ, ít dùng, ít gặp, những từ ?olôi ra? từ trong từ điển, và khi được đưa vào thơ, chúng tạo ra những hiệu quả thẩm mỹ ít ngờ tới. Khi nào hình thức hóa được suy tư bằng tác phẩm, mới có thể nói đến chuyện xuất hiện một nhà văn chân chính. Người sáng tạo có ý thức, chứ không phải người sáng tạo theo ?obản năng?, mới thật sự là mẫu người cần thiết cho một nền văn học đang ở tình trạng? như hiện nay của Việt Nam.
    Có cả một khoảng trống bản thể luận bao la trong văn học Việt Nam. Biết bao nhà văn (đặc biệt nổi bật ở giai đoạn văn học sau 1975) phải dừng lại sau tiểu thuyết, tập truyện ngắn, và hiếm hơn, một tập thơ đầu tay. Sự dốt nát mà một số người nói đến không hẳn là một cách giải thích cơ bản, chưa nói đến chuyện nó gây ra một sự phẫn nộ âm thầm của giới nhà văn. Ai dám khẳng định mình giỏi hơn người khác, và ai dám khẳng định người khác dốt nát hơn mình? Cái sâu xa hơn hẳn chính là sự thiếu suy tư, thiếu sự tò mò cần thiết, một động lực quan trọng trong những động lực. Những phát ngôn tập trung quanh từ ?obản năng? chính là một biểu hiện tâm lý quan trọng của nỗi hoang mang triết học này.

Chia sẻ trang này