1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các bài viết của Trí Quyền

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi tienghatngoclan, 20/08/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Các bài viết của Trí Quyền

    Những khúc ca mùa hè bất tử


    Bên cạnh những ca khúc ?ove sầu?, nóng sốt chỉ trong mỗi một mùa hè rồi lột xác khỏi tâm trí người nghe ở mùa hè sau, vẫn có những ca khúc bất hủ như cây cổ thụ, mỗi hè lại đâm chồi, nảy lộc, ra hoa mới, vẫn được đón nhận và nhớ tới mỗi khi hè về?


    Margaritaville của Jimmy Buffett có bối cảnh ở Mexico, nơi có mùa hè bất tận, nơi người Mỹ nhấm nháp ly rượu margarita dưới ánh nắng. Ca khúc pha trộn giữa các thể loại nhạc Caribbean/Mariachi/Country tạo nên phong cách đặc trưng của Jimmy Buffett, người sau 30 năm chinh phục người nghe mới có được album đầu tiên xếp hạng nhất Top Billboard (album License to Chill) vào cuối tháng 7/2004 vừa qua.

    Mùa hè gắn liền với bãi biển và ánh nắng chói chang, đặc biệt hấp dẫn người Mỹ với trò lướt ván. Nhóm Beach Boys chính là đại diện nổi bật cho dòng nhạc lướt ván này với rất nhiều ca khúc tươi vui có từ ?osurf?. Surfin?T safari là bài hit đầu tiên của nhóm vào năm 1962, ca ngợi California, nơi có những chàng trai thức dậy sớm và ca hát vang trời cùng những cô gái đẹp ra bãi biển để lướt ván. 26 năm sau đó, Beach Boys lại có bài hát xếp hạng nhất, gắn liền với ngày hè, đó là bản Kokomo (1988).



    Ca khúc Under the Boardwalk (1964) của nhóm Drifters có ý trốn chạy cái nắng thiêu đốt của mặt trời mùa hè, tìm được bóng râm mát mẻ bên dưới hàng hiên. Thật trùng hợp, hoàn cảnh ghi âm của ca khúc này có ý nghĩa tương tự. Ca sĩ chính của nhóm là Rudy Lewis qua đời vì dùng thuốc quá liều ngay đêm trước ngày thu âm ca khúc, không còn kịp để hoãn vì rất khó khăn mới đăng ký trước được phòng thu. Phần hát được chuyển qua cho Johnny Moore, nhà sản xuất Bert Berns khéo léo chuyển cảm xúc của Moore từ cú sốc và đau buồn do cái chết của đồng đội thành sự thư giãn, trút bỏ gánh nặng giống như tránh khỏi ánh nắng nóng bức kia trong lời hát. Ca khúc trở thành đỉnh cao trong sự nghiệp ca hát của Moore. Ba năm sau đó, cũng chính Berns đã thực hiện bản Brown - eyed girl cho Van Morrison. Vẻ u sầu ảm đạm thường trực của Morrison đã được thay thế bằng nụ cười tươi tắn trong ca khúc này, có thể cảm thấy anh đã mỉm cười khi nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào về một tình yêu tìm thấy trong mùa hè.



    Năm 1964, tiếng saxo Stan Getz quyện cùng giọng hát đầy nữ tính của Astrud Gilberto tạo nên bản nhạc nổi nhất của điệu bossa nova, điệu nhạc lắc lư đầy gió nhiệt đới của Brazil. Sáng tác bởi Antonio Carlos Jobim và tay guitar kiêm ca sĩ jazz bậc thầy Joao Gilberto, Girl from Ipanema thể hiện không khí thong thả, không vướng bận của mùa hè thảnh thơi. Lúc đó, Stan Getz đang ghi âm với Joao Gilberto và họ dự định có thêm một ca khúc bằng tiếng Anh bên hàng loạt bài hát bằng tiếng Latin.

    Còn nhiều bản thật thích hợp trong hè như Hot fun in the summertime (1969) của Sly and the Family Stone, Summer in the city (1966) của Lovin?T Spoonful, Summertime blues (1958) của Eddie Cochran. Gần hơn có điệu reggae trong I can see clearly now (1972) của Johnny Nash, bản nhạc nghe khi lái xe đi nghỉ hè Born to run (1975) của Bruce Springsteen. Hay mới nhất là No shirt no shoes (no problems) (2002) của Kenny Chesney với mùa hè thật sự trút bỏ mọi gánh nặng ?oNo boss, no clock, no stress, no dress code?( không sếp, không phải canh giờ giấc, không áp lực, không phải ăn mặc chỉnh tề).
  2. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Nhạc về hoa cho ngày tình nhân

    Vì nàng đẹp như một bông hồng
    Elle etait si jolie ?" Alain Barrier )
    ?o Tình yêu có thể biến đổi một gã khờ thành thiên tài và biến thiên tài thành một gã khờ?. Ngay cả giọng hát ngang tàng rất ?ocao bồi? của Frankie Laine ( nghe thử Gunfight at the O.K. corral ) cũng phải ?ođể quên con tim? trước một bóng hồng phương Đông trong Rose, Rose I love you ( thường được biết với tựa Cánh hồng Trung Quốc): ?otôi yêu em với đôi mắt nâu, em thơm ngát và mảnh khảnh dưới bầu trời nhiệt đới, cả cuộc đời tôi sẽ luôn ghi nhớ điệu nhạc phương đông, cánh hoa ngát hương cài trên mái tóc em, cơn gió nhẹ mang mùi hoa sen và những cây cọ đung đưa?. Hoa hồng, biểu tượng của tình yêu, đã có từ lâu trong nhạc với Ramblin'' rose hay Yellow rose of Texas ( xuất hiện từ cuối thế kỉ 19, năm 1955, Mitch Miller đã sửa lời lại cho phù hợp hơn).
    Nếu người yêu bạn thích màu xanh ( biết kiếm đâu ra hoa hồng xanh ?), thật lý thú nếu tặng nàng 1 cành hồng đỏ thắm cùng bài hát Red rose for a blue lady. Được hát bởi các crooner mùi mẫn như Andy Williams và ?ohiện tượng? Engelbert Humperdinck, bản nhạc này là lời của một chàng trai muốn vuốt ve năn nỉ bạn gái của mình sau một cuộc cãi vả. Không kém ngọt ngào nhưng buồn hơn là Roses are red của Bobby Vinton. Khởi đầu với câu hát giống như American pie ?o a long long time ago?, bài hát xoay quanh bài thơ quen thuộc Roses are red, my love/ Violets are blue/ Sugar is sweet, my love/ But not as sweet as you (Hoa hồng thì đỏ thắm, violet thì xanh tươi, đường thì ngọt lịm nhưng cũng chẳng dễ thương bằng em). Một mối tình học trò mong manh với bài thơ ghi vào đầu cuốn sách. Họ đã xa nhau và chỉ gặp lại nhau khi đã yên bề gia thất. Một sáng tác của E***h Piaf, La vie en rose, đã bất hủ với tiếng trumpet và giọng hát của Louis Armstrong, càng không thể nào quên cảnh Audrey Hepburn ngân nga giai điệu này khi ngồi cạnh Humprey Bogart trong phim Sabrina : ?oTôi lạc vào thế giới đầy hoa hồng nở rộ, khi nghe anh nói, thiên thần hát ca, mỗi lời anh nói biến thành bản tình ca?. Nhưng cuộc sống chẳng phải lúc nào cũng màu hồng. Buổi sáng sau một đêm ?o quắc cần câu?, ngồi thẫn thờ bên cây dương cầm, Bon Jovi viết ra Bed of roses và thảm hoa hồng này có lẽ lại nhiều gai hơn hoa. Những day dứt đâu là tình yêu thật sự ( I''ll just close my eyes and whisper ?obaby blind love is true?) không chỉ thể hiện trong lời mà cả ở nhạc, ở câu solo của Richie Sambora.
    ?oCó người nói rằng tình yêu là một dòng sông, dòng sông sẽ nhấn chìm những cây lau sậy yếu mềm, có kẻ cho rằng tình yêu là một lưỡi dao khiến tâm hồn bạn rướm máu. Tôi thì cho rằng tình yêu là một bông hoa mà bạn cần gieo hạt, vun trồng cho nó. (Some say love, it is a river that drowns the tender reed. Some say love, it is a razor that leaves your soul to bleed? I say love, it is a flower, and You, its only seed ). The rose của Amanda McBroom vực dậy những nạn nhân trong vực thẳm tình yêu với những lạc quan và tin tưởng. ?o Khi bạn trở nên quá cô đơn trong bóng đêm và con đường trước mắt dường như quá dài; khi bạn nghĩ rằng tình yêu chỉ dành cho những ai may mắn và mạnh mẽ; hãy nhớ rằng trong mùa đông, sâu bên dưới lớp tuyết lạnh lẽo, ấp ủ một hạt giống, và với tình yêu ấm áp của ánh nắng mặt trời, đến mùa xuân, hạt giống đó sẽ nở thành cánh hoa hồng? (When the night has been too lonely, and the road has been too long, when you think that love is only for the lucky and for the strong, just remember in the winter far beneath the bitter snows lies the seed, that with the sun''s love, in the spring becomes the Rose.)
    Bên cạnh vẻ rực rỡ, nồng thắm của hoa hồng, vẫn có những cách thể hiện giản đơn, mộc mạc. ?oTôi không có nhà cửa to lớn, cũng chẳng có mảnh đất cắm dùi nào. Thậm chỉ tờ đô la nhàu nát trong tay cũng không có. Nhưng tôi có thể cho em thấy nắng sáng tràn về trên ngàn ngọn đồi, tôi có thể hôn em và tặng em bảy bông hoa thuỷ tiên?. Nếu như ở VN, hoa đào, hoa mai báo hiệu ngày tết, cánh én báo hiệu mùa xuân thì ở Anh, mùa xuân đến cùng hoa thủy tiên và Brother Four đã hát về những cành thủy tiên màu vàng chân chất đó trong Seven daffoldils. Bài hát mở ra những ý lãng mạn ?o tôi chẳng có nhiều tiền để mua cho em những vật dụng đẹp xinh. Tôi chỉ có thể dùng ánh trăng để dệt, để đan thành chuỗi hạt, thành nhẫn cho em. Bảy bông hoa thuỷ tiên màu vàng, lấp lánh trong ánh nắng. Khi ngày trôi qua, chúng cũng sẽ chiếu sáng con đường vào buổi tối, và khi đó tôi sẽ mang đến cho em âm nhạc, mang đến cho em mẩu bánh mì và chiếc gối làm từ những cành thông.?
    Ngoài những cánh hoa cho ngày Valentine, lời tỏ tình buổi tối đó sẽ trọn vẹn hơn với một bản tình ca. Còn gì thích hợp bằng ?otôi mong em hiểu rằng cứ mỗi lần tôi định ngỏ lời với em thì lại không được vì ngôn từ cứ lộn xộn, tôi cứ lắp ba lắp bắp, chẳng nhớ được những gì mình muốn nói. Vì vậy, tôi phải nói tôi yêu em trong một bản nhạc.? Nét nhạc, giọng hát và tiếng đàn thùng rất chân tình của Jim Croce trong I have to say I love you in a song sẽ mang đến cho bạn không ít thuận lợi khi ngỏ lời với nàng.
  3. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Khúc ca mùa thu bất tử
    ___Mùa thu gắn liền với những chiếc lá vàng và hàng liễu rũ trong thơ XUÂN DIỆU ''''rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang _Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng''''Nhớ lại một bài hát ''''Try to remember when life was so tender that no one wept except the willow ''''Try to remember_Brothers Four''''.Và nhạc jazz cũng có một bản thật kinh điển về cành liễu .Willow weep for me.Có quá nhiều người hát ,dù cho đó là Nina Simone hay Laura Fygi thì những cành liễu rũ ấy đều như đang than khóc cho một người đã ra đi ,cho một giậc mộng đẹp đẽ mùa hè đã không còn ''''cành liễu cứ rền rĩ ,xào xạc trong đêm để che bầu trời lấp lánh sao kia ,để chẳng ai thấy rằng tôi thở dài và than khóc một mình''''
    2____Bìa đĩa thật ấn tượng với phần nền màu vàng úa của lá mùa thu ,phía trước chõng chơ một chiếc giường nệm trắng ,lác đác vài chiếc lá khô.Cả tên nhóm lẫn tên album đều nghe thật hay;nhóm Lake of Tears (Lot) và album Forever autumn(1999).Đĩa nhạc mở đầu với tiếng cello thật da diết và man mác (thậm chí nhắc nhở đến một bản nhạc Việt thời xưa )nhưng So fell autumn rain lại chẳng phải bản nhạc buồn bỡi cơn mưa vào thời điểm chạng vạng một tối mùa thu trong ca khúc này đã gột rữa những nỗi đau niềm nhớ ,khiến ta cảm thấy cuộc sống tươi sáng hơn ,dễ thở hơn so với dưới ánh nắng mặt trời gay gắt làm người ta dễ lạc lối.
    Có những khoảnh khắc buồn đau hay hạnh phúc nhưng rồi sẽ qua đi bỡi vì cuộc sống chẳng bao giờ đứng lại (So fell autumn rain ,but all things must pass )Câu kết cho thấy tiếp tục một sự biến chuyển đột ngột nhưng chẳng bất ngờ .Với hoàng hôn sau lưng ,tôi nhận thấy rằng những giấc mơ sẻ tồn tại nơi đây và rồi mùa đông lại phủ xuống ...(With the sunset behind some how i find the dreams are to stay .So fell winter ...)Được thành lập tại THỦY ĐIỂN năm 1992 ,thời hoàng kim của grunge,LOT đã có ba album trước Forever autumn cũng như luu diển Châu âu với các nhóm nổi danh nhưTiamat ,Crematory ,Savatage ,Rage,nhưng đến Forever autumn,họ thật sự đạt đuợc đỉnh cao và đánh sự chuyển biến quan trọng của nhóm
    LOT góp nhặt cảm hứng không chỉ từ các nhóm doom hay gothic metal mà album này còn cho thấy sự ảnh hưởng của nhạc folk,một dòng nhạc tưởng chừng như trái ngược với metal .Xưa kia là Led Zeppelin ,gần đây là Blackmore''s Night rồi đến Lake of Tears (khá nhiều nhóm nhạc metal khác ở Châu âu cũng đậm chất folk )chất dân dã mộc mạc của nhạc folk đã chinh phục không ít những trái tim sắt của dòng metal .Bản nhạc thứ 3 cùng tên với album nhắc nhở rất rõ đến Wish you were here của Fink Floyd ;cũng bắt đầu bằng từ ''''SO'''',cũng tiếng đàn thùng chậm rãi ,giọng hát len lõi giữa các nốt nhạc như đi giữa những chiếc lá vàng rơi ''''thế rồi mùa thu đã bắt đầu ,khuất dưới góc đường là quán trọ ngái ngủ ,heo hắt một ánh lửakhi mặ trời vừa lặn..''''Xuyên súốt album bàng bạc không khí mùa thu bằng một giai điuệ trên cello mãi đến bản nhạc cuối To lbossom blue lại xuất hiện một câu solo guiar thật lẻ loi,khác lạ .Những u buồn cô độc trong suốt album duờng như dồn nén xuống bản nhạc cuối này .Nghe những bản như Otherwheres ,Thehom-ing,khó mà ngờ được các thành viên của LOT xuất thân từ dòng death metal(cũng như Lee Dorian của Napalm Death đã thay đổi hoàn toàn khi lập nhóm Cathdral) những biến chuyển đó đôi khi cũng là điều tất yếu.
    3___Nhóm nhạc có tên đầy chất u tịch Moody Blues ,là nhóm đầu tiên kết hợp rock và nhạc giao hửong trong album 1967 của họ,Days of future passed (nổi danh với Nights in white satin ).Thực chất Moody Blues đã khởi đầu trên một nền tảng R&B cổ xưa hơn là mot nhóm art rock với cấu trúc âm thanh nhiều từng lớp .Thành viên khiến nhóm thay đổi hướng đi chính là Justin Hayward và sự nghiệp solo của anh cũng sản sinh ra một bản Forever autumn dìu dặt ,sống động hơn nhưng cũng buồn bã hơn bởi ''''như tia nắng xuyên qua kẽ lá ,em đến với tôi .Và rồi như chiếc lá em lìa xa tôi ,.Ánh dương mùa hạ nhạt dần ,những ngày tăm tối đến gần ,gió mùa đông càng lạnh lẽo hơn.Em luôn thích mùa thu ,chiec áo choàng vàng của mùa thu thường bị chúng ta nghịch ngợm hất tung lên ,giờ đây lá úa đã nàm9 yên trên đất .Một cơn mưa rơi nhẹ trên đôi mắt mỏi mệt ,nhu thể che dấu giọt nước mắt cô đơn,cuộc sống của tôi sẽ mãi là mùa thu bởi em chẳng còn nơi đây''''Chẳng thể chấp nhận những biến chuyển thay đổi của thời gian ,liệu mong ước cố níu kéo mùa thu ,sống mãi với mùa thu có thực hiện được.
  4. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Âm nhạc và thể thao
    Ngoài ngõ?
    Trên thế giới có rất nhiều ca khúc dành cho thể thao, gần như mỗi lần đi thi đấu, các đội bóng đều có bản nhạc riêng của mình. Ví dụ như You?Tll never walk alone rất quen thuộc của đội Liverpool, Hot stuff của Donna Summer dành cho Arsenal mùa bóng 98? Năm 2000, khi tham gia Euro, ca khúc Jerusalem, phổ từ thơ của William Blake được chọn là làm ca khúc chính thức của đội tuyển Anh. Nhóm Fat Les (có sự tham gia của tay bass nhóm Blur là Alex James), từng khá thành công với ca khúc Vindaloo tại World Cup 98, được giao nhiệm vụ ghi âm bài này cùng với dàn nhạc giao hưởng 60 người, sau đó, Jerusalem sẽ được nhóm Pet Shop Boys hoà âm lại.
    Năm 1966, ca khúc chính thức của World Cup bắt đầu gây được sự chú ý của công chúng, đó là bản World Cup Willie bài hát về con sư tử, linh vật của kỳ World Cup này. Từ đó trở đi, cùng với linh vật thì chương trình âm nhạc chính thức của World Cup khá quan trọng và phức tạp. Chương trình có nhiều yếu tố hơn là chỉ công bố bài hát chính thức: ca khúc chính thức (official song), bài ca ngợi chính thức (official anthem), album quốc tế chính thức... Ở World Cup 2002 tại Nhật Bản và Hàn Quốc, ca khúc chính thức là Boom được hát bởi Anastacia còn anthem chính được soạn bởi nghệ sĩ Hy Lạp Vangelis chứa đựng những yếu tố âm nhạc truyền thống của cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Bên cạnh album quốc tế chính thức mang tên Fever Pitch với sự góp mặt của các nghệ sĩ từ 32 quốc gia tham dự như Jennifer Lopez (Mỹ), G.O.D (Hàn Quốc), Mondo Grosso (Nhật), Lara Fabian (Bỉ), a1 (Anh quốc), Nelly Furtado (Bồ Đào Nha), Die Toten Hosen (Đức), OV7 (Mexico), Monica Naranjo (Tây Ban Nha) và Bongo Maffin (Nam Phi); còn có 1 album khác cũng được gắn nhãn ?oOfficial? giới thiệu những nghệ sĩ từ 2 nước chủ nhà, rồi lại có ?oca khúc địa phương chính thức? (Local Official Song), bản Let''s get together now với sự tham gia của 4 ban nhạc Brown Eyes và Lena Park của Hàn quốc cùng với CHEMISTRY và Sowelu của Nhật. Trước World Cup này, cựu huấn luyện viên đội tuyển Anh là Terry Venables cũng ghi âm bản England Crazy mang tính cổ động.
    Không phải ca khúc chính thức nào cũng được hát và biết đến nhiều ở Việt Nam. Năm 1990, ca khúc chính thức Un''estate italiana hát bởi Edoardo Bennato và Gianna Nannini khá quen thuộc với tựa tiếng Anh To be number one (hay còn có tên Summer 1990, sáng tác của Georgio Moroder). Ca khúc chính thức của World Cup 1994 tại Mỹ là Gloryland trình bày bởi Daryl Hall cùng nhóm da đen Sounds of Blackness gần như không mấy người nghe qua. Anthem của France 1998, Do you mind if I play với Youssou N?TDour và Axelle Red lại không quen thuộc bằng ca khúc chính thức La copa de la vida được Ricky Martin hát.
    Thật sự, có những ca khúc không chính thức nhưng vẫn được hát và nhắc nhở nhiều như We are the champion của Queen (thường nghe tại chung kết cúp C1), Go west của Village People (dựa trên 1 giai điệu thường được cổ động viên tại giải vô địch Anh hát vang, bài này còn có tên là Stand up), Ole Ole Ole (Name of the game)? Bên cạnh đó những ca khúc tuy không được cổ động viên hát ở sân vận động nhưng rất ý nghĩa như One moment in time của Whitney Houston, I will survive của Gloria Gaynor, The best của Tina Turner?
    Trong nhà?
    Trước đây, không khí bóng đá thế giới ở Việt Nam được gắn với bản hòa tấu Alla figaro của Paul Mauriat một cách rất bất ngờ: đây là bản nhạc được đài truyền hình chọn phát khi chờ đợi bắt tín hiệu từ vệ tinh, thế là những háo hức đợi chờ sẽ được giải tỏa với Alla figaro, những đêm không ngủ xem trực tiếp cũng bắt đầu bằng Alla figaro. Kế đó là Rasputin của Boney M cũng có vị trí tương tự.
    Về hàng nội, trước đây, nhạc sĩ Hùng Lân đã từng có Khỏe vì nước thường được tấu lại trong các Hội khỏe Phù đổng. Về sau, mặc dù đã có một cuộc thi các bài hát viết về bóng đá, cho đến nay, các bản nhạc còn sống được trên khán đài ?orực lửa? hoàn toàn không có một ca khúc nào thuộc cuộc thi này. ?oNhư có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng?, ?oViệt Nam Hồ Chí Minh? thường được khán giả hát vang, bên cạnh đó, không khí ở các sân vận động lớn thích hợp với các bản hành khúc Lên đàng, Nối vòng tay lớn, đôi khi nghe cả tiếng kèn tấu lên Tiến về Sài gòn. Ở bóng đá nữ dịu dàng hơn, tấu lên nhạc thiếu nhi ?oTe tò te đây là ban kèn hơi?? hoặc ?oGà nào gà không gáy là con gà con?(!). Vui vẻ hơn là ?oVì sao tôi mê đá banh, sút dzô, sút dzô?? vẫn được nhớ hơn các ca khúc cổ động trong cuộc thi trước kia. Các bản nhạc ngoại được xướng lên tại các trận bóng đá (cả giải vô địch quốc gia lẫn SEA Games vừa rồi) đôi lúc chẳng ăn nhập gì với thể thao mà chỉ vì quen thuộc, sôi động và nhất là dễ nhớ, ngoài The cup of life, thường nghe được Alibaba, Bambino, rồi Speedy gonzales!
    Bài hát chính thức của SEA Games ít nhiều thành công bởi sự quảng bá rộng rãi, mật độ xuất hiện dày đặc trên truyền hình và phát thanh, từ đó len lõi vào cả các phòng karaoke và trí nhớ của người yêu thể thao. Dường như vẫn chưa có một bài hát nào có được sự quan tâm tương tự dành riêng cho bóng đá, để các cổ động viên hát vang trên khán đài, cổ động, sốc dậy tinh thần không chỉ các cầu thủ trên sân bóng mà ngay cả trong cổ động viên như khi không ít người nản lòng quay sang cổ động cho Lào khi gặp Việt Nam trận cuối ở vòng loại. Bên cạnh Quốc ca với những giây phút thiêng liêng, xúc động, vẫn còn cần những bài hát như thế ?
  5. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0

    Được tienghatngoclan sửa chữa / chuyển vào 13:55 ngày 20/08/2004
  6. ninaepic

    ninaepic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/04/2004
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Thật hay. Nhưng hơi đi sâu vào lối tả cảnh "hữu tình". Hay là tôi không thích vẽ hoa lá cành nhỉ. tôi thích lối Vẽ đi vào tâm can con người.hihi..
  7. vth_

    vth_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2004
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn bạn tienghatngoclan nhé! mình biết anh Trí Quyền đã lâu qua bạn bè kể, nhưng hôm nay mới được đọc bài viết của anh. Nghe nói anh có nhiều đãi nhạc nước ngoài (đặc biệt là rock) nhất SG. Không biết có phải ko!
  8. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Keith Jarrettõ?"The Kảln Concert: suỏằ'i nguỏằ"n xúc cỏÊm

    Sỏẵ không thỏằf bỏằc khi ngỏằ"i xuỏằ'ng ghỏ bên cÂy dặặĂng cỏ**, Keith vỏôn hoàn toàn chặa 'ỏằng õ?ohĂt theo tiỏng dặặĂng cỏ**õ?(!), mỏằTt 'ỏãc trặng khĂc cỏằĐa Keith Jarrett. Lỏng nghe thỏưt kâ thỏằ?nh thoỏÊng còn nghe 'ặỏằÊc tiỏng nhỏằi mỏằTt phút õ?Ư
    Buỏằ.i diỏằ.n tỏĂi Koln ngày 24/1/1975 trỏằY thành lỏằi nhỏằng album jazz kinh 'iỏằfn nhặ Bitch brews, A love supreme õ?Ư
    Trư Quyỏằn
    Al. :Bitches Brew - Miles Davis - 1969
  9. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Jane Birkin
    Nhân dịp Jane Birkin đến Việt Nam: Nghe lại giọng hát gợi cảm Jane Birkin
    Sinh trưởng tại London, năm 19 tuổi kết hôn với nhà soạn nhạc tài danh John Barry (nổi danh với nhạc phim James Bond nhưng lại đoạt 5 giải Oscar không liên quan đến bất cứ phim 007 nào) nhưng sự nghiệp của Jane Birkin thật sự chắp cánh khi quyết định chuyển đến Pháp năm 1967.
    Một tình yêu sét đánh khi Jane gặp Serge Gainsbourg, đóng chung bộ phim Slogan. Cả hai song ca bản Je t''aimẹ.. moi non plus (lúc đầu dự định viết cho Brigitte Bardo), giọng hát thều thào, mong manh của Jane khi hát "Je t''aimẹ.. oh mon amour" và nhất là những âm thanh đầy gợi cảm, những hơi thở gấp khó nói khiến bản nhạc này nổi đình đám, thành công ở nhiều nước mặc dù bị không ít đài phát thanh từ chối phát. Serge tìm được nàng thơ của mình, ông bắt đầu sáng tác riêng cho Jane và họ trở thành cặp nghệ sĩ nổi tiếng nhất nhì Paris thời đó. Họ sánh vai nhau 12 năm và đây chính là thời hoàng kim trong sự nghiệp ca hát của Jane. Serge thích sử dụng lối chơi chữ như Yesterday yes a day (có thể dễ dàng nghe bài này trong đĩa European soft music, track 2), Baby alone in Babylone hoặc Con c''est con ces conséquences (một bài hát mở đầu bằng cây guitar đầy chất rock Mỹ). Ex-fan des sixties với phần nhạc "rất Pháp" còn phần lời lại toàn nghệ sĩ Anh - Mỹ từ Shadows (cũng chơi chữ khi hát Où est l''ombre des Shadows), Byrds, Doors, Animals, Moody Blues, tên 4 thành viên của Beatles cho đến các tên tuổi quá cố như Brian Jones, Jim Morrison, Eđy Cochran, Buđy Holly, Jimi Hendrix, Otis Ređing, Janis Joplin, T-Rex, Elvis Presley. Nếu chịu khó hơn sẽ tìm được album The best of Jane Birkin mới phát hành năm 1999 và càng thấy rõ ảnh hưởng của Serge đối với sự nghiệp của Jane, ông sáng tác gần như tất cả các ca khúc trong đĩa tuyển chọn này ngoại trừ bản nhạc jazz kinh điển These foolish things, Avec le temps của Leo Ferre và Les yeux fermes (mới song ca cùng Brett Anderson của nhóm Suede năm 1995). Hai tháng sau khi Serge Gainsbourg qua đời năm 1991, Jane diễn ở Le Casino de Paris và dâng tặng buổi diễn đó cho ông, tiếp đó, tháng 9.1994, tại Nhà hát Savoy ở London, trong một buổi diễn từ thiện, Jane cũng tưởng nhớ đến Serge, mong muốn tên tuổi của Serge được ghi nhận nhiều hơn. Cuối cùng, album Version Jane năm 1996 là sự bày tỏ tôn kính của Jane đối với Serge, góp nhặt những bài hát của ông như La gadoue, Ford mustang... và cả những bản viết cho Francois Hardy (L'' anamour, Comment te dire adieu) hay Julien Clerc (Elisa).
    Yesterday Yes A Day
    Yesterday-Yes a day like any day,
    Alone again for every day seemed the same sad way
    To pass the day
    The sun went down without me
    Suđenly someone else has touched my shadow
    He said "Hello"
    He tried to say
    What did you do without me?
    Why are you crying alone on your shadow?
    He said "I know"
    To pass the day
    The sun went down without you
    Folding me in his arms because his shadow
    He said "Let''s go"
    To pass the day
    Living my life without him
    Don''t let him go away hés found my shadow
    Don''t let him go
    Yesterday - Yes a day
    But today
    No I don''t care if others say
    It''s the same sad way to pass the day
    Cos they all live without it
    Without making love in the shadows
    Today, I know
    Nét gợi cảm, quyến rũ rất rõ trong giọng hát của Jane. Fuir le bonheur de peur qúil ne se sauve sẽ là một bản nhạc vương vấn nhiều nếu đã có dịp nghe qua bởi giai điệu và hòa âm rất đẹp. Nghe Jane song ca These foolish things với Jimmy Rowles không chập chùng, lắc lư bằng version của Bryan Ferry nhưng điểm thú vị là sự đối lập giữa giọng hát mỏng và cao của Jane với giọng trầm, khàn của Jimmy, bài hát này nhắc đến một câu nói nổi danh của Cesar "Veni, vidi, vici" (ta đã đến, ta đã thấy, ta đã chinh phục) được sửa lại thành You came, you saw, you conquer''d me. Baby alone in Babylone ngoài cái tựa tiếng Anh, còn lại tất cả hát bằng tiếng Pháp, nhắc nhở đến các hiệu xe hơi của nước... Mỹ như Pontiac, Cadillac, Bentley, Roll Royce, Buick, các địa danh ở Los Angeles như Sunset Boulevard, Malibụ Đề tài xe hơi (cũng như nhiều biểu tượng của thập niên 60) còn được nhắc đến với Ford mustang. Bản nhạc bất hủ Avec le temps có thể Jane hát không thuyết phục bằng Dalida nhưng vẫn có nét rất riêng. Để tìm thấy những gì sôi nổi hơn, nghe thử những âm thanh phá cách trong Baby Lou, để gật gù, lắc lư, hãy bật La gadoue (với phần bè của nhóm Les Négresses Vertes) hay Di doo dah...
    Jane Birkin sẽ biểu diễn tại Nhà hát TPHCM vào tối 10/2 và tại Nhà hát Tuổi Trẻ (Hà Nội) vào tối 12/2/2004.

  10. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Duran Duran và dòng nhạc tân lãng mạn

    25 năm sau ngày thành lập với hơn 70 triệu đĩa bán ra, nhóm Duran Duran (Đ) đã được trao giải thưởng danh dự ?oĐóng góp ngoại hạng? tại Giải thưởng âm nhạc Anh quốc ( Brit Award) vào tháng 2 tới đây. Những tên tuổi từng được trao giải này toàn là ?othứ dữ? như Tom Jones, Sting, U2, David Bowie, Bee Gees, Rod Stewart, Elton John, the Whọ..
    Việc tôn vinh này diễn ra cùng lúc với sự tái hợp thành công của Đ, một tour diễn đầu tiên với các thành viên nguyên thủy sau 18 năm, một album mới chuẩn bị phát hành. Khá trùng hợp, trên thị trường cũng vừa có DVD Greatest của Đ, tập hợp tất cả clip nhạc đánh dấu các cột mốc trong sự nghiệp của nhóm, từ album đầu tay mang tên nhóm năm 81 cho đến Medazzaland năm 97.
    Đội ngũ gồm ca sĩ Simon LeBon, keyboard Nick Rhodes và 3 người mang họ Taylor: Andy( guitar), John ( bass) and Roger ( trống, chỉ trùng tên chứ không phải tay trống của nhóm Queen) không phải là thành phần nhóm đầu tiên nhưng vẫn được coi là những thành viên nguyên thủy bởi đội hình khá vững chắc này đã ghi âm album đầu với các bản như Planet earth, Girls on film. Tên nhóm được lấy từ một nhân vật trong bộ phim giả tưởng Barbarella, Đ nhanh chóng trở thành ?ongọn cờ đầu? của trào lưu New romantic (tân lãng mạn) bên cạnh Spandau Ballet, Human League (cũng đang có 1 DVD của nhóm này).
    Cuối thập niên 70 đang là thời điểm trộn lẫn của những dòng nhạc tương đối chỏi nhau, 2 dòng nhạc mang tính hiện tượng thời đó là disco và punk. Một nhánh nhạc mới nổi lên như là cứu cánh của nhạc rock, vốn đang bị đứa con lạc loài là ?opunk? gây nhiều tiếng xấu, đó là dòng new wave, một làn sóng mới hậu nhạc punk với hình ảnh, vẻ ngoài hiền lành ngoan ngoãn hơn, không quá nghiêng về nổi loạn bất cần, đi ngược lại các tiêu chuẩn truyền thống như nhạc punk. Ngược lại, new wave cũng là lời kêu gọi quay lại cội rễ nhạc rock, tinh thần đích thực của nhạc rock trong khi nhạc disco và các loại rock thoả hiệp khác đang thống trị âm nhạc.
    Tuy nhiên, new wave trong quan điểm của các nhà phê bình âm nhạc trên thế giới và trong suy nghĩ của người nghe nhạc ở VN có hơi khác. Đầu thập niên 80, những gì tiếp nối dòng nhạc punk đều được gọi là new wave, thế rồi sau đó, người ta thấy rằng như thế vẫn không được chính xác, nhạc punk ở thập niên 80 đã có 2 nhánh rẻ, new wave và post punk. Post punk vẫn mang đậm chất nhạc punk, khó nghe và mang tính thách thức, new wave nghiêng về phía nhạc pop dễ nghe với đa số công chúng. New wave ra đời cùng với MTV nên cả hai có đời sống cộng sinh trong thời gian đầụ Để mọi chuyện phức tạp hơn, new wave được chia thành nhiều nhánh nhỏ, trong đó có power pop, synth pop, sophisti-pop, và sự hồi sinh của một số dòng nhạc với ska-revival, rockabilly revival, sau này lại có alternative pop/rock ở đầu thập niên 90.
    Thêm vào đó là nhiều sự trộn lẫn khác như synth rock của Gary Numan, pop-reggae của Police. Dòng nhạc post punk cũng rất dễ lẫn lộn với new wave, đặc biệt là goth rock của Joy Division, Bauhaus. New romantic là một nhánh của dòng new wave và được xem như nhánh rẻ kiểu cách nhất, quen thuộc nhất. Điểm dễ nhận ra nhất của new romantic là tiếng đàn điện tử synthesizer thế nhưng bên cạnh âm nhạc, làm nên new romantic còn có phục trang, vẻ ngoài, các nhóm new romantic ăn mặc rất hợp thời trang và kiểu cách với các gam màu xám, bạc; đầu tóc, mặt mũi đều được trang điểm cẩn thận.
    Video clip giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp của Đ và đây cũng là nhóm nhạc tận dụng được tối đa công dụng quảng bá tên tuổi qua hình ảnh của kênh MTV. Cho đến năm 82, nhóm rất nổi danh ở châu Âu nhưng vẫn chưa được biết đến tại Mỹ và chính nhờ MTV chiếu đi chiếu lại các clip nhạc của nhóm đã đẩy Đ thành một hiện tượng với nhiều album và đĩa đơn rất thành công cả tại Mỹ và Anh. Sớm nở tối tàn, cơn sốt Đ nhanh chóng hạ nhiệt vào năm 85 và Đ lùi dần vào quên lãng mặc dù thỉnh thoảng vẫn có vài bài hit như Ordinary world và Come undone (trích từ Weđing album năm 93). Các thành viên của nhóm theo đuổi nhiều dự án khác nhau. Album gần đây nhất của nhóm là Pop Trash năm 2000.

Chia sẻ trang này