1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các bài viết về chủ quyền biển đảo

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi macay3, 02/07/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Trung Quốc đẩy mạnh chính sách "Đường chín đoạn" ở biển Đông

    [​IMG]

    Một học giả gốc Hoa đánh giá rằng Trung Quốc biết rõ ‘đường chín đoạn’ thiếu nhiều căn cứ pháp lý nhưng vẫn duy trì nói như một ‘chiến lược mờ ảo’ và quyết tâm dùng vũ lực để khẳng định chủ quyền ở vùng biển Đông Nam Á.

    Trong bài viết gần đây đăng trên Asia Pacific Bulletin của EastWestCenter.orgn, bà Tôn Vân (Yun Sun), một học giả tại Viện Stimson cho rằng Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh lập luận về ‘đường chín đoạn’ ở Biển Nam Trung Hoa.

    Đây là sự thay đổi rõ rệt với chính sách ngoại giao của Bắc Kinh vài năm về trước, khi mà Trung Quốc còn thảo luận về tính hợp pháp của ‘đường chín đoạn’.

    Nay, Trung Quốc đặt mọi sức nặng đằng sau ‘đường chín đoạn’ rất gây tranh cãi này, theo tác giả.

    “Trung Quốc hiểu rất rõ sự trái ngược của đường chín đoạn với Công ước Luật biển UNCLOS và vì thế bỏ sức đầu tư vào việc tìm tính hợp pháp cho ‘quyền lịch sử’ của lập luận họ nêu ra,”

    "Trung Quốc hiểu rất rõ sự trái ngược của đường chín đoạn với Công ước Luật biển UNCLOS và vì thế bỏ sức đầu tư vào việc tìm tính hợp pháp cho ‘quyền lịch sử’ "

    Thậm chí, theo tác giả, một số trường phái tại Trung Quốc hiện còn muốn nói rằng UNCLOS có sau khi Trung Quốc nêu ra chủ quyền nên không phải là căn cứ cho việc diễn giải chủ quyền ở Biển Đông.

    “Trung Quốc cũng cẩn thận khi nêu chi tiết điều gì họ muốn coi là chủ quyền trong khu vực đường chín đoạn. Lý do là để ở đó một sự mờ ảo chiến lược nhằm có chỗ cho các cuộc thương thảo tương lai.”

    “Đa số các nhà nghiên cứu Trung Quốc nay thiên về hướng coi vùng nước bên trong đường chín đoạn là Vùng Kinh tế Đặc quyền của mình dù chính chính phủ Trung Quốc chưa công khai nói ra điều này.”

    Bà Tôn Vân cũng nói:

    “Trong giới hoạch định chính sách của Trung Quốc có nhiều người hiểu rất rõ những điểm yếu của lập luận pháp lý này.”

    Tuy thế, họ tin rằng “có lập luận yếu còn hơn là không có gì”.

    Và Trung Quốc tin rằng quan điểm như thế “được quyền lực quốc gia mạnh mẽ ủng hộ và mong muốn sử dụng nó”.

    Tựu trung lại, bài viết cho rằng Trung Quốc tin là “tổn thất về uy tín” khi dùng vũ lực để khẳng định chủ quyền ‘đường chín đoạn’ sẽ là thứ giải quyết được vì Trung Quốc có sức mạnh kinh tế với cả vùng Đông Nam Á.

    (tin BBC)
    Lần cập nhật cuối: 02/07/2014
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Xét lại bằng chứng “chủ quyền lịch sử” của trung Quốc ở Biển Đông

    BIỂN NAM HẢI VÀ CÁC BÃI SAN HÔ NGẦM DƯỚI CÁC TRIỀU ĐẠI NHÀ MINH VÀ NHÀ THANH:
    CÁC TRÌNH ĐỘ HIỂU BIẾT ĐỊA DƯ VÀ SỰ KIỂM SOÁT CHÍNH TRỊ[​IMG]


    Ulises Granados
    University of Tokyo, Japan
    Ngô Bắc dịch

    Lời Người Dịch

    Dưới đây là bản dịch một bài viết hiếm hoi và quan trọng bằng Anh ngữ của một tác giả ngoại quốc khảo sát vấn đề chủ quyền các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua việc nghiên cứu chính các tác phẩm bằng chữ Hán mà phía Trung Quốc vẫn hay dẫn chứng làm bằng cớ lịch sử của họ.

    Tác giả, Giáo Sư người Mexico, Ulises Granados, thuộc University of Tokyo, Nhật Bản khi viết bài nghiên cứu này, đã đưa ra các nhận định quan trọng như sau:

    … Trong thực tế, phán đoán theo các nguồn tài liệu nhà Minh tiêu biểu này, xem ra rất khó để tin rằng các nhà cầm quyền Trung Hoa đã sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc gì cả.

    … [C]ác hòn đảo và các bãi san hô của khu vực này còn lâu mới thuộc vào sự kiểm soát chính thức của Trung Hoa….

    … Trong trọn thời nhà Minh đến cuối nhà Thanh, các tài liệu về các hoạt động được quy định bởi chính quyền tại các quần đảo đã vắng bóng trong các nguồn tài liệu Trung Hoa, tượng trưng cho một sự im lặng tương ứng trong sử ký Trung Hoa…

    … Trong thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng được đánh dấu trên vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này không hoàn toàn đồng nhất, nhóm Paracels vẫn còn được xác định là Vạn Lý Trường Sa trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm Spratlys được gọi hoặc là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch Đường. Tuy nhiên, điều rõ ràng khi khảo sát nhiều bản đồ cho thấy rằng địa điểm đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng các sự mô tả các hòn đảo và san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên. Thí dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai nhóm Paracels và Spratlys đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung Hoa. Tuy nhiên, bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, Dương Hoàn Chí LượcHải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo song song với đất liền….

    …[C]ác tài liệu địa dư Trung Hoa từ thời nhà Minh và nhà Thanh, và các bản đồ Âu Châu (đặc biệt được lập bởi các thủy thủ Bồ Đào Nha và Anh Quốc), 71 cho thấy Quần Đảo Paracels, Pratas, Macclesfield Bank và Spratlys chỉ là các dấu chấm hay các nét vạch. Như đã ghi nhận ở trên, dường như đã có sự thiếu sót kiến thức chi tiết về địa dư của các hòn đảo và bãi đá ngầm này, bởi chúng bị xem chỉ có tầm quan trọng thấp kém…

    … Tác giả này tin tưởng rằng để khởi sự gỡ rối cuộc xung đột các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa, giờ đây liên hệ đến Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei, cũng như Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam, cuộc thảo luận phải được đóng khung vào các diễn biến xảy ra từ cuối thế kỷ thứ mười chín hay đầu thế kỷ thứ hai mươi. Việc khảo sát các biến cố xa hơn vào quá khứ có tiềm năng bước vào lãnh vực huyền thoại – đặc biệt bởi các nguồn tài liệu Trung Hoa được đặc trưng bởi vô số lỗ hổng và sự im lặng – nơi các sự tự thuật tinh vi có thể kết tinh thành các lịch sử quốc gia chính thức không khoan nhượng…

    …Chính vì thế, các chuyên gia luật quốc tế có một bổn phận phải khảo sát tài liệu lịch sử trong một cung cách cẩn thận, hầu mang lại các câu trả lời và các giải pháp khả dĩ chấp nhận được cho sự rắc rối lãnh thổ khó phân xử này.

    Tác giả có nhắc tới một cách vắn tắt sự đối chọi trực tiếp của Việt Nam đối với các luận điểm về bằng chứng lịch sử của Trung Quốc và Đài Loan trong cuộc tranh chấp chủ quyền các quần đảo ở Biển Đông. Nhìn chung, công luận thế giới và luật quốc tế dễ dàng nhìn thấy các điểm phi lý của phía Trung Quốc và Đài Loan một khi nội vụ được khởi kiện tại tòa án quốc tế liên hệ.

    Trên cùng đề tài này, độc giả có thể tìm đọc một công trình thâm cứu của cố Giáo Sư Lãng Hồ Nguyễn Khắc Kham, nhan đề Hoàng Sa và Trường Sa, Lãnh Thổ Việt Nam, được đăng tải trong tập san Sử Địa, số 29, Tháng 1-Tháng 3, 1975. /-

    Trong cuộc tranh giành chủ quyền bốn quần đảo Biển Đông [nguyên tác là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea)]” – chính yếu là Quần Đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) (Xidsha Qundao 西沙群島, Tây Sa Quần Đảo) và Quần Đảo Trường Sa (Spratly Islands) (Nansha Qundao 南沙群島 Nam Sa Quần Đảo ), nhưng cũng gồm Pratas Islands (Dongsha Qundao東沙群島 Đông Sa Quần Đảo) và Bãi Cát Macclesfield (Zhongsha Qundao 中沙群島 Trung Sa Quần Đảo) — Trung Quốc dựa nhiều vào các nguồn tài liệu lịch sử để tuyên nhận rằng các đảo này đều được biết đến và nằm dưới thẩm quyền đế quốc từ các thời đại cổ xưa. 1 Trước khi có cuộc thị sát hải quân đầu tiên được phái đến Quần Đảo Hoàng Sa thời Mãn Châu năm 1909, các nguồn tài liệu Trung Hoa bao gồm các sự mô tả địa dư và các hải trình, cũng như các bản đồ. 2 Một số trong các tài liệu tham khảo này là bẩy cuộc du hành nổi tiếng (1405-33) của Đô Đốc Trịnh Hòa 鄭和 dưới thời nhà Minh 明 (1368-1644), trong khi các tài liệu khác có niên kỳ thời nhà Tống 宋 (960-1279) và nhà Nguyên 元 (1277-1367) hay ngay cả trước đó.

    Các khái niệm pháp lý cổ điển về chủ quyền lãnh thổ, địa hạt tài phán và quyền chủ tể, phải được sử dụng với sự thận trọng khi phân tích các sự tuyên xác trên các Đảo thuộc Biển Nam Trung Hoa trong hai triều đại sau cùng. 3Một số khái niệm có ý nghĩa khi áp dụng cho các đơn vị lãnh thổ được cư trú bởi các thần dân nằm dưới một số loại thẩm quyền. Lãnh thổ như thế hoặc có thể được sở hữu và nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp – có nghĩa, quyền lực tối cao, chuyên độc của các định chế chính phủ hay các đại diện chính trị khác, hay là lãnh thổ của một chính thể riêng biệt thừa nhận một mối quan hệ của quyền chủ tể. Trong khuôn khổ các quan hệ triều cống với đế quốc Trung Hoa, một sự nhìn nhận quyền chủ tể được lựa chọn bởi một số chính thể nhằm hưởng thụ một sự chung sống hòa bình và các đặc ưu mậu dịch trong phạm vi trật tự thế giới Trung Hoa. 4

    Khi có các sự tuyên nhận mâu thuẫn trên các hòn đảo có người cư trú thường xuyên hay hoàn toàn bỏ hoang, các chuyên viên luật quốc tế thường dựa vào các học thuyết đã được thiết lập vững chắc – các nguyên tắc pháp lý quốc tế chi phối sự sở đắc chủ quyền – hầu xác định nước nào có các quyền hạn về bằng khoán trên một mảnh đất nào đó. 5 Luật quốc tế còn quy định cả khả tính của một lãnh thổ trên đó hiện không có (hay đã chưa từng có) chủ quyền tại một thời điểm cá biệt, qua việc sử dụng từ ngữ terra nullius: vùng đất không thuộc về nước nào[một thành ngữ bằng tiếng La Tinh trong luật La Mã, được dùng trong luật quốc tế hiện đại để chỉ vùng đất chưa hề thuộc chủ quyền của bất kỳ nước nào, hay trên đó bất kỳ chủ quyền nào trước đây chưa công khai hay mặc nhiên từ bỏ chủ quyền của mình. Chủ quyền trên phần đất vô chủ có thể được sở đắc xuyên qua sự chiếm ngụ, mặc dù trong một số trường hợp, làm như thế là vi phạm luật hay hiệp định quốc tế. Một trong sự giải thích xa hơn cho rằng vì là vùng đất vô chủ, kẻ nào đầu tiên khám phá ra nó được quyền sở đắc nó. Chú của người dịch] . Không cần nói, các sự phân tích pháp lý như thế (không phải là tiêu điểm của bài viết này) tùy thuộc vào sự nghiên cứu lịch sử về vụ án trong tay.

    Cuộc nghiên cứu này bao gồm chủ yếu thời kỳ từ sự thành lập nhà Minh cho đến các thập kỷ cuối cùng của nhà Thanh 请 (1644-1911). Như sẽ được trình bày dưới đây, trong khi một mức độ nào đó của thẩm quyền chính trị xem ra có hiện diện trên các vùng hàng hải của phần phía bắc của biển này kề cận với bờ biển (tức, biên cương hàng hải: maritime frontier: haijiang 海疆 hải cương hay “lãnh thổ duyên hải: littoral territory: yanhai jiangyu 沿海疆域duyên hải cương vực “), các nhà chức trách Trung Hoa đã không thực hiện bất kỳ hành vi nào để sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc. Trong thực tế, sự thảo luận vẫn tiếp tục trong các giới học thuật về việc liệu:

    1. sự ghi chép không thôi sự hiện diện của các hòn đảo trong các nguồn tài liệu thành văn (được mô tả như các “điểm: dots” trong một vài bản đồ), có nghĩa là thẩm quyền chủ tể, hay quyền lực chuyên độc trên các vùng đất này, và

    2. sự hiện diện của các ngư phủ Trung Hoa sinh sống trên các hòn đảo hay khai thác biển quanh chúng là đủ để viện dẫn các quyền hạn hay không.

    Nhiều tác giả Trung Hoa bàn luận về khía cạnh này của sự tuyên nhận đã khẳng định nhiều lần quan điểm này, một cách mặc nhiên hay công khai. 6

    Các lập luận của Trung Hoa về sự xung đột Biển Nam Hải thì nhất quán trong việc khẳng quyết rằng kiến thứcvề biển – các tuyến đường mậu dịch và các hòn đảo của nó – được mô tả trong các tài liệu thành văn hẳn phải chuyên chở hiệu lực của các sự tuyên nhận hợp pháp, bất kể các tài liệu chính thức, các bản đồ tư nhân, hay các bản đồ hải hành của các tuyến đường lái thuye6`n tư nhân đã trình bày về khu vực ra sao. Tức, việc xác định không thôi sự hiện diện của các tên gọi cổ xưa của các hòn đảo trong các nguồn tài liệu là đủ để chứng minh rằng các vùng đất xa xôi đó đã được cai trị bởi nhà Minh và nhà Thanh. Tuy nhiên, sự phân tích một số tài liệu tiêu biểu từ nhà Minh cho đến Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất (1839-42) phát hiện các trình độ khác nhau của kiến thức về các biển và các đảo này. Hơn nữa, một số tài liệu nhà Thanh đã lập lại, gần như từng chữ một, các tên gọi thời nhà Minh trước kia và các sự mô tả về các vùng nguy hiểm và xa xôi này vốn bị xem là không an toàn cho sự hải hành.

    Vì thế, để trả lời nhiều lập luận cốt lõi lịch sử của Trung Hoa, điều quan trọng cần phơi bày lý do tại sao không có sự hiện diện chính thức của Trung Hoa tại các hòn đảo được lập chứng (documented) trước cuối thời nhà Thanh. Lập luận trọng tâm của cuộc nghiên cứu này rằng “việc hiểu biết về” Các Hòn Đảo Biển Nam Hải, không đồng nghĩa với việc “cai trị” hay có các quyền hạn trên chúng. Bài viết sẽ nghiên cứu lịch sử (và sự viết sử ký của Trung Hoa) về Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) qua việc thảo luận về các tài liệu quan trọng thời nhà Minh và nhà Thanh, cũng như các tài liệu thứ yếu. Trước tiên, nó đặt kiến thức địa dư về vùng Biển Nam Trung Hoa như được trình bày trong các nguồn tài liệu nhà Minh và nhà Thanh trong khuôn khổ sự phân chia “Tây Dương: xiyang 西洋, Western Ocean) – Đông Dương: dongyang東洋, Eastern Ocean” của Trung Hoa và các sự thảo luận về nơi chốn hai biển này gặp nhau. Sự phân chia này để chỉ một biên cương khá lờ mờ giữa các khu vực ảnh hưởng Trung Hoa và phi Trung Hoa, và như một khu vực của hoạt động hải hành thường xuyên của Trung Hoa. Trong khung cảnh này điều cần ghi nhận rằng, trái với các sự trình bày địa dư phong phú về các điểm xa xôi của “Biển Phương Nam: Southern Sea”, các sự đề cập đến các hòn đảo và các bãi san hô của nó vẫn không chính xác và khá mơ hồ. Kế đó, bài viết này thảo luận đến sự vắng mặt của Trung Hoa từ, và sự thiếu sót kiểm soát trên, các hải phận này sau các chuyến du hành nổi tiếng của Trịnh Hòa, như là một hậu quả của các yếu tố nội bộ và đối ngoại. Sự tách biệt khỏi lãnh hải này đã là lý do chính yếu cho sự thiếu sót các hoạt động chính thức, hay được quy định chính thức, trên các hòn đảo, và cho sự lập lại các sự tham chiếu không chính xác trong các sự trình bày địa dư sau này, ngay cả trong các tài liệu lịch sử địa phương. Sau cùng, cuộc nghiên cứu này mở ra khả tính của việc nhìn Biển Nam Trung Hoa như một khu vực được sử dụng cho các hoạt động khác nhau của bởi người Trung Hoa, người dân Đông Nam Á, người Ả Rập và các người Âu Châu. Bản thân sự sắp xếp lại ý niêm (reconceptualisation) này cho phép các sự vắng mặt rõ rệt trong sự trần thuật của Trung Hoa được khỏa lấp. Sau cùng, bài viết này nhấn mạnh đến nhu cầu duy trì một tình trạng phân đôi (dichotomy) giữa “việc hiểu biết về khu vực” với “việc cai trị khu vực” trong sự phân tích các tài liệu lịch sử về vấn đề này, một sự lưỡng phân rõ ràng đã được “tẩy xóa” một cách trôi chảy trong sự viết sử ký Trung Hoa theo quyền lợi dân tộc của họ.

    Biển Nam Trung Hoa và Sự Phân Chia Giữa Tây Dương và Đông Dương

    Từ lâu trước khi có sự khởi đầu của triều đại nhà Minh, Biển Nam Trung Hoa đã được xác định trong các tài liệu Trung Hoa. Trong một vài trường hợp, đây là một khu vực cách biệt mơ hồ, trong các tài liệu khác, như một phần của một đại dượng rộng lớn hơn bao gồm các hải phận Đông Á Châu, Đông Nam Á Châu, và Ấn Độ Dương. Sự xác định không gian hàng hải này được ý niệm hóa xuyên qua sự phân chia “Tây Dương – Đông Dương” đầu tiên trong thời nhà Tống theo một cách tổng quát, trừu tượng, và sau này, với chi tiết nhiều hơn, trong thời nhà Nguyên.

    Để giới thiệu các đường nét chính yếu được thảo luận trong các cuộc tranh luận này, và để hiểu tiến trình của chúng, bài phân tích này sẽ khởi sự với một ít nguồn tài liệu tiêu biểu trước thời nhà Minh:

    Nhà Tống

    o Zhou Qufei: Chu Khứ Phi: 周去非, Lingwai Daida: Lĩnh Ngoại Đại Đáp: 嶺外代答(Thông Tin Về Những Gì Bên Ngoài Các Cửa Ải: Information on What Is Beyond the Passes), 1178.

    o Zhao Rugua: Triệu Nhữ Quát: 趙汝括, Zhufan zhi: Chư Phiên Chí 諸藩志(Khảo Luận Về Người Nước Ngoài: Treatise on Foreigners), 1225

    Nhà Nguyên

    o Chen Dazhen Trần Đại Chấn 陳大震, Dade Nanhai zhi大德南海志,Đại Đức Nam Hải Chí (Khảo Luận Về Biển Nam Hải Của Đại Đức), 1304.

    o Wang Dayuan 汪大淵 Uông Đại Uyên, Daoyi zhilue 島夷志略 Đảo Di Chí Lược (Lược Khảo Về Các Hòn Đảo và Dân Tộc Man Rợ), 1349

    Quyển Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi ghi chép rằng Vịnh Bắc Việt (Jiaozhi yang 交趾洋) nằm phía tây nam của đảo Hải Nam (Qiongya:瓊崖Quỳnh Nhai (hay Nha). Đây là nơi mà ba tuyến đường đi thuyền quan trọng tìm thấy lối đi của chúng tiến vào Biển Nam Trung Hoa. Tuyến đầu tiên trong các tuyến đường này dẫn đến các nước ở hướng nam, tuyến thứ nhì, phía bắc, nối liền Giao Chỉ Dương với các khu vực duyên hải của Quảng Đông廣東, Phúc Kiến 福建, và Chiết Giang浙江, và tuyến thứ ba dẫn đến Dongda Yanghai 東大洋海 Đông Đại Dương Hải). Trong phạm vi Đông Đại Dương Hải này – vùng có thể được nhận diện là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) – họ Chu xác định “Changsha長砂 Trường Sa” và “****ang 石塘 Thạch Đường “, có lẽ để chỉ lần lượt các quần đảo Paracel và Spratly. 7

    Sau này, trong quyển Chư Phiên Chí, từ ngữ “Donghai 東海Đông Hải “ (Eastern Sea: Biển Đông) xuất hiện. Trong bản văn này, tác giả Triệu Nhữ Quát có nói đến phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa như một khu vực nối kết các tuyến đường mậu dịch giữa Champa (Zhancheng占城 Chiêm Thành) và Quảng Châu (Guangzhou 廣州). 8 Xa hơn về phía nam, Java (Shepo闍婆 Xa Bà [?]) xuất hiện như điểm xuất phát của một số tuyến đưừng mậu dịch, một đi về hướng đông, và một đi vế hướng bắc đến đảo Côn Đảo hay Pulau Condore (Kunlun 崑崙Côn Luân) ngoài khơi cửa sông Mekong, xuyên ngang phần phía nam của Biển Nam Trung Hoa. 9 Từ Côn Đảo, tuyến đường được phân chia: một tuyến đường phụ theo hướng tây dẫn đến các hải cảng Trung Hoa tại Quảng Đông và Phúc Kiến. Tuy nhiên, các giới hạn của chính Biển Nam Trung Hoa lại không được trình bày rõ ràng trong nguồn tài liệu này. 10

    Vào thời đại của nhà Nguyên, ý tưởng rằng các biển cả bị giới hạn về tầm mức xem ra đã có tiến triển. Điều này dẫn đến việc các vùng hàng hải được phân định một cách rõ ràng hơn. Quyển Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai zhi) của Trần Đại Chấn là một thí dụ. Trong tác phẩm này, chín chính thể được xác định: Champa, Cambodia (Zhenla 真臘Chân Lạp), Siam, Tambralinga (có thể là sườn phía đông của bán đảo Thái Lan, Danmaling 單馬令Đan Mã Lịnh), Palembang (Srivijaya 三佛霽國 Tam Phật Tề Quốc), Brunei, Tanjongpura ( tại miền nam của đảo Borneo, Danzhongbulan 單重布 羅 Đan Trọng Bố La), và Java. Hai trong chúng, Tambralinga và Palembang, thì “phụ trách:guanquản” một “Tiểu Tây Dương: Small Western Ocean”); Brunei quản một “Tiểu Đông Dương: Smal Eastern Ocean”, và hai chính thể (Tanjongpura và Java) đảm trách Đại Đông Dương: Great Eastern Ocean”. 11 Như tác giả Roderich Ptak cho thấy, một số khu vực hàng hải đã được phân biệt một cách rõ ràng: một “Tiểu Tây Dương”, bao gồm Vịnh Thái Lan và bờ biển phía đông Mã Lai, một “Đại Tây Dương” (không được đề cập một cách công nhiên) từ Sumatra đến Sri Lanka (Tích Lan) – Ấn Độ Dương, một “Tiểu Đông Dương” bao gồm Biển Sulu, bờ biển Sarawak, và khu vực các đảo Mindoro-Mindanao tại Phi Luật Tân, và một “Đại Đông Dương”, được nhận thức như một đại dương nối kết, bao gồm Biển Java, miền đông và miền nam đảo Borneo, và miền đông Indonesia. 12 Nguồn tài liệu thời nhà Nguyên này không đề cập đến các đảo san hô ở Biển Nam Trung Hoa.

    Vào năm 1349, khi Uông Đại Uyên viết quyển Dairi zhilue (Đảo Di Chí Lược), “Tây Dương” đã sẵn được phân biệt một cách rõ ràng với “Đông Dương”. Theo nguồn tài liệu này, điểm nơi mà Tây Dương và Đông Dương phân chia là tại Longyamen龍牙門 Long Nha Môn (Eo Biển Hải Cảng Keppel ngày nay, miền nam Singapore) và tại đảo Côn Đảo. Cả hai địa điểm được xem là “cổng” sang “Tây Dương”, xuyên qua đó các tàu trên đường đến Ấn Độ Dương đã đi ngang qua. 13 Hơn nữa, nguồn tài liệu này cũng đề cập tới Wanli ****ang萬里石塘 Vạn Lý Thạch Đường (Paracels) như một nơi mà vài “mạch” dưới biển từ ba vùng hội tụ, và là nơi có liên hệ với hải cảng mậu dịch Chaozhou潮州Triều Châu tại lục địa Trung Hoa. 14

    Điều gây thú vị để so sánh các nguồn tài liệu này với các nguồn tài liệu Ả rập đương thời, bởi các nhà mậu dịch Hồi Giáo đã có một kiến thức phong phú về các tuyến đường hàng hải Trung Hoa và Đông Nam Á. Các nguồn tài liệu Ả Rập ít cụ thể hơn trong việc xác định một sự phân chia “Tây Dưong – Đông Dương”, nhưng một số tài liệu trong chúng có chấm định một sự phân chia như thế ở một khu vực tương tự. Vào khoảng thế kỷ thứ mười, và cho đến lúc cuối của triều đại nhà Nguyên, một nơi được gọi là “Kalah” trong tiếng Ả Rập ở phía tây của Bán Đảo Mã Lai, nơi nào đó gần Kedah ngay nay và quần đảo Lingkawi cùng với sườn phía đông của đảo Sumatra, nơi mà phần lớn mậu dịch Ả Rập phát đạt, được xem như khu vực phân chia các đại dương. Nó cũng được nghĩ rằng khu vực này tượng trưng cho giới hạn cho sự hải hành của các thuyền buồm Trung Hoa. Tác giả Gerald R. Tibbets đồng ý rằng nó được thừa nhận như một đường phân chia trong các tuyến đường giao thương từ Trung Hoa đến Ấn Độ và Arabia. 15 Tuy nhiên, một số nguồn tài liệu Ả Rập xếp Ấn Dộ Dương và các biển Trung Hoa vào các phân vùng (sub-regions) khác (giống như “bảy biển” của Ahmad ibn Abi Ya’qub trong thế kỷ thứ chín) qua việc cứu xét các tiêu chuẩn khác, chẳng hạn, như các ngôn ngữ được nói bởi các cư dân thuộc các chính thể liên hệ mà họ đến thăm viếng. Tuy nhiên, điều cần phải ghi nhận rằng một số nguồn tài liệu dùng tên gọi “Sea of Cankhay”, tên gọi Trung Hoa cổ xưa Zhanghai張海 Trường Hải, để chỉ Biển Nam Trung Hoa cũng như nhiều phần cả, Biển Đông Trung Hoa (East China Sea). 16

    Trong các tài liệu thời nhà Minh, các giới hạn địa dư của Biển Nam Trung Hoa không được trình bày một cách rõ ràng; song biển này, như một phần của “Biển Đông Trung Hoa”, tiếp tục được suy tưởng như bộ phận của một biên cương lờ mờ giữa các thế giới Trung Hoa và phi Trung Hoa về mặt hải hành và mậu dịch, một thế giới của các không gian hàng hải nơi mà thế giới văn minh đối diện với thế giới man rợ. Một số trong các tài liệu đó có đề cập đến các đảo san hô (Paracels (Hoàng Sa), Sprastlys (Trường Sa), the Pratas Reef hay the Macclesfield Bank) bằng các tên gọi cổ xưa của chúng, ngay dù sự sử dụng các tên gọi này vẫn còn thiếu chính xác khá nhiều.

    Không cố gắng để đưa ra một sự khảo sát tường tận, các nguồn tài liệu kể sau mang tính chất đại diện:

    · Mã Hoan 馬歡,Doanh Nhai Thắng Lãm 灜涯勝覽 (Overall Survey of the Oceans’ Shores), 1451 17

    · Phí Tín 費信, Tinh Sai Thắng Lãm 星槎勝覽 (Overall Survey of the Star Raft), 1436

    · Hoàng Trung, Huang Zhong 黄衷 , Hải Ngữ 海語 (Language of the Sea), 1536

    · Hoàng Tỉnh Tăng: Huang Shengceng 黄省曾,Tây Dương Triều Cống Điển Lục西洋朝貢典錄 (Records of Western Ocean Tribute), 1520.

    · Mao Nguyên Nghi, Mao Yuanyi, 茅元儀, biên tập, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ 鄭和航海圖 (Navigational Chart of Zheng He), trong quyển Vũ Bị Chí 武備志, 1621

    · Trương Nhiếp: Zhang Xie張燮, Đông Tây Dương Khảo 東西洋考 (Studies on the Ocean East and West), Lời Đề Tựa, 1617-18

    · Vô Danh, Thuận Phong Tương Tống Xiangsong 順風相送 (Favorable Winds to Escort), thế kỷ thứ mười sáu

    · Chính Đức Quỳnh Đài Chí, Zhende qiongtaizhi正德瓊臺志 (Địa phương chí đảo Hải Nam dưới thời trị vì Chính Đức), khoảng 1521

    Vào triều nhà Nguyên, sự phân chia thành một “Tây Dương: Biển Tây” và một “Đông Dương: Biển Đông” của khu vực hàng hải bao la từ phía tây Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương ngày càng được chấp nhận hơn. Vào thời sơ Minh, sự phân chia này thì rõ ràng, và từ đó, ý tưởng về một “Biển Phía Nam: Southern Sea” cũng xuất hiện một cách chậm chạp. Ba mươi sáu năm sau ngày thành lập triều đại, các hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của Đô Đốc Trịnh Hòa đã được phái đến các địa điểm dọc theo Biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Ấn Độ Dương và Bán Đảo Ả Rập bởi hoàng đế Vĩnh Lạc (Yongle 永樂). Trong thời khoảng giữa năm 1405 đến 1433, bảy chuyến du hành vào “Tây Dương” đương nhiên làm gia tăng kiến thức về các vùng hải hành. Từ ngữ phân biệt “các đại dương: oceans” khác nhau cũng đã sẵn hiện diện trước thời nhà Minh và trong thời sơ Minh, vài nguồn tài liệu cho thấy rằng các khái niệm về không gian này của nhà Nguyên vẫn được liên tục: “một “Tây Dương” được xác định là khác biệt với “Đông Dương” được qua lại bởi các thủy thủ và thương thuyền Trung Hoa, Ả Rập và Mã Lai. 18

    Thí dụ, quyển Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan có đề cập tới Lambri (Nanboli 南渤里 Nam Bột Lý) tại Aceh và Samudra-Pasai (Sumendala 蘇門答剌 Tô Môn Đáp Lạp) trên bờ phía bắc của Sumatra như mỏm xa nhất về phía đông của “Tây Dương”. Java (Shepo) cũng được thừa nhận nói chung như nơi mà “Tây Dương” bắt đầu. 19 Ba nơi này có thể được thừa nhận như điểm xuất phát của “Tây Dương” khi chúng là các nơi đến sau cùng của các tuyến mậu dịch đường dài, có lợi thế về mặt địa dư trên Eo Biển Malacca và Eo Biển Sunda. Ở đó, các thương nhân dừng chân và tái tiếp liệu trước khi tiếp tục tiến về hướng tây để đến Ân Độ Dương hay phía đông của Trung Hoa, Borneo, Phi Luật Tân hay Moluccas.

    Quyển Doanh Nhai Thắng Lãm, cũng như quyển Tinh Sai Thắng Lãm của Phí Tín, có bao gồm các sự mô tả địa dư của các địa điểm trải dài từ Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) cho đến Ấn Độ Dương. Dặc biệt, Biển Nam Trung Hoa được thừa nhận là trải dài từ Wuhumen 五虎門 Ngũ Hổ Môn, trên bờ biển Phúc Kiến tại Eo Biển Đài Loan theo hướng đông bắc, xuống tới xứ Chàm và Quy Nhơn (Xinzhougang: Tân Châu Cảng 新州港), trên bờ biển trung phần Việt Nam về hướng đông. Phần tây nam của biển này trải dài từ Côn Đảo ( Kunlunshan 崑崙山) ở hướng tây nam 20 đến Brunei (Poluo 婆羅 Bà La) ở phía nam. 21 Về phía đông, biển này chạy từ quần đảo Phi Luật Tân đến đảo ******* (Đài Loan). Điều quan trọng là cả hai nguồn tài liệu này đều không đề cập đến các đảo san hô tại Biển Nam Trung Hoa.

    Tuy nhiên, một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh, quyển Hải Ngữ của Hoàng Trung (Huang Zhong), có đề cập đến các đảo này. Theo họ Hoàng, Wanli ****ang: Vạn Lý Thạch Đường – ở đây là một chỉ danh lỏng lẻo chỉ các quần đảo Paracel, Pratas, cũng như Macclesfield Bank – và Wanli Changsha 萬里長沙 Vạn Lý Trường Sa – quần đảo Spratlys, một vòng đai các đảo nhỏ bé và các nhánh san hộ vốn được lo sợ như một nơi chốn cực kỳ nguy hiểm cho sự hải hành – tất cả được nhận thấy nơi “Biển Đông: Southern Sea”. 22 Hơn nữa, Bản Đồ Hải Hành Của Trịnh Hòa, cái được gọi là “Bản Đồ của Mao Kun: Mao Khôn, Mao Kun tu 茅坤圖 Mao Khôn đồ”, được biên soạn từ các bản đồ hải hành còn tồn tại trong năm 1621, có xác định một số đảo san hô tại Biển Nam Trung Hoa (South China Sea). Các đảo này bao gồm Thạch Đường, ****ang 石塘, có nghĩa Wanli ****ang: Vạn Lý, và cái được gọi là Wancheng ****angyu: 萬生石塘嶼 Vạn Sinh Thạch Đường Dư, cả hai tên đều để chỉ Quần Đảo Paracels. Bản đồ cũng đánh dấu nơi gọi là Shixing ****ang: Thạch Tinh Thạch Đường 石星石塘 (có thể là tên khác của Wanli ****ang: Vạn Lý Thạch Đường), xác định một khu vực chạy dài bao trùm Macclesfield Bank, các Quần Đảo Pratas và Paracels, một vòng đai các cấu hình bằng đá và san hô khởi đầu gần hải cảng Triều Châu (Chaozhou) (lập lại theo tác giả Uông Đại Uyên trong quyển Đảo Di Chí Lược năm 1349. 23

    Sự phân chia giữa “Tây Dương” và ” Đông Dương” không rành mạch trên bản đồ của Mao Khôn nhưng chỉ có ít nguồn tài liệu giữa thế kỷ thứ mười sáu là có trình bày một cách rõ ràng nơi mà nó tọa lạc. Quyển Tây Dương Triều Cống Điển Lục (1520) của Hoàng Tỉnh Tăng xem “Tây Dương” bắt đầu từ phía đông của Kunlun Yang 崑崙洋Côn Lôn Dương và Lambri và có đề cập đến Sulu như thuộc về “Đông Dương”. 24 Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ thứ mười bảy, sự phân chia này được đánh dấu một cách rõ ràng trong quyển Đông Tây Dương Khảo. Tác giả Trương Nhiếp đã chỉ định các chính thể từ Đông và Đông Nam Á là tùy thuộc hoặc vào “Tây Dương” hay “Đông Dương”. Nhật Bản được ghi nhận trong một phần riêng biệt. Trong số các chính thể được bao gồm nằm trong phạm vi “Tây Dương” là Giao Chỉ, Chàm, Xiêm La, và ngay cả Palembang, trong khi các chính thể thuộc vào “Đông Dương” bao gồm Luzon (Lữ Tống), Sulu và Brunei. 25 Tác giả họ Trương cũng ghi nhận Palembang là thuộc “Biển Đông Nam: Southeast Ocean”, và đặt Brunei là điểm nơi mà “Tây Dương khởi đầu. 26 So sánh với các nguồn tài liệu thời sơ và giữa nhà Minh, điều đáng ghi nhận rằng trong các bản đồ, sự phân chia Đông và Tây đã di chuyển một chút về phía đông vào cuối triều đại. Trong văn bản của họ Trương, Các Đảo Biển Nam Trung Hoa vắng mặt, điều nhiều phần xác nhận rằng phần trung tâm của Biển Nam Trung Hoa phần lớn bị né tránh bởi các thủy thủ và nằm ngoài các tuyến mậu dịch chính. 27

    Một nguồn tài liệu quan trọng khác từ thời nhà Minh là quyển Thuận Phong Tương Tống, một cẩm nang hải hành có lẽ từ thế kỷ thứ mười sáu mà tác già vài niên đại chính xác vẫn chưa rõ. Trong văn bản này, các sự trình bày chi tiết các tuyến đường biển nối liền Phúc Kiến, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan, Brunei và Phi Luật Tân, trong số các địa điểm khác, được ghi chép. Nó cũng có các sự tham chiếu ít chi tiết hơn các đảo san hô của Biển Nam Trung Hoa: Vạn Lý Thạch Đường và các hải phận kề cận (Thất Châu Dương, Qizhou Yang 七州洋, và Vạn Lý Trường Sa cũng được đề cập đến một cách vắn tắt. 28

    Nguồn tài liệu cuối cùng từ thời nhà Minh là một quyển địa dư chí địa phương về Hải Nam. Trong quyển Địa Phuơng Chí Hải Nam dưới thời trị vì của vua Chính Đức, một khu vực hàng hải phía nam lục địa Trung Hoa trải dài từ bắc Việt Nam (Giao Chỉ), Chàm, và Căm Bốt đến Quảng Châu và Phúc Kiến được ghi nhận. Quyển sách cũng đề cập đến hai cấu trúc trong khu vực hàng hải này, Vạn Lý Thạch Đường và Trường Sa (Changsha) (ở đây, gọi là Pratas). Theo tài liệu này, lái thuyền từ đảo Hải Nam đến các bờ biển Phúc Kiến và Chiét Giang chỉ cần bốn đến chín ngày. Quyển sách không có sự tham chiếu trực tiếp nào đến Tây Dương và Đông Dương. 29

    Sự hiểu biết về Biển Nam Trung Hoa và các đặc tính các đảo của nó nói chung được xem có tăng trưởng vào lúc bắt đầu nhà Thanh, nhưng nhiều nguồn tài liệu từ thời kỳ này chỉ lập lại các tài liệu có trước. Các nguồn tài liệu kể sau được duyệt xét nơi đây:

    · Trần Luân Quýnh: Chen Lunjiong 陳倫炯, Hải Quốc Văn Kiến Lục: Haiguo wenjianlu 海國聞見錄 (Records of Things Heard and Seen in the Maritime Countries), 1730

    · Vô Danh, Chỉ Nam Chính Pháp指南正法 (Directions to the South),có lẽ vào đầu thế kỷ thứ mười tám.

    · Tạ Thanh Cao: Xie Qinggao 謝请高,chép lại bởi Yang Bingnan 楊炳南 Dương Bính Nam, Hải Lục: Hailu海錄(Maritime Records), 1820-21

    · Xu Jiyu 徐繼畬Từ Kế Dư, Yinghuan Zhilüe 灜環志略 Doanh Hoàn Chí Lược (Synoptic Treatise on the Maritime Circuit), 1844-48.

    · Wei Yuan 魏源 Ngụy Nguyên, Hải Quốc Đồ Chí: Haiguo tuzhi 海國圖志 (Illustrated Gazetteer of the Maritimes Countries), 60 tập, 1847

    · Quảng Đông Tỉnh Quỳnh Châu Phủ Chí:Guangdong sheng Qiongzhoufu zhi: 廣東省瓊州府志 (Records of Qiong Prefecture in Guangdong), 1841

    Các cuộc thảo luận về sự phân chia giữa “Tây Dương” và “Đông Dương” tiếp tục đến triều đại nhà Thanh. Sau khi thu hồi đảo ******* trong năm 1684, hoàng đê Khang Hy: Kangxi 康熙 đã ra lệnh vài cuộc viễn chinh bằng đường biển tới Các Biển Phương Nam (Southern Seas). Hơn bốn mươi năm sau đó, trong năm thứ tám đời vua Ung Chinh: Yongzheng 雍正 (1730), quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục đã xuất hiện. Nguồn tài liệu này đưa ra các sự mô tả các địa điểm khắp thế giới từ Nhật Bản đến Vương Quốc Thống Nhất Anh, kể cả địa dư của Biển Nam Trung Hoa. Tài liệu có đưa ra các sự phân biệt giữa Đông Dương (Eastern Ocean), Đông Nam Dương (Southeastern Ocean), Nam Dương (Southern Ocean), Tiểu Tây Dương (Small Western Ocean), Đại Tây Dương (Great Western Ocean), khu vực Kunlun (Côn Lôn (Luân)) và vùng Nan’aoqi 南澳氣 Nam Áo Khí. Trần Luân Quýnh nêu ra rằng có vài vùng đất tại Nam Dương phía nam đảo Đài Loan (nơi vốn được xem là thuộc Đông Nam Dương) và bắc Indonesia. Xứ Chàm, Tân Châu Cảng, Chân Lạp và Giao Chỉ tạo thành ngoại vi phía tây của Nam Dương. Trong phạm vi “hồ” nước khổng lồ này, ông có xác định Thất Châu (Qizhou: 七州) và Thất Châu Đại Dương (Qizhou Dayang: 七州大洋), cũng như Vạn Lý Trường Sa và Tây Trường Sa西長沙, tất cả các địa danh này ở đây để chỉ quần đảo Paracels [Hoàng Sa]. Tác giả cũng ghi nhận Thiên Lý Thạch Đường (Qianli ****ang 千里石塘) hay Thạch Đường (cụm các hòn đảo và san hô của nhóm Trường Sa), Đông Trường Sa ( 東長沙), cũng gọi là Sa Đầu (Shatou 沙頭) (Macclesfield Bank), và vùng Nam Áo Khí (Nan’aoqi) (Quần Đảo Pratas và chung quanh). 30

    Các địa danh tương tự được gồm trong quyển Chỉ Nam Chính Pháp, một bản chép tay mà tác giả và niên kỳ không rõ nhưng có lẽ được viết ra trong khoảng đầu thế kỷ thứ mười tám. Giống như trường hợp của quyển Thuận Phong Tương Tống, có các sự trình bày chi tiết các hải đạo và một số sự đề cập đến các quần đảo. Trong cả hai văn bản, Các Đảo Paracels và hải phận chung quanh, đảo Pratas (được xác định ở đây là Changshawei 長沙尾 Trường Sa Vĩ, một phần của vùng Nan’ao: Nam Áo), và quần đảo Spratlys (Trường Sa) có được ghi chép. 31

    Với bước tiến của các nước Âu Châu vào hải phận Á Châu, cũng như đào sâu kiến thức về mậu dịch ngoại quốc xuyên đại dương (và như một kết quả trực tiếp của các chiến dịch quân sự của hoàng đế Càn Long tại Miến Điện và đánh phá người Miao (Mèo) tại vùng Tây Nam Trung Hoa), các nhà cầm quyền Mãn Châu đã biểu lộ sự chú ý gia tăng đến Biển Nam Trung Hoa. Quyển Hải Lục, được viết trong thời chuyển tiếp giữa thời trị vì của vua Gia Khánh ( Jiaqing嘉慶 ) và Đạo Quang (Daoguang 道光) (1820-1821), nói rằng có hai tuyến đường mậu dịch tại Biển Nam Trung Hoa chạy từ Quảng Đông đến Batavia thuộc Ấn Độ Hòa Lan (Dutch Indies) [tức Indonesia ngày nay, chú của người dịch] – một “nội tuyến: inner route” và một “ngoại tuyến: outer route”. 32 Trong tập sách này, tác giả Tạ Thanh Cao cũng ghi chép về Vạn Lý Trường Sa (Quần Đảo Paracels) và Thiên Lý Thạch Đường (Quần Đảo Spratlys),33 nơi mà quần đảo Paracels có tác dụng như một điểm tham chiếu cho tuyến đường bên trong ven biển, tương đối an toàn nhưng dài, và nhóm đảo Spratlys như một điểm tham chiếu trên tuyến đường bên ngoài ngắn hơn, nhưng nguy hiểm hơn.

    Vào khoảng một trăm năm sau quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, tác giả nổi tiếng Ngụy Nguyên có ghi chép các địa điểm tương tự trong tác phẩm lừng danh của ông, Hải Quốc Đồ Chí. Một lần nữa, các vùng hàng hải được sắp xếp thành các đại dương theo các hướng khác nhau: Tây Dương, Đại Tây Dương, Tây Nam Dương, Tiểu Tây Dương, và Biển Đại Nam (Greater Southern Sea), trong số nhiều danh xưng khác. Trong tác phẩm của Ngụy Nguyên, Đông Dương, bao gồm Biển Nam Trung Hoa (South China Sea), Biển Đông Trung Hoa (Eastern China Sea), và các Biển Hoàng Hải (Yellow Sea) và Bố Hải (Bohai Sea), được xem như một thực thể duy nhất, khác biệt với Đại Đông Dương (Greater Eastern Ocean) ở phía đông của quần đảo Nhật Bản và Phi Luật Tân. 34 Khi đó, điều rõ ràng rằng cả Hải Quốc Văn Kiến LụcHải Quốc Đồ Chí đều đã lập lại ý tưởng về một sự phân chia Đông-Tây, một ý kiến đã được đưa ra trong các nguồn tài liệu thời tiền Minh.

    Trong thời nhà Thanh, hai quần đảo chính tại Biển Nam Trung Hoa cũng được đánh dấu trên vài bản đồ. Ngay đến tên của các nhóm đảo này không hoàn toàn đông nhất, nhóm Paracels vẫn còn được xác định là Vạn Lý Trường Sa trong phần lớn bản đồ thế kỷ thứ mười tám, trong khi nhóm Spratlys được gọi hoặc là Thiên Lý Thạch Đường hay đơn giản là Thạch Đường. Tuy nhiên, điều rõ ràng khi khảo sát nhiều bản đồ cho thấy rằng địa điểm đích xác của cả hai quần đảo thường xuyên bị thay đổi, và rằng các sự mô tả các hòn đảo và san hô thì trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên. Thí dụ, trong bản đồ thế giới của quyển Hải Lục, cả hai nhóm Paracels và Spratlys đều được mô tả là thẳng góc với bờ biển Trung Hoa. Tuy nhiên, bản đồ trong các tác phẩm khác, chẳng hạn như quyển Hải Quốc Văn Kiến Lục, Dương Hoàn Chí LượcHải Quốc Đồ Chí, cho thấy các hòn đảo song song với đất liền. 35

    Trong các nguồn tài liệu địa phương thời nhà Thanh, kiến thức địa dư của phần phía bắc của Biển Nam Trung Hoa khá chi tiết, nhưng các sự mô tả các địa điểm xa hơn, chẳng hạn như Paracels và Spratlys, thì không rõ ràng gì cả. “Biển Phương Nam [Nam Hải]: Southern Sea” được nghĩ một cách điển hình như một biển duyên hải trong các tác phẩm này. Các khu vực duyên hải được mô tả một cách tường tận, nhưng các sự ghi chép về các hải phận sâu hơn thì mơ hồ. Trong thực tế, các quyển lịch sử địa phương Quảng Đông dường như chỉ lập lại các tài liệu ghi chép thời tiền nhà Thanh các tên gọi và vị trí của Paracels và Spratlys cùng các khoảng cách của chúng từ đất liền.36 Khi thảo luận về các tuyến đường biển được qua lại bởi các thuyền buồm và các thương thuyền Âu Châu, các tài liệu này quan tâm nhiều nhất đến việc ghi chú các địa điểm duyên hải có liên hệ với sự hải hành ven bờ biển. Các tài liệu này không có các sự thấu triệt đáng kể nào về các tuyến đường biển nước xanh và các sự tham chiếu của chúng đến các hòn đảo, vốn được xem là các nơi cực kỳ nguy hiểm cho các kẻ bạo gan lái thuyền tách xa khỏi bờ biển, thì mơ hồ. 37

    Tuy nhiên, một sự phân tích một số nguồn tài liệu địa phương cho thấy một sự ý niệm hóa đáng chú y về các khu vực hàng hải. Quyển Hải Nam Địa Phương Chí năm 1841 phân chia “Nam Hải” khổng lồ thành một vòng đai biển duyên hải nơi các chiếc thuyền tham gia vào các hoạt đông liên hải cảng, một vành đai liền nhau của các hải phận nước cạn; một khu vực sâu hơn, được gọi là đại dương bên trong (inner ocean); và một đại dương vòng ngoài mênh mông, hay biển cả bao la. Sự phân chia này rõ ràng được làm ra để thông báo cho các thủy thủ về các tuyến đường lưu thông an toàn, và để tạo dễ dàng cho việc chuyển vận hàng hải và các hoạt động đánh cá. 38 Tổng kết, các nguồn tài liệu thời nhà Thanh tiêu biểu này đã mô tả Biển Nam Trung Hoa và các giới hạn của nó với sự rõ ràng tương đối, thường lập lại các tác phẩm trước đó. Tuy nhiên, chúng đã không thảo luận về các hòn đảo và các quần đảo của nó với bất kỳ chi tiết nào. Các tài liệu địa phương, mặt khác, đã phân chia biển thành cách vùng gần và xa bờ biển, nhắm hướng dẫn các thủy thủ về nơi lái thuyền và nơi không nên mạo hiểm. 39
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Kiến Thức Hàng Hải Và Sự Kiểm Soát Chính Trị

    Điều quan trọng cần ghi nhớ trong đầu rằng có một sự khác biệt đáng kể giữa việc có kiến thức địa dư về các khu vực hàng hải với việc kiểm soát và quản trị các tài nguyên và các đối tượng sinh sống tại các khu vực đó. Sau các cuộc du hành nổi tiếng thời nhà Minh và trong toàn thể thời nhà Thanh, các thẩm quyền trung ương và Quảng Đông đã có một số sự kiểm soát trên một khu vực hàng hải duyên hải tương đối hẹp cùng với các hòn đảo lân cận của nó tại “Nam Hải”, nhưng không ở các vùng nước xanh. Sau các chuyến du hành của Trịnh Hòa, một vài sự thay đổi quân sự, kinh tế và xã hội sau rốt đã khiến cho việc kinh doanh hàng hải Trung Hoa đi đến sự đình chỉ, khởi đầu cho sự chấm dứt sức mạnh hải quân của nó. 40 Trong thực tế, trong khi các chuyến du hành của Trịnh Hòa được xem là đỉnh tối cao của quyền lực của Trung Hoa trên các tuyến đường biển, 41 các cuộc du hành này cũng được xem như sự kết thúc lịch sử hải hành đại dương của Trung Hoa.

    Trong thời nhà Minh, hai yếu tố có tính chất quan trọng để hiểu được chính sách biên cương duyên hải được thi hành bởi chính quyền, sau rốt đã không lưu ý đến lãnh vực hàng hải. Một yếu tố là các thương gia tư nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tham gia vào các hoạt động kinh tế bên ngoài khuôn khổ mậu dịch triều cống cổ truyền. Vào thời có các cuộc du hành của Trịnh Hòa, điều được tin tưởng là các thương thuyền tư nhân Trung Hoa đang sử dụng các tuyến đường mậu dịch của Biển Nam Trung Hoa, trong khi các nhà buôn Java, Mã Lai, Gujarati và Ả Rập cũng thường xuyên lái thuyền trên các tuyến đường mậu dịch phía bắc và tây nam. 42 Các yếu tố kia là các hoạt động thổ phỉ và nạn hải tặc, cả trong nội địa lẫn từ Nhật Bản (và trong thời nhà Thanh, cả từ Hòa Lan) tại các khu duyên hải của Trung Hoa. Hai yếu tố này, một phần của cùng vấn đề tổng quát của nạn buôn bán phi pháp, sau rốt đã buộc chính quyền phải thi hành các chính sách phòng thủ biên cương nghiêm ngặt dọc theo các bờ biển.

    Ba loại kiểm soát biên cương hàng hải đã được thi hành thời sơ Minh: tăng cường các trạm quân sự, sự phối hợp các trạm này với các giới thẩm quyền dân sự, và sự thiết lập các toán hải quân biệt phái. Chính sách phòng thủ hàng hải này được nhắm chính yếu đến các hải tặc Wako Nhật Bản (Wokou 倭寇, Oa Khấu), các kẻ có các hoạt động hoành hành tất cả các bờ biển Biển Đông Hải (Eastern Sea) và Biển Nam Trung Hoa, ảnh hưởng cả đến Đảo Hải Nam. 43 Để đối phó với vấn đề này, chính quyền đã thi hành các biện pháp an ninh ((thoạt tiên, gồm cả các sự đe dọa các nhà cầm quyền Nhật Bản) bằng cách ra lệnh một sự cấm đoán mậu dịch đường biển tư nhân. 44

    Trong thời trị vì của Hồng Vũ (1368-1398), chính quyền đã thiết lập cái được gọi là hệ thống weisuo 衛所 vệ sở, các đồn quân sự được trú đóng bởi một giới quân nhân cha truyền con nối, cho việc tuần tra các vùng duyên hải. Các thẩm quyền trung ương cũng thiết lập các đồn quân sự khác biệt (zhai trại) và các căn cứ hải quân (shuizhai: thủy trại 水寨). Trong thời sơ Minh, mười một quận quân sự tại Phúc Kiến và chín quyện quân sự tại Quảng Đông đã được thiết lập tại các khu vực duyên hải, trong khi ba vòng đai quân sự cho cả Phúc Kiến và Quảng Đông cũng được thiết lập. Chính quyền chính vì thế đã cố gắng tổ chức sự phòng thủ duyên hải dọc theo vành đai trải dài từ phía bắc của Eo Biển Đài Loan đến đảo Hải Nam. 45 Từ thập niên 1420, tình trạng của hệ thống vệ sở (weisuo) bắt đầu suy sụp và đã phải tái sắp xếp vào giữa thời nhà Minh để đối phó một cách hữu hiệu với các cuộc tấn công liên tục của Wako (oa khấu). Chính quyền đã đưa ra một vài sự thay đổi, kể cả việc xóa bỏ chính sách gửi các binh sĩ đi phục vụ tại các đồn điền (tuntian 屯田) trong khi tại ngũ. 46

    Lần đầu tiên chính quyền thi hành một sự ngăn cấm hàng hải là vào năm 1374, khi ra lệnh đóng cửa Cơ Quan Quản Trị Hải Vận (shibosi 市舶司:Thị Bách Ty) ở Ningpo (Ninh Ba), Chaozhou (Triều Châu) và Quảng Châu. 47 Nhà Minh cấm đánh cá tại các duyên hải, 48 giới hạn các sự kinh doanh chuyển vận hàng hải, thiết lập một hệ thống bảo vệ hàng hải và giám sát hải quân, 49 và ra lệnh di tản các dân chúng địa phương khỏi các vùng đất duyên hải và các hòn đảo (qian hai遷海 thiên hải). 50

    Quyết định di tản các dân chúng này, một chính sách phần lớn được tiếp tục trong thời nhà Thanh để ngăn chặn ảnh hưởng của Koxinga (Quốc Tính Gia) (Zheng Chenggong: Trịnh Thành Công) từ Đài Loan, đã có các hiệu ứng tàn phá trên dân chúng duyên hải và trong thực tế đã là một trong các yếu tố chính góp phần vào sự xuất cảnh của người Trung Hoa xuống Nanyang. 51 Lệnh cấm hàng hải này về sau được bổ túc bởi vài sự ngăn cấm khác trong các năm 1381, 1384, 1390, 1394 và 1397. 52 Giữa thời nhà Minh, các lệnh ngăn cấm mới có hiệu lực trong các năm 1524 và 1533. Các lệnh cấm này chỉ được gỡ bỏ một phần trong năm 1567 cho Phúc Kiến, như một sự đền bù cho dân chúng của tỉnh đó về việc trợ lực chống lại nạn hải tặc, giữ Yuegang (Nguyệt cảng 月港) thành một hải cảng mở ngỏ. 53

    Một lệnh cấm mới được tuyên bố trong năm 1656, không lâu sau khi các nhà cai trị Mãn Châu nắm giữ quyền hành. Chính sách này sau cùng đã phản tác dụng và biến nhiều người dân thành thổ phỉ (ngay cả trở thành thổ phỉ – nông dân theo mùa), các kẻ buôn lậu và các hải tặc, và một lần nữa thôi thúc sự xuất cảnh sang Nanyang, một chiều hướng đã sẵn được thiết lập vững chắc vào giữa thời nhà Minh. 54 Tuy nhiên, lệnh cấm này và các lệnh tiếp theo không có nghĩa, như tác giả Wang Gungwu đã vạch ra, rằng hoạt động mậu dịch thành ra bất khả thi, mà đúng hơn, biến nó thành “bất hợp pháp, bí mật, và phần lớn không được ghi chép lại”. 55

    Trong thời sơ Thanh, mậu dịch bất hợp pháp, nạn hải tặc, và các cuộc xâm nhập bạo động giữa thế kỷ thứ mười sáu của các người Âu Châu vào các khu vực duyên hải của Trung Hoa, tất cả đã dẫn chính quyền trung ương đi theo một chính sách phòng thủ hàng hải tương tự như chính sách được theo đuổi bởi triều đại trước. Hai mươi mốt đồn quân sự duyên hải đã được thiết lập tại Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, và Quảng Đông, và ở những nơi khác, cũng như các nơi đóng quân thứ yếu trên bờ biển, kể cả ở Chongming 崇明 Sùng Minh, Dinghai 定海 Định Hải, Jinmen: Kim Môn 金門, Haitan海壇 Hải Đàn, Qiongzhou 瓊州 Quỳnh Châu và Nam Áo, tất cả đều nhắm vào việc trấn áp nạn hải tặc hoành hành tại Đông Hải và Biển Nam Trung Hoa. 56 Tại Quảng Đông, từ lúc bắt đầu triều đại, chính quyền đã thiết lập các vòng cung tuần sát biên cương hàng hải và một lực lượng hàng hải phụ trách việc giám sát một tổng số năm nơi đóng quân để tuần tra Biển Nam Hải (Southern Sea), 57 dù thế, với nhiều xác xuất nhất, các vành đai như thế đã không vươn tới các đảo san hô.

    Về lệnh cấm hàng hải, từ năm thứ mười ba thời Thuận Trị, Shunzhi 順治 (1656) đến khi thu hồi đảo ******* trong năm thứ hai mươi ba thời Khang Hi (1684), các sự kinh doanh thương thuyền tư nhân và vận tải người bằng đường biển bị cấm đoán từ Sơn Đông, Shandong 山東 đến Quảng Đông. 58 Tuy nhiên, chính sách bế quan tái tục này đã có hiệu ứng ngược với nhữ ng gì đã xảy ra trước đó: nó cổ vũ các sự di chuyển ra hải ngoại các hàng hóa và dân Trung Hoa băng ngang Biển Nam Trung Hoa. 59 Sau một thời kỳ nới lỏng, lệnh cấm hàng hải một lần nữa được áp đặt trong năm 1717, đặc biệt đối với tất cả các hoạt động mậu dịch với Nanyang. 60

    Các chính sách của nhà Minh về việc di chuyển dân chúng từ duyên hải vào các vùng đất nội địa cũng được tiếp tục trong thời nhà Thanh. Sau khi chính quyền bàn hành chỉ dụ cấm đoán mới đối với các hoạt động hàng hải tư nhân trong năm 1656, các bộ phận đông đảo trong dân chúng duyên hải đã di chuyển vào nội địa hay đến các tỉnh khác. Theo các quy định năm 1661 áp dụng cho các tỉnh Hà Bắc, Hebei 河北, Sơn Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, dân chúng sinh sống tại các khu vực duyên hải đã phải di chuyển sâu vào trong nội địa từ 30 đến 50 lí (li: dậm), chính vì thế tạo ra một vùng trái độn nằm giữa các trại hải quân và dân chúng duyên hải. Quyết định này, một lần nữa, đã là một trong các yếu tố đẩy mạnh sự xuất cảnh ra hải ngoại của người Trung Hoa xuống vùng Nanyang. 61

    Hơn nữa, vào lúc các vị chúa tể Mãn Châu cai trị đế quốc Trung Hoa, các cường quốc Tây Phương đã sẵn củng cố sự hiện diện của họ tại Đông Nam Á và Đông Á. Điều trở nên hiển hiện hơn rằng các giới thẩm quyền duyên hải Trung Hoa đã không có đòn bẩy để tuần tra các hải phận của Biển Nam Trung Hoa. Kể từ khi bắt đầu các sự “khám phá” của Âu Châu hồi cuối thế kỷ thứ mười lăm, Biển Nam Trung Hoa đã nằm trong sự chú ý của Âu Châu, khởi sự với sự xâm nhập của Bồ Đào Nha vào Macau trong năm 1557, sau đó với sự chiếm đóng của người Hòa Lan tại Amoy (Hạ Môn, Xiamen 廈門), Đài Nam (Tainan 臺南), và quần đảo Bành Hồ (Pescadores) vào đầu thế kỷ thứ mười bẩy, và cũng bởi người Tây Ban Nha, các kẻ đã đặt chân lên Manila năm 1570, và đảo ******* năm 1626. Vào năm thứ hai mươi hai đời vua Càn Long (Qianlong 乾隆), chính quyền nhà Thanh đã quyết định giới hạn mọi hoạt động mậu dịch nước ngoài vào hải cảng Quảng Châu, nhằm quy định sự trao đổi thương mại với các thương thuyền Âu Châu càng nhiều càng tốt. Các hải cảng mở cửa khác cũng đã bị bế tỏa trong suốt thời cai trị của vua Khang Hi. 62

    Kết cuộc, sau 400 năm của hải lực Trung Hoa, từ nhà Tống, nhà Nguyên 63 và đầu nhà Minh, sự tiến bước của các người nước ngoài vào các đại dương lân cận, và chính sách đóng cửa nội địa (cũng bị vun xới bởi các nỗi lo ngại gia tăng về biên cương phía bắc vào giữa thế kỷ thứ mười lăm, đã biến Biển Nam Trung Hoa từ một “hồ nước Trrung Hoa” khổng lồ thành một “biển mở ngỏ” 64 vượt quá tầm tay của chính quyền. Trong trọn thời nhà Minh đến cuối nhà Thanh, các tài liệu về các hoạt động được quy định bởi chính quyền tại các quần đảo đã vắng bóng trong các nguồn tài liệu Trung Hoa, tượng trưng cho một sự im lặng tương ứng trong sử ký Trung Hoa.

    Các Trình Độ Kiến Thức về “Biển Nam Hải: Southern Sea”

    Để phân tích các nguồn tài liệu và phán đoán các lập luận liên quan đến lịch sử của Biển Nam Trung Hoa, điều sẽ hữu dụng khi định hình khái niệm về khu vực hàng hải này trong nhiều cách khác nhau. Như đối với các đại dương và các biển mở ngỏ hay nửa khép kín khác, Biển Nam Trung Hoa trước tiên phải được xem như một khu vực phải chịu sự quản trị nhà nước phần nào, cũng như một không gian cho sự phát triển kinh tế, tương tác giữa con người, và các sự trao đổi hàng hóa. Vào thế kỷ thứ mười bốn, phần lớn các bộ phận của biển này được qua lại thường xuyên không chỉ bởi các thuyền buồm Trung Hoa, mà còn bởi các nhà mậu dịch Hồi Giáo và Đông Nam Á trong việc buôn bán đồ gia vị Đông-Tây, hay sự buôn bán giữa các nước Á Châu về các sản phẩm khác. Trong thời nhà Minh và nhà Thanh, Biển Nam Trung Hoa, vốn cùng có sự thích hợp kinh tế và địa chính trị tương tự với các biển khác, có thể được nghĩ đúng nhất như là, vào cùng một lúc:

    1. một không gian hàng hải nối kết với các biển khác được đánh dấu bởi Samudra-Pasai, Lambri và Shepo;

    2. một khu vực quốc gia triều cống với lục địa Trung Hoa, và các thuộc địa của Âu Châu sau này xuyên qua các mạch mậu dịch đông-tây cổ truyền bao quanh Biển Nam Trung Hoa, 65 và

    3. một khu vực nơi sự tương tác kinh tế đã diễn ta dọc theo các thành phố duyên hải được liên kết vào một mạng lưới, như tại tuyến mậu dịch giữa Phi Luật Tân, bắc Borneo và Malacca, trong các thế kỷ thứ mười lăm và mười sáu. 66

    Dựa trên khảo hướng đa tầng này đối với đề tài, 67 chúng ta phân tích vấn nạn “sự hiểu biết khu vực – cai quản khu vực” đối với các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa như thế nào? Chúng ta phán đoán các sự tuyên nhận chủ quyền của Trung Hoa trên quần đảo Paracels, Spratlys, Macclesfield Bank và Pratas trong khi nhìn nhận lịch sử của giai đoạn từ thời sơ Minh đến Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất như thế nào? Đâu là sự liên kết giữa kiến thức địa dư mà các kẻ lái tàu Trung Hoa sở đắc về không gian hàng hải khổng lồ này và sự giả định “Biển Nam Hải” như một phần của đế quốc? Nói cách khác, bằng việc phân tích các nguồn văn bản và bản đồ, làm sao các sự tuyên nhận lịch sử vốn có tinh chất trung tâm trong trong sự biện giải của Trung Hoa tại vụ xung đột Biển Nam Trung Hoa có thể được xác định là có hiệu lực hay không?

    Chắc chắn, sự giải thích các tài liệu và bản đồ tồn tại phải cứu xét đến khung cảnh xã hội và chính trị đặc biệt trong đó chúng đã được soạn thảo. Hơn nữa, bất kỳ sự vững chắc nào trong tài liệu địa dư liên quan đến các hòn đảo và tầm xa của biển đã phản ảnh kinh nghiệm hàng hải phong phú của các thủy thủ. Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém rằng trong phần lớn các trường hợp, các sự trình bày như thế được giới hạn vào kiến thức địa dư cụ thể (real) về các đặc điểm đó, cũng như vào các thể thức thịnh hành của các nhà vẽ địa đồ trình bày các sự tường thuật như thế. Điều này đặc biệt quan trọng trong thuật vẽ bản đồ của Trung Hoa, bởi nhiều tác giả thời tiền thế kỷ thứ hai mươi không phải là các kỹ thuật gia chuyên nghiệp, hay các nhà vẽ bản đồ được huấn luyện, mà là các học giả cũng quan tâm không kém đến các khoa học thiên nhiên, khoa học xã hội, lịch sử, v.v…. Trong thực tế, nhiều bản đồ thì vô dụng cho việc hải hành cụ thể, được vẽ để minh họa hay truyền đạt các thông điệp hay ý thức hệ khác chẳng hạn vị trí trung tâm của Trung Hoa trong thế giới.

    Chính vào thời gian có các cuộc du hành của Trịnh Hòa từ 1405-33 mà “Biển Nam Hải”, như một phần của sự phân chia giữa khu vực “Trung Hoa” và “phi Trung Hoa” trong các hoạt động hải hành thường xuyên, đã chứng kiến quyền lực của một Trung Hoa hùng mạnh trong khuôn khổ các quan hệ triều cống với các nhà cai trị từ Đông Nam Á, tiểu lục địa Ấn Độ, và bờ biển phía đông Phi Châu. Biển Nam Trung Hoa chính vì thế đã trở thành, đối với Trung Hoa, một phần kết hợp của một trật tự địa chính trị nới rộng, một loại Diều kiện Hòa Bình Do Trung Hoa đặt ra (Pax Sinica) được cưỡng hành bằng vũ lực khi cần thiết. Điều này được minh chứng bởi trường hợp Quốc Vương Alagonakkara của Ceylon (Tích Lan), bị bắt làm tù nhân và giải đến Nam Kinh năm 1409.

    Trong khuôn khổ lịch sử này, một trong các giá trị chính yếu của Biển Nam Trung Hoa chắc chắn là ý nghĩa địa chính trị của nó như một không gian hàng hải nối liền với các biển khác. Điều này được hiểu rõ ràng và được mô tả trong các quyển Doanh Nhai Thắng Lãm, Tinh Sai Thắng LãmVũ Bị Chí. Tuy nhiên, các sự đề cập đến bốn quần đảo tại Biển Nam Trung Hoa đã không hiện hữu trong các tác phẩm của Mã Hoan và Phí Tín — không giống như các vùng duyên hải của Đông Nam Á và của một vài nước chư hầu. 68 Trong quyển Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ của Mao Nguyên Nghị, các quần đảo Paracels và Spratlys chỉ được mô tả trình bày như các dấu chấm hay các ngọn núi tọa lạc ngoài hải trình của Trịnh Hòa sang Ấn Độ Dương. Do đó, điều có thể giả định rằng các nhà cầm quyền thời nhà Minh đã xem các đảo này là thuộc vào một khu vực có tầm quan trọng thứ yếu. Trong thực tế, phán đoán theo các nguồn tài liệu nhà Minh tiêu biểu này, xem ra rất khó để tin rằng các nhà cầm quyền Trung Hoa đã sáp nhập bất kỳ một trong bốn quần đảo vào đế quốc gì cả.

    Từ thời có các cuộc du hành của Trịnh Hòa cho đến quanh Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất (vài năm trước sự xuất bản quyển Hải Quốc Đồ Chí của Ngụy Nguyên trong năm 1847), Biển Nam Trung Hoa đơn giản không quan trọng về mặt các lý do quân sự hay địa chính trị. Đúng hơn, nó vẫn quan trọng vì là diễn trường trung gian trong các hoạt động mậu dịch giữa các hải cảng Trung Hoa và Đông Nam Á, và giữa các hải cảng của Đông Nam Á. Nó đã là một khu vực cho các thuyền buồm qua lại và các hoạt động di dân hải ngoại giữa các mạng lưới kinh tế và xã hội. Kiến thức địa dư về các hải cảng mậu dịch, không chỉ tại Biển Nam Trung Hoa, mà còn về các quốc gia triều cống và các lãnh thổ đều nằm dọc theo Nanyang của Trung Hoa đã có tầm quan trọng tối cao cho cả các sự triều cống chính thức lẫn các hoạt động mậu dịch tư nhân. Vì thế, đã có một nhu cầu về các nguồn tài liệu, các bản đồ và các tuyến đường lái thuyền.

    Khi đó, tại sao trong các tài liệu thời nhà Minh, như quyển Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ, hay trong các tác phẩm thời sơ Thanh như Thuận Phong Tống Hộ, Chỉ Nam Chính Pháp, hay các tác phẩm cuối nhà Thanh như Doanh Hoàn Chí Lược và quyển Hải Quốc Đồ Chí, các sự trình bày về các quần đảo Biển Nam Trung Hoa lại quá cụt lủn và không chính xác đến thế? Cũng vậy, tại sao việc gọi tên các hòn đảo và quần đảo lại quá bất thường đến như thế? Các sử gia Trung Hoa chắc chắn đã nhìn nhận tính chất đặc biệt này trong các nguồn tài liệu lịch sử về Biển Nam Trung Hoa trong vài cuộc nghiên cứu. 69

    Hải hành vùng biển nước xanh đã, và hiện vẫn là, một nỗ lực nguy hiểm tại các hải phận này, nơi mà các hải cảng và các thành phố của Nam Trung Hoa được nối tiếp với các hải cảng Đông Nam Á ngang qua một khu vực liên kêt các quốc gia chư hầu duyên hải, các thuộc địa Âu Châu và lục địa Trung Hoa. Hơn nữa, từ đầu thế kỷ thứ mười sáu, các cường quốc Âu Châu đã duy trì các sự liên kết của họ giữa các trung tâm Âu Châu với các thuộc địa của họ, cũng như với các hải cảng miền nam Trung Hoa trong khu vực này. Trong cả hai trường hợp, Biển Nam Trung Hoa vẫn là một vùng của các hoạt động duyên hải. Hải hành trong vùng này, trước tiên bởi các người Á Châu và Ả Rập, và sau này bởi các thủy thủ Âu Châu, được nghĩ vẫn còn là hải hành cận duyên (cabotage), tương tự như các tuyến hàng hải chạy vòng quanh các tuyến đường Địa Trung Hải trong suốt thế kỷ thứ mười sáu được nghiên cứu bởi tác giả Fernand Braudel. 70 Người Ả Rập, các kẻ khống chế mậu dịch đồ gia vị, đã là các kẻ đi biển kinh nghiệm và đã có thể lái thuyền trên các biển mở ngỏ (open seas) nhờ ở trình độ cao cấp của họ về kiến thức thiên văn. Tuy nhiên, việc lái thuyền cận duyên luôn luôn an toàn hơn và có lẽ sinh lợi nhiều hơn cho các đội thuyền nhỏ.

    Tuy nhiên, việc lái thuyền buồm giữa các hải cảng Trung Hoa và các tàu Âu Châu trên các tuyến đường qua lại từ Nam Á và Đông Nam Á, rõ ràng đã không sử dụng đến phần giữa của Biển Nam Trung Hoa, đặc biệt nơi Quần Đảo Spratlys tọa lạc. Nhiều phần vì băng ngang qua biển được cho là không an toàn, khi so sánh với hải hành cận duyên từ hải cảng này đến hải cảng khác. Một số các kẻ mạo hiểm vào các khu vực san hô nông cạn bị vỡ tàu bởi toàn thể khu vực có các bãi đá ngầm nguy hiểm và các đảo bằng đá trơ trọi nằm rải rác. Phần lớn khu vực này còn không được vẽ bản đồ một cách xác thực cho đến khi người Anh biên tập các bản đồ hải hành trên biển đầu tiên của họ. Một cách dễ hiểu, các thương thuyền Âu Châu, Ả Rập, Trung Hoa, và Đông Nam Á đều né tránh khu vực này. Hậu quả, tin tức về tầm mức, địa dư và vị trí chính xác của các vùng lái thuyền nguy hiểm này, đặc biệt quanh quần đảo Spratlys, vẫn còn mù mờ. Chính vì thế, các tài liệu địa dư Trung Hoa từ thời nhà Minh và nhà Thanh, và các bản đồ Âu Châu (đặc biệt được lập bởi các thủy thủ Bồ Đào Nha và Anh Quốc), 71 cho thấy Quần Đảo Paracels, Pratas, Macclesfield Bank và Spratlys chỉ là các dấu chấm hay các nét vạch. Như đã ghi nhận ở trên, dường như đã có sự thiếu sót kiến thức chi tiết về địa dư của các hòn đảo và bãi đá ngầm này, bởi chúng bị xem chỉ có tầm quan trọng thấp kém.

    Ở điểm này, chúng ta phải nhìn nhận rằng các địa phương đã có một sự hiểu biết rõ hơn về các hòn đảo, ngay dù điều này đã không được dành cho trọng lượng thích đáng trong các cuộc nghiên cứu phi Trung Hoa gần đây về Biển Nam Trung Hoa. Tách rời khỏi mậu dịch triều cống, mậu dịch tư nhân và các phong trào di dân đã nảy nở tại Biển Nam Trung Hoa, các hoạt động đánh cá nước xanh và cận duyên hẳn phải có tầm quan trọng đối với các cộng đồng địa phương. Các ngư phủ Phi Luật Tân và Mã Lai nhiều phần đã mở rộng các hoạt động cận duyên của họ đến việc đánh cá ngoài biển. Tuy nhiên, phán đoán từ các nguồn tài liệu khả cung (hay sự thiếu sót các nguồn tài liệu từ các nước tuyên nhận khác), có thể nói rằng những kẻ lái thuyền vào các khu vực nguy hiểm của các đảo Biển Nam Trung Hoa chính yếu, nếu không phải chuyên độc, là các ngư phủ Trung Hoa. [sic].

    Điều được hay biết rằng người Ả Rập thì thông thạo các tuyến đường biển của Biển Nam Trung Hoa và Ấn Độ Dương và một số trong các chỉ nam lái thuyền vẫn còn tồn tại, đặc biệt các tập chỉ dẫn của Shihab al-Din Ahmad ibn Majid và Sulaiman b. Ahmad al-Mahri từ các thế kỷ thứ mười lăm và mười sáu. Vào thế kỷ thứ mười chín, các tập chỉ nam lái thuyền Việt Nam cũng có xuất hiện, mặc dù chúng xem ra đã tự giới hạn vào các khu cận duyên của Việt Nam kéo dài tới bờ biển phía tây của Bán Đảo Mã Lai. 72 Song, đến nay các sự nghiên cứu chi tiết nhất về các đường lái thuyền dọc theo các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa đến từ chính các ngư phủ Trung Hoa.

    Các tập chỉ dẫn hải hành Trung Hoa về các đảo Biển Nam Trung Hoa chỉ được truyền khẩu giữa các ngư phủ đảo Hải Nam từ giữa thời nhà Thanh, nhưng có thể chúng đã phát sinh từ một thời kỳ sớm hơn nhiều, ngay cả từ giữa nhà Minh. 73 Các chỉ nam lái thuyền Trung Hoa, như đã sẵn ghi nhận, cũng có thể bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi các truyền thống Ả Rập, như điều được hay biết rằng vào giữa thế kỷ thứ mười lăm một số bản đồ và sách hải hành Ả Rập đã sẵn được sử dụng cho Ấn Độ Dương và Biển Nam Trung Hoa. 74

    Trong những năm đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi, “truyền thống nhỏ bé” này của Trung Hoa đã công khai xuất hiện dưới hình thức một tổng hợp mười bảy cuốn hướng dẫn hải hành ngày nay được gọi là Các Bản Đồ Chỉ Đường ( Genglu bu 更路簿 Canh Lộ Bạ (hay Bộ) hay Shuilu bu水路簿 Thủy Lộ Bạ (hay Bộ). 75 Tác giả của các tập hướng dẫn này thì chưa rõ, ngay dù có một số các nhan đề tập hướng dẫn có kèm theo sau tên người người biên tập, hay đó là tên của cá nhân đã thụ đắc bản viết tay vào lúc cuộc nghiên cứu chính về đề tài này được thực hiện tại Trung Hoa hồi giữa thập niên 1970 (Xem Hình 1 mặt sau trang giấy).
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Hình 1: Bộ Sách Hướng Dẫn Về Các Hải Lộ

    Nhan Đề

    Nội Dung

    Các Hải Lộ Ghi Nhận

    Nơi Tàng Trữ

    Shunfeng de li


    (Wang Guozhang)

    Các hải lộ đến Paracels,Spratlys. Luồng nước theo mùa hải hànhBiển Đông (Paracels): 42


    Biển Bắc (Spratlys): 209

    Tổng số: 251

    South China


    Normal University

    Không nhan đề


    (Lin Hongjin)

    Hải lộ đến Paracels và Spratlys; Bản đồ các luồng nước biển.Biển Đông: 49


    Biển Bắc: 162

    Tổng số: 211

    Đại Học Sư Phạm Nam Hoa
    Zhuming Dongbei hai Genglu buHải lộ đến Paracels Spratlys và Pratas; Luồng nước hải hànhTổng số: 135Đại Học Sư Phạm Nam Hoa
    Donghai beihai Genglu bu


    (Li Genshen)

    Hải lộ đến Paracels Spratlys và Quảng ChâuTổng số: 151 (kể cả 112 hải lộ đi đến Spratlys)Đại Học Sư Phạm Nam Hoa
    Không nhan đề


    (Su Deliu)

    Hải lộ đến Paracels Spratlys và NanyangBiển Đông: 29


    Biển Bắc: 106

    Quảng Đông, Hải Nam, Bán Đảo Trung Nam, các hải lộ Nanyang: 54

    Tổng số: 189

    Nanyang Research Institute at Xia Men University, Guangdong Museum
    Không nhan đề


    (Xu Hongfu)

    Hải lộ đến Paracels, và East Spratlys (Macclesfield Bank?). Các luồng gió. Biển Bắc: 153


    dong sha tou: 67

    Tổng số: 220

    Institute of Aquatic Research, Hainan
    Dingluo Jingzhen wei


    (Yu Yuqing)

    Hải lộ đến Paracels và SpratlysBiển Đông: 35


    Biển Bắc: 65

    Tổng số: 100

    Viện Nghiên Cứu Nanyang ĐạiHọc Xiamen
    Xinansha Gengbu


    (Chen Yongqin)

    Hải lộ đến Paracels và SpratlysParacels: 16


    Spratlys: 83

    Tổng số: 99

    Viện Nghiên Cứu Nanyang ĐạiHọc Xiamen
    Qu xinan sha Shuilu buHải lộ đến Paracels và SpratlysParacels: 13


    Spratlys: 74

    Tổng số: 87

    Guangdong Museum
    Không nhan đề


    (Lu Honglan)

    Hải lộ đến Paracels và SpratlysBiển Đông: 66


    Biển Bắc: 120

    Tổng số: 186

    Guangdong Museum
    Không nhan đề


    (Peng Zhengka)

    Hải lộ đến Paracels và SpratlysBiển Đông: 17


    Biển Bắc: 200

    Tổng số: 217

    Guangdong Museum

    Các dân địa phương thường kiếm sống bằng nghề đánh cá và bắt rùa tại Biển Sulu, Eo Biển Kalimantan và hải phận Natunas, cũng như ở đường viền phía nam và tây nam Biển Nam Trung Hoa. Các ngư phủ từ phần phía bắc của biển này – Đảo Hải Nam và bờ biển đất liền Quảng Đông – đã sử dụng kiến thức hải hành phần lớn được truyền khẩu của họ cho các cuộc xâm nhập thường lệ hàng năm vào các Quần đảo Paracels và Spratlys. 76 Những kẻ đã dám mạo hiểm vào các vùng nguy hiểm này có thể tìm thấy tin tức tương đối chi tiết về các mùa tốt nhất để lái thuyền, vị trí của mỗi hòn đảo trình bày, các luồng nước lái thuyền và các thủy triều trong tập Bản Đồ Chỉ Đường. Điều mà các tập hướng dẫn này xem ra cũng phản ảnh rằng các ngư phủ Trung Hoa, chính yếu từ Hải Nam, đã kết hợp các phân khu khổng lồ của Biển Nam Trung Hoa và các quần đảo của nó như một vùng khai thác kinh tế bền vững trên một căn bản thường kỳ.

    Hiển nhiên, như các tập hướng dẫn hải hành, các nguồn tài liệu này (mà tác giả soạn thảo vẫn chưa được hay biết) không bao gồm tin tức về vai trò đóng giữ bởi các giới chức thẩm quyền của Quảng Đông hay Hải Nam trên các hoạt động đánh cá Trung Hoa. Vì thế, giá trị của chúng như các sự đóng góp vào sự phân tích lịch sử vấn đề chủ quyền các hòn đảo trong cuộc thảo luận phải được giữ ở mức tối thiểu. Mặc dù chúng có nêu lên rằng các hoạt động Trung Hoa đã xảy ra trong khu vực, chúng không đủ để hợp thức hóa quyền sở hữu, như thường được nêu ra trong các quyển lịch sử chính thức và hàn lâm hiện nay về cuộc xung đột. Tuy nhiên, các nguồn tài liệu này mở cánh cửa cho việc tiến tới sự thảo luận về “việc tìm hiểu khu vực” ở một trình độ sâu hơn, qua việc hậu thuẫn cho ý tưởng rằng các thế hệ ngư phủ Trung Hoa đã mạo hiểm vào các vùng biển nguy hiểm này, và ngay cả việc biến các hòn đảo đó thành nơi an nghỉ cuối cùng của họ.

    Các Nhận Định Chung Cuộc

    Trong lãnh vực luật quốc tế, các lập luận lịch sử của Trung Quốc (và Đài Loan) ngày nay về chủ quyền trên các đảo ở Biển Nam Trung Hoa đối chọi một cách trực tiếp với các lập luận của Việt Nam. Hà Nội tuyên xác rằng biển này (Biển Đông) [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], Paracels (Hoàng Sa) [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], và Spratlys (Trường Sa) [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] đã thuộc vào Việt Nam từ thế kỷ thứ mười bẩy. 77 Các bản đồ đánh dấu Paracels (khi đó gọi là Bãi Cát Vàng [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch]) được viện dẫn trở lùi đến thế kỷ thứ mười lăm. 78 Sự tuyên xác chính của Hà Nội về chủ quyền trên Paracels và Spratlys cho thấy các sự tương đồng với sự tuyên xác của Trung Quốc và của Đài Loan, đặc biệt từ đầu thế kỷ thứ mười chín khi, một cách giả định, chính quyền trung ương Việt Nam đã phê chuẩn các hoạt động của các ngư phủ và các toán khảo sát tại các hòn đảo. 79

    Tác giả này tin tưởng rằng để khởi sự gỡ rối cuộc xung đột các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa, giờ đây liên hệ đến Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei, cũng như Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam, cuộc thảo luận phải được đóng khung vào các diễn biến xảy ra từ cuối thế kỷ thứ mười chín hay đầu thế kỷ thứ hai mươi. Việc khảo sát các biến cố xa hơn vào quá khứ có tiềm năng bước vào lãnh vực huyền thoại – đặc biệt bởi các nguồn tài liệu Trung Hoa được đặc trưng bởi vô số lỗ hổng và sự im lặng – nơi các sự tự thuật tinh vi có thể kết tinh thành các lịch sử quốc gia chính thức không khoan nhượng. Với Trung Hoa, sự thành lập một căn cước đại dương được tô vẽ lại, liên hệ một cách trực tiếp đến cuộc xung đột này bằng các hành động được thực hiện bởi nhà nước Trung Hoa, có thể được truy tìm đến lúc khởi đầu của thế kỷ trước, như được thảo luận bởi tác giả này ở một bài nghiên cứu khác.80

    Biển Nam Trung Hoa, cho đến khi có Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến Lần Thứ Nhất, đã là một khu vực có tầm quan trọng tối cao, nơi các người Á Châu và Âu Châu tham gia vào mậu dịch triều cống và tư nhân, và nơi mà việc đánh cá và sự di dân đã xảy ra. Tuy nhiên, như được trình bày nơi đây, các hòn đảo và các bãi san hô của khu vực này còn lâu mới thuộc vào sự kiểm soát chính thức của Trung Hoa. Tại một khu vực hàng hải nơi mà các hoạt động kinh tế đã nảy nở, các hòn đảo Biển Nam Trung Hoa chỉ trở thành các điểm tham chiếu, cách xa các tuyến đường hải hành thường xuyên bởi có các sự quan ngại về an toàn. Các hòn đảo này xem ra cũng ở ngoài sự quản trị cụ thể, hữu hiệu của giới chức thẩm quyền Trung Hoa: chúng là các nơi chốn xa xôi và nguy hiểm, bị né tránh bởi các tàu lớn và các thuyền buồm mậu dịch (các dương thuyền). Tuy nhiên, chúng tiếp tục là các vùng đánh cá cho các thế hệ dân chúng địa phương kiếm sống ở đó. Mãi cho đến khi áp lực thực dân vươn lên đỉnh điểm trong vùng với sự hiện diện của người Anh, người Pháp và người Nhật trong cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, Biển Nam Trung Hoa mới tái xuất hiện như một khu vực có tầm quan trọng về mặt địa chiến lược. 81 Chỉ từ khi đó các giới thẩm quyền Trung Hoa mới biểu lộ một sự chú ý thực sự đến các hòn đảo, và chỉ từ khi có phiên tuần tra hải quân đầu tiên của Trung Hoa đến Paracels và Pratas năm 1909, tình trạng lưỡng phân “hay biết khu vực – cai quản khu vực” mới dần dần mờ nhạt. Về sau, dĩ nhiên, sự mập mờ này đã phục vụ cho mục đích chính trị cao hơn trong quyền lợi quốc gia của Trung Hoa. Chính vì thế, các chuyên gia luật quốc tế có một bổn phận phải khảo sát tài liệu lịch sử trong một cung cách cẩn thận, hầu mang lại các câu trả lời và các giải pháp khả dĩ chấp nhận được cho sự rắc rối lãnh thổ khó phân xử này./-

    ___
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    CHÚ THÍCH

    Tác giả xin cám ơn Tiến Sĩ Roderich Ptak và hai vị tham vấn vô danh về các ý kiến sâu sắc của họ về bài viết này. Tuy nhiên, mọi quan điểm bày tỏ thuộc phần trách nhiêm riêng của tác giả.

    1. Văn liệu về đề tài này thì phong phú, nhưng các nguồn tài tiếng Hán kể sau phải được lưu ý: Deng Ciyu, “Nan zhongguo hai zhudaoyu de zhuquan wenti” [Vấn Đề Chủ Quyền Các Đảo tại Biển Nam Trung Hoa], trênMingbao Yueban [Nguyệt San Mingbao], Tháng Năm 1974: 1-8; Zhang và Fang, Zhongguo haijiang tongshi [Tổng Sử về Các Khu Vực Duyên Hải và Lãnh Hải Trung Hoa] (Hangzhou: Zhongzhou guji chubanshe, 2003); Lu Yiran, biên tập,Nanhai zhudao, dili, lishi, zhuquan [Các Đảo Biển Nam Hải – Địa Lý, Lịch Sử và Chủ Quyền] (Harbin: Heilongjian jiaoyu chubanshe, 1992); Lu Yiran, biên tập, Zhongguo haijiang lishi yu xianzhuang yanjiu [Nghiên Cứu Hiện Trạng và Lịch Sử Biên Cương Trên Biển Của Trung Hoa] (Harbin: Heilongjiang jiaoyu chubanshe, 1995); Han Zhenhua, Woguo nanhaizhudao shiliao huibian [Các Nguồn Sử Liệu Về Các Đảo Biển Nam Hải của Tổ Quốc Chúng Ta] (Beijing: Dongfang chubanshe, 1998); Han Zhenhua, Nanhai zhudao shidi yanjiu [Nghiên Cứu Về Địa Lý Lịch Sử Biển Nam Hải] (Beijing: Shehui kexue wenxian chubanshe, 1996); Cheng Keqin, biên tập, Zhongguo nanhai zhudao [Quần Đảo Biển Nam hải, Trung Hoa] (Haikou: Hainan guojixinwen chubanshe, 1996); Guoli Zhongyang tushuguan Taiwanfengguan, Hainanji nanhai xueshu yantaohui lunwenji [Biên Bản Hội Nghị Hàn Lâm Về Đảo hải nam và Biển Nam hải] (Taipei: Wenshizhe chubanshe, 1996).

    Các nguồn tài liệu bằng Anh ngữ gồm: Bộ Ngoại Giao Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, China’s Indisputable Sovereignty Over the Xisha and Nansha Islands (Beijing: Foreign Language Press, 1980); Ji Guoxing, The Spratlys Disputes and Prospect for Settlement (Kuala Lumpur: Institute of Strategic and International Studies, 1992); Yang Tzou-Chow, Storm Over the South China Sea (New York: Center of Asian Studies, St. John’s University, 1995); Steven Kuan-Tsuh Yu, “Who Owns the Paracels and Spratlys? An Evaluation of the Nature and Legal Basis of the Conflicting Territorial Claims”, trong quyển Fishing in Troubled Waters, Proceedings of an Academic Conference on Territorial Claims in the South China Sea, đồng biên tập bởi R. D. Hill, Norman G. Owen, và E. V. Roberts (Hong Kong: University of Hong Kong, 1991); The-Kuang Chang, “China’s Claims of Sovereignty Over Spratly and Paracel Islands: A Historical and legal Perspective”, trong Tạp Chí Case Western Reserve Journal of International Law, 23:3 (Summer 1991): 399-420.

    2. Kể từ đầu thế kỷ thứ hai mưới, các sự tuyên nhận của Trung Hoa đã được sắp xếp một cách khác biệt bởi có chứng liệu về sự can thiệp trực tiếp hơn của chúng. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng một vài tác giả có đề cập đến năm 1902, chứ không phải 1909, như niên kỳ của sự tuần hải đầu tiên.

    3. Quyền chủ tể (sovereignty) được định nghĩa ở đây như “thẩm quyền tối thượng trong phạm vi một lãnh thổ”, địa hạt tài phán (jurisdiction) là “khu vực địa dư trên đó một bộ phận chính phủ có quyền lực và quyền hạn để hành xử thẩm quyền”; và “quyền bá chủ: suzerainty” như “vị thế hay thẩm quyền của một bá chủ” – một quốc gia thống trị kiểm soát các quan hệ ngoại giao của một nước chư hầu, nhưng cho phép nó có chủ quyền trong các vấn đề nội bộ của nó”.

    4. Khai niệm về quyền bá chủ được áp dụng tại Trung Hoa trong cả các quan hệ mậu dịch với “các kẻ man rợ” lẫn các nhà ngoại giao tiếp xúc với họ. Xem John K. Fairbank, “Introduction: The Old Order”, trong quyển The Cambridge History of China, biên tập bởi John Fairbank (Cambridge: Cambridge University Press, 1978), Tập 10, các trang 29-34.

    5. Trên bằng khoán, Malcolm Shaw phát biểu: “Từ ngữ này liên hệ đến cả các tình trạng sự kiện [tình] và pháp lý [lý] theo đó lãnh thổ được xem thuộc vào một thẩm quyền cá biệt này hay kia”. Malcolm N. Shaw, International Law, ấn bản lần thứ 3 (Cambridge: Cambridge University Press, 1991), trang 279.

    6. Nhiều tác phẩm tiếng Hán thảo luận về điểm này. Một danh mục tuyển chọn bao gồm: Zhongguo nanhai zhudao, các trang 266-87; Guangdong sheng diming weiyuanhui bianji, Nanhaizhudao diming ziliao huibian [Các Nguồn Tài Liệu Về Địa Danh Của Các Đảo Tại Biển Nam Hải] (Guangzhou: Guangdong ***u chubanshe, 1987), các trang 62-139; Han, Woguo nanhaizhudao, các trang 366, 400-42; Han, Nanhai zhudao shidi yanjiu, trang 81; Lin Jinzhi, “Zhongguo zuizao faxian, jingying he guangxia nanhai zhudao de lishi” [Lịch Sử Sự Khám Phá Đầu Tiên Của Trung Hoa, Tổ Chức Hành Chính và Sự Kiểm Soát Các Đảo Biển Nam Hải] trong sách của Lu, Nanhai zhudao, dili, lishi, zhuquan, các trang 27-40); Lu Yiran, “Rishang Xize jici qiangzhan dongsha qundao yu zhongri jiaoshe” [Sự Chiếm Cứ Quần Đảo Pratas bởi Nhà Mậu Dịch Nhật Bản Yoshiji Nishizawa và Các Cuộc Thương Nghị Trung Hoa – Nhật Bản] trong sách của Lu, Zhongguo haijiang lishi, các trang 90-4; Tao Cheng, “The Disputes over the South China Sea Islands”, Texas International Law Journal 10 (1975), các trang 265-277; Guo Zhengan, “Nanhaizhudao de kaifazhe” [Các nhà Phát Triển Các Đảo Biển Nam Hải], trong Guoli zhong-yang tushuguan Taiwan fenguan, Hainan ji nanhai, các trang 471-510.

    7. Zhou, Qufei, Lingwai daida [Lĩnh Ngoại Đại Đáp] (Baibu congshu jicheng, biên tập, Taipei: Yiwen yinshuguan, 1966), 1:13b-14a. Tác giả Roderich Ptak vạch ra rằng hẳn là nhầm lẫn khu vực khổng lồ này với cái được gọi là Biển Đông Nam (Dong Nan Hải 東南海 Đông Nam Hải), xem “Quanzhou: at the Northern Edge of a Southeast Asian “Me***erranean”, trong sách của Ptak, China, the Portuguese, and the Nanyang: Oceans and Routes, Regions and Trade (c. 1000 – 1600) (Aldershot: Ashgate Variorum, 2004), các trang 408-9.

    8. Zhao Rugua, Zufan zhi: Chư Phiên Chí (Congshu jicheng, biên tập, Shanghai: Shangwu Yinshuguan chubian, 1937), 2:1.

    9. Zhao, Zufan zhi, 2:7.

    10. Ptak, “Quanzhou”, trang 415.

    11. Chen Dazhen, Dade nanhaizhi [Đại Đức Nam Hải Chí] (Song-yuan fangzhi congkan, biên tập, Beijing: Zhonghua shuju, 1990), Vol. 8, 7:18b-20b).

    12. Ptak, “Sudostasiens Meere nach chinesischen Quellen (Song und Yuan)”, và “Quanzhou”, cả hai trong sách của Ptak, China, the Portuguese, and the Nanyang, các trang 17-21, 413-14).

    13. Wang Dayuan, Daoyi zhilue [Đảo Di Chí Lược] (Beijing: Zhonghue shuju, 1981), các trang 214, 218.

    14. Cùng nơi dẫn trên, trang 318. Các hòn đảo san hô này, phần lớn xác xuất là Quần Đảo Paracels, được đặt nơi Đoạn 81, một con số có thể ám chỉ một số ý nghĩa tế nhị hay bí truyền. Con số 81 được liên kết trong truyền thống Trung Hoa với số vẩy đực của con rồng (biển?) — điều này có thể cho thấy rằng đây là những hòn đảo nguy hiểm cho các người đi biển. Tác giả Ptak nêu câu hỏi là liệu hình ảnh từ con số này có thể để chỉ một con rồng khổng lồ hay không. Muốn có một sự phân tích về các hàm ý khả hữu của sự sắp xếp con số của nguồn tài liệu thời nhà Nguyên này, xem Ptak, “Quanzhou”, trang 418. Cũng xem Roderich Ptak, “Glosses on Wang Dayuan’s Daori zhilue (1349/50)”, trong quyển Récits de voyage des Asiatiques, Genres, mentalities de l’espace, biên tập bởi Claudine Salmon (Paris: École Franҫaise d’Extrême-Orient, 1996), các trang 127-141).

    15. Theo các nhà biên niên sử Hồi Giáo thế kỷ thứ mười Abu Zaid Hassan al Sirafi và Abu Dulaf, và theo Abu al-Fida Isma’il ibn Ali (1273-1331) địa điểm Kalah (the Qadah và Keda của Ibn al-Majid và Sulaiman al-Mahri, một cách lần lượt) được xem là điểm giữa của con đường Ả Rập nằm giữa Trung Hoa và Ceylon (Tích lan) sau hết đã dẫn tới Oman. G. R. Tibbetts, “The Malay Peninsula as Known to the Arab geographers”, Malayan Journal of Tropical Geography 9 (1956): 21-60, các trang 24, 27, 31. Chính thành phố (hay hòn đảo) phía tây bán đảo Mã Lai này là nơi tuyến đường đến Ấn Độ đã thực sự khởi hành đối với các thủy thủ Ả Rập, đặc biệt sau khi các hoạt động mậu dích trực tiếp của họ di chuyển về phía tây từ miền nam Trung Hoa sang bờ phía đông của bán đảo Mã Lai. Sự kiện này đã xảy ra trong thế kỷ thứ mười, sau khi quân nổi dậy Huang Chao 黃巢 Hoàng Sào đã công khai tàn sát đến 200,000 người Ả Rập, các người theo đạo Thiên Chúa và đạo Zoroastrians trong khi chiếm giữ Quảng Châu vào năm 879. Paul Lunde, “The Seas of Sindbad”, Saudi Aramco World 65, 4 (July/August 2005): 20-29,http://www.saudiaramcoworld.com/issue/200504/the.seas.of.sindbad.htm, tiếp cận June 2008. Hồi Giáo tại Đông Nam Á và các hàm ý của nó trên mậu dịch liên vùng, tuy thế, phần lớn nằm ngoài chủ đề của bài khảo cứu này, và các nhà đia dư học Ả Rập được đề cập đến ở đây cho đầy đủ. Muốn có một sự giới thiệu tổng quát, xem H. J. De Graff, “South-East Asian Islam to the Eighteenth Century”, trong quyển The Cambridge History of Islam, biên tập bởi P. M. Holt, Ann K. S. Lambton và Bernard Lewis (Cambridge: Cambridge University Press, 1970), Vol. 2a, các trang 123-54.

    16. Muốn có bản phiên dịch Ya’qub, xem Gabriel Ferrand, Relations de voyages et textes géographiques arabes, persans et turks, relatifs à l’Extrême-Orient du VIIIe au XVIIIe siècles (Frankfurt am Main: J. W. Goethe Universitat, Institut fur Geschichte der Arabisch-Islamischen Wissenschaften, 1986), trang 50.

    17. Quyển Overall Survey of the Oceans’ Shores (Doanh Nhai Thắng Lãm) [của Mã Hoan] từ lâu được xem có niên kỳ là 1433. Tuy nhiên, giờ đây điều được chấp nhận bởi nhiều học giả rằng hình thức xác định của tác phẩm này là từ năm 1451, bảy năm sau khi bản thảo đầu tiên được hoàn tất. Xem Wan Ming, “Ming chaoben Yingya shenglan yu Zheng He baochuan chidu” [Quyển “Doanh Nhai Thắng Lãm” thời nhà Minh và Sự Đo Lường Các Bảo Thuyền Của Trịnh Hòa] trong tờ Zhongguo shehui kexueyuan bao [Tập san Hàn Lâm Viện Trung Hoa Về Khoa Học Xã Hội], 7 Tháng Bảy 2005, http://www.guoxue.com/ws/html/zuixinfabu/20050708/238.html, tiếp cận Tháng Bảy 2008. Cũng xem Paul Pelliot, “Les grands voyages maritimes Chinois au début du XVe siècle”, ấn bản tiếng Hán trongZheng He xia xiyangkeo / Jiao Guang Yindu liang dao kao [Về Sự Hải Hành Của Trịnh Hòa đến Biển Tây Dương/ Ngiên Cứu về Các Đường Biển Việt Nam-Trung Hoa-Ân Độ], phiên dịch bởi Bo Xihe và Feng Chengjun (Beijing: Zhonghua shuju, 2003), các trang 15-32.

    18. Theo nhà Minh, các nhà địa dư học Ả Rập thừa nhận toàn thể phía đông Bán Đảo Mã Lai, kể cả Vịnh Thái Lan và Biển Nam Trung Hoa (South China Sea), là thuộc vào khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa, hay “Đại Trung Hoa: Greater China” (al Sin wa Ma’l Sin; một từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Phạn (Sanskrit Cina Mahacina, và từ tiếng Ba Tư (Persian) Chin Machin). Một sự tham khảo từ bản văn năm 1511 bởi Sulaimanb. Ahmadal-Mahri, Al-‘Umdat al-Mabriyah fi Dabt al-‘Ulum al-Najmiyah (MSS file 2559), có xác định một vùng bao la như thế, được tìm thấy trong sách của Tibbets, “The Malay Peninsula”, trang 48. Xem chú thích số 75 trong bài viết này.

    19. Có một tài liệu trong quyển Yingya Shenglan (Doanh Nhai Thắng Lãm) về Nanboli (23a) chỉ một điểm phân chia tại Maoshan帽山, ngày nay là Pulau Weh, Indonesia (khoảng 5’54 bắc vĩ tuyến, 95’13 đông kinh tuyến), về Samudra-Pasai (19b), về Shepo (3a) và bài thơ kỷ niệm (2a). Cũng xem, Zhang Sheng, Gaizheng Yingya Shenglan[Cải Chính Doanh Nhai Thắng Lãm] (Taipei: Guangwen shuju, 1969), trang 191, và Feng Chengjun, Yingya Shenglan jiazhu, Ma Huan zhuan [Doanh Nhai Thắng Lãm, của Mã Hoan] (Shanghai: Shangwu yinshuguan, 1937), trang 74.

    20. Xingcha Shenglan: Tinh Sai Thắng Lãm, 1:5a; Yingya Shenglan, 4a. Tuy nhiên, Kunlunshan có thể được xác định trong các nguồn tài liệu khác là Kalimantan. Muốn có một sự phân tích các tên gọi các đảo trong vùng này và các biến thể, xem Chen Jiarong, Gudai nanhai diming huishi [Các nguồn tài liệu về Đia Danh Xưa của Biển Phương Nam] (Beijing: Zhonghue shuju, 1986).

    21. Về sự phân chia “Đông Dương: Eastern Ocean” và “Tây Dương: Western Ocean” tại Brunei (một vị trí khác biệt với các nguồn tài liệu khác), xem Mingshi [Minh Sử] (Beijing: Zhonghua shuju, 1974), 3238378.

    22. Huang Zhong Hoàng Trung, Haiyu [Hải ngữ; ngôn ngữ của biển] (Zhongguo nanhai zhuqundaowenxian huibian, biên tập, Taipei: Taiwan xuesheng shuju, 1975), 3:1b-2a.

    23. Xem bản đồ nhan đề “Xinanhai yi tu” và bản đồ Mao Khôn trong sách của Mao Yuanji, Webei Zhi [Khảo Luận về Sự Chuẩn Bị Quân Sự] (Zhongguo Bingshu jicheng, biên tập, Beijing: Jiefang chubanshe, 1989), 222:11b, 240: 10b-11a. Sự xác định tên gọi các bãi san hô ngầm và sự biến đổi chúng đã trải qua có thể được tìm thấy trong sách của Hàn, Nanhai zhudao shidi yanjiu, các trang 1-51.

    24. Huang Shengceng: Hoàng Tỉnh Tăng, Xiyang chaogong dianlu [Tây Dương Triều Cống điển lục] (Congshu jicheng, biên tập, Beijing: Zhonghua shuju, 1991), các trang 3, 13, 21.

    25. Zhang Xie (Trương Nhiếp), Dongxi yangkao [Đông Tây Dương Khảo: nghiên cứu về biển Đông và Tây] (Wang Qizong, biên tập, 1618).

    26. Cùng nơi dẫn trên, 5:16a, 3:18b.

    27. Bản đồ Dongxi nanhai yizhuguo zongtu [Bản Đồ Tổng Quát Tất Cả Các Nước Man Rợ Tại Các Biển Đông, Tây và Nam] và bản đồ Dongnan haiyang zhuyiguo tu [Bản Đồ Tổng Quát Tất Cả Các Nước Man Rợ Của Biển Đông Nam] – cả hai từ quyển Dongxi yangkao, Đông Tây Dương Khảo – cho thấy một khoảng trống bao la nằm giữa biển Nam Hải, nơi mà các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải tọa lạc ở đó.

    28. Xiang Da, Liangzhong haidao zhenjing: Xunfeng xiangsong, Zhinan zhengfa [Hai Quyển Kinh Điển Về Hải Hành Bằng Địa Bàn: Các Luồng Gió Thuận Lợi để Hộ Tống và Các Chiều Hương của Phương Nam] (Beijing: Zhonghua shuju, 1961), các trang 27-8.

    29. Tang Zhou, Zhengde qiongtai zhi [Từ Điển Địa Dư Thời Trị Vì Zhengde] (Tianyige cang Mingdai fangzhi xuankan biên tập, Shanghai: Shanghai guji shudian, 1964), 21:8b-9a.

    30. Chen Lunjiong: Trần Luân Quýnh, Haiguo wenjianlu [Hải Quốc Văn Kiến Lục] (Zhongguo nanhai zhuqundao wenxian huibian, biên tập), 1:13a-18a, 19a-27b, 38a-4ob. Cũng xem Han, Nanhai zhudao shidi yanjiu, các trang 1-50 và bản đồ Sihai zongtu 四海總圖 Tứ Hải Tổng Đồ, được in lại trong sách đồng biên tập bởi Go Bon Juan và Joaquin Sy, The Philippines in Ancient Chinese Maps (Makati City: Kaisa Para Sa Kaunlaran Inc., 2000), trang 65.

    31. Xiang, Liangzhong haidao zhenjing, trang 117. Về nhóm đảo Pratas, xem trang 155.

    32. Xie Qinggao, Hailu [Các Tài Liệu Hàng Hải] (Zhongguo nanhai zhuqundao wenxian huibian, biên tập).

    33. Xie, Hailu, 35a.

    34. Xem bản đồ thế giới của ông và bản đồ Dongnanyang geguo yange tu [Bản Đồ Tu Sửa Các Nước ở Biển Đông Nam] trong sách của Wei Yuan, Haiguo Tuzhi [Từ Điển Địa Dư Có Minh Họa của 60 Nước Hàng Hải, 60 tập (Taipei: Chengwen chubanshe, 1967).

    35. Xem bản đồ Nanyang gedao tu [Bản Đồ Tất Cả Các Đảo Trong Biển Phía nam] trong sách của Xu Jiyu,Yinghuan Zhilue [Doanh Hoàn Chí Lược, Các Ghi Chép Lặt Vặt về Hải Hành] được in lại trong Quanguo gonggong tushuguan guji wenxian bianweihui, Yinghuan zhilue. Hanghai suoji [Doanh Hoàn Chí Lược, Các Ghi Chép Lặt Vặt về Hải Hành] (Beijing: Zhonghua quanguo tushuguan wenxian suowei fuzhi zhongxin, 2000), 2:32. Cũng xem, bản đồDongnanyang geguo yange lu trong sách của Go và Sy, The Philippines in Ancient Chinese Maps, trang 56.

    36. Cũng xem 1841 Hainan Local Gazetteer (Qiongzhou fuzhi 瓊州府志Quỳnh Châu Phủ Chí) trong sách của Ming Yi và Zhang Yuesong, Guangdong sheng qiongzhou fuzhi (I), 1841 (1890) [Từ Điển Địa Dư Hải Nam, tỉnh Quảng Đông] (Zhongguo fangzhi congshu, biên tập, Taipei: Chengwen chubanshe, 1967), 3:1a.

    37. Các sự tham chiếu đến Quần Đảo Paracels vẫn còn mơ hồ trong lịch sử địa phương Quảng Đông mãi cho đến thời vua Đồng Trị (Tongzhi, 1862-1874). Xem Mao Hongbin, Guangdong sheng Guangdong tushuo [Các sự Trình Bày Có Minh Họa Tỉnh Quảng Đông] (Zhongguo fang zhi congshu, biên tập, Taipei: Chengwen chubanshe, 1967), 17: 3b.

    38. Guangdong sheng qiongzhou fuzhi, 17:5b-6a.

    39. Sự phân loại này cũng liên quan đến sự kiểm soát và đánh thuế trên các hoạt động thuyền buồm bởi các nhà chức trách Quảng Đông và Phúc Kiến. Về việc này, xem Jennifer Wayne Cushman, Fields From The Sea: Chinese Junk Trade with Siam During The Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries (Ithaca: Cornell University, Southeast Asia Program, 1993), các trang 45-7.

    40. Lo Jung-pang, “The Decline of the Early Ming Navy”, Oriens Extremus 5 (1958): 149-68.

    41. Ni Jianmin, Hai yang zhongguo [Hải Dương Trung Quốc] (Beijing: Guoji guangbo chubanshe, 1997), trang 632.

    42. Roderich Ptak, “The Northern Trade Route to the Spice Islands: South China Sea – Sulu Zone – North Moluccas (14th to early 16th Century)”, Archipel 43 (1992), được in lại trong sách của Roderich Ptak, China’s Seaborne Trade with South and Southeast Asia (1200-1750) (Aldershot: Ashgate Variorum, 1999), trang 36.

    43. Về Phúc Kiến, xem Ming shilu (Minh Thực Lục) năm Hongwu 洪武 thứ 21, Tháng 2, Ngày 4 (12 Tháng Ba 1388). Về Guangdong, xem Xuande 宣德 [Tuyên Đửc] năm thứ 7, Tháng 2, Ngày 1 (2 Tháng Ba 1432), Jiajing [Gia Tĩnh] năm 43, Tháng 6, Ngày 8 (15 Tháng 7, 1564. Về các chính sách chống lại quân hải tặc Đông Nam Á, xem Hong Zhi 弘治[Hoằng Trị] năm 1, Tháng 3, Ngày 6 (17 Tháng Tư 1488). Tất cả các tài liệu từ Minh Thực Lục lấy từ bản dịch của Geoff Wade, Southeast Asia in the Ming Thi Lu: An Open Access Resource (Singapore: Asia Research Institute và the Singapore E-Press, National University of Singapore) http://epress.nus.edu.sg/msl, tiếp cận trong Tháng Sáu 2008. Muốn có một sự trình bày chi tiết về các cuộc tấn công của Wako tại vùng Hải Nam thời sơ Minh, xem Guangdong sheng qiong zhou fuzhi (1) 19: 1a-38a.

    44. Zhang và Fang, Zhongguo haijiang tongshi, các trang 262, 284.

    45. AnJing, Zhongguo gudai haijiang shigang [Trung Quốc Cổ Đại Hải Cương Sử Cương] (Harbin: Heilongjiang jiaoyu chubanshe, 1999), trang 206. Charles O. Hucker, “Ming Government”, trong quyển The Cambridge History of China, biên tập bởi Frederick W. Mote và Denis Twitchett (Cambridge: Cambridge University Press, 1988), Vol. 8, các trang 54-70. Wan Rigen, Ming qing haijiang zhengce yu zhongguo shebui fazhan [Chính Sách Biên Giới Trên Biển của Thời Nhà Minh – Thanh vã Sự Phát Triển Xã Hội của Trung Hoa] (Fuzhou: Fujian remin chebanshe, 2006), trang 42.

    46. Zhang và Fang, Zhongguo haijiang tongshi, trang 288.

    47. Zhang và Fang, Zhongguo haijiang tongshi, trang 277.

    48. Ming shilu, Xuande 10, Tháng 7, Ngày 20 (13 Tháng Tám 1435).

    49. Ming shilu, Jiajing 15, Tháng 7, Ngày 29 (15 Tháng Tám, 1536).

    50. Zhang và Fang, Zhongguo haijiang tongshi, trang 265. Tiến trình này đã khởi sự khi chính quyền của vị hoàng đế nhà Minh đầu tiên ra lệnh dời cư dân khỏi các khu vực duyên hải. Xem Lo Jung pang, “The Decline of the Early Ming Navy”, trang 163.

    51. Như là một khái niệm, vùng này bao gồm cả Nanyang [Nam Dương] được xem là một khu vực nơi vài hoạt động của Trung Hoa đã phát triển, chẳng hạn như các sự di dân và mậu dịch, chủ yếu ngang qua Biển Nam Trung Hoa. Theo đó, và theo ý kiến của tác giả Wang Gungwu, Nanyang đã không được gồm vào toàn bộ Đông nam Á, nhưng đúng hơn bờ biển Nam Trung Hoa đến các lãnh thổ duyên hải kề cận, kể cả những phần đã là, khi tác giả Wang viết ra, Indonesia [Nam Dương], Borneo Thuộc Anh Quốc, các tiểu bang Mã Lai (và Singapore) và Phi Luật Tân. Xem Wang Gungwu, “The Chinese in Search of a Base in the Nanyang”, Journal of the South Seas Society XIV, 1-2 (December 1958), trang 88.

    52. Geoff Wade, Ming China and Southeast Asia in the 15th Century: A Reappraisal, Singapore Asia Research Institute Working Paper No. 28 (Singapore: Asia Research Institute, 2004),http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps04_028 pdf, tiếp cận hồi Tháng Sáu 2007, trang 6. Cũng xem, Stephen Chang Tseng-Hsin, Mingli dongnan zhongguo de haishang buodong (Các Hoạt Động Hàng Hải tại Bờ Biển Đông Nam của Trung Hoa trong phần sau của nhà Minh, VER/Dynasty [? Không rõ nghĩa, ND] (Taipei: Silidongwu daxue zhongguo xueshu zhuzuo jiangshu weiyuanhui, 1988), các trang 8-11.

    53. Zhang, Mingli dongnan zhongguo, các trang 12-16. Ray Huang, “The Lung-ch’ing and Wan-li reigns, 1567-1620, trong sách đồng biên tập bởi Frederick W. Mote và Denis Twitchett, The Cambridge History of China(Cambridge: Cambridge University Press, 1988), Vol. 7, trang 559. Wang, Ming Qing haijiang zhengce, trang 85.

    54. Wang, Ming Qing haijiang zhengce, các trang 99, 390, 398. Cũng xem James Geiss, “The Chia-Ching Reign, 1522-1566”, trong sách của Mote, The Cambridge History of China, Vol. 7, các trang 466-505. Về vấn đề nạn hải tặc Nhật Bản giữa thời nhà Minh, cùng xem So Kwan-wai, Japanese Piracy in Ming China during the 16th Century(East Lansing: Michigan State University Press, 1975).

    55. Wang Gungwu, “Ming Foreign Relations: Southeast Asia”, trong sách bie6n tập bởi Mote và Twichett, The Cambridge History of China, Vol. 8, trang 307.

    56. An, Zhongguo gudai haijiang shigang, trang 246.

    57. Wang, Ming Qing haijiang zhengce, trang 197.

    58. Jane Kate Leonard, Wei Yuan and China’s Rediscovery of the Maritime World (Cambridge: Harvard University Press, 1984), trang 69.

    59. Cùng nơi dẫn trên, các trang 212, 225. Bất kể chính sách này, ngay từ rất lâu trước cuối thời nhà Minh khoảng giữa thế kỷ thứ mười bảy, các thuyền buồm Trung Hoa vẫn tiếp tục đi lại giữa Phúc Kiến và Quảng Đông với Đông nam Á, tham gia vào các sự di chuyển mậu dịch và di dân với Việt Nam, Indonesia, toàn thể Bán Đảo Mã Lai, và Phi Luật Tân. Xem Akira Matsuura, “Shindai no kaiyoken to kaigai imin” [Lãnh Vực Hàng Hải và Di Dân Hải Ngoại Thời Nhà Thanh], Ajia kara kangaeru – 3:Shuen kara no rekishi [Các Suy Tưởng Từ Á Châu, Số 3, Lịch Sử Từ Vùng Ngoai Vi], đồng biên tập bởi Yuzo Mizoguchi, Takeshi Hama****a và các tác giả khác (Tokyo: Tokyo digaku shuppansha kai, 1994), trang 166. Về hoạt động mậu dịch thuyền buồm Trung Hoa với Thái Lan, xem Cushman,Fields From the Sea.

    60. Wang, Ming Qing haijiang zhengce, các trang 155, 435.

    61. Zhang, Zhongguo haijiang, trang 311. Wang, Ming Qing haijiang zhengce, các trang 144-49, 153. Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, sự xuất cảnh cũng được thúc đẩy bởi sự đánh thuế gia tăng áp đặt trên dân chúng tại các vùng duyên hải. Nói chung, trong thời nhà Minh và nhà Thanh, sự di dân xuống Nanyang được thực hiện bởi những kẻ kẻ hoặc chống đối chính quyền hay bởi các thương nhân đi tìm các cơ hội tôt hơn nằm ngoài lãnh vực của sự kiểm soát chính thức của Trung Hoa. Đã có số ước lượng rằng tính đến cuối thời nhà Minh, khoảng 70,000 đến 80,000 người Trung Hoa đã sẵn là các thường trú nhân tại Đông và Đông Nam Á. Xem Wang, Ming Qing haijiang zhengce, các trang 401, 408, 414.

    62. Cùng nơi dẫn trên, trang 195.

    63. Muốn có một sự nghiên cứu cổ điển về hai thời kỳ đó, xem Jung Pang-Lo, “The Emergence of China As a Sea Power During the Late Song and Early Yuan Periods”, The Far Eastern Quarterly 14.4 (August 1955): 489-503.

    64. Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea (New York: Methuen, 1982), các trang 22-5.

    65. Vào các thế kỷ thứ mười hai và mười ba, mậu dịch hàng hải tư nhân đã phát triển ở Miền Bắc Việt Nam tại Vịnh Bắc Phần, nhơ các thương nhân Trung Hoa, Việt Nam và Hồi Giáo là các kẻ đã sử dụng tuyến đường mậu dịch phía tây của Biển Nam Hải, nối liền Giao Chỉ Dương và Biển Nam Hải. Xem Li Tana, “A View From the Sea: Perspectives on the Northern and central Vietnamese Coast”, Journal of Southeast Asian Studies 37.1 (February 2006): 83-102.

    66. Ptak, “The Northern Trade Route”, trang 39. Các khám phá khảo cổ gần đây đã phát hiện sự hiện diện của một truyền thống hải vận Trung Hoa – Đông Nam Á hỗn tạp tại phần phía nam của Biển Nam Trung Hoa. Xem Pierre Yves Manguin, “Trading Ships of the South China Sea”, Journal of the Economic and Social History of the OrientXXXVI (1993): 253-80. Cũng xem Geoff Wade, Pre-Modern East Asian Maritime Realm: An Overview of European-Language Studies, Asia Research Institute Working Paper No. 16, (Singapore: Asia Research Institute, 2003,

    “>http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps03_016pdf>;, tiếp cận trong Tháng Sáu 2008, các trang 7, 17-20.

    67. Về các khái niệm này – Renkai chiiki 運[?]海地域 vận[?] hải địa vực, Kankai chiiki 環海地域 hoàn hải địa vực, và Enkai chiiki 沿海地域 diên (hay duyên) hải địa vực [trong nguyên bản gồm các tiếng Nhật đã phiên âm kèm theo các Hán tự, có thể có sự sai lầm khi ký tự âm Renkai từ tiếng Nhật sang Hán tự, (thiếu mất một nét trong chữvận[?]), người dịch ức đoán là vận hải, chú của người dịch] — xem Takeshi Hama****a, “Chiseiron, tochishi kara mita chiiki tobnkaiiki [Về địa chính trị: Các Khu Vực Đất Liền và Biển Nhìn Theo Lịch Sử Quản Lý] trong quyển Shihai no chiiki shi [ Lịch sử Các Khu Vực Của Sự Kiểm Soát], biên tập bởi Takeshi Hama****a và Minoru Kawakita (Tokyo: Yamagawa shuppansha, 2000), trang 113.

    68. Trong quyển Doanh Nhai Thắng Lãm (Overall Survey of the Ocean’s Shores), có một sự đề cập đến một địa điểm được gọi là fuqingluo浮青螺Phù Thanh Loa (xem bài thơ kỷ niệm, trang 2a). Theo ý kiến của giới học thuật Trung Hoa nói chung, địa điểm này có thể là cùng nơi chốn của jiuruluozhou九乳螺州 Cửu Nhũ Loa Châu hayjiuruluoshi九乳螺石Cửu Nhũ Loa Thạch, trong một tác phẩm thời Bắc Tống nhan đề Sưu Tập Các Kỹ Thuật Quân Sự Quan Trọng Nhất) (Wujing zongyao武經總要Vũ Kinh Tổng Yêu) nói đến một tên gọi cổ xưa dành cho Paracels. Tuy nhiên, theo tác giả Ptak, cũng có thể một sự tham chiếu như thế không tương ứng với các hòn đảo đó gì cả. Về cuộc tranh luận này, xem Guangdongsheng diming ziliao huibian, các trang 154-1955. Về tác giả Ptak, xem “The Coral Islands in the South China Sea According to Chinese Sources (Song to Minh)”, trong sách biên tập bởi Avelino de Freitas de Meneses, Portos, Escalas e libéus no Relacionamento entre o Ocidente e o Oriente. Actas do Congresso Internacional Comemorativo do Regresso de Vasco da Gama a Portugal, libras Terceira e S. Miguel (Aҫore) (Lisboa: 2 vols., sl, Universidade dos Aҫore/Comissӓo Nacional para as Comemoraҫões dos Descobrimentos Portugueses, 2001, University of the Azores/National Commission for the Commemoration of the Portuguese Discoveries, 2001), Vol. II, các trang 337-58, và “Die Paracel- und Spratly-Inseln in Sung, Yuan-und frühen Ming-Texten”: Ein maritimes Grenzgebiet?”, trong quyển China and Her Neighbors: Borders, Visions of the Other, Foreign Policy, 10th to 19th Century, đồng biên tập bởi Sabine Dabringhaus và Roderich Ptak, South China and Maritime Asia series, Vol. 4, (Wiesbaden: Harrassowitz Veralg, 1977), các trang 159-81.

    69. Về vấn đề này, xem Nanhaizhudao diming ziliao huibian, cũng như tác giả Han, Woguo nanhaizhudao, các trang 795 [-?].

    70. Fernand Braudel, La Mé***erranée et le Monde Mé***erraanéen à l’époque de Philippe II, ấn bản lần thứ nhì (Paris: Armand Colin, 1966), Tập 1, các trang 94-152.

    71. Một sự phân tích các bản đồ Âu Châu tương ứng với thời nhà Minh và đầu hay giữa nhà Thanh sẽ không được thử nghiệm trong bài viết này. Muốn có một sự giới thiệu về một số bản đồ tiêu biểu phác họa khu vực Biển Nam Trung Hoa, xem Tatsuo Urano, Nankai shoto kokusai funso shi [Cuộc Xung Đột Quốc Tế Trên Biển Nam Trung Hoa: Lịch Sử, Phân Tích và Các Tài Liệu], (Tokyo: Tosui shobo, 1997), các trang 135-46.

    72. Xem Geoff Wade, “A Maritime Route in the Vietnamese Text “Xiêm-La Quốc-Lộ-Trình Tạp-Lục”, trong quyểnCommerce et Navigation en Asie du Sud-Est, XIVe – XIXe siècle, đồng biên tập bởi Nguyễn Thế Anh và Yoshiaki Ishizawa (Tokyo: Sophia University, 1999), các trang 137-70.

    73. Một số trong các nguồn tài liệu tiếng Hán được đề cập đến trong bài khảo luận này đã có mục đích nước đôi trong khi trình bày các vùng đất của Đông Dương (Eastern Ocean) và Tây Dương (Western Ocean), cũng để trở thành các sự chỉ dẫn, hay bản đồ lộ trình, để đến các nơi đó. Các tài liệu các Thuận Phong Tương Tống, Chỉ Nam Chính Pháp và Hải Quốc Quảng Ký Haiguo Guangji海國廣記 là một vài thí dụ. Xem Shen Moushang, Haiguo guangji, trong sách của Zheng Housheng và Zheng Yiyun, Zheng He xia xiyang ziliao huibian [Các Nguồn Tài Liệu Lịch Sử về Các Chuyến Du Hành Của Trinh Hòa đến Biển Tây Dương] (Jinan: Qilu shushe, 1980), các trang 306-27).

    74. Thư Viện Quốc Gia (Bibliothèque nationale) tại Paris có hai tập viết tay hải hành Ả Rập quan trọng, một từ Shihab al-Din Ahmad ibn Majid (MSS file Arabe 2292, niên kỳ 1462), tập kia từ Sulaiman b. Ahmad al-Mahri (MSS file Arabe 2559, niên kỳ 1511). Xét rằng tại miền Nam Trung Hoa, đặc biệt tại đảo Hải Nam, có các cộng đồng Hồi Giáo quan trọng, rất có thể là các tập chỉ đường này và các tập chỉ dẫn lái thuyền khác đã được sử dụng bởi các thủy thủ Hồi Giáo Trung Hoa. Về các tập viết tay này, xem Gabriel Ferrand, Instructions nautiques et routiers arabes et portugais des XVe et XVIe siècles / T. 3: Introduction à l’astronomie nautique arabe (Paris: P. Geuthner, 1921-1928), các trang 198-248. Tibbetts, “The Malay Peninsula as Known to the Arab geographers”, các trang 47-57.

    75. Nanhaizhudao diming ziliao huibian, các trang 88-140. Sự đo lường của Trung Hoa và Việt Nam về khoảng cách chèo thuyền cho thấy một sự tương đồng đáng chú ý, dùng cả hai đơn vị Geng (Trung Hoa) và Canh (Việt Nam) cho khoảng cách tương đương với 60 li Trung Hoa. Cheng, Zhongguo nanhai zhudao, trang 28), Wade, “A Maritime Route in the Vietnamese Text”, trang 170.

    76. Theo sự nghiên cứu được thực hiện tại Trung Hoa trong thập niên 1970, bản đồ lộ trình của Su Deliu được đặt theo tên một ngư phủ từ đảo Hải Nam là kẻ, vào khoảng 1921 (khi anh ta ở tuổi mười ba) đã có được văn bản này chưa được đặt tên từ tổ tiên của anh ta. Cùng câu chuyện được lập lại trong trường hợp bản đồ lộ trình của Lu Honglan, vốn là tên của một ngư phủ Hải Nam khác sinh ra trong năm 1900, kẻ đã nhận được các chỉ dẫn lái thuyền nguyên thủy từ các thân nhân. Trong trường hợp bản đồ lộ trình của Peng Zhengka, điều được hay biết là anh ta đã ở Spratlys (Trường Sa) khi người Pháp chiếm đóng chín trong số các hải đảo này trong năm 1933, xemNanhaizhudao diming ziliao huibian, các trang 124-125. Về sự chiếm đóng của Pháp năm 1933, xem Han, Nanhai zhudao shidi yanjiu, các trang 104-115; Stein Tonnesson, “The South China Sea in the Age of European Decline”,Modern Asian Studies 40, 1 (2006): 3-8; Ulises Granados, “As China Meets the Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937”, Pacific Affairs 78, 3 (Fall 2005): 451-452.

    77. Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa, White Papers on the Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) Islands (Sàigòn: Ministry of Foreign Affairs, 1975), trang 16. Lưu Văn Lợi, The Sino-Vietnamese Difference on the Hoàng Sa and Trường Sa Archipelagoes (Hà Nội: Thế Giới Publishers, 1996), các trang 33 [-?].

    78. Thanh Thủy [hay Thúy, Thụy?], “The Hoàng Sa and Trường sa Archipelagoes Are Vietnamese Territory”, trong quyển The Hoàng Sa and Trường Sa Archipelagoes (Paracels and Spratly) (Hà Nội: Vietnam Courier, 1981), trang 15.

    79. White Paper on the Hoàng Sa, các trang 27-35; Lưu, The Sino-Vietnamese Difference, các trang 33-47.

    80. Ulises Granados, “As China Meets the Southern Sea Frontier”.

    81. Marwyn Samuels vạch ra rằng “vào thế kỷ thứ mười tám và lên đến tột độ trong các cuộc đối dầu trong thế kỷ thứ mười chín với Anh, Pháp và Nhật Bản, quyền lợi của Trung Hoa tại Biển Nam Trung Hoa ít còn là một vấn đề của các mạng lưới mậu dịch và các nguy hiểm hải hành , và trở thành một công tác quan tâm về chính trị và chiến lược nhiều hơn”. Samuels, Contest for the South China Sea, trang 24./-

    ___

    Nguồn: Ulises Granados, The South China Sea and Its Coral Reefs during the Ming and Qing Dynasties: Levels of Geographical Knowledge and Political Control, Journal of East Asian History, Number 32/33, December 2006/June 2007, Institute of Advanced Studies, The Australian National University, các trang 109-128

    Ngô Bắc dịch và phụ chú

    19.05.2014

    Nguồn: gio-o.com
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

    [​IMG]


    Hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.

    Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng, các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII, khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó, Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.

    Thời kỳ các vua chúa phong kiến Việt Nam

    Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của ViệtNam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (thế kỷ XVII), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên (1844-1848), Đại Nam nhất thống chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)… đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

    [​IMG]

    Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) xứ Đàng Trong đã tổ chức “Đội Hoàng Sa” lấy người từ xã An Vĩnh (Bình Sơn, Quảng Ngãi) từ tháng giêng đến tháng 8 (AL) ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm những tài nguyên của đảo, hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và đánh bắt hải sản quý hiếm mang về qua cửa biển Tư Hiền để dâng nộp. Cùng với nhiệm vụ khai thác hải sản và hàng hóa trên quần đảo, nhà Nguyễn còn tổ chức đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây trên quần đảo… Chúa Nguyễn cũng tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” lấy người thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương (Bình Thuận) ra quần đảo Trường Sa với cùng nhiệm vụ như đội Hoàng Sa.

    [​IMG]

    Liên tục từ đó, qua 7 đời chúa Nguyễn, đến thời Tây Sơn và 13 đời vua nhà Nguyễn sau này, các “Đội Hoàng Sa”, “Đội Bắc Hải” hàng năm đều đi ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo yêu cầu, chỉ thị của vua, chúa nhà Nguyễn, do đó “Đội Hoàng Sa”, “Đội Bắc Hải” là tổ chức nhà nước của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý nhà nước về biển, đảo của nước ta.

    Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai thủy binh đi cùng với đội dân binh ra Hoàng Sa xem xét và đo đạc thủy trình, ra lệnh cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Chính hoạt động lần đầu tiên của thủy quân này đã đánh dấu mốc thời gian rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Năm 1835, vua Minh Mạng bắt đầu cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải tiếp tục được trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu thuế, bảo trợ người đánh cá và bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này hoạt động liên tục cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

    [​IMG]

    Các hoạt động này được ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử như “Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự là Công Đạo (1686); “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776); “Lịch triều Hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1821); “Đại Nam thực lục tiền biên”; “Đại Nam thực lục chính biên” (1844-1848); “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (1910); Dư địa chí “Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ”; “Quốc triều chính biên toát yếu” (1910)…

    Thông qua việc tổ chức khai thác tài nguyên, đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, cắm cờ… trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục gần ba thế kỷ, trên thực tế cũng như về pháp lý, nhà Nguyễn đã làm chủ hai quần đảo từ khi hai quần đảo này còn chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào và biến hai quần đảo này thành bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.

    Thời kỳ Pháp xâm lược Việt Nam (1858-1945)

    Trong thời kỳ này, nhất là từ năm 1884, sau khi Cộng hòa Pháp ký với triều đình nhà Nguyễn Hiệp ước Patenotre về quy chế bảo hộ, trên cơ sở đại diện cho triều đình phong kiến An Nam, Pháp đã có nhiều hành động củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật…

    Từ năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra quyết định xây một cột hải đăng trên Hoàng Sa, nhưng do ngân sách khó khăn nên công trình không thực hiện được. Ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương Martial Henri Merlin ra tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp. Từ năm 1925 đến 1927, Pháp đã cho tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo Hoàng Sa do Tiến sĩ A.Krempf, Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức thực hiện trên tàu lưới kéo De Lanessan.

    [​IMG]

    Từ năm 1930 đến 1932, ba tàu Pháp là La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo này. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân đồn trú ở các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày 23-9-1930, Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về việc Pháp đã chiếm đóng quần đảo Trường Sa. Ngày 26-7-1933, chính phủ Pháp tuyên bố Hải quân Pháp đã chiếm đóng các đảo Trường Sa, An Bang, Ba Bình, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ… và các đảo phụ cận thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26-7-1933, trang 7794. Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam Kỳ M.J.Krautheimer đã ra Nghị định số 4762-CP sáp nhập quần đảo Trường Sa và các tiểu đảo vào tỉnh Bà Rịa. Ngày 15-6-1938, Pháp xây dựng xong một trạm khí tượng trên đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.

    [​IMG]

    Ngày 30-3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ra dụ số 10 tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi địa hạt tỉnh Quảng Ngãi và đặt vào tỉnh Thừa Thiên. Ngày 15-6-1938, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định số 156-S-V thành lập đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1938, Pháp đặt một trạm khí tượng trên đảo Phú Lâm mang số hiệu 48.859, một trạm khí tượng mang số hiệu 48.860 và một trạm vô tuyến TSF trên đảo Hoàng Sa, đồng thời đưa một đơn vị lính bảo an Việt Nam ra đồn trú tại Hoàng Sa và tiến hành dựng bia chủ quyền ở đảo Hoàng Sa, trên cột mốc có ghi dòng chữ “République française-Royaume d’Annam-Archipel de Paracel 1816-Ile de Pattle 1938” (Cộng hòa Pháp, Đế quốc Annam, quần đảo Hoàng Sa-1816, đảo Hoàng Sa-1838).

    [​IMG]

    Ngày 9-3-1945, Hải quân Nhật tấn công và chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, đơn vị Đông Dương trên quần đảo bị Nhật bắt làm tù binh. Ngày 26-8-1945, ngay sau khi đầu hàng, Nhật đã rút quân khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.

    Như vậy, mặc dù bị lún sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng Pháp vẫn duy trì cả sự có mặt lẫn yêu sách của mình cho đến khi rút khỏi Việt Nam, để lại cho Việt Nam nhiệm vụ thay thế, góp phần duy trì chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở thời kỳ thuộc địa.

    Thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đến Chiến thắng Mùa xuân 1975

    Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Pháp quay lại Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1946, Pháp đưa một phân đội bộ binh đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza trở lại Hoàng Sa. Dựa trên Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp quân Nhật trong năm 1946. Ngày 17 tháng 1 năm 1947, pháo hạm Le Tonkinois của Hải quân Pháp đến quần đảo Hoàng Sa để đòi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đây và đã tiếp quản quần đảo Hoàng Sa sau khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút quân vào tháng 4 năm 1950.

    Ngày 7-9-1951, tại Hội nghị San Francisco về việc ký hòa ước với Nhật Bản, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ miền Nam Việt Nam thời đó trong phát biểu của mình, tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo: “… và cũng vì cần phải lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Spratlys (Trường Sa) và Paracels (Hoàng Sa), tạo thành một phần của Việt Nam”. Lời tuyên bố này của Thủ tướng Trần Văn Hữu không bị bất cứ phái đoàn nào trong tổng số 51 quốc gia tham dự hội nghị phản đối. Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của hội nghị. Đây là những cơ sở luật pháp rất quan trọng mà Trung Quốc không thể phủ nhận.

    Hội nghị Geneva 1954 với sự tham dự của 9 quốc gia, gồm 5 cường quốc: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hiệp định Geneva ký ngày 20-7-1954.

    [​IMG]

    Tháng 4-1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Chính quyền VNCH đã đưa quân ra thay thế quân Pháp trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và đóng quân trên hai quần đảo, đảm nhiệm việc quản lý hai quần đảo theo đúng trách nhiệm mà Hiệp định Geneva năm 1954 về việc Việt Nam Cộng hòa được trao quyền quản lý tạm thời nửa nước Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào trong khi chờ đợi thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử tự do. Trong thời gian này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã luôn khẳng định và duy trì các quyền chủ quyền của mình một cách liên tục và hòa bình đối với hai quần đảo bằng các hoạt động nhà nước (do Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía trong vĩ tuyến 17 theo đúng Hiệp định Geneva).

    [​IMG]

    Ngày 20/10/1956, Tổng thống chính quyền Sài Gòn đã ra Sắc lệnh số 143-NV về thay đổi địa giới các tỉnh, thành phố miền Nam, trong đó đã đặt quần đảo Trường Sa vào địa phận tỉnh Phước Tuy. Trong Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 về việc sắp xếp lại quần đảo Hoàng Sa, Tổng thống chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước thuộc tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại đây một đơn vị hành chính gọi là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Từ 1961 đến 1963, chính quyền Sài Gòn lần lượt cho xây bia chủ quyền ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây, Song Tử Đông, Thị Tử, Loại Ta. Nghị định số 709-BNV-HCDP-26 ngày 21/10/1969 của Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghị định số 420-BNV-HĐP/26 ngày 06/9/1973 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn thi hành Quyết định của Hội đồng Nội các ngày 9/01/1973, quyết định sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

    Tuy nhiên, trong năm 1956, khi chính quyền VNCH chưa kịp đưa quân ra thay thế quân Pháp trên quần đảo Hoàng Sa thì Trung Quốc đã bí mật đưa quân ra chiếm đóng các đảo thuộc nhóm phía Đông của quần đảo này. Ngày 11/7/1956, lực lượng vũ trang của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên đảo Ba Đình, thuộc quần đảo Trường Sa và duy trì 1 căn cứ hải quân nhỏ với 1 tiểu đoàn lính hải quân ở đây. Chính quyền VNCH đã kịch liệt phản đối. Năm 1959, quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội VNCH đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 “ngư dân” Trung Quốc. Tiếp đến ngày 19/01/1974, Trung Quốc dùng không quân và hải quân đánh chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam do chính quyền VNCH đóng giữ. Cùng ngày, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; ngày 20/01/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 14/02/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Sài Gòn công bố sách trắng về các quyền lịch sử và pháp lý của Việt Namđối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Ngày 5 và 6/5/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thông báo việc giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 9/1975, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị khí tượng ở Colombo tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và yêu cầu Tổ chức khí tượng thế giới tiếp tục ghi tên trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam (trước đây đã được đăng ký trong hệ thống các trạm của OMM dưới biểu số 48.860) trong danh mục trạm khí tượng của Tổ chức khí tượng thế giới.
  7. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng

    [​IMG]
    Phần lãnh thổ Việt Nam với địa danh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa tại website của Ủy ban Địa danh Úc (www.icsm.gov.au/cgna/ungegn.html)

    Lê Minh Nghĩa
    Cố Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ

    Đây là báo cáo của tác giả Lê Minh Nghĩa tại Hội Thảo mùa Hè về “Phát triển khu vực châu Á Thái Bình Dương và tranh chấp Biển Đông” tổ chức tại New York City gần mười năm trước, vào ngày 15 và 16 tháng 7, 1998. Dủ có nhiều chi tiết (nhất là liên quan đến các nước ASEAN) cần được cập nhật, để tôn trọng tác giả (đã qua đời năm 2004)

    Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc. Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một nước là hợp pháp. Nhưng ngay sau chiến tranh thế gìới thứ haì, Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua năm1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một Quốc gia. Cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ và quyết liệt của các dân tộc thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ hai mà dân tộc ta là một đội ngũ tiên phong với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ đã dẫn tới nghị quyết cụ thể và đầy đủ hơn của Liên Hợp Quốc về vấn đề này.

    Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về việc trao trả nền độc lập cho các nước và các đân tộc thuộc địa đã viết: “Mọi hành động vũ trang và mọi biện pháp đàn áp, bất kể thuộc loại nào, chống lạỉ các dân tộc phụ thuộc sẽ phải được chấm dứt để các dân tộc đó có thể thực hiện quyền của họ về độc lập hoàn toàn một cách hoà bình và tự do, và toàn vẹn lãnh thổ của họ sẽ được tôn trọng”.

    Nghị quyết 26/25 năm 1970 của Liên Hợp Quốc lại viết: “Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên gỉới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia”.

    “Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp”.

    Theo những tài liệu hiện có thì triều đình Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới – lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ đó.

    Theo Tống sử, Tông Cảo sứ giả nhà Tống được phái sang nước ta năm 990 sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai năm 981 đã báo cáo rằng khi họ đến “hải giới Giao Chỉ” thì Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) đã phái 9 chiến thuyền và 300 quân lên đón và dẫn họ đến địa điểm quy định. Trong cuốn Lĩnh ngoại đại đáp (1178), Chu Khứ Phi một viên quan nhà Tống ở Quảng Đông, Quảng Tây đã viết rằng: dòng nước Thiên Phân Dao là định giới giữa ‘bíển Giao Chỉ” và biển Quỳnh – Liêm (tức vùng biển Quỳnh Châu, Liêm Châu của Trung Quốc).

    Như vậy là ngay từ thế kỷ thứ 10 và 12 , sứ thần Trung Quốc và quan lại Trung Quốc đã biết đâu là vùng biển Giao Chỉ (tức Việt Nam), đâu là vùng biển Trung Quốc.

    Trong thế kỷ 11 đã diễn ra một số cuộc đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc để đòi lại những vùng đất mà Trung Quốc còn chiếm, sau khi phải rút quân trong cuộc chiến tranh xâm lược năm 1076-1077, cuộc chiến tranh đã xuất hiện 4 câu thơ của Lý Thường Kiệt mà hai câu đầu khẳng định chủ quyền lãnh thổ:

    Nam Quốc sơn hà nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    (Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận tại sách trời).

    Trong các cuộc đàm phán đó có cuộc đàm phán về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084 do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Trong thư gửi cho vua nhà Tống đòi đất, vua Lý Nhân Tông viết: “Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng vẫn khiến lòng tôi đau sót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng.”

    Ngoài việc dùng quân sự đánh úp, giải phóng Châu Quang Lang, ngay sau khi đại quân Tống rút lui, đấu tranh kiên trì của triều đình kết hợp với đấu tranh của nhân dân: bắn lén, bỏ thuốc độc cộng thêm khí hậu khắc nghiệt, khiến cho, theo Tống sử, đội quân đồn trú của nhà Tống mỗi năm tổn thất 70%-80% và năm 1079 mặc dầu đã đổi tên Châu Quảng Nguyên thành Thuận Châu vẫn đành coi là vùng “Đất độc” và trả lại cho ta và năm 1084 trả lại cho ta vùng Bảo Lạc, Túc Tang. Khi đi đàm phán biên giới, sứ thần ta đã tặng cho nhà Tống 5 thớt voi khiến cho, theo Đại việt sử ký toàn thư, người Tống có thơ rằng “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim” nghĩa là vì tham voi của Giao Chỉ mà bỏ mất vàng của Quảng Nguyên (họ đã đánh giá sai nguyên nhân dẫn đến việc trả lại đất).

    Trong Lịch triều Hiến chương Loại Chí viết năm 1821, Phan Huy Chú nhận xét là trong đàm phán về biên gìới đời Lý có hai mặt mạnh: một là có “oai thắng trận”, hai là “sứ thần bàn bạc, lời lẽ thung dung, khôn khéo”.

    Nhà Trần đã bố trí các trọng thần phụ trách các hướng biên giới: Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ phụ trách hướng Lạng Sơn, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phụ trách hướng Hà Giang, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phụ trách hướng Đông Bắc (Người thay Nhân Huệ Vương là con Hưng Đạo Đại Vương, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng).

    Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách núi đá ở Hoà Bình để nhắc con cháu:

    “Biên phòng hảo vị trù phương lược
    Xã tắc ưng tư kế cửu an”

    (Tạm dịch: việc biên phòng cần có phương lược phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài).

    Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh “Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di”.

    Năm 1466 khi quân Minh cướp bóc vùng Thông Nông, Bảo Lạc thuộc tỉnh Cao Bằng, một mặt nhà vua phản kháng đòi nhà Minh phải bồi thường, mặt khác ra lệnh đầy 2 người chỉ huy ở Cao Bằng đi xa về tội phòng giữ biên giới không cẩn mật và ra sắc dụ cho các tỉnh biên giới: “Người bầy tôi giữ đất đai của triều đình, chức phận là phải bảo toàn cảnh thổ, yên uỷ nhân dân, bẻ gẫy những mũi nhọn tiến công, chống lại những kẻ khinh rẻ nước mình”

    Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau: “Những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém”; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội; “Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ” (đồ là đầy đi làm khổ sai).

    Chính nhờ cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ, thông minh, khôn khéo của các thế hệ Việt Nam nối tiếp, mặc dầu trong tình hình so sánh lực lượng rất chênh lệch, phong kiến phương Bắc luôn luôn có ý đồ thôn tính, lấn chiếm nhưng biên cương phía Bắc nước ta vẫn hình thành rõ rệt và ổn định về cơ bản từ ngàn năm nay.

    Tạp chí Géographer của Vụ tình báo và nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29/10/1964 thừa nhận: “Sau hơn 10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và thành lập vương quốc Đại Cồ Việt … Nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình … Một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia” cách đây 10 thế kỷ.

    Trong bài “Tổng Tụ long và đường biên giới Trung Quốc – Bắc Kỳ” năm 1924, Bonifacy, tư lệnh đạo quan binh Hà Giang đầu thế kỷ 20 viết: “Đường biên giới lịch sừ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được xác định một cách hoàn hảo (parfaitement défini). Khi cần người Việt Nam biết bảo vệ các quyền của họ, mặc dầu người Trung Quốc cho rằng không thể có đường biên giới giữa Việt Nam và Thiên Triều”.

    Điều mà con cháu ngày nay vô cùng cảm kích, khâm phục, biết ơn là ông cha ta chẳng những chăm lo bảo vệ vững chắc biên cương đất liền mà còn rất quan tâm xác lập và bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên vùng biển.

    Tiếp theo hành động buộc sứ thần Trung Quốc phải thừa nhận “hải giới” Việt Nam cuối thế kỷ thứ 10, nhà Lý đã thành lập trang Vân Đồn để quản lý vùng biển Đông Bắc; nhà Trần nâng trang Vân Đồn thành trấn Vân Đồn trực thuộc triều đình; Nhà Lê đặt tuần kiểm ở các cửa biển để quản lý biển, thu thuế các tầu thuyền nước ngoài. Do vậy chủ quyền Việt Nam trên các đảo vùng biển Đông Bắc được xác lập sớm. Đến thế kỷ 19, khi Pháp yà nhà Thanh đàm phán về vùng biển trong Vịnh Bắc bộ thì không có tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo ở vùng này, nhà Thanh phải thừa nhận tất cả các đảo ở phía Tây đường kình tuyến Paris 105o43′ Đ là thuộc chủ quyền của Việt Nam.

    Năm 1171, 1172, vua Lý Anh Tông đích thân đi “tuần tra các hải đảo ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam, Bắc, tìm hiểu đường đí, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật”.

    Ở phía Nam, các chúa Nguyễn sau khi xác lập chủ quyền Việt Nam đối với các đảo dọc bờ biển miền Trung và miền Nam: Cồn Cỏ, Ly Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, đầu thế kỷ 18 đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên các đảo trong Vịnh Thái Lan. Khi đặt ách thống trị trên Nam Kỳ và Campuchia, các quan chức Pháp đã tiến hành khảo sát vùng biển giữa hai nước Việt Nam, Campuchia và đứng trước tình hình tất cả các đảo trên vùng biển này về mặt hành chính đều thuộc tỉnh Hà Tiên của Việt Nam. Ngày 25/3/1873 chuẩn đô đốc thống đốc Nam Kỳ Krantz đã thừa nhận thực tế đó trong nghị định quy định đảo Phú Quốc và tất cả các đảo trên vùng biển giữa Nam Kỳ và Campuchia được tách khỏi tỉnh Hà Tiên, lập thành một quận trực thuộc thống đốc Nam Kỳ.

    Đối với các đảo xa bờ, theo chính sử Việt Nam và theo nhiều nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với. danh nghĩa Nhà nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra khai thác và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

    Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh Mạng liên tiếp phái thuỷ quân ra Hoàng Sa – Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia. Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong 3 năm: 1833, 1835, 1836 vua Minh Mạng liên tiếp có chi thị về Hoàng Sa.

    Không chỉ chăm lo khai thác hai quần đảo, nhà vua Việt Nam còn lo bảo đảm an toàn cho tàu thuyền Việt Nam và các nước qua lại vùng biển xung quanh hai quần đảo, năm 1833 vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Nghĩa, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu; không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm phái người tới đó trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nạn mắc cạn”.[1]

    Trong một tài liệu viết năm 1768, đô đốc Pháp D’Estaing, người nhận nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch tiến công vào Việt Nam đã viết rằng: “Việc đi lại giữa quần đảo đá Paracel (tức Hoàng Sa) và đất liền còn khó khăn hơn việc đi lại ngoài biển khơi. Thế mà các thuyền nhỏ của xứ này thường qua lại vùng quần đảo”. D’Estaing đánh giá các thủy thủ Việt Nam là “những người quen sông nước và là các thuỷ thủ giỏí”. Trong một tài liệu khác viết vào cuối năm 1758 đầu năm 1759, D’Estaing còn nói ở Huế có tới 400 khẩu pháo hầu hết là của Bồ Đào Nha thu lượm từ các xác tầu đắm ở Paracel[2].

    Trong cuốn “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” xuất ở Paris năm 1996, giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật gia Châu Âu đã vìết; “Khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng gần hai thế kỷ, một quyền (un droit) đối với các quần đảo (Hoàng Sa, Trường Sa), theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó”.[3]

    Từ 1884, Chính quyền Pháp ở Đông Dương đã tiếp tục thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: tiến hành khảo sát khoa học, dựng bia chủ quyền, dựng đèn biển, lập trạm khí tượng, đài vô tuyến điện, đưa quân ra đồn trú, thành lập đơn vị hành chính trên quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa thiên và sát nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

    Sau thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, nước Việt Nam giành lại được độc lập thống nhất hoàn toàn, vấn đề bảo vệ biên giới, bảo vệ lãnh thổ toàn vẹn của tổ quốc mới lại hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam.

    Năm 1954, Bác Hồ nói ở đền Vua Hùng “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” và năm 1961, mặc dầu mới có một nửa nước được giái phóng, Bác Hồ đã nóì: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Bác Hồ đã chỉ thị cho chúng ta phải nhận thức rõ tình hình mới, phải chăm lo bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sau này, tưân theo chỉ thị của Bác Hồ, hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã khẳng định lãnh thổ Việt Nam “bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời” và ‘Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.

    Trong bối cảnh địa lý và chính trị của nước ta sau năm 1975 , trước sự phát trtển của luật pháp quốc tế về biển, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải giải quyết một loạt vấn đề biên giới – lãnh thổ với các nước láng giềng:

    1. Giữa Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đường biên giới có giá trị pháp lý quốc tế do các nhà nước có thẩm quyền ký kết, tạo ra cơ sở vững chắc để xây dựng một đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa ba dân tộc.

    2. Việt Nam cần xác định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa với Indonesia, Thái Lan, Malaysia; vì theo các quy định mới của luật biển quốc tế thì vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của nước ta và các nước đó chồng lên nhau.

    3. Việt Nam cần giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ trên biển với Philippin, Malaysia vì hai nước này có yêu sách về chủ quyền đối với một phần hoặc đại bộ phận quần đảo Trường Sa.

    4. Với Trung Quốc, Việt Nam phải giải quyết các vấn đề sau:

    - Đường biên giới trên đất liền;

    - Đường biên giới trong Vịnh Bắc bộ;

    - Các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và thềm lục địa trên Biển Đông: từ năm 1909 Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 bắt đầu có hành động tranh chấp quần đảo Trường Sa (sẽ trình bày cụ thể ở dưới).

    - Vấn đề ranh giới vùng thông báo bay (FIR) ngoài khơi Trung bộ – Việt Nam, Trung Quốc đưa ra đề nghị lập FIR Sanya lấn vào phần phía Bắc FIR Hồ Chí Minh mà Hàng không dân dụng quốc tế giao cho Hong Kong tạm thời quản lý năm 1975 chủ yếu là họ muốn quản lý toàn bộ vùng trời trên quần đảo Hoàng Sa và lấn vào phần phía Đông FIR Hà Nội trên Vịnh Bắc Bộ.

    Với chủ trương nhất quán là giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng bằng thương lượng hoà bình, Việt Nam đã và đang giải quyết các vấn đề được đặt ra như sau:

    1. Với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào

    Tháng 2/1976, lãnh đạo hai nước đã cho ý kiến về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào là đường bỉên giới trên bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 tỷ lệ 1/100 000 (năm 1945 là thời điểm hai nước tuyên bố độc lập).

    Như vậy là lãnh đạo Việt Nam và Lào đã cho nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới hai nước theo nguyên tắc Uti-possidétis (anh hãy làm chủ cái anh đang có), một nguyên tắc đã được áp dụng ở Châu Mỹ la tinh trong thời kỳ phi thực dân hoá và đã được Tổ chức thống nhất Châu Phi chấp nhận với nội dung “tôn trọng các đường biên giới tồn tại vào lúc mà các nước Châu Phi giành được độc lập”.

    Dựa trên nguyên tắc Uti possidétis, qua 4 đợt đàm phán trong Uỷ ban liên hợp Việt – Lào về hoạch định biên giới, ngày 18/7/1977 hai nước ký Hiệp ước Hoạch định biên giới. Việc phân giới cắm mốc đường biên giới dài 2067 km bắt đầu tiến hành ngày 25/7/1978 và đến 24/8/1984 thì kết thúc.

    Ngày 24/1/1986 hai nước ký Hiệp ước bổ sung ghi nhận những điểm điều chỉnh đường biên giới đã hoạch định năm 1977, ký nghị định thư ghi nhận kết quả phân gìới cắm mốc. Ngày 1/3/1990 hai nước ký Hiệp định quy chế biên giới. Thi hành Hiệp định này, hàng năm có cuộc họp giữa Đoàn đại biểu biên giới hai nước với sự có mặt của đại diện các Bộ, ngành liên quan và các tỉnh biên giới của hai nước để kiểm điểm việc thi hành Hiệp định quy chế biên giới.

    2. Với Campuchia

    Trước năm 1964, quan điểm cơ bản của phía Campuchia về biên giới lãnh thổ giữa hai nước là đòi Việt Nam trả lại cho Campuchia 6 tỉnh Nam Kỳ và đảo Phú Quốc.

    Từ năm 1964 – 1967, Chính phủ Vương quốc Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu chính thức đề nghị Việt Nam công nhận Campuchia trong đường biên giới hỉện tại, cụ thể là đường biên giới trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 với 9 điểm sửa đổi, tổng diện tích khoảng 100 km2. Trên biển, phía Campuchia đề nghị các đảo phía Bắc đường do Toàn quyền Brévié vạch năm 1939 là thuộc Campuchia, cộng thêm quần đảo Thổ Chu và nhóm phía Nam quần đảo Hải Tặc.

    Trong năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã chính thức công nhận và cam kết tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia trong đường biên giôi hiện tại (công hàm của Việt Nam không nói tới vấn đề chủ quyền đối với các đảo trên biển và 9 điểm mà Campuchia đề nghị sửa đổi về đường biên giới trên bộ).

    Ngày 27/12/1985 Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trên cơ sở thoả thuận năm 1967. Thi hành Hiệp ước, hai bên đã tiến hành phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới từ tháng 4/1986 đến tháng 12/1988 được 207 km/1137 km, tháng 1/1989 theo đề nghị của phía Campuchia, hai bên tạm dừng việc phân giới cắm mốc.

    Trên biển, ngày 7/7/1982 hai Chính phủ ký Hiệp định thiết lập vùng nước lịch sử chung giữa hai nước và thỏa thuận: sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới trên biển, lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra năm 1939 với tính chất là đường hành chính và cảnh sát làm đường phân chia đảo giữa hai nước.

    Với Chính phủ Campuchia thành lập sau khi ký Hiệp ước hoà bình về Campuchia năm 1993 , năm 1994, 1995 Thủ tướng Chính phủ hai nước đã thoả thuận thành lập một nhóm làm việc cấp chuyên viên để thảo luận và giải quyết vấn đề phân giới giữa hai nước và thảo luận những biện pháp cần thiết để duy trì an ninh và ổn định trong khu vực biên giới nhằm xây dựng một đường biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Hai bên thoả thuận trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay.

    Thực hiện thoả thuận giữa Thủ tướng Chính phủ hai nước nhân dịp Thủ tướng Ung Huốt sang thăm Việt Nam đầu tháng 6/1998, nhóm chuyên viên liên hơp về biên giới Việt Nam – CPC đã họp tại Phnom Pênh từ ngày 16 – 20/6/1998. Trong cuộc họp này hai bên đã trao đổl về việc tiếp tục thực hiện các Hiệp ước, Hiệp định về biên giới giữa hai nước đã ký trong những năm 1982, 1983, 1985. Hai bên đã dành nhiều thời gian thảo luận một số vấn đề về quan điểm của hai bên liên quan đến biên giới biển và biên giớl trên bộ với mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai nước trở thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài.

    Hai bên đã thống nhất kìến nghị lên Chính phủ hai nước tiến hành thành lập Uỷ ban liên hơp với những nhiệm vụ:

    - Soạn thảo Hiệp ước về hoạch định biên giới biển và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trình lên chính phủ hai nước.

    - Chỉ đạo việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới.

    - Giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới giữa hai nước.

    Qua trao đổi về đường biên giới biển, phía Campuchia kiên trì quan điểm muốn lấy đường do Toàn quyền Brévié vạch ra tháng 1/1939 làm đường biên giới biển của hai nước.

    Ta đã nói rõ là ta không chấp nhận đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì:

    1. Đường Brévié không phải là một văn bản pháp quy, chỉ là một bức thư (lettre) gửi cho Thống đốc Nam Kỳ đồng gửi cho Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Văn bản đó chỉ có mục đích giải quyết vấn đề phân định quyền hành chính và cảnh sát đối với các đảo, không giải quyết vấn đề quy thuộc lãnh thổ;

    2. Cả hai bên không có bản đồ đính kèm theo văn bản Brévié vì vậy hiện nay ít nhất lưu hành 4 cách thể hiện đường Brévté khác nhau: Đường của Pôn Pốt, đường của Chính quyền miền Nam Việt Nam, đường của ông Sarin Chhak trong luận án tiến sỹ bảo vệ ở Paris sau đó được xuất bản với lời tựa của Quốc trưởng Norodom Sihanouk, đường của các học giả Hoa Kỳ.

    3 . Nếu chuyển đường Brévié thành đường biên giới biển thì không phù hợp với luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế, quá bất lợi cho Việt Nam và nên lưu ý là vào năm 1939 theo luật pháp quốc tế lãnh hải chỉ là 3 hải lý, chưa có quy định về vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa thì đường Brévié làm sao có thể giải quyết vấn đề phân định lãnh hải theo quan điểm hiện nay và phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

    Phía Việt Nam đã đề nghị hai bên thoả thuận: áp dụng luật biển quốc tế, tham khảo thực tiển quốc tế, tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến một giải pháp công bằng trong việc phân định vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của hai nước.

    3. Với Indonesia

    Việt Nam và Indonesia cách nhau 250 hải lý vùng biển tính từ Côn Đảo và Natuna Bắc là hai đảo xa nhất của hai nước đối diện nhau do đó trước kia không có vấn đề biên giới giữa hai nước (nếu tính từ bờ biển Việt Nam và bờ biển Bornéo thì cách nhau trên 400 hải lý). Đến nay do sự phát tnển của luật pháp quốc tế về biển, hai bên phải phân định ranh giới vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.

    Năm 1972, Indonesia và chính quyền Sài Gòn đàm phán 1 vòng, quan điểm của Indonesia là phân định theo trung tuyến giữa các đảo xa nhất của hai bên, quan điểm của Sài gòn là trung tuyến Giữa bờ biển Việt Nam và Bornéo, hai quan điểm tạo nên vùng chồng lấn rộng khoảng 37.000 km2. (Đảo Natuna Bắc là đảo xa nhất của Indonesia đối diện với miền Nam Việt Nam cách Bornéo 320 km; Côn Đảo, đảo đối diện với Natuna bắc chỉ cách đất liền 90 km).

    Từ năm 1978 CHXHCN Việt Nam và Indonesia bắt đầu đàm phán. Indonesia giữ quan điểm cũ, quan điểm của ta dựa vào định nghĩa thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lục địa, do đó ranh giới nên theo đường rãnh ngầm ngăn cách sự kéo dài tự nhiên của hai thềm lục địa, hai quan điểm tạo ra vùng tranh chấp lúc đầu rộng khoảng 92.000 km2.

    Qua 10 vòng đàm phán hai bên đã dần dần thu hẹp được vùng tranh chấp xuống còn khoảng 4.500 km2 nhưng đầu năm 1993 Indonesia đề nghị huỷ bỏ toàn bộ kết quả đàm phán từ 1978 dến 1992 và đàm phán lại từ đầu.

    Cho đến nay, qua 5 vòng trao đổi không chính thức, hai bên chưa đi đến thoả thuận nối lại đàm phán.

    4. Với Malaysia

    Giữa Việt Nam và Malaysia có một vùng chống lấn vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng 2.800km2. Vùng này hình thành bởi đường ranh giới thềrn lục địa do chính quyền Sài Gòn công bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa do Malaysia công bố năm 1979. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do Sài Gòn có tính đến đảo Hòn Khoai cách đất liền 6,5 hải lý còn Malaysia đã bỏ qua đảo Hòn Khoai.

    Tháng 5/1992 Việt Nam và Malaysia đã ký thoả thuận hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn, giao cho các công ty dầu lửa của hai bên ký các dàn xếp thương mại và tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác rồi phân chia sản phẩm; việc phân định vùng chồng lấn sẽ giải quyết sau. Việc hơp tác giữa hai ngành aầu khí đang tiến triển bình thường.

    Ngoài ra vùng khai thác chung giữa Thái Lan và Malaysia rộng 7.250 km2 có 800 km2 liên quan đến Việt Nam. Ba nước đã thoả thuận sẽ cùng nhau giải quyết khu vực này và cuộc họp đầu tiên đã diễn ra tháng 2/1998 vòng hai sẽ họp vào nửa cuối năm 1998 để bàn về khả năng khai thác chung vùng chồng lấn.

    Giữa Việt Nam và Malaysia còn có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa do Malaysia có yêu sách đối với vùng phía Nam quần đảo Trường Sa và trên thực tế trong 2 năm 1993-1994 Malaysia đã cho quân chiếm ba bãi đá ngầm ở Nam quần đảo Trường Sa: Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa.

    Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Malaysia nhiều lần khẳng định sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.

    5. Với Thái Lan

    Giữa Việt Nam và Thái Lan có hai vấn đề trên biển phải giải quyết:

    a) Phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

    b) Giải quyết vấn đề tầu thuyền đánh cá Thái Lan thường xuyên vi phạm vùng biển Việt Nam và có trường hợp Thái Lan đã dùng hải quân, không quân bảo vệ các hoạt động này.

    Về vấn đề thứ nhất giữa hai nước có một vùng chồng lấn rộng khoảng 6000 km2 do Việt Nam có tính đến hiệu lực của đảo Thổ Chu còn Thái Lan thì phủ nhận hiệu lực của đảo Thổ Chu.

    Từ năm 1992 hai bên đàm phán qua 9 vòng cấp chuyên viên.

    Ngày 9/8/1997 hai nước ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước. Theo hiêp định, Việt Nam được 32,5% diện tích vùng chồng lấn.

    Về vấn đề thứ hai: Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam – Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển đã họp hai vòng. Hai bên đã thoả thuận phối hơp trong việc giáo dục ngư dân, đi tới tổ chức tưần tra chung, thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm, hơp tác tổ chức điều tra nguồn lợi biển giữa hai nước.

    Việc giải quyết dứt điểm vấn đề này cũng còn đòi hỏi một thời gian.

    6. Với Philippin

    Philippin vốn là nước không có quyền gì đối với quần đảo Trường Sa vì Hiệp định Paris năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha theo đó Tây Ban Nha giao Philippin cho Mỹ đã xác định phạm vi quần đảo Philippin trên bản đồ kèm theo Hiệp định, theo bản đồ đó nước Philippin không bao gồm 1 đảo nào của quần đảo Trường Sa.

    Từ năm 1951, Philippin bắt đầu chuẩn bị dư luận để nhẩy vào tranh chấp quần đảo Trường Sa với lời tuyên bố của Tổng thống Philippin Quirino rằng quần đảo Spratly (tức Trường Sa) phải thuộc về Philippin vì nó ở gần Philippin.

    Từ năm 1971-1973, Philippin cho quân đội ra chiếm đóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa và năm 1977-1978 chiếm thêm hai đảo nữa. Cả 7 đảo nằm ở phía Bắc quần đảo. Họ ra sức cửng cố vị trí trên quần đảo: Chở đất ra đảo để trồng dừa, cạp thêm đất ra biển để làm đường băng cho máy bay chiến đấu mở đường hàng không thường kỳ, tổ chức đánh cá, xây dựng kho ướp lạnh, tổ chức thăm dò, khai thác dầu khí ở Đông Bắc quần đảo (có tin nói là sản lượng dầu khai thác ở đây đảm bảo 10% nhu cầu dầu của Philippin).

    Đầu năm 1979, Philippin công bố sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1978 coi toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là lãnh thổ Philippin và đặt tên cho quần đảo là Kalayaan.

    Năm 1980 Philippin mở rộng lấn chiếm xuống phía Nam quần đảo, chiếm đóng đảo Công Đo cách đảo gần nhất mà họ chiếm đóng cũ gần 150 hải lý.

    Từ năm 1978 đến 1994 Việt Nam và Philippin đã thoả thuận ở cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Thủ tướng Chính phủ, Tổng thống và ************* là sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình trên tinh thần hữu nghị, hoà giải, tin cậy lẫn nhau.

    Ngày 7/11/1995 hai Bộ Ngoại giao Việt Nam – Philippin đã đạt được thoả thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng tranh chấp trong đó có các điểm chính là

    - Hai bên đồng ý thông qua thương lượng, hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.

    - Kiềm chế không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên biển ở quần đảo Trường Sa.

    - Bảo đảm tự do hàng hải theo quy định của luật quốc tế.

    - Từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.

    Cuối tháng 4 đầu tháng 5/1996, hai bên đã thực hiện thành công chuyến khảo sát chung về khoa học biển tại khu vực quần đảo Trường Sa và Biển Đông. Hai bên sẽ tiếp tục tổ chức khảo sát khoa học chung trên khu vực quần đảo và trên Biển Đông. Uỷ ban hỗn hơp Việt Nam – Philippin do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước dẫn đầu họp tại Hà Nội tháng 1/1997 đã thoả thuận về một số biện pháp xây dựng lòng tin trên quần đảo, trong đó có việc trao đổi các cuộc viếng thăm của các chỉ huy quân sự và lực lượng đồn trú của hai bên trên quần đảo.

    7. Với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

    Năm 1957-1958, có sự trao đổi giữa Trung ương Đảng hai nước về biên giới. Ngày 2/11/1957 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị: “Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định; nhất thiết cấm các nhà chức trách và các đoàn thể địa phương không được thương lượng với nhau để cắm lại mốc giới hoặc cắt nhượng đất cho nhaư” . Hàm ý của bức thư là hai bên cần căn cứ vào các Công ước về hoạch định biên giới mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.

    Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trả lời đồng ý với ý kiến của Trung ương Đảng Việt Nam về công tác biên giớl Việt – Trung.

    Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới giữa hai nước là về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ 15/8/1974 – 22/11/1974 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc đàm phán mới chỉ có tính cách tìm hiểu quan điểm của nhau và không đi tới thoả thuận nào.

    Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới là về đường biên giới trên bộ và về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ tháng 10/1977 đến tháng 6/1978 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán này cũng không đi tới thoả thuận nào.

    Từ tháng 2 năm 1979 đến 1986 diễn ra chiến tranh và xung đột quân sự trên vùng biên giới đặc biệt là trên biên giới các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, ác liệt và kéo dài nhất là ở biên giới tỉnh Hà Giang.

    Từ năm 1991 hai nước khôi phục quan hệ bình thường. Qua hai vòng đàm phán về biên giới cấp chuyên viên và một vòng đàm phán cấp Chính phủ trong hai năm 1992, 1993, ngày 19/10/1993 hai nước ký “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”.

    Thực hiện thoả thuận trên, hai bên đã tổ chức 3 diễn đàn đàm phán cấp chuyên viên: về biên giới trên bộ; về biên giới trong Vịnh Bắc bộ; về các vấn đề trên Biển Đông và một diễn đàn đàm phán cấp Chính phủ để xem xét các vấn đề do các nhóm chuyên viên trình lên.

    7.1. Về biên giới trên bộ

    Thực hiện thoả thuận ngày 19/10/1993 là căn cứ vào các Công ước 1887 và 1895 mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để “xác định lại toàn đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc”, hai bên đã họp 12 vòng nhóm công tác về biên giới trên bộ trước năm 2000.[4]

    7.2. Về đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ

    Hai bên đã họp 10 vòng nhóm công tác về Vịnh Bắc bộ và 6 vòng tổ chuyên gia về Vịnh Bắc Bộ để thực hiện thoả thuận về nguyên tắc phân định Vịnh Bắc bộ là “áp dụng luật biển quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc bộ”, “theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh Bắc bộ để đi đến một giải pháp công bằng”.

    Cuộc đàm phán có tiến triển và hai bên đang cùng cố gắng để có thể ký Hiệp ước về phân định Vịnh Bắc bộ cũng trước năm 2000. Vấn đề lớn nhất mà hai bên phải giải quyết là vấn đề hiệu lực các đảo ven bờ của Việt Nam và đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng 130 km.

    7.3. Về các vấn đề trên Biển Đông

    Trên Biển Đông, vấn đề tranh chấp phức tạp và quan trọng nhất là về hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bởi vì hai quần đảo giữ một vị trí chiến lược trọng yếu trên Biển Đông. Nếu như nước ngoài chiếm cả hai quần đảo thì nước Việt Nam không còn thế đứng trên Biển Đông và bị bao vây trên hướng biển.

    Quần đảo Hoàng Sa bao gồm trên 30 đảo, bãi, đá ngầm trên một vùng biển rộng khoảng 15.000 – 16.000 km2 cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo, bãi, đá ngầm trên vùng biển rộng khoảng 160.000 – 180.000 km2, đảo gần nhất của quần đảo cách Vũng Tầu khoảng 250 hảì lý. (Trung Quốc quan niệm quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều quan niệm của ta là điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 6o50′ Bắc trong khi Trung Quốc coi điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 4o Bắc giáp Bornéo).

    Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17, tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển.

    Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam.

    Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam.

    Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư xuất bản năm 1906 viết: “Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18o13′ Bắc”.

    Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông. Tháng 5 năm 1909 Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái đô đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam.

    Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: “Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam”).

    Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tực và thật sự từ thế kỷ 17.

    Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai.

    Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh, Trung (Tổng thống Roosevelt, Thủ tướng Churchill, Tổng thống Tưởng Giới Thạch) họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc. Tuyên bố của Hội nghị viết: “Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ”. Như vậy rõ ràng là cả 3 người đứng đầu 3 cường quốc trong đó có Tổng thống Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.

    Tháng 7, tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết: “Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành”. Như vậy cả 4 cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ Trung Quốc.

    Năm 1947, cuốn Nam Hải chư đảo địa lý Chí lược do Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc xuất bản có bản đồ “Nam hải chư đảo vị trí lược đồ” thể hiện một đường 11 đoạn coi 80% Biển Đông và cả 4 quần đảo trên Biển Đông là thuộc Trung Quốc.

    Năm 1950 trên bản đồ Trung hoa Nhân dân Cộng hoà Quốc phân tỉnh tinh đồ có một phụ đồ thể hiện quốc giới của Trung Quốc gồm 11 đoạn coi cả 4 quần đảo và 80% Biển Đông là lãnh thổ Trung Quốc. Điểm cực nam của Trung Quốc là 4o Bắc giáp Bornéo..

    Ngày 15/8/1951, Chu Ân Lai Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố: “Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc.”

    Năm 1951 tại Hội nghị San Francisco với sự tham gia của 51 nước, đại biểu Liên Xô đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của Hội nghị ký ngày 8/9/1951 chỉ ghi về hai quần đảo là “Nhật bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với 2 quần đảo”. Tại Hội nghị này, ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã trịnh trọng tuyên bố “Khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam đối với các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa”. Đối với Tuyên bố đó không một nước nào phản đối hoặc bảo lưu. Như vậy là Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận hai quần đảo không phải là lãnh thổ Trung Quốc.

    Trong Hoà ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản ngày 28/4/1952, Trung Quốc ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo.

    Tuy vậy, trên thực tế, lợi dụng tình hình Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956 Trung Quốc cho quân đội ra chiếm nhóm phía đông quần đảo Hoàng Sa, Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.

    Tháng Giêng năm 1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc dùng một lực lượng hải quân, không quân quan trọng đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa khi đó do quân đội của Chính quyền Sài Gòn bảo vệ. Chính quyền Sài Gòn đã liên lạc với Mỹ yêu cầu giúp đỡ. Theo báo cáo của Trần Kim Phượng, Đại sứ Sài gòn tại Mỹ ngày 2/2/1974 thì “Ngoại trưởng Kissinger chỉ coi cuộc tranh chấp đảo Hoàng Sa như là một vấn đề ngoài lề thậm chí là điều bất lợi trong khung cảnh của sự phối hợp với Trung Cộng để hạn chế Băc Việt Nam” và phía Mỹ “không muốn nhúng tay vào”.

    Thái độ của Mỹ khiến cho ông Nguyễn Văn Thiệu phải bộc lộ lo ngại với các cận thần về khả năng Trung Cộng sẽ đánh Trường Sa và chiếm Par Force giống như Paracel (có Complicité hoặc bằng Laisser-faire của Mỹ), những chữ Pháp nói trên là theo bút tích của ông Thiệu.

    Năm 1988 Trung Quốc lại huy động lực lượng không quân, hải quân tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, từ đó ra sức củng cố các điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới.

    Ở Trung Quốc đã có những dư luận về những bước tiến tiếp bằng vũ lực trên quần đảo khiến cho năm 1997 hai tác giả người Mỹ Humphrey Hawksley và Simon Holberton đã viết cuốn Dragon Strike coi là “một lời cảnh báo” về “một sự kiện lịch sử sắp diễn ra trong vài năm sắp tới”. “Tuy chỉ là một kịch bản suy tưởng nhưng dựa trên hàng trăm sự kiện có thật xảy ra những năm qua và trong những ngày gần đây. Vì vậy nó cung cấp cho các nhà chiến lược của nhiều quốc gia một tầm nhìn và nhiều điều đáng suy nghĩ”.

    Và ở Trung Quốc năm 1993 hai tác giả Hiểu Bình và Thanh Ba đã biên soạn và xuất bản cuốn “Quân đội Trung Quốc liệu có đánh thắng trong cuộc chiến tranh tới không?”.

    Cuốn sách viết: “Nếu nhà cầm quyền Việt Nam không có nhượng bộ gì trong vấn đề Nam Sa thì Trung Quốc và Việt Nam nhất định sẽ có đánh nhaư”; “Thập kỷ 90 là thời kỳ then chốt để giải quyết vấn đề Nam Sa. Thời kỳ này qua đi, có thể Trung Quốc sẽ mất một dịp may lịch sử”.

    Cuốn sách còn cho biết rằng năm 1992, một hội nghị quân sự của Trung Quốc họp ở miền Nam Tnmg Quốc đã định ra những nguyên tắc tác chiến, kết hợp thủ đoạn đánh và doạ, “nhanh chóng … đánh đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa (tức Trường Sa)”.

    Tình hình tranh chấp phức tạp trên Biển Đông khiến cho dư luận quốc tế lo ngại, ngày 22/7/1992, các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố của Hiệp hội ASEAN về vấn đề Biển Nam Trung Hoa, bản tuyên bố viết: “Cho rằng các vấn đề Biển Nam Trung Hoa chứa đựng những vấn đề nhậy cảm thuộc về chủ quyền và quyên tài phán của các bên ưực tiếp liên quan.

    Lo ngạì rằng bất kỳ diễn biến có tính chất thù địch nào trong Biển Nam Trung Hoa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoà bình và sự ổn định trong khu vực.

    Dưới đây :

    1. Nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết bằng phương thức hoà bình, không dùng vũ ìực, đối với tất cả các vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán trong Biển Nam Trung Hoa.

    2. Khẩn thiết yêu cầu các bên liên quan tự kiềm chế, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giải quyết tận gốc tất cả các cuộc tranh chấp.”

    Trong tưyên bố ngày 10/5/1995, Mỹ cũng tỏ ra lo ngại về tình hình khu vực và “cực lực phản đối việc sử dụng vũ lực hay đe doạ để giải quyết những yêu sách đối nghịch”.

    Về phía Việt Nam, chúng ta kiên trì thực hiện nguyên tắc đã thoả thuận ngày 19/10/1993 là “tiếp tực đàm phán về các vấn đề trên biển (Biển Đông) để đi đến một giải pháp cơ bản lâu dài. Trong khi đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực”.

    Tuyên bố của Quốc hội Việt Nam tháng 6/1994 nhân dịp phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển đã cụ thể hoá quan điểm của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là:

    “Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tàí phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để từn gìảì pháp cơ bản, lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực”.

    Quốc hội Việt Nam nhấn mạnh:

    “Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982″.

    Sở dĩ có điều nhấn mạnh này là để đối phó với sự việc năm 1992 Trung Quốc đã ký với Công ty Crestone của Hoa Kỳ cho công ty này thăm dò khai thác một lô rộng 25.500 km2 trên thềm lục địa Việt Nam cách đường cơ sở của Việt Nam 84 hải lý và cách Hải Nam 570 hải lý. Theo tin nước ngoài ngày 4/12/1996 Công ty Benton Oil và Gas có trụ sở ở Califomia đã mua lại Công ty Crestone với giá 15,45 triệu USD vâ do đó đã thay thế Công ty Crestone trong quan hệ với Trung Quốc để thực hiện hợp đồng mà Crestone đã ký với Trung Quốc.

    Ngày 10/6/1994 Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn tuyên bố rằng lô Thanh long, phía Tây khu vực Tư Chính cách đảo Hòn Hải nằm trên đường cơ sở của Việt Nam 90 hải lý cũng thuộc chủ quyền của Trung Quốc vì đó là vùng phụ cận của quần đảo Nam Sa.

    Về yêu sách của Trung Quốc đối với thềm lục địa Việt Nam ở khu vực Tư Chính, Thanh Long, xin giới thiệu một số ý kiến của Luật sư Brice Clagett Văn phòng luật sư Covington và Burling ở Washington đăng trên tạp chí Dầu mỏ và khí đốt của Anh (các số 10 và 11 năm 1995) để tham khảo, Clagett viết: “Lô Thanh Long nằm ngay trên thềm lục địa Việt Nam, thậm chí cả trong nghĩa hẹp của từ ngữ này”; “Theo bất kỳ định nghĩa nào về thềm lục địa hoặc theo bất kỳ quan điểm hơp lý nào của Luật quốc tế, yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Thanh Long là lố bịch”, “Có thể kết luận rằng yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Tư Chính cũng bất hợp lý không hơn không kém yêu sách của họ đối với khu vực Thanh Long. Khu vực Tư Chính tiếp giáp với khu vực Thanh Long về phía Đông, nằm chủ yếu trên dốc lục địa và (có lẽ) bờ lục địa của Víệt Nam. Khu vực Tư Chính bắt đầu từ quãng đường đẳng sâu 150m và tựt xuống rồi kết thúc ở khu vực đồng bằng ở sâu 1800-2000m tách khỏi đảo Trường Sa”. “Bờ dốc của đảo Trường Sa nằm đối diện chứ không tiếp liền với bờ dốc của lục địa Việt Nam”.

    “Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết Biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể được coi là một vấn đề luật pháp nghiêm chỉnh”.

    Chúng ta đang cố gắng cùng Trung Quốc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ” giữa hai nước, thực hiện quyết tâm của lãnh đạo hai nước là đẩy nhanh tiên tnnh đàm phán nhằm sớm đi đến ký Hiệp ước về biên giới trên bộ và Hiệp ước phân định Vịnh Bắc bộ để khi bước sang thế kỷ 21 hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài trên đất liền và ở Vịnh Bắc bộ, đồng thời kiên trì đàm phán về các vấn đề trên Biển Đông để đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài. chúng ta cững chân thành và kiên trì thực hiện thoả thuận “Trong khi đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực”.

    Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, giữ vững vị trí của nước Việt Nam trên Biển Đông là một cuộc đấu tranh kết hợp các hoạt động của tất cả các ngành trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng, một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng liêng của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc. Các ngành trong nước đang cùng nhau thực hiện ý kiến thống nhất trong Hội nghị biển toàn quốc tháng 2/1995 là: “Chúng ta phải thức tỉnh ý thức về biển của cả dân tộc, làm chủ được biển của mình, phát triển mạnh mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta trên biển, một lần nữa vươn lên trở thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á” .


    [1]Đại Nam thực lục chính biên, quyển 104, kỷ thứ hai.

    [2]Ghi chú về Châu Á. Tạp chí của Hội nghiên cứu Đông Dương, Tập XVII số 1. tr 79 – 100

    [3]Monique Chemillier Gendreau: Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. tr.90

    [4] Hiệp ước biên giới trên đất liền này đã được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền ký ngày 3-12-1999.


    Nguồn bài đăng : Tạp chí Thời Đại Mới
  8. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa

    [​IMG]


    Lý sự cùn của Trung Quốc

    Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26-5-2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương chủ trì buổi họp báo đã phát biểu: “Sau khi xem xét những nội dung có liên quan trong buổi họp báo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức hôm thứ sáu tuần trước (ngày 23-5), tôi thấy thật hoang đường và tức cười. Phần lớn những bằng chứng lịch sử chỉ rõ, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam-PV) từ xưa đến nay là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc, người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên đồng thời thực hiện hoạt động kinh doanh, tiến hành quản lý cũng như thực hiện chủ quyền sớm nhất ở đây. Người Trung Quốc là người chủ của quần đảo Hoàng Sa”.

    Ông Tần còn nói: Ngay từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, tức thời nhà Hán, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động hàng hải ở Biển Đông và phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. Sau đó, người Trung Quốc lần lượt đến quần đảo Hoàng Sa khai thác, kinh doanh. Tài liệu lịch sử chứng minh từ thời nhà Đường, Tống, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động đánh bắt ở quần đảo Hoàng Sa. Hải quân thời Bắc Tống đã tiến hành quản lý có hiệu quả ở quần đảo Hoàng Sa. Nhà thiên văn học nổi tiếng thời nhà Nguyên Quách Thủ Kính đã lập điểm thiên văn ở quần đảo Hoàng Sa. Điều đó chứng minh quần đảo Hoàng Sa khi đó đã là nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc.

    Trong một bài viết của ông Dương Trạch Vỹ, Giáo sư, Tiến sĩ Luật học, công tác tại Viện Nghiên cứu Luật quốc tế, Đại học Vũ Hán, cũng hết sức vô lý khi đưa ra quan điểm tương tự như trên.

    Để làm rõ sự sai trái của nhà chức trách cũng như học giả phía Trung Quốc, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.

    Trung Quốc sai hoàn toàn

    Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Phía Trung Quốc sai hoàn toàn. Tại sao lại nói như vậy? “Việc Trung Quốc nói họ có những chứng cứ lịch sử với Tây Sa, Nam Sa thậm chí cả Trung Sa và Đông Sa có từ thời kỳ cổ đại, ngay từ thời kỳ trước Công nguyên, đối với tôi và nhiều học giả khác cũng như dư luận đã từng nghe nhiều lần về điều này. Chúng tôi cũng từng có những phân tích, đánh giá rất kỹ về vấn đề này. Một lần nữa, tôi xin nhấn mạnh lại ý kiến của tôi, Trung Quốc đã dựa vào một nguyên tắc gọi là chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử với các đảo mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa. Họ đã khai thác hết tất cả các yếu tố lịch sử được ghi nhận trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc để họ nói rằng, người Trung Quốc đã xuống Biển Đông và khu vực các đảo này, chính họ là người phát hiện ra, đã khai phá, đã làm ăn và sau đó là quản lý, đồng thời rêu rao cái gọi là thực hiện chủ quyền của Trung Quốc với các đảo này. Để có thể phân tích rõ luận thuyết đó của Trung Quốc trong việc chứng minh quyền thụ đắc lãnh thổ trong luật pháp quốc tế, có giá trị hay không, có giá trị đến mức nào, chúng ta cần xem xét dựa trên những nguyên tắc, luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các khu vực lãnh thổ có tranh chấp.

    [​IMG]
    Tiến sĩ Trần Công Trục

    Trong Biển Đông có các quần đảo, trong đó có hai quần đảo của Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi xin khẳng định rõ ràng, các quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp, chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực”.

    “Luận điểm mà Trung Quốc đưa ra để biện minh cho quan điểm của mình sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam dựa vào cái gọi là thuyết chủ quyền lịch sử”-Tiến sĩ Trục cho biết.

    Để khẳng định và bảo vệ cho yêu sách của mình, các bên đã dựa vào những nguyên tắc pháp lý như sau: Chiếm hữu thật sự; chủ quyền lịch sử; khoảng cách địa lý.

    “Trung Quốc đang dùng luận thuyết chủ quyền lịch sử để chứng minh chủ quyền. Đây là một luận thuyết vô cùng lạc hậu, không được luật pháp quốc tế dùng để xử lý các tranh chấp về thụ đắc lãnh thổ đối với các quần đảo”, Tiến sĩ Trục chỉ rõ.

    Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, tại thời điểm hiện nay, để đánh giá một cách khách quan, khoa học đối với các quan điểm pháp lý do các bên tranh chấp chủ quyền nêu ra, chúng ta cần đề cập đến một số nội dung chủ yếu của nguyên tắc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia trong pháp luật quốc tế.

    Ông Trục nêu rõ: Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ. Từ thế kỷ XVI, sự phát triển và lớn mạnh khiến các nước như Hà Lan, Anh, Pháp… trở thành những cường quốc cạnh tranh với các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà theo Sắc lệnh của Giáo hoàng Alexandre VI ký ngày 4-5-1493 đã phân chia khu vực ảnh hưởng cho 2 nước này ở các phạm vi lãnh thổ mới phát hiện ngoài châu Âu.

    Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu”, hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện”. Nguyên tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho một quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc quyền phát hiện chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó. Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện, giá trị pháp lý của việc phát hiện, ai là người phát hiện trước, lấy gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó…Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó.

    Mặc dù vậy, nguyên tắc chiếm hữu danh nghĩa không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng “đất hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý…, mà còn ngày càng dẫn đến những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc, vì người ta không thể lý giải được cụ thể cái “danh nghĩa” đã được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào …

    Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt, sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc mới. Đó là nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”.

    Nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”

    Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26-6-1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau:

    Thứ nhất: Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên.

    Thứ hai: Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng…

    Theo Tiến sĩ Trục, Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “…mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét, giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.

    Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế được Tiến sĩ Trục chỉ ra gồm các yếu tố:

    Một: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành.

    Hai: Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (Res Nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto).

    Ba: Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó.

    Bốn: Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

    Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này, nên, mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10-9-1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các Cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Chẳng hạn Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4-1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, Phán quyết của Tòa án quốc tế của LHQ tháng 11-1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous…..

    Gần đây hơn, Tòa án công lý quốc tế đã quyết định cho Ma-lai-xi-a thắng trong vụ kiện với In-đô-nê-xi-a vào tháng 12-2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì tòa nhận thấy rằng Ma-lai-xi-a đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

    “Chủ quyền lịch sử” không phải để chứng minh chủ quyền

    Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để phản bác quan điểm mà phía Trung Quốc đưa ra, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Trước hết, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV).

    Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi thực hư như thế nào? Giá trị của chúng đến đâu? Trao đổi với phóng viên Báo QĐND, ông Trục cho biết: Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á cùng đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, mà không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền và việc người dân Trung Quốc “đến hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) để đi biển và sản xuất”. Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung về các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý. Vì vậy, việc Trung Quốc qua đó mà viện dẫn, nói quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc là không có cơ sở.

    [​IMG]
    Tiến sĩ Mai Hồng giải thích cho người xem nội dung chữ Hán cổ trên bản đồ của Trung Quốc năm 1904 mà ông đã hiến tặng Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: TTO

    Tiến sĩ Trục chỉ rõ các tư liệu đã chứng minh sự sai trái, ngộ nhận từ phía Trung Quốc như: Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hàng hải trong Biển Đông nhưng rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.

    Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng, đó chính là Trường Sa.

    Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo cứu địa lý, sách hàng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.

    Để làm rõ hơn vấn đề này, ông Trục chỉ ra một nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.

    Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tất cả đều rất thống nhất với nhau.

    Chỉ rõ sự sai trái, biện minh vô lý của ông Dương Trạch Vỹ, Tiến sĩ Trục cho biết thêm: Trong các tài liệu, tư liệu mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này, có đề cập việc dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng “triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình”, “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa”. “Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào”, ông Trục khẳng định.

    Ông Trục cũng chỉ rõ sai trái của chính quyền Trung Quốc hiện thời, đó là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở “Nam Hải” để nói rằng “quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên”.

    Về điều này, ông Trục lý giải: Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”. Dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Bắc Hải, Nam Hải.

    Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là “đo đạc toàn quốc” như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là “đo đạc bốn biển”, cho nên mới có cả một số nơi ngoài “cương vực Trung Quốc” như Cao Ly (nay là Triều Tiên), Thiết Lặc (nay thuộc vùng Xi-bê-ri của Nga), Bắc Hải (nay là vùng biển phía bắc Xi-bê-ri), Nam Hải tức Biển Đông. Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ “cương vực” Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.

    Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quảng Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây đảo Hải Nam.

    Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hàng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ gọi là địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí – đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận”.

    Xem xét tất cả các tư liệu, tài liệu trên đã thấy rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.

    “Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu”, Tiến sĩ Trục viện dẫn các ví dụ thực tế để chứng minh rõ những đòi hỏi phi lý, sai trái của Trung Quốc.

    Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc

    Để bác lại các quan điểm trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao và các học giả Trung Quốc, từ rất lâu, Tiến sĩ Trần Công Trục và các học giả Việt Nam đã dày công nghiên cứu về sự sai trái, các tham vọng của Trung Quốc. Ông Trục chỉ rõ, tham vọng của Trung Quốc đang mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này.

    Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn Địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn Địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc”.

    Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam”.

    Tiến sĩ Trục hết sức tâm đắc với nhận xét của bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, rằng: Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.

    Ông Trục cũng nhấn mạnh, không chỉ thế giới, mà chính người Trung Quốc chân chính cũng đưa ra nhận xét về “chủ quyền lịch sử” Trung Quốc. Giáo sư Lý Lệnh Hoa ở Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc, có bút danh là “Bao Phác Tiên Nhân”, khi nói đến sự sai trái, trái pháp luật quốc tế từ phía Trung Quốc cũng nhấn mạnh: “Chúng ta thường thích nói một câu là: Từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ “thiêng liêng”. Đó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử…, nhưng chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc chắn. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó”.

    Câu hỏi của Giáo sư Lý Lệnh Hoa chắc hẳn sẽ khiến nhà chức trách Trung Quốc rất khó trả lời.

    Không ai có thể thay đổi sự thật

    Vậy nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì? Có phù hợp với luật pháp quốc tế không?

    Tiến sĩ Trục cho biết: “Việt Nam hoàn toàn đúng. Phương thức thụ đắc lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là theo nguyên tắc chiếm hữu thật sự. Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi”.

    Tiến sĩ Trục khẳng định: Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, trải qua 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa:

    Trước tiên, Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn. Chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là sự ra đời và hoạt động thường xuyên, liên tục của Đội Hoàng Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải do Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.

    Nhà nước Đại Việt thời Tây Sơn: Trong thời gian từ năm 1771 đến 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài Biển Đông. Tuy nhiên, các lực lượng của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh, Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực lãnh thổ thuộc phạm vi quản lý của mình. Từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng Quy Nhơn, tiến về phía Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn, Quảng Ngãi, nơi có cửa biển Sa Kỳ và Cù lao Ré, căn cứ xuất phát của Đội Hoàng Sa.

    Năm 1775, Phường Cù lao Ré thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi đã nộp đơn xin cho phép Đội Hoàng Sa và Đội Quế Hương hoạt động trở lại theo thông lệ. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng Hoàng đế, chính quyền Tây Sơn được củng cố một cách hoàn chỉnh và năm 1786, đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai đội Hoàng Sa, chỉ huy 4 chiếc thuyền câu vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như cũ. Ngoài ra còn có các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải Ba cũng được giao nhiệm vụ hoạt động trong Biển Đông.

    Nhà nước Việt Nam thời nhà Nguyễn tiếp tục sử dụng Đội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải làm nhiệm vụ khai thác và bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 7-1803, vua Gia Long cho lập lại Đội Hoàng Sa: Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng Sa (theo Đại Nam Thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 12). Tháng Giêng năm Ất Hợi (1815) vua Gia Long quyết định: Sai Phạm Quang Ảnh thuộc Đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình…(Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, q.50, tờ 6a).

    Sang đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân thực hiện… Những năm 1833, 1834, 1836, vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công phái người ra Hoàng Sa để dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ…: Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc. Vua Minh Mạng đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc…

    Tiến sĩ Trục khẳng định, như vậy là suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn, Đội Hoàng Sa, kiêm quản Đội Bắc Hải, đã đi làm nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Những hoạt động này đã được các văn bản nhà nước ghi nhận, như: Châu bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản của chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp… hiện đang được lưu trữ tại các cơ quan lưu trữ nhà nước.

    Cũng theo sự phân tích của ông Trục, trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với hai quần đảo này, đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là phủ, khi thì là trấn.

    Không chứng minh được bằng pháp lý thì sử dụng sức mạnh

    Sự thật là Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1956, lợi dụng sau hội nghị Geneve, hai miền Nam – Bắc Việt Nam cần một khoảng thời gian để luân chuyển quyền quản lý, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.

    Năm 1974, lợi dụng thời điểm Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà suy sụp, sự quản lý đối với khu vực Hoàng Sa bị yếu đi, Trung Quốc sử dụng không quân, hải quân đánh chiếm nốt cụm phía Tây quần đảo Hoàng Sa, hoàn thành việc chiếm đóng, biến nó trở thành một căn cứ làm bàn đạp tiến tiếp xuống phía Nam.

    Năm 1988, khi Việt Nam đang trong thời điểm khó khăn về kinh tế, chính trị, ngoại giao, Trung Quốc đem quân chiếm một số bãi cạn ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo là hành động không thể biện bạch trước dư luận quốc tế và luật pháp quốc tế đương đại.

    Rõ ràng, quan điểm cũng như hành động của Trung Quốc đưa ra từ xưa đến nay hoàn toàn sai trái. Tiến sĩ Trục nhấn mạnh, các nước trên thế giới từ xưa đến nay có nhiều nhà hàng hải tài ba. Họ cũng đã đi qua rất nhiều vùng đất, vẽ hải đồ, đặt tên cho những vùng đất đã đi qua. Như vậy, cứ lấy luận điểm đã từng đặt chân đến vùng đất nào để đòi chủ quyền vùng đất đó thì rất mơ hồ, có tính ngụy biện.

    Độc chiếm Biển Đông là mưu đồ từ rất lâu của Trung Quốc. Quốc dân Đảng mượn cớ quân đồng minh ra tiếp quản, giải giáp vũ khí quân Nhật sau khi đại chiến thế giới lần thứ 2 kết thúc, đưa một hạm đội do Lâm Tuân chỉ huy gồm 4 con tàu, lợi dụng nhiệm vụ giải giáp quân Nhật để chiếm hai quần đảo. Tại Hoàng Sa, hạm đội này đã tùy tiện lấy tên của bốn con tàu để đặt tên cho các đảo mà trước đó Việt Nam đã đặt tên.

    Sau đó đến những năm 50 của thế kỷ 20, Quốc dân Đảng bị thất thủ. CHND Trung Hoa ra đời và Quốc dân Đảng chạy ra Đài Loan, đồng thời rút toàn bộ quân ở khu vực Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam về. Trung Quốc đã lợi dụng tình thế để chiếm nhóm đảo ở phía đông và Đài Loan quay trở lại chiếm đảo lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, mà họ gọi là Thái Bình, chúng ta gọi là Ba Bình.

    Còn một chuyện cũng liên quan tới sau này là việc trong hạm đội của Quốc dân Đảng, có một ông Vụ phó Vụ Mỏ và Địa chất của Trung Hoa dân quốc. Ông này đi theo và khi đó đã vẽ nghịch ra đường biên giới chữ U gồm 11 đoạn. Một sơ đồ không có cơ sở gì sau này đã bị Trung Quốc lợi dụng để hiện thực hóa âm mưu độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đưa ra lập luận rằng đây là con đường đã tồn tại trong lịch sử, có trước Công ước Luật Biển năm 1982, và điều này hết sức phi lý, không được bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thừa nhận.

    Về ý kiến của ông Dương Trạch Vỹ cũng như lời phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương viện dẫn lời lẽ trong Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ rõ: Trung Quốc đang cố tình hiểu sai, xuyên tạc để biện hộ cho việc họ đã sử dụng lực lượng, lợi dụng cơ hội để chiếm đóng phi pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và một số khu vực ở Trường Sa.

    Đánh lận thông tin với âm mưu độc chiếm

    “Việc Trung Quốc nhắc đến văn bản của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nhưng đó không phải là công hàm. Trung Quốc viện dẫn điều này để cố chứng minh cho lập luận của Trung Quốc là phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là vô lý.

    Tôi nói rõ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công thư chứ không phải công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai. Họ thì nói rằng chúng ta đã thừa nhận nhưng đi sâu vào nội dung đó thì không hề có một câu nào nói đến việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là của Trung Quốc, mà chỉ nói rằng chính phủ và nhân dân Việt Nam tán thành và ủng hộ lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc theo tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc. Rõ ràng chúng ta chỉ dừng lại ở thừa nhận và ủng hộ chiều rộng lãnh hải 12 hải lý”.

    Tiến sĩ Trục giải thích rõ bối cảnh: Thời điểm đó, Trung Quốc đưa tuyên bố 12 hải lý cũng là một sự kiện khá nổi bật liên quan tới việc thế giới đang có quá trình đấu tranh giữa các nước có nền hàng hải phát triển và các nước ven biển có nền hàng hải kém phát triển hơn, một bên thì muốn thu hẹp lãnh hải của các quốc gia ven biển vào càng sát bờ càng tốt, không cho phép mở rộng đến 12 hải lý. Các quốc gia khác, đặc biệt các quốc gia ở thế giới thứ ba, các nước đang phát triển muốn mở rộng chủ quyền của mình ra ở phạm vi lớn hơn. Trong bối cảnh đó Trung Quốc là nước tiên phong tuyên bố điều đó thì với một quan hệ về mặt hữu nghị giữa hai nước thì chúng ta lên tiếng ủng hộ cũng chính là chúng ta ủng hộ tiếng nói chung của cộng đồng các nước đang phát triển, là vấn đề hoàn toàn hết sức thiện chí.

    Trở lại vấn đề Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou-981) sâu trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Tiến sĩ Trục đã chỉ rõ ý đồ sâu xa của Trung Quốc: Bằng việc Trung Quốc lý giải đặt giàn khoan ấy cách bãi Trung Kiến (tức Tri Tôn của Việt Nam – PV) là 17 hải lý, có nhiều người lầm tưởng khu vực ấy là của Trung Quốc. Nhưng sau khi Việt Nam nói rõ quần đảo Hoàng Sa bao gồm cả đảo Tri Tôn là chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép, công luận quốc tế đã quay ra ủng hộ Việt Nam vì biết Trung Quốc sai.

    Nhấn mạnh tới chính nghĩa của Việt Nam, ông Trục nhấn mạnh: Tuyên bố của Thủ tướng *************** đã khẳng định, vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đã cố tình lập lờ trong cách vận dụng những quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 để đặt giàn khoan ở vị trí dễ làm cho người dân thế giới và người dân Trung Quốc hiểu lầm rằng vùng biển đó thuộc chủ quyền của Trung Quốc, từ đó mà quay ra ủng hộ cho sự sai trái của họ. Cách “đánh lận” kiểu này, nếu ta không tỉnh táo, không phân tích cho thế giới hiểu, Việt Nam sẽ sa vào cái bẫy đã giăng sẵn. Do đó, cần hết sức tỉnh táo, không mắc mưu của Trung Quốc.

    NGUYỄN HÒA (ghi)

    Nguồn bài đăng

  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Hoàng Sa, Trường Sa- Những trang sử được viết bằng máu

    GS.TS Nguyễn Quang Ngọc

    [​IMG]

    Đảo Trường Sa lớn thuộc quần đảo Trường Sa

    Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.

    Từ thời kỳ tiền sử đến ngày nay, con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh sống trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý – Trần – Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.


    TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐỒNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII

    Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré…; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải…. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về…

    Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản…

    … Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả lời”[2].


    Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.

    Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê-Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa của Đại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.

    Đại Nam thực lục tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khácPhủ Biên tạp lụcĐại Việt sử ký tục biên.

    Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào[3].

    Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hàng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và vẽ bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa)[4] và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa)[5]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hàng hải phương Tây đã coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam”[6].

    Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa.

    Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào?

    Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ, tức là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan?

    Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm 1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người…”. Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.

    Năm 1636, người Hà Lan đuợc Chúa Nguyễn cho phép mở một thuơng điếm ở Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc “chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux”. Ông có nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng “những việc đó xảy ra từ thời Chúa trước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế. Nếu như sau này có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá được cứu hộ nữa”. Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).

    Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa Biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong và ngoài nước.

    [​IMG]

    Đại Nam nhất thống toàn đồ

    Cũng đúng vào năm 1776, khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: “Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương… Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp…”[7].

    Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Hoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”.

    TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX

    Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức của Vương triều và tài liệu của các học giả.

    Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817…

    Hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa, đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng…

    Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua “sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn…”. Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.

    Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật…. được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục chính biên.

    Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.


    Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.

    Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa…

    Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục. Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2.000 cân”.

    Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị.

    Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm)”.

    Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại.

    Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được… Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được…

    [​IMG]

    Bản đồ vẽ tay “các cửa sông An Nam” được lưu tại Thư viện Quốc gia Pháp, có ghi quần đảo Hoàng Sa mở ngoặc bãi cát vàng

    Ảnh tư liệu chụp tại Thư viện Quốc gia Pháp

    Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.

    Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục… Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất.

    Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: “Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này”.

    Các tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.

    Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: “Quần đảo Pracel… Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta”. Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.

    Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho biết: “Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ”.

    Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: “Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó”.

    Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá.

    [​IMG]

    Thuyền nan dùng cho binh phu đi Hoàng Sa được phục dựng trong Lễ khao thề tế lính Hoàng Sa

    *

    * *

    Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các Chúa Nguyễn, của Vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh. Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực.

    Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân. Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập… Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được.

    [​IMG]

    Lễ khao thề tế lính Hoàng Sa tại đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi

    Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình An… vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế – nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải, như thế, tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông.

    [​IMG]

    Bản đồ của công ty Đông Ấn Hà Lan

    Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết… Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, Biền binh, Vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức “tờ sai để thi hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là trách nhiệm của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế.

    Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.

    Nguồn: http://www.vnu.edu.vn/btdhqghn/

    [1] Bài đăng trên Bản tin ĐHQGHN số 245, tháng 7/2011, tr. 30-36.

    [2] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.I, Bản dịch Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 116.

    [3] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, tr 125

    [4] Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989

    [5] Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốn Iconographie Historique de l’Indochine của P.Boudet và A.Masson, Paris, 1931.

    [6] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr 7

    [7] Đơn của phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776 (lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
  10. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.931
    Đã được thích:
    1.543
    Về Yêu sách đường chín vạch của Trung Quốc

    [​IMG]

    Geoff A. Dyer

    Phan Văn Song lược dịch

    Vào năm 2009, Liên Hiệp Quốc đề ra hạn chót cho các nước trong khu vực nộp yêu sách ở biển Đông và vô số các đảo đá, đảo nhỏ, và rạn san hô có tranh chấp ở đó. Sau khi Việt Nam và Malaysia nộp hồ sơ chung cho Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc (TQ) công bố công hàm trong đó nêu rõ: “TQ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo của biển Nam Trung Hoa (biển Đông) và các vùng biển lân cận”. Kèm với công hàm này, Bắc Kinh đính theo một bản đồ khu vực trong đó yêu sách của TQ được phân định bởi một đường tạo thành với chín vạch.
    Bản đồ “đường chín vạch” không mới mẻ: lần đầu tiên được các nhà vẽ bản đồ TQ vẽ ra trong những năm 19201 và đã được thông qua như là một bản đồ bán chính thức vào năm 1947 dưới thời Tưởng Giới Thạch – lãnh đạo của Quốc Dân Đảng. Nhưng đây là lần đầu tiên nó đã được sử dụng như một phần của một yêu sách chính thức của TQ tại một diễn đàn quốc tế. TQ nói rằng hình chữ U của bản đồ giống như một “lưỡi bò” phản ánh “quyền lịch sử” của họ có được từ việc họ đã kiểm soát nhiều hòn đảo khác nhau trong nhiều thế kỉ.

    Sách trắng quốc phòng mới nhất của TQ tuyên bố “Chúng tôi sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ” – một cụm từ theo công thức vốn là một trong những phương châm của chính sách chính thức của TQ. Nhưng ở nhiều nước châu Á, yêu sách về “quyền lịch sử” như vậy không khỏi khiến họ cảm nhận đó là một nỗ lực giành quyền bá chủ của TQ. “Chúng tôi có lẽ không phải bị quá bất ngờ,” một nhà ngoại giao Thái tâm sự về việc TQ đưa ra của bản đồ “đường chín vạch.” “Nhưng thấy tận mắt rằng họ thực sự yêu sách hầu như tất cả – thì thật là khá choáng váng.”

    Di sản của 500 năm khống chế của hải quân phương Tây ở châu Á là những cái tên dùng phổ biến cho nhiều thể địa lí ở biển Đông – nào là đá Mischief (đá Vành Khăn), bãi ngầm Macclesfield, đảo Woody (đảo Phú Lâm), và bãi cạn Scarborough. Khoảng trên dưới 60 đảo/đá ở biển Đông được chia thành hai nhóm: quần đảo Hoàng Sa ở phần phía bắc và các quần đảo Trường Sa xa hơn về phía nam. Trong nhiều thập niên, các tranh chấp xem nước nào sở hữu các thể địa lí là chỉ như vở diễn bên lề ít được biết đến. Nhưng trong 5 năm vừa qua, các tranh chấp đó đã nhanh chóng trở thành một cơn bão thật sự của địa chính trị hiện đại, và Biển Đông đã trở thành nơi mà mối quan ngại của Mĩ và của Đông Nam Á về việc gia tăng quân sự của TQ đã bắt đầu có điểm chung. Đối với Mĩ, các yêu sách của TQ đã dấy lên hồi chuông báo động về mối đe dọa lâu dài cho trật tự trên biển của Mĩ. Còn đối với các bên tranh chấp châu Á, tranh chấp đó cũng gom cả dầu, cá, và chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ lại cùng với nhau.

    Ở TQ, biển Đông đôi khi được gọi là “Đại Khánh trên biển” (Đại Khánh là mỏ dầu ở phía đông bắc TQ được phát hiện vào những năm 1950), theo ước tính của TQ, có thể có không ít hơn 213 tỉ thùng dầu trong biển Đông, không quá ít so với dự trữ của Saudi Arabia, và có đủ khí đốt tự nhiên để đáp ứng nhu cầu cho 400 năm theo mức tiêu thụ hiện tại của nước này. Ngoài ra, vùng biển này cũng rất giàu tôm cá, làm cho chúng ngày càng hấp dẫn đối với các đội tàu cá TQ và Việt Nam vốn đã thấy nguồn cá trong các khu vực đánh bắt truyền thống của họ gần các bờ biển sụt giảm do đánh bắt quá mức, đẩy họ càng lúc càng đi xa hơn, vào vùng biển tranh chấp.

    Khi căng thẳng leo thang trong những năm gần đây, TQ đã khăng khăng cho rằng lỗi chủ yếu là do các nước khác, còn họ thì có rất nhiều bằng chứng hậu thuẫn cho yêu sách này. Các quan chức TQ lớn tiếng rằng TQ là nước duy nhất chưa khai thác nguồn tài nguyên dầu ở biển Đông. Một quan chức TQ nói: “Đã có 700 giếng dầu [đang khai thác] trong khu vực mà chúng tôi tin là của chúng tôi. Thế mà họ lại cáo buộc chúng tôi là quyết đoán.” Họ trỏ vào sự tăng cường cơ sở hạ tầng trên các thể địa lí do các nước khác kiểm soát, đặc biệt là Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, VN đã kiểm soát 29 thể địa lí ở đó. Bắc Kinh cũng quả quyết rằng nỗ lực của chính Washington can dự vào tranh chấp đã khiến Việt Nam và Philippines dựa thế có một lập trường đối đầu hơn đối với TQ. Nhiều người ở TQ tin rằng Mĩ đang âm mưu chống lại họ ở biển Đông. Thôi Thiên Khải (Cui Tiankai), thứ trưởng ngoại giao trở thành đại sứ Mĩ năm 2013 nói “TQ không phải nước gây ra những lộn xộn này và còn lâu mới là kẻ gây hại. Đúng hơn TQ là nạn nhân chịu nhiều tổn hại.”

    Các bên tranh chấp khác lại đưa ra một câu chuyện khác. Họ mô tả sự gia tăng dần dần nhưng kiên quyết về sự hiện diện của hải quân TQ trong khu vực trong thập niên qua, cũng như sự tăng lên cố ý các căn cứ quân sự trên một số hòn đảo mà TQ kiểm soát như là một phần của một quá trình gặm nhấm trong khẳng định chủ quyền. Các ảnh vệ tinh về đảo Phú Lâm (tiếng Trung làYongxing – Vĩnh Hưng) trong quần đảo Hoàng Sa cho thấy điều này. Đảo nhỏ này cách căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam khoảng 200 hải lí về phía nam. Đảo này không có dân bản địa hoặc nguồn cung cấp nước tự nhiên, nhưng trong vài năm gần đây nó đã trở thành một thành trì quân sự kiên cố. Năm 2012, Bắc Kinh tuyên bố thị trấn chính của hòn đảo, họ gọi là Tam Sa, là một đô thị chính thức. Vào ngày nó được tuyên bố là đô thị, một quan chức nông nghiệp địa phương tên Tiểu Kiệt (Xiao Jie) được phái đến trên một chuyến tàu chạy 20 giờ để giữ nhiệm vụ thị trưởng. Ông ta nói về công việc mới của mình: “Ở đây không có đất trồng trọt. Mục tiêu chính là để bảo vệ chủ quyền trên biển của đất nước chúng tôi.”

    Các chính phủ Đông Nam Á tố cáo Bắc Kinh áp dụng một chiến lược “vừa đàm vừa lấy”. Việt Nam chỉ ra rằng hai trong số chín vạch trên bản đồ tai tiếng này củaTQ là nằm trong khu vực mà theo luật pháp quốc tế được coi là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, khu vực hai trăm hải lí ngoài bờ biển của một quốc gia được công nhận bởi luật pháp quốc tế. Năm 2007, Bắc Kinh áp lực Exxon Mobil và một số công ti dầu khí nước ngoài khác phải từ bỏ các hoạt động khoan thăm dò ngoài khơi bờ biển Việt Nam- một sự kiện mà một số người tính như là điểm bắt đầu của giai đoạn hiện nay căng thẳng. Năm 2011, tàu chính phủ TQ cắt cáp của hai tàu đang tiến hành khảo sát về dầu khí cho PetroVietnam. Hai tháng trước đó, một tàu Philippines đang làm nghiên cứu địa chấn trong khu vực tranh chấp đã bị hai tàu chính phủ TQ buộc phải rời đi. Hàng năm, chính quyền TQ thực thi lệnh cấm đánh bắt cá ở nhiều vùng của biển Đông, mà họ nói là để bảo vệ nguồn cá, nhưng quyết định này không có các chính phủ khác tham dự vào. Thế là mỗi năm, họ bắt giữ hàng chục ngư dân vi phạm lệnh cấm.

    Khó có thể không nghĩ rằng hoạt động này như là một kế hoạch dài hạn có tính toán để từng bước khẳng định quyền kiểm soát khu vực. Tuy nhiên, giống như nhiều sự cố trong đó sức mạnh to lớn bên trong của TQ đã bắt đầu được tung ra, cũng có một khía cạnh khác đối với sự quyết đoán mới của TQ ở biển Đông, một áp lực ngấm ngầm từ bên dưới đòi phải làm mạnh tay hơn nữa. Cách TQ tiếp cận biển Đông là một trong những ví dụ rõ ràng nhất cho thấy các nhóm lợi ích cạnh tranh nhau đang ảnh hưởng nhiều phần trong chính sách ngoại giao thế nào– sự rạn nứt quyền lực mà các cơ quan TQ đã và đang chứng kiến. Một loạt các bộ máy quan liêu khác nhau của chính phủ có trách nhiệm chồng chéo đối với các thành phần hiện diện của chính phủ ở biển Đông, và đôi khi họ tranh nhau để làm cho sự hiện diện của họ được cảm nhận. Người TQ nhận thức rõ điều này qua việcgán tên các nhóm khác nhau này là “chín con rồng” , dựa trên truyền thuyết cổ xưa của một vị vua rồng mà chín người con có thể được nhìn thấy trong vô số bức tranh tường “đang khuấy động biển cả.”

    Một trong số các áp lực đó đến từ chính quyền địa phương. Chính quyền đảo Hải Nam, chỗ có căn cứ hải quân mới, có trách nhiệm quản lí hành chính đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và trong hai thập niên qua đã cố gắng tổ chức du lịch loại cao cấp trên các hòn đảo này như một phần của kế hoạch phát triển riêng. Trong những năm gần đây, họ đã bào mòn sự phản đối của chính quyền trung ương về sáng kiến này. Cơ quan du lịch trên đảo Hải Nam chào mời khách hàng với các chuyến đi bơi lặn xa hoa ở quần đảo Hoàng Sa, và bây giờ có một cuộc đua thuyền giữa Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa. Các công ti dầu lớn, vốn nằm trong số những bộ phận có thế lực và liên kết chặt chẽ nhất của ngành công nghiệp nhà nước, cũng đã vận động cật lực chính phủ đẩy mạnh các yêu sách chủ quyền trong khu vực quyết đoán hơn. Trong năm 2012, CNOOC, một trong ba công ti dầu khí lớn, mời các nhóm dầu khí nước ngoài cùng khai thác 9 lô trong khu vực tranh chấp – nhiều lô trong số đó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

    Ngay trong số các cơ quan chính phủ TQ thực thi pháp luật trong khu vực cũng có những lợi ích cạnh tranh nhau. Cục Ngư chính có trách nhiệm lập chính sách đánh bắt cá trong vùng biển của TQ, nhưng Hải giám TQ cũng tiến hành các hoạt động thực thi pháp luật trong khu vực. Giống như bất kì bộ máy quan liêu giỏi giang nào, cả hai đều muốn chứng tỏ mình xứng đáng để được cấp thêm ngân sách vốn đã tăng nhanh trong những năm gần đây. Họ thậm chí có một cụm từ để biện minh cho vai trò đôi khi mơ hồ và chồng chéo của họ: “Cứ chợp lấy thứ gì có thể chợp trên biển, còn chuyện phân chia trách nhiệm giữa các cơ quan tính sau.” Bộ Nông nghiệp, phụ trách Cục Ngư chính, áp dụng một hệ thống khen thưởng cho các cá nhân đã “cứng rắn và dũng cảm trong việc bảo vệ chủ quyền của TQ” Các quan chức được thưởng vì đã đuổi được nhiều tàu thuyền nước ngoài khỏi vùng biển mà TQ tuyên bố là của mình. Với hàng chục tàu vũ trang và máy bay trong tay, các cơ quan này cũng đã giữ vai trò đẩy ranh giới của tuyên bố chủ quyền của TQ ra xa thêm. Trong khi việc phái hải quân có thể được xem như một động thái khiêu khích cao độ, các tàu thực thi pháp luật có thể góp phần vào việc khẳng định yêu sách của TQ theo một cách ít đối đầu hơn.

    Có hai yếu tố khác đằng sau cảm giác lo ngại sâu sắc ở Đông Nam Á. Không phải chỉ mức độ yêu sách [quá đáng] của TQ đã làm lo lắng khu vực mà còn là sự không rõ ràng của nó. Không ai biết mình đang đối phó với điều gì. Mặc dù bản đồ “đường chín vạch” đã được lưu hành trong vài thập niên nhưng TQ chưa bao giờ thực sự xác định [rõ] lãnh thổ của họ trên bản đồ này. Có khi, các quan chức Bộ Ngoại giao đã cố gắng trấn an bằng cách chỉ ra rằng TQ chỉ yêu sách các đảo và các thể địa lí bên trong đường đó thôi. Một yêu sách như vậy vẫn sẽ dính dáng hàng loạt tranh chấp khó giải quyết nhưng ít quá quắt hơn nhiều so với yêu sách toàn bộ khu vực trên bản đồ. Tuy nhiên, vào những lúc khác, các quan chức và các nhà phân tích TQ lại chỉ ra rằng “danh nghĩa/quyền sở hữu” lịch sử của họ đối với biển Đông đem lại cho họ độc quyền tất cả mọi thứ bên trong đường này. Những người khác lại còn cho rằng khu vực này là một phần của “vùng biển chủ quyền” của TQ. Bành Quang Khiêm (Peng Guangqian), một thiếu tướng diều hâu của PLA, đã mô tả vùng biển bên trong “đường chín vạch” như là “ ‘đất xanh’…của TQ” và là một khu vực do TQ “sở hữu.” Nỗ lực của CNOOC rao bán các hợp đồng chuyển nhượng dầu trong vùng biển tranh chấp và việc áp đặt lệnh cấm đánh cá của TQ cho thấy một lập trường chính thức rất khác với lập trường do Bộ Ngoại giao vạch ra. Sự mập mờ như vậy có thể nói lên nhiều điều. Nó có thể cho thấy có sự linh hoạt trong lập trường của TQ, có thể đã được khai thác trong các cuộc đàm phán. Nhưng nó cũng có thể có nghĩa là TQ đang cố thử theo cả hai cách, các nhà ngoại giao của họ bám chặt vào một yêu sách hẹp hơn trong khi hành vi thực tế của họ lại theo một phiên bản phình to hơn nhiều.

    Ngoài ra còn có vấn đề về kích cỡ. Trong đối phó với TQ, các nước khác có ít cảm giác được bình đẳng chủ quyền nhưng lại có nhiều cảm giác như đang bị nằm kẹt bên cạnh một con voi lớn có thể bị nó đè bẹp. Sự khác biệt quá mức về kích cỡ đó làm cho các động thái của TQ có vẻ đe dọa hơn nhiều đối với các nước láng giềng hơn là Bắc Kinh nhận thấy. Các bên tranh chấp Đông Nam Á muốn có một cuộc thảo luận đa phương về các yêu sách khác nhau, tin rằng chỉ điều này mới cho phép họ nói chuyện bình đẳng được. Sợ các nước khác sẽ kết bè chống họ, TQ đòi hỏi rằng mỗi nước phải thương thảo với họ trên cơ sở một-đối-một.

    Hồi tháng 3 năm 2009, Jeff Bader, giám đốc khu vực châu Á tại Hội đồng An ninh Quốc gia, và James Steinberg, thứ trưởng ngoại giao, đến Bắc Kinh dự một loạt các cuộc họp với các đối tác TQ. Biển Đông là một trong những chủ đề đậm nét trong các cuộc họp này. Một vài tuần sau đó, tờ New York Times đăng một bài viết nói rằng TQ bây giờ gọi biển Đông là “lợi ích cốt lõi”. Trong ngôn ngữ ngoại giao TQ, hai từ này là vô cùng quan trọng. Hai “lợi ích cốt lõi” khác là Đài Loan và Tây Tạng, những vấn đề mà đảng Cộng sản TQ sẽ dời cả núi để giành lấy. Mô tả biển Đông bằng từ ngữ này quả thực sẽ thể hiện cho một sự leo thang đáng kể, một dấu hiệu cho thấy TQ đã hoàn toàn không dành chỗ cho thỏa hiệp hoặc đàm phán. Các quan chức TQ trên thực tế đã thể hiện một tâm thế không khoan nhượng trong các cuộc họp, đưa ra nhiều thuyết lí về quyền của họ ở biển Đông.

    Về cốt lõi, TQ đã bắt đầu gánh chịu hậu quả từ mâu thuẫn cơ bản của chiến lược của họ. Trong giai đoạn tốt nhất của hai thập niên qua, Bắc Kinh đã theo đuổi hai mục tiêu riêng biệt. Họ có một chiến lược quân sự cố từng bước đẩy lùi Mĩ về phía Thái Bình Dương và thực hiện việc kiểm soát tốt hơn các vùng biển gần. Đồng thời, họ có một nhiệm vụ ngoại giao bức bách là ngăn chặn các nước láng giềng hình thành một liên minh cản trở họ. Tuy nhiên, vở lẽ ra là hai mục tiêu này lại chỏi nhau. Càng cố đẩy lùi Mĩ và củng cố yêu sách lãnh thổ mạnh mẽ bao nhiêu thì họ càng khiến khu vực dang tay đón lấy Washington nhiều thêm bấy nhiêu. TQ đã phải chịu hết thất bại chiến lược này tới thất bại chiến lược khác. Rốt cuộc họ đã làm vững thêm các liên minh nền tảng của Mĩ ở Đông Bắc Á. Đồng thời, hành vi của TQ trong biển Đông đã cho phép Mĩ trở nên dính líu nhiều hơn nữa với các nước Đông Nam Á. Như Thì Ân Hoằng (Shi Yinhong), một học giả TQ và là người hâm mộ Bismarck, buồn bã nói: “Chúng tôi thu đạt được những điều trái ngược với những gì chúng tôi đã trông đợi.”

    Phan Văn Song lược dịch

    (Trích từ cuốn “The Contest of the Century: The New Era of Competition with China–and How America Can Win”, Knopf Doubleday Publishing Group, 2014)



    1 Theo Peter Kien-Hong Yu trong The Chinese U-shaped line in the South China Sea: points, lines, and zones, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS), 2003, Đường lưỡi bò được một nhà bản đồ vẽ lần đầu vào năm 1914 sau khi Nhật chiếm và trà lại đảo Pratas (TQ gọi là Đông Sa), và đó là một đường liền nét với điểm tận cùng phía Nam khoảng 15°, 16° (tức là chỉ tới khoảng Hoàng Sa) và cũng không bọc đảo Đài Loan (lúc đó Đài Loan còn thuộc Nhật), sau năm 1933 khi Pháp tuyên bố chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa thì mới có một vài bản đồ tư nhân nới ĐLB xuống khoảng vĩ tuyền 9° hoặc 7° để bao luôn các đảo này (xem Zou Keyuan trong South China Sea Studies in China: Achievements, Constraints and Prospects, Singapore Year Book of International Law and Contributors, 2006)

    Nguồn bài đăng

Chia sẻ trang này