1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CÁC BỆNH VỀ CỘT SỐNG ( Đau lưng , thoát vị đĩa đệm , cong vẹo ,gai, thoái hoá cột sống đau cổ ,vai,

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi nguyen58n, 23/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0

    CÁC BẠN THÂN MẾN : CONG VẸO CỘT SỐNG LÀ MỘT VẤN ĐỀ GẦN ĐÂY ĐƯỢC NÓI TỚI NHIỀU , VIỆC CHỮA TRỊ KHÁ PHỨC TẠP , TỐN KÉM MÀ LỨA TUỔI HỌC SINH LẠI ĐANG CÓ XU HƯỚNG GIA TĂNG BỆNH NÀY . TÔI SẼ CÓ BÀI VIẾT VỀ VẤN ĐỀ NÀY SAU , TRƯỚC MẮT XIN POST MỘT SỐ BÀI ĐỂ CÁC BẠN THAM KHẢO NHÉ :
  2. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Có thể bạn đã gặp: Bệnh cong vẹo cột sống
    BS. Vũ Hướng Văn
    Dị dạng cột sống thường có ngay từ khi mới sinh (bẩm sinh), hoặc từ khi còn thơ ấu do bệnh còi xương, hoặc do ngồi quá sớm, do sai lầm trong tư thế... Tuy vậy cũng có nhiều trường hợp không xác định được nguyên nhân. Lúc khởi đầu của bệnh còn rất nhẹ, nên phải đến khi bước sang giai đoạn tăng trưởng nhanh và trưởng thành mới nhận thấy rõ rệt.
    Cong vẹo cột sống có thể ít hay nhiều và từ đó dẫn tới các dị tật ở mức độ khác nhau, thông thường được phân làm 3 loại:
    - Vẹo độ 1: Đứng thẳng có xoáy vặn cột sống nhưng hình thể vẹo không thấy rõ ràng. Khó phát hiện bằng mắt thường. Nói chung chưa ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.
    - Vẹo độ 2: Đứng thẳng nhìn sau lưng cũng đã thấy được hình dáng cong vẹo cột sống, thấy được ụ lồi sườn do đốt sống bị xoáy vặn. Bắt đầu có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.
    - Vẹo độ 3: Nhìn thấy rõ tư thế lệch, cột sống bị cong ảnh hưởng rõ tới quá trình hô hấp, có thể gây biến dạng khung chậu, nếu là nữ thì trở ngại tới việc sinh con.
    Các trường hợp nặng gây biến dạng của bắp thịt bị kéo căng và có hiện tượng đau, xương ngực có thể bị biến dạng, tim phổi xê dịch vị trí, do có phần cong vẹo và phần cong đối lại nên chiều dài của lưng bị ngắn lại, xương chậu cũng có thể bị quay lệch, các cơ quan trong ổ bụng cũng có thể dịch vị trí.
    Về điều trị
    Bệnh cần được phát hiện sớm, điều trị sớm có tầm quan trọng đặc biệt nhằm ngăn chặn sự biến dạng cột sống dẫn tới biến dạng tư thế, biến dạng khung chậu, thậm chí ảnh hưởng tới khả năng hô hấp và tuần hoàn. Với các biện pháp kỹ thuật điều trị thông thường như vật lý trị liệu, thể dục liệu pháp, chỉnh lại tư thế đứng ngồi trong sinh hoạt nhất là việc ngồi học của các em học sinh... thì tình trạng bệnh sẽ được ổn định.
    Với người trưởng thành đã qua tuổi còn sức lớn, độ cong cột sống không còn mềm dẻo, đã có biến dạng nặng thì việc điều trị có khó khăn. Trong trường hợp này có thể phải phẫu thuật chỉnh hình nhờ vào một loại nẹp kim loại đặc biệt được đặt cố định vào cột sống trong thời gian dài để nắn chỉnh. Các bước phẫu thuật phụ thuộc vào mức độ biến dạng của cột sống, nói chung là khá tốn kém cả về tiền bạc và thời gian.
    Phòng ngừa bệnh
    Cần phòng chống suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ nhỏ, chế độ ăn cần có đủ protein, chất khoáng và vitamin. Bàn ghế ngồi học phải phù hợp với lứa tuổi và tư thế ngồi học phải đúng. Cần thực hiện giờ nghỉ giải lao giữa các tiết học. Phải nâng cao sức khỏe chung của cơ thể bằng cách rèn luyện thể dục thể thao cho các bắp thịt, các tổ chức liên kết, dây chằng các khớp khỏe, làm tăng sự dẻo dai bền bỉ và phát triển cân đối.
    (http://health.vnn.vn)
  3. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Báo động bệnh trường học
    24-02-2005 09:29:33 GMT +7

    Đa số trường học hiện nay dùng loại bàn ghế có kích thước cố định
    Trong thời gian qua, cả nước đã có những chủ trương tích cực để tăng cường cơ sở vật chất và đầu tư cho các trường học. Thế nhưng, có một nghịch lý là khi điều kiện càng được cải thiện thì tỷ lệ học sinh mắc các bệnh học đường càng gia tăng. Vì sao?
    30,8% học sinh bị biến dạng cột sống
    Tình trạng học sinh (HS) bị cong vẹo cột sống đang ở mức báo động đỏ. PGS.TS Nguyễn Đức Thu - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục thể chất (Bộ Giáo dục - Đào tạo) cùng các cộng sự đã tiến hành điều tra mẫu tại 6 trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở huyện Sóc Sơn và quận Hoàn Kiếm (Hà Nội). Kết quả có tới 30,8% HS bị biến dạng cột sống, trong đó 13,5% bị cong vẹo theo dáng chữ C thuận, 7,6% bị cong vẹo chữ C ngược, 13% hình chữ S thuận, 1,1% chữ S ngược, 6% gù, 1,3% ưỡn. Đặc biệt, tỷ lệ HS bị gù tăng dần theo cấp học. Nếu như HS tiểu học ở nội thành có 2% bị gù, thì HS THCS tăng lên 4%, THPT là 6,2%. Tỷ lệ HS bị gù ở ngoại thành cao gấp 2 lần HS nội thành. Đáng lưu ý là tình trạng HS bị cong vẹo cột sống ở cấp tiểu học khá cao: 27,1%, HS ở cấp THCS chiếm 23,8%, THPT chiếm 23,6%. Số liệu điều tra cho thấy học sinh học càng nhiều thì tỷ lệ bị cong vẹo cột sống càng cao.
    Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến bệnh cột sống chính là bàn ghế học sinh. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định: bàn ghế có kích thước không đúng, thiếu tiện nghi sẽ làm cho HS chóng mệt mỏi, ảnh hưởng tới sự tập trung tư tưởng và ngồi lâu thì dẫn đến các bệnh cận thị, cong vẹo cột sống, gù lưng... Theo khảo sát của TS Lê Anh Dũng - tác giả của công trình nghiên cứu "Hệ thống bàn ghế tương hợp" đã được Nhà nước cấp bằng độc quyền về kiểu dáng công nghiệp và giải pháp hữu ích năm 2001 thì hiện nay ở hầu hết các trường học từ phổ thông đến đại học đềâu sử dụng loại bàn ghế có kích thước cố định. Những bộ bàn ghế này ở nước ta được thiết kế và chế tạo chưa dựa trên tiêu chuẩn nào mà chủ yếu chỉ làm theo kinh nghiệm hoặc theo một mẫu nào đó sưu tầm được, do vậy nhiều học sinh phải ngồi học ở những bộ bàn ghế quá bất hợp lý với cơ thể mình.
    Kết quả khảo sát ở 2 trường tiểu học Tân Mai (quận Hai Bà Trưng) và Vân Nội (huyện Đông Anh, Hà Nội) cho thấy có rất nhiều học sinh phải ngồi bàn ghế không phù hợp với kích thước cơ thể. Ông Dũng cho biết, hiện Bộ Y tế đã có quy chuẩn về bàn ghế học tập. Tuy nhiên, trong cùng một lớp học, cùng một lứa tuổi nhưng HS có chiều cao khác nhau. Nếu trong cùng một lớp mà dùng loại bàn ghế có kích thước cố định như hiện nay thì một lớp cần tới 3 loại bàn ghế, cùng một cấp tiểu học cần 5 loại bàn ghế. Ví dụ tại Trường Tiểu học Tân Mai, lớp 1 và 2 cần sử dụng 4 loại bàn ghế khác nhau, lớp 3 và 4 cần sử dụng 4 loại bàn ghế khác nhau, lớp 5 cần sử dụng 5 loại bàn ghế khác nhau...
    Như vậy, hiện nay ngay tại Hà Nội (và có lẽ là trên hầu hết các tỉnh thành cả nước), hệ thống bàn ghế của HS đều không đạt tiêu chuẩn vì mỗi lớp được trang bị 1 loại, mỗi cấp 1 loại và đều là bàn ghế không điều chỉnh được. Ông Dũng nói: "Không có bàn ghế đúng thì không thể dạy học sinh ngồi đúng, dẫn đến việc thích ngồi thế nào thì ngồi". Đó là chưa nói tới những địa phương chưa đủ điều kiện vật chất.
    Tuy nhiên, trang bị cho một lớp học nhiều loại bàn ghế là thiếu thực tế, do đó giải pháp mà ông Dũng đưa ra là cần phải sử dụng loại bàn ghế có thể điều chỉnh được để phù hợp với từng học sinh. Thiết nghĩ, đây là một giải pháp mà những người có trách nhiệm cần sớm xem xét.
    Nhìn đâu cũng thấy... sai !
    Mỗi năm một lần, Sở Giáo dục và Đào tạo cùng Sở Y tế TP.HCM bắt tay vào thanh kiểm tra vệ sinh y tế học đường ở tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố. Kết quả mới nhất làm nhiều người giật mình: 27% các trường ở TP.HCM có tỷ lệ ánh sáng phòng học không đạt, 60% sử dụng bảng đen và chữ không đúng kích thước... Đặc biệt, gần 200 trường học sử dụng bàn ghế sai quy cách, 40% học sinh ngồi học sai tư thế... Một bác sĩ của Sở Y tế phụ trách công tác y tế học đường nói: "Cứ đến trường là thấy sai, cái sai hay gặp nhất là bàn ghế học sinh. Từ những trường có tiếng ở quận nội thành mới được đầu tư trang thiết bị, cho đến một số trường đại học còn sử dụng mẫu bàn đóng liền ghế thành cặp".
    Theo nghiên cứu của Trung tâm Sức khỏe lao động và môi trường thành phố thì việc sử dụng bàn ghế sai quy cách là một trong những nguyên nhân gây thể trạng mệt mỏi, tinh thần uể oải cho học sinh trong giờ học, kéo theo một số bệnh như vẹo cột sống, cận, viễn thị... Vị bác sĩ này khuyến cáo: "Cho dù công tác vệ sinh y tế học đường thực hiện gần 10 năm, nhưng nó chưa thực sự được quan tâm. Dù có tốn kém khi thay bàn ghế, chúng ta vẫn phải làm, nếu không sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe các em".
    Trong buổi làm việc với Ban Văn hóa xã hội Hội đồng Nhân dân TP, lãnh đạo phòng giáo dục một huyện ngoại thành từng than thở rằng 80% bàn ghế của đơn vị mình là sai quy cách, các khối lớp đều dùng chung một mẫu bàn ghế. Ngoài ra còn nhận hàng "viện trợ" của các trường trong nội thành nên bàn ghế có gì dùng nấy, không đồng nhất chứ nói gì đến chuẩn. Đặt vấn đề để tìm biện pháp tháo gỡ thì lãnh đạo các phòng giáo dục đều tán thành nhưng "đây là vấn đề mang tính quá trình, không thể thay đổi trong một ngày". Bà Hồng Hải - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo quận Tân Phú nói: "Từ thay đổi bàn ghế kéo theo thay đổi hàng loạt cơ sở vật chất, diện tích lớp học...".
    Theo đánh giá của Trung tâm Sức khỏe lao động và môi trường - đơn vị trực tiếp kiểm tra các trường, đến nay mới có các quận 12, Bình Thạnh, Phú Nhuận làm tốt công tác thay bàn ghế theo đúng quy cách. Thậm chí đã có trường tiểu học dân lập ở TP.HCM thuê hẳn công ty nước ngoài về đo chiều cao học sinh để thiết kế bàn ghế riêng cho từng lớp... Thế nhưng những nỗ lực này còn quá ít ỏi.
    Hướng dẫn của ngành y tế về kích cỡ bàn ghế học sinh
    - Bàn ghế phải rời nhau, ghế phải có thành tựa.
    - Chiều cao bàn = 42% chiều cao cơ thể, chiều cao ghế = 26% chiều cao cơ thể, chiều ngang tối thiểu cho một chỗ ngồi là 0,4-0,5m.
    - Kích thước cụ thể (đơn vị cm): Đối với lớp mẫu giáo (lớp lá) áp dụng loại I, II (ghế cao 27 - 30 cm, bàn cao 50 cm), lớp 1 áp dụng loại II (30, 50), lớp 2 - 3 áp dụng loại III (34, 55), lớp 4-5 áp dụng loại IV (38, 61), lớp 6-8 áp dụng loại V (44, 69), lớp 9 áp dụng loại VI (46,74), lớp 10-12 áp dụng loại VII (47, 77).
    (Theo T N )
  4. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0

    Vẹo cột sống: Chớ xem thường nguy cơ gù lưng!
    17:32'' 12/08/2004 (GMT+7)
    (VietNamNet) - "Gù" sẽ không còn là từ gây ám ảnh với người bệnh vẹo cột sống, nếu họ được phát hiện sớm và can thiệp kịp thời.
    Nỗi mặc cảm mang tên "Gù"

    Nguyễn Đức Thanh T. sau mổ: Tên "T. gù" sẽ mãi là quá khứ!
    Em Nguyễn Đức Thanh T., 17 tuổi, ngụ ở ấp 3 xã Tắc Vân, thị trấn Cà Mau, bị vẹo cột sống tới 93 độ. Em vừa được tiến hành nắn chỉnh cột sống tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình (CTCH) bằng kỹ thuật hiện đại nhất hiện nay. Sau phẫu thuật, em đã cao thêm 11cm, vóc dáng đã trở lại tương đối bình thường.
    Thông thường, độ vẹo cột sống khoảng 40 độ đã cần điều trị phẫu thuật. Trên 60 độ được xem như độ vẹo nặng đáng kể. Trong cuốn album hình theo dõi bệnh nhân vẹo cột sống của PGS TS BS Võ Văn Thành, trưởng Khoa Cột sống A thì trường hợp của T. đã được xếp trong nhóm rất nặng. Thế nhưng vẫn có những trường hợp còn nặng hơn: Phần trên cơ thể của họ, nói không quá, uốn cong như hình chữ S. Theo PGS Võ Văn Thành, những trường hợp này là rất nguy hiểm vì các cơ quan nội tạng như tim, phổi của bệnh nhân bị chèn ép, gây suy hô hấp mạn tính và các biến chứng tim, phổi mạn tính, cũng như ảnh hưởng lên các cơ quan khác của cơ thể. Bệnh nhân khó sống qua tuổi 30.
    Ngày 11/8, tại Khoa Cột sống A có bốn bệnh nhân nữ, tuổi từ 9-18 đang nằm chờ phẫu thuật. Trong đó, em Lưu Thị V., 12 tuổi, ngụ tại Bình Phước, bị gù vẹo thuộc hàng "top". Em bị biến dạng ***g ngực và phải mang khối u ở trước (148 độ) và sau (135 độ). Mẹ em cho biết: Từ khi bệnh phát triển, V. ăn rất ít và mau xuống ký. Em luôn kêu mệt và khó thở, thỉnh thoảng đau ở phía sau. Hiện tại, V. đang được các BS cho kéo tạ đầu trước khi mổ.
    Vẹo cột sống không những ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn tác động nặng nề đến tâm lý và tương lai của bệnh nhân. Thanh T. cho biết: Trước kia, em rất mặc cảm vì có một cơ thể méo vẹo, một bên bả vai gù lên, còn một bên thì lép xẹp. Giờ thể dục, T. "bị" các thầy cô "ưu ái" cho học những môn dành cho nữ. Ngoài ra, còn phải nghe những lời chọc ghẹo ác ý...
    Còn V., nằm buồn xo trên giường bệnh, nói với cái giọng của một bà lão 80 tuổi: "Thấy chán đời vì tướng mình không thẳng như các bạn khác". Riêng X.H., 12 tuổi, ở Gia Lai, học sinh trường THCS Tơ Tung bị bạn bè chế giễu, bao nhiêu lần về khóc lóc với mẹ và nằng nặc đòi nghỉ học.Với Nguyễn Vân A., một bệnh nhân 27 tuổi đến từ một tỉnh miền Trung, cái lưng gù ngày càng nặng đã chấm dứt giấc mơ làm diễn viên múa của cô. Không những thế, nó chấm dứt luôn giấc mơ thời con gái có một chàng hoàng tử đến rước đi...
    Càng nặng, càng tốn tiền
    Theo PGS Võ Văn Thành, tùy mức độ vẹo cột sống mà tiến hành mổ một hoặc hai lần. Sau khi mổ, bệnh nhân phải tránh vận động mạnh như chơi thể thao trong vòng một năm. Bệnh nhân được các bác sĩ theo dõi trong một thời gian dài. Trong ba tháng đầu, bệnh nhân phải được tái khám hàng tháng, sau đó tái khám ba tháng, sáu tháng theo chỉ định của bác sĩ điều trị. Sau hai năm, có thể tháo dụng cụ ra khỏi cơ thể.
    Có thể phát hiện vẹo cột sống bằng mắt thường, qua theo dõi sự khác thường từ phía sau: cột sống cong, vai không đối xứng. Hoặc có thể cho trẻ cúi gập người, nếu bị vẹo, sẽ dễ thấy một bên vai và ***g ngực gù lên.
    Tốt nhất, nên đưa trẻ đến BS chuyên khoa để khám nếu có nghi ngờ.
    Theo PGS Võ Văn Thành, hiện những trường hợp nặng từ 40 độ trở lên sẽ được phẫu thuật bằng kỹ thuật khoan cột sống lối sau để bắt ốc chân cung hình phễu với các thanh nối dọc để nắn chỉnh và cố định cột sống. Đây là kỹ thuật mới nhất hiện nay, được Bệnh viện áp dụng cách đây hai năm. Trên thế giới, một số nước đã thực hiện như Hàn Quốc (1995), Mỹ (2000).
    Từ tháng 4/2002 đến nay, Khoa Cột sống A đã phẫu thuật nắn chỉnh vẹo cột sống nặng cho hơn 25 trường hợp, đến từ mọi miền đất nước như Bắc Giang, Cao Bằng, Hà Nội, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Rạch Giá, Cà Mau... bằng kỹ thuật mới này. Bệnh nhân giảm độ vẹo đáng kể và có một cuộc sống bình thường hơn. Qua các nghiên cứu trong và ngoài nước, phương pháp này có thể duy trì độ nắn chỉnh tốt, cấu hình dụng cụ bền vững, thời gian mổ ngắn hơn, ít tốn máu so với các phương pháp khác như dùng bảng móc vào xương sống.
    Cái giá để có những kết quả trên? Chỉ tính riêng tiền dụng cụ, bệnh nhân phải trả từ 40-60 triệu đồng.
    Đến nay, 70% bệnh nhân mổ tại BV đã được Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo TP.HCM, Hội Doanh nghiệp Nhật Bản... hỗ trợ tiền dụng cụ vì gia đình bệnh nhân quá khó khăn. (Sau giờ mổ, BS Thành vẫn phải lụi hụi làm công văn xin tài trợ bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh.)
    Tuy vậy, gia đình bệnh nhân vẫn phải lo các chi phí khác như tiền viện phí, tiền sinh hoạt. Người nhà của một bệnh nhân chung phòng với em V. cho biết chị phải bán luôn con bò, mua từ vốn cho vay của Quỹ Xóa đói, giảm nghèo để đưa con vào viện. Còn mẹ của em V. thì dù phải bán hết bò, hết ruộng cũng không đủ chạy tiền viện phí cho con. Chị đang tính đến phương án bán luôn căn nhà rách nát, dù người mua cố tình ép giá. "Thấy con bệnh nặng thì mình phải lo, chứ bán nhà rồi cũng chẳng biết ở đâu!" - chị sụt sịt tâm sự trong nước mắt.
    Cần quan tâm và can thiệp kịp thời
    Qua tìm hiểu, những trường hợp được mổ tại Khoa Cột sống A thường không được phát hiện sớm. Hoặc phát hiện sớm nhưng bác sĩ lại đánh giá độ vẹo sai hoặc điều trị không đúng. Như em V., gia đình phát hiện em bị vẹo lúc bốn tuổi nhưng một BS ở nơi em sinh sống cho rằng trường hợp của em chưa cần can thiệp. Khổ thay, đến nay tình trạng của V. đã là quá trầm trọng!
    Theo PGS Võ Văn Thành, ở tuổi dậy thì, bệnh diễn tiến rất nhanh nên nếu phát hiện sớm, can thiệp kịp thời, sẽ làm giảm những tác hại về sau. Những bệnh nhân bị vẹo cột sống dưới 40 độ sẽ được theo dõi hoặc mang nẹp chỉnh hình. Với những bệnh nhân bị vẹo trên 40 độ, nếu mổ sớm thì nguy cơ càng thấp, sử dụng dụng cụ ít, giảm chi phí. Còn khi độ vẹo đã quá cao, việc phẫu thuật dĩ nhiên sẽ trở nên phức tạp và khó khăn.
    Bị vẹo cột sống nặng, nếu không được mổ kịp thời, Lưu Thị V sẽ khó sống qua tuổi 30.
    Các bệnh nhân phải mổ chỉnh hình thường mắc bệnh vẹo cột sống cấu trúc. Bệnh này có nhiều nguyên nhân như bẩm sinh (có tính di truyền), bệnh lý (sốt bại liệt, còi xương, dị tật...) và vô căn (không rõ nguyên nhân), trong đó trường hợp vô căn là thường gặp nhất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bỏ qua các trường hợp vẹo cột sống tư thế (do bàn ghế không đúng quy chuẩn, kiểu ngồi không đúng cách...) thường thấy ở các em học sinh. Bởi vì nếu không phát hiện, để bệnh phát triển nặng sẽ diễn biến nặng.
    Những cảnh báo này rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, "vẹo cột sống còn là một bài toán khó về điều trị phẫu thuật lẫn những vấn đề về xã hội - kinh tế, không những đối với bản thân, gia đình bệnh nhân mà còn đối với công tác quản lý cộng đồng xã hội. Nhất là khi những người làm công tác y tế chưa được tập huấn chuyên môn đầy đủ và các con số thống kê chưa thực sự mang tính hệ thống và có ý nghĩa." - PGS Võ Văn Thành nói.
    Hiện nay, cả nước chưa có một chiến lược tầm soát vẹo cột sống trong cộng đồng có hiệu quả, nhất là ở lứa tuổi đang đến trường. Ở TP.HCM, năm 2003, Bệnh viện CTCH đã điều tra tình hình vẹo cột sống của học sinh ở một số trường học tại quận Tân Bình. Kết quả điều tra cho thấy đã có đến hơn 1/2 trên tổng số 4.000 học sinh bị vẹo cột sống. Đó mới chỉ là điều tra ở một quận...

    Trong khi đó, một điều tra khác của Trung tâm Sức khoẻ và Môi trường TP.HCM đối với học sinh phổ thông ở quy mô toàn thành phố thì tỷ lệ vẹo cột sống ở trẻ là 32%.

    Điều lạ lùng là, theo báo cáo của các quận, huyện thì tỷ lệ học sinh bị vẹo cột sống chỉ có từ... 0,05-17%!

    Như vậy, số liệu nào đúng: Số liệu do các cơ quan chuyên ngành công bố hay số liệu báo cáo từ các quận, huyện? BS Phạm Thị Nguyệt Ánh, một chuyên gia trong lĩnh vực này và hiện là phó Khoa Y tế Lao động Học đường (Trung tâm Sức khỏe Lao động và Môi trường TP.HCM) cười chua chát: ?Nhiều đơn vị y tế quận, huyện đã khám không đúng, hoặc không khám nhưng... ghi bừa!?.
    ? Vân Điển






  5. X_3winofall

    X_3winofall Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.209
    Đã được thích:
    1
    em chẳng tìm thấy ảnh minh họa
  6. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Chương 41: ĐAU Cổ
    Peter Curtis
    NGUYÊN NHÂN ĐAU Cổ
    Đau và hạn chế cử động là hai triệu chứng quan trọng của các bệnh ở cổ. Đau có thể chỉ ở cổ hay lan ra vai và xuống cánh tay. Nguyên nhân thường có nhất, thấy ở mọi lứa tuổi, là hội chứng cơ mạc, một tình trạng co thắt cơ tại chỗ. Viêm thoái khớp các đốt sổng cổ là một nguyên nhân thường có khác của chứng đau cổ đặc biệt là ở những bệnh nhân có tuổi và được gọi là chứng viêm gai sống cổ.
    Chấn thương, đặc biệt là các tai nạn xe cộ, có thể gây sải cổ hay chấn thương khác ở cổ. Những nghề nghiệp tĩnh tại (chẳng hạn như công việc bàn giấy hay lái xe cơ giới) thường cũng gây đau tuy nhiên nguyên nhân chính xác về giải phẫu của chứng đau nhiều khi không chắc chắn.
    Đánh giá
    Phấn lớn chứng đau cổ cấp tính gây ra bởi những vấn đề cấu trúc, chẳng hạn hội chứng cơ mạc, co thắt cơ và bong dây chằng do chấn thương. Chẩn đoán những tình trạng chung này là lâm sàng, hoàn toàn dựa trên tiền sử và khám xét thực thể. Chứng đau cổ bán cấp hay mạn tính phần lớn cũng thường là vấn đề cấu trúc, với chứng viêm xương-khớp có lẽ tZng lên khi tuổi tác tZng. Các chấn động và những vấn đề cơ sinh học (biomechanics) (chằng hạn, tư thế lúc làm việc hay nằm trên giường) thường là những yếu tố quan trọng góp phần vào chứng đau cổ cả cấp tính lẫn mạn tính, nên cần phải tìm ra chúng.
    Những tình trạng ít thấy hơn nhưng nghiêm trọng cũng cân phải xem xét khi tiến hành chẩn đoán phân biệt. Những nguyên nhân của đau cổ được liệt kê ở bảng 41.1.
    Bảng 41-1 Những nguyên nhân của chứng đau cổ
    Nguyên nhân cấu trúc
    Nguyên nhân không phải cáu trúc
    Nguyên nhân khác

    Hội chứng cơ mạc (+ +)
    Bất đối xứng mặt khớp
    Viêm xương khớp (+)
    Co thắt cơ (+ +)
    Gẫy xương
    Lồi đĩa sống
    Hội chứng chèn ép thoát ra
    Viêm cứng khớp đốt sống
    Viêm khớp dạng thấp
    Nhiễm trùng xương
    Tân sản-di cZn nguyên phát
    Viêm hạch bạch huyết
    (Stress) (+ +)
    Nghề nghiệp (+ +)

    (+) Nguyên nhân thường có của chứng đau cổ; (+ +) Nguyên nhân rất thường có của chứng đau cổ
    Khi hỏi về tiền sử những mục sau đây cần được ghi chép lại: nghề nghiệp của bệnh nhân, thói quen tư thế hàng ngày nhưng stress lúc làm việc và ở nhà, khởi phát đau (đột ngột hay từ từ) điểm đau chính (cánh tay, vai, lưng) và tính chất của đau (chói, âm ỉ, hay nhức nhối).
    Chấn thương, sái cổ, hay hoạt động bất thường dai dẳng (chẳng hạn sửa lại nhà) thường gây ra chứng đau cổ cấp với hạn chế cử động, nếu nghỉ thì đau sẽ đỡ. Đau ở cực dưới xương bả vai và mặt sau vai, lan lên cổ, thường do hội chứng cơ mạc gây ra, liên quan với các stress hay tư thế xấu. Chứng đau nhức nhối dai dẳng hay đau nhói lan vào vùng xương chẩm hay lan xuống cánh tay gợi ra có sự chèn ép rễ thần kinh. Đau xảy ra từ từ, nếu nghỉ thì đỡ là rất đáng lo, nó có thể do nhiễm trùng hay ung thư ở đốt sống.
    Khi bạn tiến hành khám thực thể, hãy tập trung chú ý đến cổ, xương chẩm và cánh tay. Thử một loạt các vận động cổ: cúi, ngửa, quay và nghiêng về một bên để xác định mức hạn chế và những động tác gây đau. ấn đỉnh đầu bệnh nhân một cách nhẹ nhàng rồi chuyển dần xuống vai; đau tZng lên khi bỏ cánh tay xuống gợi cho ta chèn ép rễ thần kinh. Rồi sờ mồm một cách kỹ càng phía trước và phía sau cổ, kiểm tra xem có viêm hạch bạch huyết co thắt cơ và đặc biệt là các vùng cơ hay xương đau nhức các điểm khởi phát" ). Sờ nắn vùng của mỗi mặt khớp cổ, chừng 2,5cm mặt bên tới ụ gai sống cổ. Tính nhạy cảm đau ở mặt khớp gợi ý sự ác tính một nguyên nhân thường của chứng đau cổ cấp tính.
    Tiếp đến là khám hai cánh tay để tìm những tổn thương thần kinh, sẽ tìm thấy thương tích một hay nhiều rễ thần kinh cổ. Kiểm tra sức mạnh của các nhóm cơ quan trọng và cảm giác trong mỗi vùng da quy chiếu. Thử phản xạ cơ nhị đầu (C5 và C6) và cơ tam đầu (C7). Nhiều bệnh nhân có chứng đau chủ quan hay dị cảm (peresthesia) ở những chỗ phân bố rễ thần kinh, nhưng hiếm có những biểu hiện khách quan về thần kinh. Những triệu chứng thần kinh chủ quan khi khám xét bình thường phản ánh chứng đau lan từ những mô mềm bị tổn thương như dây chằng, bao khớp hay cơ. Chứng đau rễ thần kinh thực sự, mặt khác, lại được khẳng định về lâm sàng bằng những tổn thương thần kinh đặc biệt chẳng hạn như yếu cơ, teo cơ, phản xạ gân giảm, mất cảm giác (như trình bầy trong bảng 41-2). Những điều tìm thấy như vậy gợi ra bệnh của đĩa sống nhưng cũng có thể xẩy ra một cách tạm thời trong các bong gân nặng.
    Hãn hữu, sự chèn ép dây sống trung ương ảnh hưởng đường dẫn truyền xuống, gây ra những triệu chứng tế bào thần kinh vận động ở phía trên. Trong trường hợp này, sẽ có sự co cứng và trương lực cơ tZng, không mềm nhão và phản xạ gân sâu tZng hơn là giảm.
    Bảng 41-2 Những biểu hiện thần kinh liên quan tới các tổn thương rễ thần kinh cổ
    Rễ thần kinh
    Yếu vận động
    Mất cảm giác

    C4
    Các cơ dạng vai
    Vai

    C5
    Các cơ gập khuỷu tay giảm phản xạ cơ nhị đầu/ cánh tay quay
    Mặt bên cánh tay

    C6
    Các cơ duỗi cổ tay
    Ngón cái/ngón trỏ

    C7
    Các cơ duỗi khuỷu tay
    Ngón tay giữa đeo nhẫn

    C8
    Các cơ nội tại của bàn tay
    Ngón út

    T1
    Các cơ gấp ngón tay
    Cánh tay giữa

    Một trạng thái bất thường khác mà quan trọng là hội chứng thoát ***g ngực. Điều này bao hàm sự chèn ép bó mạch thần kinh (đám rối cánh tay, mạch máu dưới đòn) khi đi qua một khe hẹp giữa xương đòn và xương sườn thứ nhất. Triệu chứng bao gồm đau và tê dại dọc xuống cánh tay và yếu đi. Hội chứng diễn ra chủ yếu ở phụ nữ 20 đến 30 tuổi. Triệu chứng thường có thể tái hiện bằng những thao tác lâm sàng đơn giản:
    a- Bệnh nhân ngồi thẳng đứng, đẩy vai về phía sau và tay để trên đùi; hay
    b- Bệnh nhân ngồi thẳng đứng, dạng cánh tay 180? và quay ra bên ngoài.
    Trong khi làm hai thao tác trên, theo dõi mạch quay và đặt ống nghe vào vùng trên đòn. Kết quả dương tính sẽ là mạch yếu đi hay mất hẳn và nghe thấy một tiếng thổi ở vùng xương đòn.
    Làm xét nghiệm chỉ được chỉ định khi trong tiền sử gợi ra có bệnh xương hay hệ thống (chẳng hạn sốt hay các triệu chứng trong các cơ quan khác). Những triệu chứng này, hoặc chứng đau dai dẳng và bất lực quá ba tuần lễ ở bệnh nhân trên 40 tuổi, cần cho làm ngay tốc độ máu lắng đếm hồng bạch cầu, X-quang và có thể calci máu.
    Kết quả X-quang thường không đặc hiệu. Vào tuổi 50, một nửa số bệnh nhân có các biểu hiện của thoái hóa đốt sống cổ, và ở tuổi 65 là 80%, nhưng những điều tìm thấy này thường không có triệu chứng. Như vậy, những thay đổi về xương khớp tìm thấy trên phim X-quang không có nghĩa rằng đó là nguyên nhân của chứng đau cổ của bệnh nhân. Mặt khác, phim X-quang lại rất có ích trong việc tìm kiếm di cZn ở xương, bệnh Paget, u tủy hay viêm đốt sống cứng khớp.
    CT scan và MRI trở nên công cụ có giá trị hơn nhiều để chẩn đoán chèn ép rễ thần kinh, bệnh của đĩa sống và bệnh lý khác ở cổ, nhưng đắt tiền.
    Nếu nghi bệnh thần kinh kẹt (chẳng hạn hội chứng ống cổ tay) thì các nghiên cứu về điện cơ đồ (EMG) và thực trạng thần kinh sẽ có thể thấy là không bình thường và có thể sẽ giúp xác định được các hội chứng chèn ép thần kinh.
    Nhữn vấn đề trong xử trí
    Đa số những nguyên nhân đau cổ cấp tính hay mạn tính đều có thể xử trí bằng các biện pháp đơn giản chẳng hạn chườm đá hay nóng, thuốc giảm đau, nghỉ ngơi, hay các phương pháp chữa chạy đặc hiệu hơn được liệt kê ở dưới. Nếu thấy sự suy giảm về thần kinh cứ dai dẳng hoặc tZng dần, bệnh hệ thống, hoặc xương bị huỷ hoại, khi khám cho bệnh nhân cán phải hội chẩn với chuyên khoa thần kinh, chỉnh hình hay phẫu thuật thần kinh.
    Có một số phương thức điều trị được dùng để xử trí chứng đau cổ. Vì tình trạng thường có nhất gây ra đau là viêm xương - khớp của đốt sống cổ, co thắt cơ, chấn thương nhỏ, kết quả sẽ tốt nếu việc điều trị nhằm thẳng vào việc động viên và hỗ trợ bệnh nhân, làm dịu đau, làm giảm stress cơ học và làm dịu co thắt cơ Những nghiên cứu lâm sàng không khẳng định lợi ích cho một phương thức điều trị này là hơn phương thức khác. Do đó, bạn nên thử nhiều cách khác nhau, dựa trên mức nặng nhẹ và tính trường diễn của chứng đau, sự ưa thích của bệnh nhân, và phí tổn điều trị. Những kiến nghị về xử trí những vấn đề thông thường về cổ dược trình bày ở bảng 41-3.
    Bảng 41.3 Xử trí những vấn đề ở cổ thường có
    Những biện pháp về thể chất
    Dùng thuốc

    Viêm xương khớp
    Dùng nhiệt, tập luyện
    Aspirin, thuốc chống viêm không phải steroid

    Co thắt cơ
    Các kỹ thuật làm thư dãn, xoa bóp, dùng nhiệt, xử trí chấn động
    Aspirin, acetaminophen, thuốc giãn cơ

    Bong gân chấn thương
    Nghỉ, đắp lạnh, vòng đai cổ
    Aspirin, acetaminophen

    Các hội chứng cơ mạc
    Xoa bóp sâu, tiêm chữa trị, các kỹ thuật thư giãn
    Các thuốc giãn cơ

    Mất đối xứng mặt khớp
    Nghỉ, kéo nhẹ nhàng, nắn bóp cột sống
    Aspirin, acetaminophen, thuốc chống viêm không phải steroid

    Xử trí hỗ trợ như nóng ẩm giúp làm giãn nở. Có thể làm nóng bằng tắm nước ấm (15-20 phút), dùng miếng đệm nóng, hoặc túi nước.
    Chiếc bao cổ mềm, được đặt sao cho ít đau nhất cho phép các cơ của cổ dãn ra do có chống đỡ ở đầu Những bao cổ này làm dịu cZng quá mức ở các cơ cổ và hạn chế cử động gấp, duỗi (xem hình 41-1).
    Hình 41.1 Tư thế để đặt khZn quàng cổ mềm
    Đối với bệnh nhân có chứng đau cổ mạn tính và nặng, một cái bao cổ bằng plastic đúc khuôn có thể cần trong vài tháng.
    Để làm dịu đau và viêm, cần dùng một số thuốc. Aspirin hay Acctaminophen thường đủ để làm dịu đau. Đối với chứng đau nặng, đặc biệt là về ban đêm, cần cho thuốc ngủ như codein. Bất kì một thuốc chống viêm không phải steroid nào cũng có thể dùng thử và trong một số trường hợp có thể có hiệu quả.
    Những thuốc làm giãn cơ có thể có lợi ích ngoài hiệu lực an thần, đặc biệt là khi có sự co thắt cơ cấp tính, nhưng chúng cũng có những tác dụng phụ. Bệnh nhân cần rất thận trọng khi lái xe.
    Khi điều trị một cơn đau cổ cấp tính kéo dài hay mạn tính thì kéo cổ từng đợt thường có ích. Điều này có thể được thực hiện ở khoa vật lý trị liệu hay bằng cách tiết kiệm hơn dùng một bộ kéo ở nhà mua tại hiệu thuốc địa phương (Hình 41-2). Lực kéo ít nhất phải tương đương với trọng lượng của đầu (khoảng 3kg) và thường ở khoảng 3 đến 7 kg.
    Hình 41.2. Bộ đồ kéo ở nhà
    ở một số bệnh nhân, kéo sẽ làm cho đau thêm và nên ngừng lại sau khi làm thử một chút. Kéo liên tục ít có chỉ định nhưng lại dành cho vài bệnh nhân bị đau khó trị. Việc này phải làm tại bệnh viện, và chỉ trong một thời gian 3-4 ngày.
    Vận động và tác động cột sống ngày càng được sử dụng để điều trị chứng đau cổ mạn tính và đề phòng các triệu chứng tái phát. Vận động bao hàm sự cử động thận trọng và nhẹ nhàng của cổ thông qua giải chuyển động sinh lý, thường dùng cách kéo nhẹ nhàng bằng tay. Tác động sẽ chuyển một khớp đặc biệt về phạm vi giải phẫu của nó với động tác cuối cùng là ấn ngắn, tốc độ cao. Nó được thực hiện bởi Hình 41.2. Bộ đồ kéo ở nhà nhiều loại người cung cấp dịch vụ y tế với những người chuyên nẵn xương và những người chuyên nắn bóp cột sống thường hay được đào tạo để làm thủ thuật.
    Mặc dầu hiệu quả của nó ít được ủng hộ bởi các nghiên cứu đối chứng, bệnh nhân vẫn cho rằng việc tác động làm dịu đau và co thắt. Những triệu chứng thần kinh đi theo sau tác động hiếm gặp nhưng có thể ảnh hưởng đến người có tuổi, đặc biệt như là một hậu quả của thương tích tới động mạch nền đốt sống.
    Những thao tác kéo thẳng và tZng cường cũng có ích lợi, đặc biệt là trong giai đoạn hồi phục muộn. Để tránh tái phát, sự tập luyện sẽ cần được đưa vào đa số các chương trình phục hồi chức nZng cổ.
    Tiêm tại chỗ chất xylocaine và /hay steroids cũng hay được dùng để điều trị chứng đau cổ cấp tính, đặc biệt nếu một "điểm nổ " có thể xác định được. Phương thức chỉ được tiến hành dưới mức đĩa sống cổ thứ ba để tránh động mạch nền đốt sống khi nó lên tới xương chẩm.
    Hình 41.3. Tập luyện cổ. 1. Để thư giãn : Nhún vai lên. 2. Ngửa đầu ra sau, càng xa càng tốt, làm sao bạn có thể thấy trần nhà thẳng trên đầu. 3. Cúi cằm xuống ngực. 4. Quay đầu sang phải, cố gắng để cằm vào vai phải. 5. Đặt tai trái xuống vai trái. 6. Đặt tay trái vào phía trái đầu. Đẩy đầu ngược chiều gốc bàn tay đê không cho đầu chuyển động. Giữ im.
    Để thực hiện phương thức này, tư thế bệnh nhân nằm sấp úp mặt xuống, cổ gập. Dùng 1 đến 2 ml xylocaine 1% , cộng với 1 ml dịch treo tinh thể steroid (25-40mg), hoặc chỉ dùng xylocaine đơn thuần. Chọc một kim dài (3cm) vào mặt bên, 2,5cm cách ụ gai (giữa đoạn) và đẩy xuống qua giây chằng sau để đi vào vùng khớp. Rồi, hỗn hợp đó được tiêm vào một số điểm xung quanh khớp.
    Một số ít bệnh nhân không hết đau hoặc những tổn hại thần kinh tiến triển có thể xem xét để phẫu thuật. Việc này thường chỉ được cân nhắc sau khi xử trí bằng nội khoa không có kết quả.
    Chứng trật cổ (Whiplash injuries)
    Chứng trật cổ là thương tích gấp-duỗi ở cổ thường diễn ra trong các tai nạn giao thông. Các cấu trúc trước cổ (các cơ, thanh quản, thực quản, khớp thái dương, quai hàm, các giây chằng) bị kéo dài ra và đôi khi bị xé rách. Trong những trường hợp nhẹ và trung bình mấy giờ sau nạn nhân mới có thể nhận biết được tổn thương, nghĩa là chỉ khi các cơ bắt đầu đau hay xuất hiện méo mó ở cổ. Trong các trường hợp như vậy, quan trọng là phải tiến hành khám thần kinh kỹ lưỡng và chụp X-quang sống cổ một cách thích hợp để tìm gẫy xương hoặc trật cột sống. Tổ chức lỏng lẻo phồng lên trước các đốt sống cổ, khoảng không khí giữa xương và họng tZng lên, là một triệu chứng để chẩn đoán chứng trật cổ trên phim điện quang của bệnh nhân vẫn còn cấu trúc xương nguyên vẹn.
    Điều trị gồm nghỉ ngơi (dùng khZn quấn cổ mềm), thuốc giảm đau, điều trị tại chỗ bằng lạnh hay nóng. Tiêm thuốc tê tại chỗ vào các "điểm khởi phát" có thể có ích. Nếu các triệu chứng dai dẳng trong quá 4 tuần lễ, thì sự kéo cổ nhẹ nhàng (3 đến 7 kg) có thể giúp làm dịu đau. Nếu dấu hiệu và triệu chứng rễ thần kinh xuất hiện, chụp X-quang giây cột sống sẽ được chỉ định để loại trừ dập nát đĩa sống cổ ở giai đoạn này, nếu có sự tranh chấp, bệnh cảnh lâm sàng thường trở nên lẫn lộn bởi vấn đề bù trừ.
    Những trường hợp trật cổ nặng nên đưa vào bệnh viện để đánh giá và hỏi ý kiến chuyên gia thần kinh, phẫu thuật viên thần kinh, vì có nguy hiểm của tổn hại thần kinh.
    Các hội chứng đau cổ mạn tính
    Một số bệnh nhân phát triển hội chứng đau cổ mạn tính, nó không thích ứng với các phương thức điều trị thường dùng. Các chứng này thường gắn với các chấn động môi trường, các chứng bệnh do xúc động, hay rối loạn cá tính và rất khó xử trí. Chúng đòi hỏi phải lựa chọn các phương pháp làm dịu đau chẳng hạn kích thích thần kinh qua da, phản hồi sinh học, thôi miên, hoặc hỏi ý kiến nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần học hay các khoa điều trị đau.
    Được nguyen58n sửa chữa / chuyển vào 01:49 ngày 03/04/2007
  7. fallingsnow

    fallingsnow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2004
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    0
    Thanks bác Nguyen58n đã cung cấp bài này. Papa em bị thoái hoá đốt sống cổ nên em đang đi tìm các bài tập thể dục cho papa. Bác Nguyen58vn có thể vui lòng scan mấy cái Pix minh hoạ của bài tập thể dục này lên được không ạ vì nhiều đoạn em đọc nhưng không hình dung ra.
    Cảm ơn bác nhiều nhiều
  8. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0

    Xoa bóp chống thoái hóa cột sống cổ
    ThS. Hoàng Khánh Toàn - SK&ĐS
    (Cập nhật: 20/12/2006)
    Thoái hóa cột sống cổ, hay còn gọi là hư xương sụn cột sống cổ, là một bệnh lý thường gặp và đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở những người trên 40 tuổi. Trong y học cổ truyền, bệnh lý này thuộc phạm vi các chứng như đầu thống, huyễn vựng, tý chứng, nuy chứng... Khi mắc các chứng bệnh này, ngoài việc dùng thuốc theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa, vấn đề tập luyện và tự xoa bóp để chữa và phòng bệnh tái phát có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bài viết này xin được giới thiệu một trong những bài tập vận động, cách thức tự xoa bóp thông dụng, đơn giản để bạn đọc có thể tham khảo và vận dụng khi cần thiết.
    Phương pháp tự xoa bóp cột sống cổ
    Ngồi thoải mái trên ghế, toàn thân thả lỏng, thở đều và sâu, tiến hành tuần tự các thao tác sau đây:
    Xát cổ: ngửa cổ, dùng bàn tay phải xát từ trên xuống dưới phía bên cổ trái và dùng bàn tay trái xát từ trên xuống dưới phía bên cổ phải, mỗi bên xát 15 lần, sao cho tại chỗ nóng lên là được (hình 1).








    Xát gáy: dùng các ngón tay của cả hai bàn tay đan với nhau rồi ôm lấy vùng sau gáy, kéo qua kéo lại 10 - 15 lần với một lực vừa phải (hình 2).





    Xát vùng giữa hai xương bả vai: cúi đầu về phía trước, vắt bàn tay ra phía sau cùng bên rồi xát từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên từ 10 - 15 lần, sau đó đổi bên với thao tác tương tự (hình 3).





    Day ấn huyệt phong trì: đặt hai ngón tay cái vào hai huyệt, 8 ngón kia ôm chặt lấy đầu, dùng lực day ấn cả hai huyệt phong trì từ 1 - 2 phút sao cho có cảm giác tức nóng phía sau đầu là được. Vị trí huyệt phong trì: ở chỗ lõm dưới xương chẩm, bên ngoài khối cơ nổi sau cổ, khi ấn có cảm giác tức nặng, mỗi bên một huyệt (hình 4).
    Bóp các cơ vùng gáy: đầu cúi về phía trước, dùng ngón tay cái và các ngón còn lại của một bàn tay bóp cơ cổ từ trên xuống dưới với một lực vừa phải, làm đi làm lại 10 - 15 lần.
    Day ấn huyệt kiên tỉnh: dùng ngón tay trỏ hoặc ngón tay giữa day ấn huyệt bên đối diện chừng 1 - 2 phút. Vị trí huyệt kiên tỉnh: cúi đầu để xác định 2 đốt xương gồ cao nhất (C7 và D1), huyệt nằm ở điểm giữa đoạn thẳng nối khe của 2 đốt xương này với mỏm cùng vai (hình 5).
    Véo gân dưới nách: dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ véo các gân dưới nách (huyệt cực tuyền) bên đối diện sao cho có cảm giác tê tức truyền xuống các ngón tay.
    Day ấn huyệt hậu khê: dùng ngón tay cái day ấn huyệt bên đối diện từ 1 - 2 phút. Vị trí huyệt hậu khê: nắm bàn tay lại, huyệt nằm ở cuối đường tâm đạo của lòng bàn tay, trên đỉnh nếp lồi (hình 6).
    Tìm và day ấn các điểm đau ở cổ và vai (a thị huyệt), mỗi huyệt từ 1 - 2 phút, sao cho đạt cảm giác tê tức là được.

    Phương pháp tập vận động cột sống cổ
    - Nghiêng cổ sang trái rồi sang phải, mỗi bên 10 lần sao cho tai áp sát vai càng nhiều càng tốt, chú ý phải giữ cột sống lưng và thắt lưng ở tư thế thẳng, hai vai cân bằng.
    - Cúi cổ về phía trước, cố gắng để cằm tỳ vào ngực càng nhiều càng tốt, ngửa cổ về phía sau sao cho gáy tựa vào vai, luân phiên hai động tác mỗi phía từ 10 - 15 lần.
    - Quay cổ: cúi đầu phía trước rồi quay cổ về phía vai trái, phía sau, phía vai phải rồi trở lại như trước. Quay từ từ hết một vòng rồi quay ngược lại, luân phiên mỗi chiều 5 lần, yêu cầu động tác phải chậm rãi, liên tục và đều đặn.
    - Nhấc vai: tự nhấc vai trái rồi đến vai phải, luân phiên mỗi bên 10 lần, sau đó nhấc cả hai vai cùng một lúc 10 lần
    Cần lưu ý: các động tác phải vừa sức, nhịp nhàng và tạo được cảm giác dễ chịu; phải tập trung tư tưởng chỉ huy động tác, làm đến đâu theo dõi đến đó; trong khi thực hành hơi thở phải tự nhiên; phải kiên trì tập luyện và tự xoa bóp, mỗi ngày làm 1 - 2 lần vào sáng sớm khi mới thức dậy hoặc buổi tối trước khi đi ngủ.
    Gửi mail In bài
  9. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0

    Bệnh gù vẹo cột sống và cách khắc phục

    Bơi lội rất có ích cho cột sống của trẻ.
    Đây là chứng bệnh khá phổ biến, có thể đeo đẳng suốt cả đời người. Nếu nhẹ, nó sẽ khiến ngoại hình mất cân đối, kém thẩm mỹ, hạn chế phần nào khả năng lao động. Trong trường hợp nặng, ***g ngực bệnh nhân sẽ bị lép do xương sườn xẹp, dung tích phổi giảm gây hạn chế sức thở và giảm tuổi thọ.
    Các thể gù vẹo thường gặp:
    - Không biết nguyên nhân: Chiếm khoảng 70% số bệnh nhân.
    - Bẩm sinh: Hình X-quang cho thấy thừa hay thiếu nửa đốt sống (khoảng 15%).
    - Một khối cơ tương ứng bị liệt làm cột sống mất đối xứng, mất thăng bằng (khoảng 10%).
    - Xương chậu bị mất thăng bằng, hai chân không dài bằng nhau, khiến cột sống bị cong (khoảng 5%).
    Bằng mắt thường, các bậc cha mẹ có thể phát hiện được sự khác thường ở cột sống của con mình (nhìn từ phía sau lưng):
    - Cột sống cong, nhẹ thì bị một chỗ, nặng 2-3 chỗ; có thể cong ở ngực, ở thắt lưng hoặc cả hai.
    - Vai mất thăng bằng, mất đối xứng.
    Nếu nghi ngờ, nên cho cháu bé đứng, gối thẳng không gấp, cúi gập người, trường hợp bị bệnh thì nơi gù nhô lên rất rõ (khi đứng thẳng thì khó nhận thấy hơn). Những gia đình có ông bà hay cha mẹ mắc bệnh này càng cần chú ý, vì có đến 1/3 tổng số bệnh nhân cong vẹo cột sống có nguyên nhân di truyền.
    Nên chú ý là các cung cong có từ bao giờ, có nặng dần lên không, có bệnh gì khác làm một nhóm cơ nào bị yếu không, khung chậu hông có thăng bằng không, hai chân có so le không.
    Nếu cột sống cong vẹo, trên da lại có nhiều vết nâu đỏ rải rác; ngón tay quắp, mô tay teo... thì đó là triệu chứng của một bệnh khác. Dù có bất cứ dấu hiệu khác thường nào cũng nên đưa trẻ đến khám ở cơ sở y tế có thầy thuốc chuyên khoa về chỉnh hình. Hồ sơ bệnh án, phim X-quang của trẻ cần được lưu trữ cẩn thận để có thể theo dõi sự tiến triển bệnh một cách liên tục. Ở các cháu bé bị vẹo cột sống trong thời gian 3-7 tuổi, bệnh sẽ phát triển rất nặng; rất cần được theo dõi liên tục và định kỳ thăm khám.
    Ở các nước có nền y học phát triển, việc điều trị dự phòng cong vẹo cột sống được thực hiện từ ở lứa tuổi nhỏ (3-7 tuổi). Trẻ được khuyến khích chơi các môn thể thao (bóng chuyền, leo dây, bơi lội), ngồi học với bàn ghế ngay ngắn, tư thế chuẩn. Với trẻ đã mắc bệnh, có thể dùng phương pháp kéo liên tục để giúp cho các cuộc mổ được thuận lợi hơn. Việc dùng áo chỉnh hình cũng đem lại hiệu quả tốt với điều kiện:
    - Trẻ chấp nhận mang áo để điều trị.
    - Gia đình hiểu biết, quan tâm thường xuyên đến trẻ để điều chỉnh áo liên tục và định kỳ.
    - Có bác sĩ chuyên khoa chỉ định đúng, có kỹ thuật viên làm áo chuẩn và chuyên viên phục hồi chức năng hướng dẫn trẻ cách luyện tập, sử dụng áo.
    Trong trường hợp chứng gù vẹo ngày càng nặng (đặc biệt là vào tuổi dậy thì: gái 13 tuổi, trai 14-15 tuổi), phương pháp nói trên chỉ có tác dụng hỗ trợ cho phẫu thuật. Khi qua tuổi dậy thì, xương đã rắn chắc và định hình, việc phẫu thuật sẽ rất nặng nề và phức tạp.
    GS Dương Đức Bính, Sức Khỏe & Đời Sống
  10. nguyen58n

    nguyen58n Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Phẫu thuật nắn chỉnh vẹo cột sống bằng kỹ thuật mới

    Trong hai ngày 1 và 2/4/2002, êkip phẫu thuật gồm GS. Sung Soo Chung (khoa phẫu thuật chỉnh hình Trung tâm Y khoa Samsung, thuộc Đại học y khoa Sungunkwan ?" Hàn Quốc), TS. BS. Võ Văn Thành, BS. Trần Quang Hiển, Âu Dương Huy, Hồ Hữu Dũng (khoa cột sống A ?" Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP. HCM) đã tiến hành phẫu thuật nắn chỉnh hai trường hợp vẹo cột sống nặng với dụng cụ CD-Horizon bằng kỹ thuật bằng ốc chân cung, một kỹ thuật mới được áp dụng lần đầu tiên tại Việt Nam. Kết quả cho thấy độ sửa chữa vẹo cột sống rất tốt. Hàn Quốc là nước đầu tiên đưa ra kỹ thuật này trên thế giới và bắt đầu áp dụng từ năm 1992, giá thành dụng cụ khá cao - khoảng 10.000USD/ca.
    Đợt này, GS. Sung Soo Chung tặng toàn bộ dụng cụ cho bệnh nhân Việt Nam.

Chia sẻ trang này