1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Khuynh hướng XHCN ???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi do_re_mi, 09/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.247
    ặ. Thỏ hoĂ ra lặặĂng mơnh cao thỏ nhỏằ?. ĐĂng lỏẵ lÂu nay phỏÊi em út nhiỏằu nhiỏằu vào mỏằ>i 'ặỏằÊc.
    CĂm ặĂn bĂc Pagan nhỏc nhỏằY. Em sỏẵ vỏằ hoỏĂch 'ỏằ<nh lỏĂi kỏ hoỏĂch chi tiêu sao cho nó phạ hỏằÊp.
  2. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Đánh giá GDP/ người có hai cách, đánh giá thực tế hay sức mua tương đương . Số liệu của bác là theo sức mua tương đương..
    GDP/ người thực tế của VN theo một tài liệu nước ngoài là 618 USD, xếp 143 TG. Trước Cô mo, sau Lê sô thô, 2 nước châu Phi
    142 Lesotho 621
    143 Vietnam 618
    144 Comoros 615
    Có sự chênh lệch đáng kể giữa các địa phương , cũng dễ hiểu vì tiềm năng mỗi vùng khác nhau, hơn nữa NN ưu tiên phát triển kinh tế 1 số vùng trọng điểm... Chuyện thường của các nước mới phát triển.
    GDP/ người của hai thành phố lớn nhất nghe đâu trên dưới 1.500 USD gì đó. Của mấy tỉnh miền Trung hay cực bắc chỉ khoảng 300-400 gì đó .
    Chênh lệch giàu nghèo ở các thành thị lớn hơn ở nông thôn.
    Ngặt nỗi có người nói các quan các tỉnh nông thôn giàu không kém các quan các thành phố.
    Dân chủ sẽ giúp kinh tế phát triển vì hạn chế các quyết định độc đoán, phát huy chất xám, sáng tạo, ý kiến xây dựng ...của mỗi thành viên xã hội. Đồng thời chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả hơn...
    Dân chủ không có nghĩa cứ phải là đa đảng như có người nghĩ.
    VN từ lâu có chủ trương xây dựng hai luật đó là Luật trưng cầu dân ý và Luật tổ chức các hội, có điều ngâm hơi bị lâu, giờ cũng chưa ra được.
    17/01/2007
    Được do_re_mi sửa chữa / chuyển vào 18:45 ngày 17/01/2007
  3. voiconlontalonton

    voiconlontalonton Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2003
    Bài viết:
    1.362
    Đã được thích:
    0
    Cái đó là tính theo sức mua tương đương. Tôi cũng chẳng hiểu họ tính thế quái nào nữa bạn ạ
    Việc quy đổi giá trị hàng hoá ngay trong một đất nước cách có vài khu phố đã khó khăn rồi, mấy cái đó chỉ để cho vui thôi, không có mài ra ăn được đâu. Với cả bạn mua đồ của Tây thì vẫn cứ phải bỏ $ ra trả chứ không có hàng để mua tương đương được.
    Bạn nói thế chứng tỏ bạn chẳng hiểu quái gì cả. Bạn hiểu thế nào về dân chủ?
    Theo bạn thì tất cả những người nói dân chủ đều nói đến một loại dân chủ giống nhau? Hay đó là dân chủ trong sự hoang tưởng của bạn.
    Tất cả những người cộng sản đều giống nhau? Tất cả các trường phái cộng sản đều giống nhau? Chỉ có trẻ con mới có kiểu suy nghĩ như bạn.
    Ít ra bạn cũng phải nghe người khác nói, chỉ dựa vào hai chữ dân chủ bạn biết được gì? Bạn có biết Đảng của các bạn cũng khuyến khích dân chủ không?
  4. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    VN cũng đang có nhiều khu ổ chuột sầm uất đấy thôi. Thống kê được bao nhiêu trẻ em lang thang bán vé số, đánh giày ???
    Ở Bắc Âu có nhiều đảng, theo khuynh hướng chính trị khác nhau ( không nhiều lắm) nhưng đảng nào cơ bản cũng tán thành xây dựng nhà nước phúc lợi. Vì thế kinh tế thị trường nhà nước và nhà nước phức lợi sẽ không biến mất khi đảng cánh hữu lên cầm quyền ( giả sử thế ) như một số người nghĩ.
    Chính sách đánh t huế thư nhập cao của nhà nước đối với giới thượng lưu nhằm điều tiết thu nhập, lấy tiền đó chi cho phúc lợi xã hội- nâng chất lượng sống của người nghèo.
    VN cũng có chủ trương như vậy nhưng có nhiều người không hài lòng, dĩ nhiên là những người có thu nhập đáng kể trong xã hội. Lý do, thu nhập của người VN khó kiểm soát đuợc, vì thế nhiều người dễ dàng trốn đuợc thuế, nhu vậy là không công bằng với những người phải đóng thuế. "Mình làm ăn nghiêm chỉnh, thu nhập đuợc 5 triệu một tháng phải đóng thuế trong khi có thằng thu nhập 10 triệu một tháng do tham nhũng thì không phải chịu là sao ". Hai nữa, nhà nước sẽ dùng số tiền đó như thế nào. Sẽ có tâm lý nghi ngờ tiền đó có thể bị xà xẻo chút ít, chứ không toàn chi cho " nâng chất lượng sống người nghèo". Cứ nhìn quyên tiền ủng hộ người nghèo vừa qua thấy rõ, chủ trương thì tốt, mọi người ai cũng ủng hộ, nhưng sau đó chi ra sao, bao nhiêu tiền đến với người bị nạn thì cứ mù mờ...
  5. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0
    Gửi các bác một số khái niệm tham khảo:

    Dân chủ là gì?
    Trong đời sống, mỗi chúng ta đều thuộc về một nhóm hay đa số, kể đi từ gia đình đến quốc gia và dân tộc, từ phường khóm đến câu lạc bộ hay công ty. Trong những đa số hay thiểu số nhỏ này, có những việc phải quyết định liên quan đến toàn thể, ví dụ như quyết định về mục tiêu, về nội quy hay về sự phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa những thành viên. Những quyết định này được xem là của tập thể để phân biệt với những quyết định cá nhân, chỉ liên quan đến riêng cá nhân ấy mà thôi.
    Dân chủ là một thuộc tính của diễn trình lấy quyết định của đa số. Dân chủ là hiện thân của lý tưởng, theo đó, những quyết định liên quan đến đa số phải được thông qua tất cả các thành viên của đa số đó, mỗi thành viên đều có quyền được tham gia như nhau vào diễn trình lấy quyết định. Nói một cách khác, dân chủ đòi hỏi phải tôn trọng hai nguyên tắc được xem là căn bản như nhau sau đây: một là sự kiểm soát của dân chúng trên diễn trình lấy quyết định đa số và hai là mỗi người đều có quyền ngang nhau khi thi hành việc kiểm soát đó. Một tập thể được gọi là dân chủ nếu mọi vấn đề liên quan đến đa số đó đều được quyết định dựa trên hai nguyên tắc vừa nêu trên.
    Một định nghĩa như vậy về dân chủ sẽ dẫn đến hai hệ quả. Thứ nhất, dân chủ sẽ không chỉ là thuộc tính của quốc gia hay của cơ quan quyền lực như người ta thường nghĩ, mặc dù trong thực tế, dân chủ trên bình diện quốc gia liên quan chặt chẽ với dân chủ biểu hiện trong các cơ cấu khác của xã hội. Nếu xem quốc gia như một hiệp hội với tầm hoạt động rộng lớn nhất, bao gồm quyền điều khiển và phối hợp các công việc của toàn xã hội và khả năng tăng thuế, thì quả dân chủ ở bình diện quốc gia mang một tầm quan trọng đặc biệt. Do đó chúng ta sẽ lưu tâm xem xét kỹ đến những vấn đề dân chủ của những chính quyền.
    Hệ quả thứ hai là dân chủ không thể được đo lường đơn giản theo cách hoặc có hoặc không và cũng không thể áp dụng loại tiêu chuẩn này để xét đoán xem một đa số, bất kỳ loại nào, có hoàn toàn dân chủ hay không. Ðúng ra đây là vấn đề mức độ. Một mặt dân chủ phụ thuộc vào việc áp dụng các nguyên tắc về sự kiểm soát của dân chúng và về quyền bình đẳng chính trị, mặt khác dân chủ còn tùy thuộc vào mức độ thực hiện lý tưởng bình đẳng tham gia vào diễn trình lấy quyết định. Thông thường chúng ta đánh giá một quốc gia là có dân chủ nếu những nhà lãnh đạo quốc gia đó biết đặt hành động của họ dưới sự chấp thuận của dân chúng thông qua những cuộc bầu cử tự do để dân chúng chọn lựa người cầm quyền giữa các ứng cử viên khác nhau.
    Như vậy tính chất dân chủ của một quốc gia được đánh giá qua việc các công dân trưởng thành của quốc gia đó có quyền bầu cử và ứng cử như nhau và việc các quyền công dân và chính trị được bảo vệ bởi luật pháp. Thực ra ngay cả tại các quốc gia thuộc dạng vừa kể, hai nguyên tắc về sự kiểm soát của dân chúng và về sự bình đẳng chính trị cũng chưa được tôn trọng tuyệt đối. Nhìn như vậy, tiến trình dân chủ hóa sẽ không bao giờ được hoàn tất; vì lẽ đó mà những con người dân chủ trên toàn thế giới, bất kể họ sống trong chế độ hoặc thể chế chính trị nào, vẫn tiếp tục tranh đấu để củng cố và phát huy việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ.
  6. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0

    Tại sao phải gắn bó với dân chủ ?
    Sự gắn bó chính đáng với dân chủ có thể được biện minh bằng nhiều lý do, sau đây là 5 lý do quan trọng nhất.
    (a) Mục đích của dân chủ là đem lại cho mọi cá nhân một sự đối xử như nhau. Nhà Hiến pháp học Jeremy Bentham viết rằng: "mỗi người chỉ được tính là một và không ai được tính hơn một" để phản bác lại lập luận của một số quý tộc cho rằng mạng sống của một số cá nhân nào đó quan trọng hơn của những người dân khác. Nguyên tắc bình đẳng này không chỉ nói lên rằng các chính sách chung phải nhằm bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người một cách như nhau mà còn cho thấy những quan điểm cá nhân cũng phải được tôn trọng như nhau, không có phân biệt giữa người này kẻ khác.
    Trong một vở tuồng của Euripide, một công dân thành Athènes đã tuyên bố rằng: "chúng ta không chấp nhận trao quyền lực đặc biệt cho sự giàu có; tiếng nói của người nghèo cũng không ít quan trọng hơn của người khác". Những người chống dân chủ luôn cho rằng đám đông quá thiếu kiến thức, thiếu học và thiển cận để có thể tham gia dưới một hình thức nào đó vào việc xây dựng chính sách. Do đó người dân chủ phải trả lời rằng nếu quả thực là quần chúng cần thông tin và cần thời giờ để hiểu nó, thì họ sẽ đủ khả năng để hành động một cách có trách nhiệm một khi tình thế đòi hỏi. Tất cả mọi người trưởng thành phải được xem như có trách nhiệm về lối sống của họ cũng như có khả năng tham gia vào những quyết định liên quan đến đời sống xã hội của họ.
    (b) Một chính quyền thuộc loại dân chủ dễ thỏa mãn nhu cầu của những dân thường hơn bất cứ loại chính quyền nào khác. Càng kéo nhiều người cùng tham gia vào việc định chính sách, chính sách càng dễ phản ánh những bận tâm và khát vọng của họ. Một ngạn ngữ cổ của Hy Lạp đã chẳng cho rằng "nếu người thợ làm ra đôi giày thì chỉ kẻ mang nó mới biết có vừa không". Trong thực tế chính người dân thường là kẻ phải gánh chịu hậu quả của chính sách. Người làm chính sách chỉ rút được kinh nghiệm khi quần chúng được trang bị những phương tiện tốt và hữu hiệu để có thể gây những ảnh hưởng và áp lực cần thiết. Nếu dân chúng không có cách gì để tạo ảnh hưởng hoặc kiểm soát những người có chức quyền, cho dù họ có ý tốt, thì những chính sách của họ, nếu khá, cũng không thể thích ứng được với nhu cầu của dân chúng, còn nếu xấu thì những chính sách này sẽ chỉ là con đẻ của tham nhũng hoặc chỉ để phục vụ quyền lợi cá nhân.
    (c) Dân chủ dựa trên sự tranh luận, sự thuyết phục và sự thỏa thuận. Khi tranh luận trong chế độ dân chủ, điều quan trọng không chỉ là sự có mặt của những quan niệm hoặc quyền lợi khác nhau đại diện cho phần đông những khuynh hướng lớn mà còn là sự tôn trọng quyền được phát biểu một quan điểm khác biệt và quyền được lắng nghe. Như vậy dân chủ chấp nhận sự đa dạng và đa nguyên trong xã hội cũng như sự bình đẳng giữa các công dân. Gặp sự biểu hiện đa dạng này, những khác biệt quan điểm phải được giải quyết bằng sự tranh luận, sự thuyết phục và sự thỏa thuận chứ không phải bằng sự cưởng bức hoặc bằng sự xác định quyền lực một cách đơn thuần. Người ta thường diễu các chế độ dân chủ đại diện như những bộ máy chuyên nói ba láp. Ðáng lý ra khả năng tổ chức tranh luận công khai của những chế độ này cần phải đáng được khen hơn là bị chê bởi tranh luận là phương tiện tốt nhất để tìm đồng thuận cho các chính sách và tranh luận không nhất thiết cản trở việc hoạt động hiệu quả.
    (d) Dân chủ bảo đảm việc tôn trọng các quyền tự do căn bản. Không thể có tự do tranh luận một phương tiện để bày tỏ và giải quyết những khác biệt trong xã hội- nếu những quyền tự do đó không được bảo vệ bởi những quy định về quyền công dân và quyền chính trị như: quyền tự do phát biểu, tự do lập hội, tự do đi lại và quyền được an toàn. Người ta có thể tin rằng chế độ dân chủ sẽ bảo vệ những quyền này bởi thiếu chúng cỗ máy dân chủ không thể hoạt động được. Nếu thực hiện một cách lý tưởng những quyền căn bản này, cá nhân sẽ phát triển và những quyết định tập thể sẽ dễ đạt được hơn khi bị đem ra đối chất với nhiều lý luận và chứng cứ khác.
    (e) Dân chủ sẽ đem lại sự đổi mới xã hội. Bằng cách cho phép loại bỏ những chính sách hoặc những người lãnh đạo bị thất bại hay đã hết hữu hiệu theo một tiến trình nề nếp và ôn hòa, những chế độ dân chủ sẽ có khả năng bảo đảm sự đổi mới của xã hội và sự tiếp nối giữa các thế hệ mà không tạo ra đảo lộn đáng kể nào hoặc làm rối loạn sinh hoạt quốc gia như thường xảy ra mỗi khi những người cầm quyền trong những chế độ phi dân chủ bị gạt bỏ.
  7. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0

    Nguồn gốc của ý tưởng dân chủ.
    Trong suốt lịch sử loài người, quan niệm cho rằng người dân phải có quyền tham gia vào các quyết định liên quan đến số phận của họ đã trở thành một khát vọng của nhiều xã hội. Chính tại Athènes vào thế kỷ thứ V và VI trước Thiên Chúa mà nguyên tắc này được nâng lên thành cơ chế. Khi quy định về việc các ứng cử viên vào các chức vụ công cộng phải là sở hữu chủ được bãi bỏ vào hồi đầu thế kỷ thứ V, tất cả mọi công dân của Cộng hòa Athènes đã được trực tiếp tham gia các cuộc luận bàn hoặc các cuộc bỏ phiếu tại Nghị viện; Nghị viện này có nhiệm vụ định ra luật lệ và chính sách của tập thể. Ngoài ra mỗi người đều có thể tham gia vào việc điều hành đô thị (chú thích: Athènes khi ấy là quốc gia đô thị) tỷ dụ như tham gia bồi thẩm đoàn hoặc hội đồng đô thị; thành viên của những cơ chế này được bầu lại định kỳ bằng cách bốc thăm.
    Từ đó đến nay, sự điều hành của nền dân chủ đầu tiên này luôn được tham chiếu và được xem là kiểu mẫu cho tất cả các nền dân chủ. Sự kiện một chính quyền dân chủ được xây dựng lên trong một giai đoạn mà Athènes xác định được ưu thế về kinh tế và hàng hải và trải qua một thời kỳ mà sự sáng tạo trong nghệ thuật và sự tư biện trong triết học nở rộ một cách phi thường đủ đánh đổ quan niệm của những người chống dân chủ, cho rằng việc để cho thường dân tham gia vào việc quản lý việc công sẽ dẫn đến hoặc một xã hội hoàn toàn đồng nhất hoặc một loại chính quyền vô trách nhiệm.
    Nền dân chủ tại Athènes thực ra vừa có mặt hơn vừa có mặt kém dân chủ hơn những chế độ dân chủ mà chúng ta biết đến ngày nay. Nó dân chủ hơn ở chỗ các công dân được phép can thiệp trực tiếp vào các quyết định chính liên quan đến xã hội mà họ đang sống (phù hợp với nguyên tắc dân chủ trực tiếp) trong khi các chế độ dân chủ hiện nay đều dựa trên nguyên tắc đại diện gián tiếp, mà trong trường hợp tốt nhất, cũng chỉ cho phép một sự tham gia bậc hai vào diễn trình quyết định của chính quyền và quốc hội. Nhưng một chế độ dân chủ trực tiếp lại chỉ thực hiện được khi số lượng công dân còn tương đối nhỏ để có thể tụ họp lại tại một chỗ họp vừa đủ rộng, ngoài ra những công dân này lại phải có đủ thời giờ rảnh để tham gia một cách có ý thức vào việc bàn chọn chính sách. Ngày nay, chỉ xét về mặt dân số không thôi, bất kể dân số đó là bao nhiêu, chúng ta cũng thấy không điều nào trong hai đòi hỏi ở trên có thể thỏa mãn được. Tuy nhiên điều này không cấm ta tạo điều kiện để các công dân tham gia trực tiếp vào các quyết định ở bình diện quốc gia, tỷ dụ như qua bầu cử hoặc trưng cầu dân ý hay tạo cho họ có điều kiện tham gia liên tục vào các quyết định tại địa phương.
    Ngược lại nền dân chủ tại Athènes kém dân chủ hơn các chế độ dân chủ ngày nay ở chỗ chỉ có những người "đàn ông tự do" mới được xem là công dân. Ðàn bà, nô lệ và ngoại kiều sống trong đô thị thời đó không có quyền công dân; họ phải làm việc nhà và sản xuất để các "ông công dân" có thể tham gia hoạt động chính trị. Ở đây rõ ràng người dân có được tham gia cai trị nhưng quyền tham gia này lại chỉ xuất phát từ hoàn cảnh tương đối ưu đãi của họ.
    Cần nhắc lại rằng trong đa số các chế độ đại nghị Tây phương trước đây, quyền công dân cũng đã bị gắn liền với những hạn chế tương tự và chỉ đến đầu thế kỷ xx các hạn chế này mới bị hủy bỏ. Nguyên tắc "mọi quyền lực chính trị thuộc về nhân dân" dù đã được cuộc Cách mạng Pháp (1789) phổ biến nhưng đã không được áp dụng cho mọi người. Người đàn bà và những người vô sản đã phải chờ đến thế kỷ xx mới được công nhận quyền đi bỏ phiếu. Ngay cả ngày nay không phải ai cư trú tại một quốc gia, khi đến tuổi đi bầu cũng được phép tham gia các cuộc bầu cử, không cần biết rằng họ đóng góp như thế nào cho nền kinh tế quốc dân tại đó (thí dụ: các ngoại kiều).

    Chế độ đại nghị có thực sự dân chủ không?
    Jean Jacques Rousseau, một triết gia Pháp ở thế kỷ XVIII, cho rằng chế độ đại nghị không thực sự dân chủ. Ông cho rằng trong chế độ đại nghị, dân chúng thực sự chỉ được tự do vào lúc bầu cử. Qua kỳ bầu cử, dân chúng lại trở về tình trạng bị phụ thuộc những người cai trị, không khác chi nô lệ. Thực ra đây chỉ là một dạng quá khích của luận đề cổ điển của những nhà phê bình cực tả cho rằng các chế độ đại nghị thực ra không dân chủ. Luận đề này ngược với luận đề của phe hữu cho rằng những chế độ đại nghị đã dành một vai trò quá lớn cho dân chúng.
    Ðể trả lời những nhà phê bình này, chúng ta có thể nói rằng, cho đến ngày hôm nay, khi mà số những công dân tăng lên hàng triệu và thời giờ không còn cho phép họ thường xuyên tham gia công việc chính trị nữa thì chế độ đại nghị là chế độ tốt nhất được dựng lên để bảo đảm sự kiểm soát của dân chúng đối với người lãnh đạo. Trên lý thuyết, người dân thi hành sự kiểm soát của họ qua việc bầu lên một người lãnh đạo (tổng thống hay thủ tướng) và qua việc chọn lựa những dân biểu của quốc hội lập pháp, là những người được quyền thay mặt dân để thường xuyên kiểm soát chính phủ. Quốc hội này có những đặc quyền, chẳng hạn như chấp nhận hay bác bỏ một đạo luật hay chấp thuận chính sách thuế khóa. Song le sự kiểm soát của dân chúng có thực hay không là do các cuộc bầu cử có thực sự "tự do và công bằng" hay không, là do các hoạt động của bộ máy hành pháp có minh bạch hay không và do các quyền hạn trao cho quốc hội để tìm hiểu và kiểm soát các hoạt động của hành pháp có hữu hiệu hay không.
    Trong một chế độ đại nghị, nếu bầu cử được xem là phương cách chính để dân chúng tham gia vào các hoạt động hành pháp, thì đó không phải là phương cách duy nhất. Người dân có thể kết hợp thành đoàn thể để đòi hỏi sửa đổi về một vấn đề luật pháp nào đó hoặc để chống lại sự sửa đổi đó; Họ có thể tham gia vào một chính đảng để tạo áp lực trực tiếp lên các dân biểu. Ngược lại các chính quyền cũng sẽ phải tham khảo ý kiến của những người sẽ chịu hậu quả của các quyết định của họ, cho dù chỉ là tham khảo những thành phần tiêu biểu qua một cuộc thăm dò dư luận. Trên thực tế hiếm có chính quyền trong một chế độ đại nghị nào có thể gác bỏ ngoài tai dư luận quần chúng được phản ảnh thông qua những cuộc thăm dò dư luận, qua báo chí, truyền thanh và truyền hình. Tuy nhiên sự hữu hiệu của những trạm tiếp vận ảnh hưởng của quần chúng này rút cuộc lại phụ thuộc vào sự tiến hành tốt diễn trình bầu cử, bởi vì thực ra, các chính quyền chỉ chú ý một cách đúng đắn đến ý kiến của dân chúng nếu sự thờ ơ trước dư luận sẽ dẫn họ đến chỗ mất quyền.
    Tóm lại sự kiểm soát của dân chúng, thứ nhất được thi hành thông qua các cuộc bầu cử, khi mà họ có thể cân nhắc về phương cách điều hành quốc gia và chọn lựa những người sẽ nhận trách nhiệm chính trị; thứ nhì thông qua sự kiểm soát chính phủ thường xuyên của quốc hội, và cuối cùng là qua trung gian của các giòng diễn đạt dư luận quần chúng được chính phủ lưu ý đến.
    Xét về nguyên tắc thứ hai của dân chủ về sự bình đẳng chính trị, chế độ đại nghị quả thiếu bình đẳng khi cho phép một thiểu số có quyền thay mặt đám đông để quyết định về chính trị. Ðể khắc phục những hạn chế này và để thỏa đáp tiêu chuẩn bình đẳng chính trị, chúng ta cần tạo điều kiện sao cho mỗi công dân lúc nào cũng có thể làm được ba việc sau đây: mưu tìm một trách vụ dân cử, công bố lập trường của mình về các vấn đề quốc gia và được đền bù trong trường hợp gặp sai phạm của những người có chức quyền hành chánh. Nhưng điều cần thiết vẫn là hệ thống bầu cử phải dành cho mỗi cuộc bầu cử một giá trị như nhau. Trên thực tế đa số các chế độ đại nghị đã không giữ đúng được các nguyên tắc này. Ðặc biệt nguyên tắc bình đẳng chính trị đã bị vi phạm trầm trọng bởi những bất bình đẳng tồn tại trong xã hội. Thí dụ, về mặt vật chất, các nhóm xã hội đã rất khác biệt nhau về phương tiện tài chính, về khả năng xoay sở và về quan hệ.
    Do đó trong các nước theo chế độ đại nghị, phận sự của những con người dân chủ là phải tìm ra những giải pháp để hạn chế ảnh hưởng về mặt chính trị tạo nên bởi những bất bình đẳng xã hội và phải làm gia tăng sự hữu hiệu của những cơ chế giúp người dân kiểm soát chính phủ.

    Vai trò của chính đảng trong chế độ dân chủ
    Những cá nhân trong một xã hội chỉ có thể ảnh hưởng hạn chế vào việc điều hành quốc gia nếu họ không biết kết hợp thành hội đoàn. Ðảng phái chính trị là tập hợp của những người có cùng chính kiến và quyền lợi trong việc phổ biến quan điểm, trong việc giành những trách vụ chính trị và trong khả năng ảnh hưởng vào công việc quốc gia. Các chính đảng đóng nhiều vai trò. Nhìn dưới khía cạnh bầu cử, các chính đảng góp phần đơn giản hóa sự chọn lựa bằng cách cống hiến cho cử tri một số quan điểm chính trị và những nét tổng quát của chương trình hành động để họ dễ quyết định. Nhìn dưới khía cạnh chính quyền, các chính đảng là hậu thuẫn tương đối ổn vững để cho chính quyền có thể thực hiện tốt các chương trình đã được đưa ra hứa hẹn lúc tranh cử. Ngoài ra chính đảng còn giúp cho những cá nhân hoạt động chính trị tích cực nhất có thể can thiệp vào việc nước, được học tập chính trị và có ảnh hưởng vào việc điều hành quốc gia.
    Trong những chế độ có bầu cử tự do và công bằng, sự thành công của chính đảng phụ thuộc rất nhiều vào sự ủng hộ của số cử tri mà họ đã giành và giữ được. Do đó họ phải luôn luôn lưu tâm đến ý kiến của cơ sở khi lập chương trình hành động cũng như khi chọn các ứng cử viên vào những trách vụ dân cử, nếu không họ sẽ bị thua các đảng khác hoặc sẽ khiến có thêm những chính đảng mới được thành lập để đáp ứng khoảng trống chính trị do họ tạo nên. Cho nên chính đảng là một cơ chế quan trọng khiến chính quyền phải lắng nghe đúng mức những bận tâm của dân chúng. Song le các chính đảng chỉ có thể làm tròn nhiệm vụ này nếu việc tranh cử được bảo đảm công bằng tuyệt đối, nghĩa là không để xảy ra việc có một số các chính đảng có quyền sử dụng những phương tiện công cộng hoặc những phương tiện truyền thông đại chúng trong khi những đảng khác lại không được phép. Ðặc biệt điều này cũng bao hàm rằng ngay chính đảng cầm quyền cũng cần ý thức phân biệt rõ ràng phạm vi hoạt động của chính quyền với phạm vi hoạt động của đảng cũng như tìm ra hình thức tổ chức thích ứng cho từng loại hoạt động.
    Nếu việc cạnh tranh công khai của các chính đảng trong khuôn khổ bầu cử là một trong những đặc trưng không thể thiếu được của những chế độ dân chủ đại nghị thì đó cũng chính là chỗ nhược của thể chế này. Việc cạnh tranh công khai giữa các chính đảng cùng mưu đồ lèo lái quốc gia là một yếu tố phân chia về mặt xã hội và chính trị. Cái giá mà những người tham dự vào cuộc cạnh tranh này phải trả thường rất cao. Do đó nhất thiết -và đây chính là một trong những yếu tố sống còn của dân chủ- ta phải làm sao để cái giá mà những chính đảng và những ủng hộ viên của họ phải trả một khi họ bị loại khỏi quyền lực là một cái giá mà họ có thể chịu đựng được. Ðặc biệt họ không được phép nghi ngờ về khả năng có thể thắng lại của họ trong một cuộc bầu cử sau cũng như về tính dài lâu của những quyền pháp định, cho dù hiện thất cử, họ vẫn có thể tụ tập thành viên, công bố quan điểm và chỉ trích chính quyền.

    Được hieu239 sửa chữa / chuyển vào 19:03 ngày 17/01/2007
  8. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0

    Vai trò quan trọng của truyền thông trong một chế độ dân chủ
    Chính quyền của bất kỳ thể chế chính trị nào cũng muốn dân chúng ủng hộ hoặc tán thành các chính sách của họ. Nếu xem trọng dân chúng thì người ta phải tìm cách tiếp cận với họ qua trung gian của các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền thanh và truyền hình. Từ đó truyền thông có một vai trò chính trị quan trọng trong xã hội cận đại. Trong chế độ dân chủ, truyền thông không thể bị xem đơn giản như bộ phận tuyên truyền của chính phủ. Truyền thông còn có những nhiệm vụ quan trọng khác, đó là: rà xoát hoạt động của chính quyền, thông tin cho quần chúng, tạo tranh luận công khai, làm cho chính quyền phải chú ý đến dư luận và tạo áp lực lên chính quyền.
    Nhiệm vụ điều tra và thông tin của truyền thông rất cần thiết để chống lại cái "tật" muốn giữ bí mật muôn thủa của các chính quyền và để cân bằng lại sức mạnh áp chế của guồng máy chính quyền trong lãnh vực giao tế công cộng. Một chính quyền buộc phải có trách nhiệm với dư luận nếu dư luận có được thông tin về các hoạt động của họ cũng như có phương tiện độc lập để đánh giá về sự đúng đắn của những lời tuyên bố về chính sách của họ. Nếu một mặt truyền thông phải cẩn thận để khỏi soi mói vào đời tư người khác thì mặt khác nó cũng có nhiệm vụ truyền đạt thông tin và nói lên phần nào mối quan tâm của quần chúng, một quần chúng có quyền được tìm hiểu. Không làm được việc này truyền thông sẽ không thể chu toàn trọng trách của "người canh gác quyền lợi công cộng". Ngoài vai trò cung cấp thông tin độc lập, truyền thông còn phải tạo diễn đàn tranh luận bằng cách mời các bộ trưởng và nhân sĩ trả lời -một cách dễ hiểu- những câu hỏi được đặt ra cho họ và tạo điều kiện để người dân bình thường cũng có thể tham gia cuộc tranh luận này. Truyền thông cũng phải làm sao để chính quyền lắng nghe dư luận. Ðóng một lúc nhiều vai trò khác nhau như vậy mà tầm hoạt động lại rộng đến toàn thể dân chúng nên truyền thông sẽ bổ xung và củng cố cho hoạt động theo dõi và thảo luận của quốc hội.
    Song le trong một thể chế dân chủ, truyền thông chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ quan yếu này nếu nó thực sự độc lập và không phụ thuộc cả chính quyền lẫn những thế lực quyền lợi tư nhân. Ðể giới hạn ảnh hưởng của chính quyền người ta có thể ủy thác việc kiểm soát những phương tiện truyền thông do công quỹ tài trợ cho một ủy ban độc lập hoặc một ủy ban gồm đại diện những hiệp hội công dân và tạo sự cạnh tranh với những phương tiện truyền thông tư nhân. Ðể ngăn chặn những nhóm tài phiệt tư nhân thao túng lãnh vực truyền thông người ta có thể đặt ra định mức tập trung sở hữu hoặc dùng các phương cách điều hòa thích ứng khác. Tuy nhiên không một biện pháp nào có thể bảo đảm được rằng truyền thông sẽ chu toàn trách nhiệm dân chủ của họ một cách vô tư và hữu hiệu như mong đợi. Cuối cùng chúng ta cũng chỉ trông chờ nơi sự độc lập và tính chuyên nghiệp của các nhà báo, các chủ bút và các nhà sản xuất trong lãnh vực thính thị cũng như mong quần chúng luôn ý thức rằng truyền thông sẽ góp phần tích cực vào sự hoạt động của một nền dân chủ.

  9. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0

    Tại sao các chế độ dân chủ đại nghị có thể được xem là tự do?
    Lý do thứ nhất xuất phát từ lịch sử: đại đa số các quốc gia tây phương đã được tự do trước khi trở thành dân chủ. Tại các quốc gia đó một chế độ tự do hiến định đã được thiết lập trước khi phổ thông đầu phiếu được chấp nhận và các chính đảng đại chúng được thành lập.
    Chế độ đó có những đặc điểm như sau:
    a) đặt sự hoạt động của chính quyền hoặc của bộ máy hành pháp vào khuôn khổ của luật pháp được chuẩn y bởi một quốc hội do dân bầu ("thượng tôn pháp luật");
    b) công nhận những quyền cá nhân về tố tụng (quyền được xét xử công bình), về tự do ngôn luận, tự do tụ tập và tự do đi lại;
    c) thiết lập một bộ máy tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp để thể hiện đúng vai trò canh giữ luật pháp và quyền cá nhân. Trong lịch sử, những chế độ dân chủ cho áp dụng phổ thông đầu phiếu và để các chính đảng đại chúng phát triển trước khi củng cố các thành tố tự do vừa nêu đều đã không giữ được ổn định.
    Việc này đưa chúng ta đến lý do thứ hai, thuộc lãnh vực thực tiễn, để hiểu tại sao một chế độ tự do hiến định phải đi đôi với dân chủ. Trong một quốc gia tân tiến chính quyền thường nắm những quyền hành rất lớn. Nếu một chính quyền dù được lòng dân không chấp nhận sự chi phối của luật pháp như bất cứ một công dân bình thường nào khác, hoặc không bị bắt buộc phải xin quốc hội chuẩn y những đạo luật theo những thủ tục được định sẵn, hay không chịu tôn trọng các quyền tự do của công dân (cho dù việc thực thi các quyền tự do đó đôi khi gây ra khá nhiều phiền toái), thì trước sau gì chính quyền đó cũng sẽ vuột khỏi sự kiểm soát của dân chúng.
    Dân chủ không phải là một thể chế chuyên tìm cách thỏa mãn ngay tức thời hoặc càng nhanh càng tốt tất cả những đòi hỏi của người dân, mà là một thể chế nhằm bảo đảm cho người dân có những phương tiện để thực thi một cách lâu dài ảnh hưởng và sự kiểm soát của họ lên chính quyền. Trong số những phương tiện này chúng ta cần nhấn mạnh đến những thành tố quan trọng của một chế độ hiến định: sự thượng tôn pháp luật, sự phân quyền giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp và sự tôn trọng các quyền và các tự do cá nhân.
    Những đặc trưng và những thành tố của thể chế dân chủ đó chỉ có thể được bảo vệ một cách hữu hiệu nhất bằng một hiến pháp thành văn được phổ biến đến tất cả mọi người, trong đó định nghĩa rõ ràng các nghĩa vụ và quyền hạn của cá nhân cũng như của các cơ quan nhà nước. Qui chế đặc biệt của hiến pháp được xác định bởi hai sự việc. Thứ nhất, những người nhận trách nhiệm công vụ phải tuyên thệ trung thành với hiến pháp và không được phép diễn giải hiến pháp theo cách nhìn phe phái hoặc cục bộ của họ. Thứ hai, việc thay đổi hiến pháp đòi hỏi phải qua những thủ tục đặc biệt, tỷ dụ như qua một cuộc bỏ thăm với đa số tuyệt đối hoặc một cuộc trưng cầu dân ý. Về thực hành, sự bất khả xâm phạm của hiến pháp thành văn chỉ có thể được bảo đảm dưới hai điều kiện: có ngành tư pháp độc lập được chỉ định ra để thực thi sự tôn trọng hiến pháp và ngành tư pháp này phải có đủ quyền hành để hoàn thành trách nhiệm đó; và đồng thời quần chúng nhân dân phải luôn sẵn sang để giám sát sự tôn trọng hiến pháp.

    Được hieu239 sửa chữa / chuyển vào 18:52 ngày 17/01/2007
  10. hieu239

    hieu239 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    103
    Đã được thích:
    0

    Có thể có những hình thức dân chủ nào khác với chế độ dân chủ tự do không?
    Trong thế kỷ 20 này người ta đã chứng kiến một số những thử nghiệm nhằm xây dựng một chế độ dân chủ trên bình diện quốc gia, thường dưới hình thức một chế độ độc đảng -phổ biến nhất là chế độ cộng sản-, mà không lưu tâm gì đến di sản tự do. Trong loại chế độ này, để biện minh cho sự "độc đảng" người ta thường nêu lên sự cần thiết phải bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân, phải tập trung sức mạnh của xã hội cho một chương trình phát triển kinh tế, và phải loại bỏ ảnh hưởng của sở hữu tư nhân cũng như của quyền lợi cá thể trong hoạt động chính trị. Ðảng cầm quyền được xem như là tiếng nói của nhân dân và là công cụ cho phép những người lãnh đạo huy động dân chúng cho những mục tiêu của chính quyền.
    Ngày nay, nếu còn lịch sự, thì người ta chỉ có thể công nhận một sự năng động dân chủ nhất định thấy xuất hiện tại cơ sở của loại chế độ này. Ngược lại sự thiếu vắng của các quyền tự do ngôn luận và lập hội đã ngăn chặn sự hình thành quan điểm và sự thành lập những tổ chức nằm ngoài hệ thống của đảng. Kết quả là ảnh hưởng của dân chúng vào việc hình thành chính sách đã bị giới hạn nghiêm trọng và tinh thần trách nhiệm của những người cầm quyền đối với dân chúng cũng teo tóp đi. Cho dù có tự cho là đã gặt hái được những thành quả kinh tế đáng kể, những chế độ cộng sản đã tiêu biểu cho sự độc đoán chuyên quyền, cho việc phải dựa vào một chính sách đàn áp tỏa rộng và cho sự khinh thường pháp luật, đến nỗi chế độ cộng sản đã chỉ có thể giữ vững được nhờ một hệ thống công an tổ chức chặt chẽ.
    Những thử nghiệm tại Phi Châu nhằm thiết lập những chế độ dân chủ độc đảng không cộng sản cũng dẫn đến những hậu quả tương tự, cho dù ý định ban đầu là tốt. Ở Phi Châu người ta mong rằng việc tập trung vào một đảng duy nhất sẽ tránh được những bất đồng do tranh chấp giữa những phe phái tạo nên, đặc biệt trong một khung cảnh xã hội có nhiều chia rẽ sắc tộc và một đảng duy nhất sẽ phản ảnh được truyền thống xem trọng sự đồng thuận (cho dù khái niệm đồng thuận hoàn toàn không ăn nhập gì với khái niệm "đối lập trung thành"). Các chế độ này đã cho phép cử tri chọn lựa giữa những ứng cử viên, cho phép họ loại bỏ một vài bộ trưởng bị mất lòng dân với điều kiện là các "đối thủ" cũng phải là người của đảng và phải tuân theo đường lối của đảng. Ở đây lại một lần nữa, việc dân chúng không thể tập hợp được một cách độc lập bên ngoài đảng cầm quyền và việc họ không thể đưa ra được những ứng cử viên đối lập chống lại đảng trong các cuộc đầu phiếu đã đủ để tố cáo một chế độ độc đoán chuyên quyền và một sự coi thường ý kiến nhân dân ngày càng trầm trọng của những chính quyền và những người lãnh đạo. Bên cạnh đó, sự thiếu vắng của sự phân quyền thực sự đã khiến cho các nguyên tắc về thượng tôn pháp luật và về trách nhiệm của chính quyền trước các dân biểu quốc hội đại diện cho dân chúng không được tôn trọng, và từ đó không bảo đảm được sự tôn trọng các quyền tự do của người dân.
    Qua những tiền lệ lịch sử này người ta có thể kết luận rằng những thử nghiệm nhằm thiết lập một chế độ dân chủ mà không dựa trên nền tảng tự do đều thất bại. Cho dù quyền tự do lập hội và phương cách bầu cử tự do và đa nguyên có đem lại bao nhiêu phiền toái đi nữa thì chúng ta cũng phải nhận rằng đây là hai công cụ rất cần thiết để bảo đảm cho ảnh hưởng và sự kiểm soát của dân chúng đối với chính phủ được vĩnh cửu, để bảo đảm các nguyên tắc thượng tôn pháp luật và phân quyền, là những nguyên tắc bắt buộc chính quyền phải tuân theo một số thủ tục cần thiết để chấp nhận sự ảnh hưởng và sự kiểm soát của dân chúng. Chế độ dân chủ tự do chắc chắn còn đủ rộng chỗ cho những thử nghiệm và thích ứng vào những điều kiện địa phương. Người ta sẽ lầm khi cho rằng có thể áp dụng mà không sợ lầm những hình thức dân chủ đã được xây dựng thành công trong những hoàn cảnh nhất định nào đó hoặc trong những xã hội có truyền thống dân chủ lâu đời.

Chia sẻ trang này