1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các loại lỗi của báo chí điện tử Việt Nam

Chủ đề trong 'Báo chí - Truyền thông' bởi 1223, 05/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kuemhoito

    kuemhoito Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    15
  2. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    http://vnexpress.net/tin-tuc/xa-hoi/viet-nam-chong-tau-ngam-o-bien-dong-the-nao-1-2853225.html

    Hồi này thấy cá chó dại chăm sủa về tầu ngầm nhở

    "Trong lịch sử các cuộc chiến tranh trên biển, tàu ngầm đóng một vai trò quan trọng, là lực lương công kích chủ yếu, trong phòng ngự biển đảo, đóng vai trò chủ lực của các đòn tấn công bí mật, bất ngờ giải quyết chiến trường."

    Vãi đái các chó dại. Tầu ngầm có bản chất là bí mật nhưng rất yếu. Tầu ngầm rất dễ bị một cái máy bay rẻ tiền đánh đắm nếu như lộ, vì tầu ngầm hoàn toàn không có khả năng chống lại máy bay học có nhưng không đáng kể. Tầu ngầm cũng không thể sử dụng radar mạnh để tấn công hạm đội địch, vì tầu ngầm không thể dùng radar. Tầu ngầm là thứ nhìn vằng âm thanh trong lòng biển, nó xác định chính xác vị trí mục tiêu rất kém, chỉ vài km, và thường là tấn công mục tiêu theo hướng, khi các tầu nổi và máy bay confirm cho nó khoảng cách, tầu ngầm bắn ra ngư lôi, khi ngư lôi đã đi xa khỏi tầu mẹ đến gần mục tiêu mới bật sornar chủ động ở tầu mẹ hoặc ngư lôi định vị mục tiêu chính xác.

    Tầu ngầm cũng có thể rải mìn trước đường đi của địch, và tầu ngầm cũng được dùng để nghe trộm định vị hoạt động hạm đội địch. Tầu ngầm cũng có thể công kích mục tiêu trên mặt nước hay trên bờ một cách bất ngờ.... nhưng bao giờ cũng phải được bảo vệ chu đáo. Sau này, tầu ngầm chiến lược là các tầu ngầm mang đạn chiến lược xuyên lục địa, như đạn đường đạn IBCM, vì chúng có tính chất dễ dấu trong lòng biển chờ lệnh hủy diệt. Tầu ngầm chiến lượng cũng chỉ là một bộ phận nhỏ mang đạn chiến lược, dùng trong đòn phủ đầu vì xác suất đạn đi đến đích cao, bất ngờ. CÙng với loạt phủ đầu đó và các loạt đạn lớn sau đó, thì chủ lực vẫn là các IBCM trên bờ, chúng to lớn và số lượng nhiều.

    Lực lượng công kích chủ yếu trước WW2 là các tầu chiến đấu đối kháng hay được dịch trong tiếng Việt là "thiết giáp hạm", tiếng Nhật là "chiến đấu hạm". Nhật đi tiên phong trong WW2 dùng tầu sân bay làm chủ lực công kích. Sau đó Liên Xô dùng các máy bay bắn đạn tự hành diệt hạm như Tu-16, tầu nổi mang đạn tự hành diệt hạm Kirov, chúng là các "tầu sân bay" bắn máy bay cảm tử không người lái. Mỹ bị Nhật đánh cho tâm thần đến nay vẫn dùng tầu sân bay.

    Trong WW2, tàu ngầm Đức U-boot chủ yếu dùng để cắn trộm tầu hàng không vũ trang của Đồng Minh, bị phát hiện là chạy rẽ đất, hay sợ vãi rắm nằm im thin thít. Không khi nào tầu ngầm đối kháng với tầu chiến. Có nhiều trường hợp tầu ngầm bắn được tầu chiến lớn như cái tầu Mỹ bị Nhật bắn, nhưng đó là phục kích bất ngờ những tầu chiến đi lẻ, tiêu diệt gọn để không bị phản pháo, không hề có tí đối kháng nào.

    Ngày nay cũng vậy, ngư lôi và đạn có cánh có tầm xa hơn, nhưng các tầu ngầm tấn công khi đánh tầu nổi vẫn là phục kích, chỉ có điều đạn có cánh thì xa hơn ngư lôi không điều khiển. Còn cỡ 636 Varshavyanka nhà Vịt thì chỉ có cắn trộm tầu hàng trên con đường biển quan trọng bậc nhất thế giới đi sát Cam Ranh, nó ị ra bãi mìn ngay trước mũi tầu hàng rồi lỉnh về chuồng ngay đó. Tầu ngầm bắn đạn yếu, dễ tổn thương, và có thế mạnh là bí mật, nên cắn trộm.



    "
    Tàu săn ngầm Petya II trong biên chế hải quân Việt Nam.
    " ^.^
    lớp tầu này trong quân Việt nam đã được tháo bớt thiết bị chống ngầm. Thật ra, chỉ một phần trong số đó đã tháo một phần thiết bị săn ngầm. Chúng ta nhập về 5 tầu , trong đó có 2-3 tầu chưa trang bị trong quân Liên Xô . Gồm

    HQ-09 . Chương trình Project 159AE . số trước khi chuyển (có thể cai là số khung) SKR-82 . số sản xuất ở nhà máy №96 (mỗi chương trình có nhiều tầu, đây là số tầu trong chương trình ). Chuyển 21-12- 1978. Hạ thủy 22-01-1975 . bắt đầu chạy 28-04-1976 . trang bị (quân Liên Xô) 14-05-1977.

    HQ-11 Project 159AE . SKR-96 №97 21.12.1978 27.06.1975 25.04.1976 29.06.1978

    HQ-13 Project 159A. SKR-141 №47 tháng 12.1983 30.04.1970 7.08.1971 31.12.1971 (chiếc này không rõ số đăng ký bên Liên Xô)

    HQ-15 Project 159A SKR-130 №44 12.1983 11.09.1969 5.09.1970 30.09.1970 . số trong quân Liên Xô 622

    HQ-17 Project 159A SKR-135 №49 12.1984 15.08.1971 12.08.1972 26.12.1972 (chiếc này không rõ số đăng ký bên Liên Xô)

    HQ-11 và HQ-15 pháo 2x2 37 mm V-11M thay thế ống lôi, 2x2 ZU-23-2 thay thế giàn phóng bom chìm RBU.



    Project 159AE, thủy thủ đoàn 106.

    Giãn nước tối đa 1140 tấn.
    Dài 82,3 rộng 9,2 mớm nước 2,93
    Tốc độ tối đa 29 knot
    Tầm tối đa ở tốc độ 14 1800 nm
    Thời gian di chuyển 10 ngày

    các động cơ
    2x12000 HP tuốc bin M-2BE
    1x5400 diesel 61B-2
    1 máy phát điện 400 kW, 1 máy phát điện 200 kW, 1 máy phát diện 100 kW, đều diesel.

    Vũ khí
    2 tháp pháo bắn nhanh điều khiển máy tính AK-726 kèm điều khiển bắn Fut-B
    2x5= 2 giàn mỗi giàn 5 ống lôi 400 mm PTA-40-159, 10 ngư lôi SET-40 , hoặc 1 giàn 3 ống 533mm.
    2x12 giàn phóng bom chìm RBU-6000 "Smerch-2" (RGB-60) điều khiển bắn Burya
    22 thủy lôi

    điện tử
    Radar MR-302 "Rubka",
    ESM (Electronic Support Measures, thiết bị tác chiến điện tử radar, nó có các chức năng phát hiện đo đạc radar địch hay dẫn bắn) "Bizan`-4B",
    radar dẫn đường "Don" (radar nhỏ chu yếu tránh va quệt như radar tầu cá)
    sonar MG-312IE "Titan", MG-311 "Vychegda"


    Project 159A

    giãn nước tối da 1110
    Dài 82,3 rộng 9,2 mớm nước 2,93
    Tốc độ tối đa 32 knot
    Tầm tối đa ở: tốc độ 14 knot 2000 nm ; 16,5 knot 1500 nm ; 18 knot 800 nm ;
    Thời gian di chuyển 10 ngày


    các động cơ
    2x15000 hp tuốc bin M-2B
    1x6000 diesel 61B
    1 máy phát điện 400 kW, 1 máy phát điện 200 kW, 1 máy phát diện 100 kW, đều diesel.

    Vũ khí
    2 tháp pháo bắn nhanh điều khiển máy tính AK-726 kèm điều khiển bắn Fut-B
    2x5= 2 giàn mỗi giàn 5 ống lôi 400 mm PTA-40-159, 10 ngư lôi SET-40;
    2x12 giàn phóng bom chìm RBU-6000 "Smerch-2" (RGB-60) điều khiển bắn Burya
    22 thủy lôi

    điện tử
    Radar MR-302 "Rubka",
    ESM (Electronic Support Measures, thiết bị tác chiến điện tử radar, nó có các chức năng phát hiện đo đạc radar địch hay dẫn bắn) "Bizan`-4B",
    radar dẫn đường "Don" (radar nhỏ chu yếu tránh va quệt như radar tầu cá)
    sonar MG-312IE "Titan", MG-311 "Vychegda"



    "Hệ thống trinh sát, truy tìm, phát hiện tàu ngầm bao gồm các loại khí tài: sonar siêu âm, các bộ khí tài micro thủy âm thụ động cố định hoặc cơ động , anten của các đài thu phát thủy âm kéo theo các chiến hạm , phao thủy âm thả từ máy bay, thiết bị đo độ biến thiên từ trường, radar, các bộ cảm biến đo áp lực nước, khí tài đo nồng độ dầu diesel... Các trạm trinh sát sonar, radar, đài thu thủy âm cố định trên bờ biển, các trạm trinh sát trên chiến hạm chống ngầm, trên máy bay chống ngầm (máy bay chống ngầm và trực thăng chống ngầm). Các trung tâm thu thập, xử lý thông tin và lưu trữ cơ sở dữ liệu, sở chỉ huy phòng thủ chống ngầm các cấp."

    Thật ra, các cường quốc sử dụng 4 phương tiện chính để phá hiện tầu ngầm thời bình, là

    Các tầu ngầm tấn công hạt nhân đi theo các tầu ngầm chiến lược địch. Tầu ngầm tấn công có tốc độ, mức sâu, vũ khí đối kháng mạnh, sornar rất mạnh, chúng sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính được bình sai bằng định vị vệ tinh khi nổi lên.

    Các cáp thu âm được rải ngang các eo biển quốc tế chật hẹp như eo Bering hoặc khoảng cửa đại tây dương, cửa vịnh Mexico, và các vùng biển khác như eo Malaca Malaysia, eo Gribanta Tây Ban Nha.... Các cáp thu âm khác được rải trên biển quốc tế quanh lãnh thổ và vùng được bảo vệ chặt như cảng quân sự.

    Các máy may trinh sát điện tử như Tu-142, Il-38, P-8 Orion..... Chúng phát hiện tầu ngầm nổi lên, sóng nước do tầu ngầm tạo ra, hơi máy nổ, rà từ trường, và đặc biệt là Il-38 / Tu-142 có radar thụ động phát hiện các phiên liên lạc radio tầu ngầm ở phạm vi rất rộng, cho phép Ấn Độ theo dõi phần lớn Ấn Độ Dương.

    Vệ tinh. Có các vệ tinh khác nhau dùng radar, hồng ngoại, quang học. Ngoài việc phát hiện tầu ngầm, chúng còn phát hiện và báo động sớm các vụ bắn tên lửa.




    Trong chiến đấu, thì người ta phát hiện tầu ngầm bằng các âm thanh phát ra từ tầu ngầm, sornar chủ động, phao và cáp âm thanh. Việc phát hiện từ trường có tầm rất thấp, chỉ vài trăm mét, cũng có thể được dùng trong nhiều trường hợp kể cả tầu-máy bay đi dò, phao nổi, cáp

    Âm thanh phát ra từ tầu ngầm chủ yếu là các thứ tiếng: tiếng tuốc bin hạt nhân hay máy nổ API kiểu đốt trong hay đốt ngoài (động cơ đốt ngoài tiếng Anh và wiki ngu hơn lợn gọi là Stirling Engine, thật ra loại máy này được nhiều nhà khoa học quan tâm khi chuyển từ máy hơi nước sang máy nổ đốt trong, hình động ). Động cơ piston và tuốc bin tạo thành đủ những âm thanh các tần số, tânf số cao để định vị chính xác tầm gần, tần số thấp để phát hiện từ xa, trong đó động cơ piston như API Stirling-hay động cơ đốt trong dungf chất oxy hóa có hạ âm rất mạnh. Tiếng bánh răng hộp truyền động , bánh răng không thể nào khít vì bản chất thiết kế của nó là phải dơ, khi chạy các bánh răng va đập tạo thành âm thanh, âm thanh này có cả tần số cao và thấp, rất đặc trưng, cho phép phát hiện, định vị, phân loại tầu ngầm. Tiếng chân vịt quạt nước, bao gồm tiếng rít tần số cao của xoáy nước và hạ âm tần số thấp của các cánh chân vịt. Xoáy nước do luồng nước tác động vào vỏ tầu. Để làm giảm các âm thanh này có các tầu ngầm chạy điện, dùng động cơ điện đồng tốc với trục-không dùng bánh răng, và đỉnh cao là các tầu ngầm Nga treo máy đẩy lên đệm từ trường không tiếp xúc. Mỹ không có tầu ngầm không hạt nhân, và tầu ngầm hạt nhân Mỹ-Pháp đều không có chế độ chạy êm, chế độ chạy êm của tầu ngầm hạt nhân là chế độ không dùng bánh răng và tuốc bin chính, tầu dùng tuốc bin nhỏ phát điện, dùng động cơ điện như tầu ngầm điện, Xô-Nga và Anh có chế độ chạy êm. Chân vịt được bọc trong hộp kín trở thanh bơm luồng pum jet. Lớp 877V bắt đầu dùng bơm luồng Pum Jet, có xuất sang Ấn, nhưng không phải tốc độ nào cũng dùng được vì chính cái luồng đó sinh ra tiếng rít, bơm luô0ngf làm giảm hạ âm nhưng lại rít mạnh hơn, các vũ khí ở gần định vị tầu ngầm chính xác hơn cả về vị trí và vận tốc. Tầu ngâm hạt nhân Anh , Borey Nga... hiện nay dùng pump jet, còn Yansen thì không. Tầu ngầm API không hạt nhân Đức-Nga sử dụng pin nhiên liệu, là loại ắc quy nhưng dùng cực hydro, có thể bơm được bằng hậu cần thay cho nạp tốn thời gian nổi lên, và đi được lâu. Tuy nhiên, giải pháp API dùng H2O2 hoặc các chất oxy hóa khác để chạy máy nổ đốt trong-đốt ngoài lại là tiếng máy-tiếng bánh răng, tạo cả hạ âm và âm thanh tần số cao rất mạnh, nên tầu ngầm API Nhật là API giả, mặc dù giúp tầu lặn lâu hơn 636 chạy ắc quy.

    Như vậy, trong số âm thanh phát ra từ tầu ngầm thì hạt nhân kêu to nhất, trong đó hạt nhân Mỹ Pháp là ồn nhất. Chạy điện nạp ắc quy như 636, hay pin nhiên liệu hydro như các lớp tầu Đức và lớp sau của Nga Lada.... là êm nhất, trong đó nạp ắc quy như 636 nhà ta là êm nhưng yếu, chạy pin nhiên liệu hydro kiểu Đức-Nga vừa êm vừa khỏe lại nạp ắc quy nhanh như bơm xăng. Cũng là API không hạt nhân, nhưng API của Nhật dùng máy nhiệt đốt bằng chất oxy hóa là đồ lởm, kêu to, nhưng cũng khỏe.

    Các sornar cũng như radar, càng tần số cao thì tia càng thẳng, ăng ten càng nhỏ, định vị mục tiêu càng chính xác. Thế nhưng, tần số từ âm thanh thường trở lên thì vỏ tầu ngầm Nga hút mất, nó làm bằng cao su dày hàng tấc có độ đàn hồi và tỷ khối được thiết kế kỹ. Chỉ có các hạ âm bước sóng lớn mới ít bị hấp thụ bởi vỏ tàng hình, nhưng các hạ âm đó lại cần ăng ten rất lớn, vì mỗi bước sóng trên 24 mét, hiện nay người ta dùng các cảm biến áp suất vi sai theo trễ thời gian để thu nhỏ ăng ten. Người ta có thể tạo ra các máy phát hạ âm rất lớn như Mỹ dùng tầu hai thân dài hàng trăm mét làm dùi trống gõ xuống nước biển, nhưng cũng chỉ phát hiện được sự có mặt của tầu ngầm, không định vị được chính xác. Việc dùng các sornar chủ động hạ âm cũng chỉ có tác dụng lớn ở vùng đại dương sâu nhiều km, vì đáy biển hấp thụ.

    Ngoài ra, âm thanh tần số thấp từ tầu ngầm có đặc tính kỳ dị, khi tầu lặn nông, thì âm thanh này truyền đi rất xa đến hàng ngàn km, nhờ đó các con cá voi chát chít được với nhau, gọi là lớp hạ âm mặt biển. Độ sâu hạ âm truyền xa nhất là 25-250 mét. Đó là, mặt biển cong, âm thanh sẽ phản xạ ôm theo mặt cong đó thành "âm thanh dẹt", không va phải cái gì hao đi. Âm thanh tần số cao thì coi sóng biển là gồ ghề nhiễu loạn. Nhưng hạ âm có bước sóng trên 24 mét thì coi mặt biển là gương nhẵn thín, phản xạ rất chính xác theo mặt biển lý tưởng. Các hạ âm này phản xạ sóng sornar chủ động cũng hiệu qủa. Để khắc phục điều này, thì tầu ngầm phải có độ sâu lớn và độ sâu tác chiến lớn, khi đó âm thanh phản xạ mặt biển sẽ dội nhiều xuống đáy bùn bị hấp thụ. Độ sâu di chuyển thường là sâu hơn độ sâu tác chiến, khi cần bắn như lôi hay IBCM nổi lên nông thì cũng dễ bị phát hiện hơn. Về độ sâu thì người Nga hơn nhiều các nước khác. Tầu ngầm tấn công Mỹ lặn sâu 300, tầu ngầm chiến lược Mỹ lặn sâu 240, còn Nga là 600 và 400. Mỹ đã thất bại trong khi phát triển đua theo Nga lớp Seawolf-class. các tầu này không bao giờ đạt yêu cầu thiết kế, nó chỉ đóng 3 chiêcs thay cho kế hoạch 29 chiếc. Điều đặc biệt là tàu ngầm Mỹ chỉ tác chiến (bắn lôi, bắn IBCM, rải mìn...) rất nông, vào tầm lan truyền mạnh nhất của hạ âm mặt biển 20-50 mét, lúc đó chúng cũng phát âm thanh rất mạnh, nên các hoạt động này của chúng bộ lộ xa hàng ngàn km. Cũng vì Mỹ đụt quá nên Liên Xô đã bỏ các chương trình tầu ngâf tấn công lặn sâu hơn như Project 685 Plavnik, sâu tối đa 1200, di chuyển 1000, tác chiến 600.

    Liên Xô cũng bỏ các chương trình chạy nhanh là Lira 705 và Project 661 Anchar (Anchar 44,7 knot), vì Mỹ quá đụt cả tham số này.



    Một nguồn âm thanh rất lớn là các xoáy cuộn nước tạo ra ở vỏ tầu khi tầu ngầm di chuyển. Để khắc phục điều này, Xô-Nga bọc tầu ngầm trong đệm cao su dày hấp thụ âm thanh như da cá heo, giúp tầu tăng tốc (ảnh bong tróc ở tầu cũ dang chờ giảm xạ). Vỏ cao su thiết kế tỷ khối và độ đàn hồi đặc biệt sé hấp thụ hầu hết các âm thanh ở dải nghe thấy và cao, nhưng còn nhiều các âm thanh ở dải nghe thấy thấp và hạ âm. Đặc biệt năng lượng âm thanh tần số thấp của điều này rất mạnh. Các tầu ngầm hat nhân to khỏe đi nhanh phát hạ âm mạnh và hạ âm đó truyền đi rất xa khi chúng vừa di chuyển vừa trồi lên như thường thấy các tàu ngầm Mỹ biểu diễn, khi đó chúng bị phát hiện ở hàng trăm và hàng ngàn km bởi các hạ âm mặt biển. Để khắc phục điều này, thì chỉ có cách né tránh động tác trên, nhưng khi tầu ngầm không di chuyển hoặc đi chậm thì không dễ để cân bằng nó, chính vì thế tầu ngầm Mỹ chọn cách lao lên mặt biển sau khi dùng khí nén đẩy nước ra, dùng tốc độ để ổn định tầu bằng các cánh lái trong khi không kiểm soát được tốc độ đẩy nước ra của các khoang ước dằm khác nhau, dẫn đến mất cân bằng. Đồng thời, điều quan trọng nhất với việc né tránh xoáy cuộn nước vỏ tầu là làm mũi tầu thon, thân tầu thật là tròn đều, tháp tầu và các cánh lái dẹt.... Chúng ta đã so sánh tầu Nga tròn đều, không có hoặc có ít diện tích các cánh lái trước để dằm tầu như cánh máy bay, có thể hỏi ông Gúc hay ví dụ ảnh. Đối lập là tầu ngầm Asstute Class Anh, nó có hình dáng rất gồ ghề, Mũi tầu chúi xuống tạo lực dìm mạnh khi đi trong lòng biển, điều này buộc Astute phải có đôi cánh như cánh máy bay nâng mũi lên bù lực dằm ở các tốc độ khác nhau. Điều này nhân bội âm thanh phát ra do xoáy nước khi tầu di chuyển, nên người ta dễ dàng phát hiện nó ở hàng trăm km và hàng ngàn km nếu nó dại dột phóng nhanh khi nổi lên. Vấn đề hình dáng ngoài của tàu không đơn giản. Trước tiên nó lệ thuộc máy móc, vũ khí , diều lệnh, các nhiệp vụ... những điều này các nước phương Tây lệ thuộc lẫn nhau và không thể nước nào tự chủ hoàn toàn tất cả. Ví dụ, tầu ngầm mang đạn chiến lược Nga cũng có thể có lưng gù vì chiều cao của đạn, ví dụ Project 667 Tây goị là Delta, theo quan điểm thời của nó là ưu tiên cho sức mạnh cuả đạn khi không có các hiệp ươc hạn chế START, các tầu ngầm chiến lược có thể đi chậm luẩn quẩn ở điểm phục kích chờ lệnh hủy diệt, không cần truy đuổi nhanh như tầu taán công. Sau khi có các hiệp ước hạn chế, số đạn và số đầu đạn bị hạn chế, nên người ta đầu tư thêm tiền cho mỗi đầu đạn, làm tên lửa bé hơn, ngắn hơn, mang ít đầu đạn, bắn thoải mái hơn, tầu ngầm Borey tròn hơn êm hơn, nhưng vẫn còn gồ ghề nhiều so với tầu tấn công. Các tầu ngầm tấn công cần êm và đi nhanh. Loại chỉ mang ống lôi như tầu ngầm tấn công muốn bắn đạn có cánh lại phải thiết kế đạn riêng, bắn đạn có cánh qua ống lôi như 636, điều này không phải là dễ phương Tây rất hiếm, đi kèm nó là hệ thống băng chuyền nạp nhanh ngư lôi vào ống. Nay loại đạn ngắn hơn bắn từ giếng phóng xiên đỡ chiều cao như Project 949 Granit, Astute lưng gù vì Anh Quốc không tự chủ được đạn có cánh, dùng Tomahaw BMG-109. Và giải quyết được trọn vẹn vấn đề chiều cai đạn làm tầu lưng gù bằng loại đạn thấp, khi đó phải sở hữu ký thuật thiết kế chế tạo đạn để biến đổi, Yasen dùng 3M-54 Klub, nên tầu tròn đều (vẫn hơi gù và vẫn phải hơi nghiêng giếng phóng), tầu tấn công bứn đạn diệt hạm nên đạn nhỏ hơn IBCM của tầu chiến lược, cũng dễ làm hơn. Một nguyên nhân nữa làm các tầu khồng tròn đều là sản boong quá cao và phẳng. Các tầu ngầm nhỏ nhu 636 3100 tấn, 887... và nhỏ hơn như Project 677 Lada 2700, Type 212 1830 nhìn rõ sàn boong cao, và phải có thêm đôi cánh để thay lực nâng của sàn boong đó trong các tốc độ khác nhau như cánh máy bay, cả sàn boong và cánh đều tạo tiếng ồn lớn. Vì vậy khi thu nhỏ các tầu ngầm tấn công phi hạt nhân này, thì độ ồn không giảm nhiều, mà vũ khí yếu đi nhiều. Lada và Type 212 phải thu nhỏ vì chúng chạy pin nhiên liệu, pin này khó dự trữ hydro nên thu nhỏ để tiết kiệm. Vấn đề là, cái Astute 7400 tấn vẫn có sàn boong cao. À, đây là điều ăn bớt của quân Anh, Astute có các buồng chứa nước dằm-đi kèm các khoang khí nén đẩy nước ra... rất bé, tầu choáng nước khi lặn là 7400 tấn, khi nổi là 7000 tấn, choáng nước chìm / nổi chênh nhau quá ít, Astute 7000 tấn có 400 tấn, Lada là 2700 / 1700, Yasen 12800 / 8600, 6367 Varshavyanka là 3000/23000. Vì thế, Astute tuy to nhưng phải làm giàn cao đỡ sàn boong (sàn boong thường là cái giàn nằm ngoài vỏ chịu lực), nếu không thì sân nóc tầu dùng để dỗ máy bay và bốc dỡ một số hàng qúa thấp gây nguy hiểm. Một điểm nữa để sàn boong không cần quá phằng và cao là kỹ thuật hạ cánh máy bay trực thăng hải quân, Pháp phải dùng thiết bị định vị để đỗ trực thăng lên tầu nổi ròng trành sóng nước, nên sàn boong tầu ngầm phải phẳng và to cao. Ngược lại, Ka 2 rotor rất hợp với mặt tầu nổi, nên sàn boong các Lada - Varshavyanka... vẫn tròn không cần phẳng và cao quá. Như trên, về mặt này thì người Nga cũng nhất, cỡ tầu 3000 tấn 636 và 877 đã rất tròn mặc dù vẫn nhận ra cái sàn boong, máy bay đỗ cả sân trước và sân sau tháp. 7-8 ngàn tấn Project 945 Barrakuda đã tròn vo. Ở đây ta lấy ví dụ con Astute ăn bớt dẫn đến gồ ghề cũng cỡ 7 ngàn tấn. Phải nói rằng, Astute quá gồ ghề và bị phát hiện khi đi nhanh ở độ sâu thấp 20-50 mét từ hàng ngàn km, di chuyển khác ở hàng trăm km, vì nó kết hợp cả ba yếu tố làm nên gồ ghề: 1-không tự chủ đạn có cánh phóng từ giếng nên giếng quá cao; 2- không có máy bay trực thăng 2 rotor ngược nhau điều khiển nâng hạ quay chính xác như K2 nên yêu cầu sân bay cao; 3- quá ăn bớt khoang chứa nước dằm, tầu 7 ngàn tấn mà chỉ dằm 400 tấn, do đó khi nổi mặt trên vỏ chịu áp lực quá thấp phải làm giàn dâng sàn boong lên. Nhưng chưa hài bằng Virginia class, nó dek cần sàn boong nữa, sân bay chỉ cao hơn mặt biển một mét rưỡi, nhắc lại là nó khoong là tầu bé chạy điện ven bờ như 636 , mà là tầu hạt nhân tung hoành đại dương, sóng đến 1 mét thì thủy thủ về phép bằng đu dây, nói thẳng ra là trừ đỗ trong cảng thì rất ít khi ngoài đại dương có sóng dưới 1 mét, bỏ chức năng hạ cánh máy bay ngoài đại dương..

    Việc dò từ trường chỉ có thể thực hiện được khi ta làm chủ mặt biển trong chiến đấu, ví như hàng rào bảo vệ bằng cáp từ trường cùng với cáp âm thanh bảo vệ các mucj tiêu. Tầu ngầm Nga làm bằng hợp kim không nhiễm từ, đặc biệt là titan hòa toàn không nhiễm từ vaf khỏe, nên từ trường của chúng rất yếu, chỉ có theẻ ngửi thấy chúng bằng từ trường khi chúng đi nông 50 mét và ở khoảng cách gần vài trăm mét. Với khả năng phát hiện đó, thì dùng máy bay rà quét ở vùng biển nông rất tốn thời gian, còn ở vùng biển sâu Cam Ranh thì hoàn toàn không dò được.

    Các tầu ngầm bị phát hiện khi radar phát hiện ra các đạn chúng bắn lên, như đạn tuần hành có cánh hay đạn đường đạn, từ xa hàng ngàn km, khi đó người ta khung khu vực, nếu chiếm được quyền làm chủ mặt biển-trên không, thì sẽ dò vị trí chính xác và diệt tầu ngầm. Các radar và thiết bị hồng ngoại trên vũ trụ nhanh chóng phát hiện chính xác điểm bắn lên, có thể tiêu diệt nhanh chóng tầu ngầm mẹ. Để khắc phục điều này, các tầu ngầm chiến lược thường luẩn quẩn quanh vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của đất mẹ, địch rất khó chiếm được quyền làm chủ mặt biển-bầu trời, cũng như đặt cáp dò âm thanh-từ trường để theo dõi. Trong năm 2013 Nga bắt đầu thử nghiệm các loại đạn tầu ngầm có chế độ chờ, ban đầu là đạn đường đạn liên lục địa IBCM, chúng được thả ra khoỉ tầu mẹ và trôi dật dờ trong lòng biển chờ lệnh bắn lên, khi đó mẹ đã đi xa lặn sâu rồi. Còn tầu ngầm tấn công tiêu diệt hạm đội địch dưới sự bảo vệ của các tầu nổi và máy bay.

    Sornar chủ động siêu âm định vị được chính xác mục tiêu, nhưng tầm chỉ vài chục km, các tầu ngầm Nga hấp thụ mạnh siêu âm coi như vô hình. Siêu âm có bước sóng nhỏ, dùng được ăng ten nhỏ, thường dùng cho vũ khí như ngư lôi tìm hướng mục tiêu. Chính vì thế, vỏ hấp thụ kiểu Nga có hiệu quả lớn, vô hiệu hóa phần lớn số vũ khí chống ngầm hiệu quả nhất các nước khác là ngư lôi tự tìm mục tiêu bằng siêu âm chủ động.

    Một hệ thống tai nghe âm thanh lớn được thiết lập thường xuyên thời bình bằng cáp hoặc khẩn cấp thờ chiến bằng phao nổi. Cáp để bảo vệ mục tiêu như hải cảng, eo biển. Ta ví dụ thời chiến, người ta ném xuống biển hàng loạt các phao trong khu vực nghi có tầu ngầm, mối phao có tai nghe ấm các tần số khác nhau, định vị vệ tinh và liên lạc với thiết bị mẹ băng radio, truyền về các mẫu âm thanh số hóa gắn với tọa độ-thời gian thu được các mẫu âm. Các phao lên lượt phát ra các tiếng nổ mạnh, máy tính trên mẹ sẽ suy tiếng vọng ra vị trí tầu ngầm. Việc ném phao này chỉ thực hiện được khi ta đã làm chủ mặt biển và bầu trời mà tầu ngầm vào cắn trộm. Cũng vì vậy, khi chiến đấu giữa các hạm đội, tầu ngầm tuy bí mật nhưng luôn được bảo vệ bằng các máy bay hay tầu chiến khác.



    "Các phương tiện chống ngầm: Các phương tiện chống ngầm theo truyền thống là các máy bay chống ngầm các loại, bao gồm máy bay chống ngầm tuần biển như P-3 Orion, P-8 Poseidon, máy bay trực thăng chống ngầm, các chiến hạm chống ngầm, các chiến hạm mang vũ khí chống ngầm, tàu ngầm... Trong đó, tàu ngầm được coi là phương tiện chống ngầm hiệu quả nhất."

    Vãi đái chó dại đến mức "tàu ngầm được coi là phương tiện chống ngầm hiệu quả nhất". Như đã nói trên, tầu ngầm rất kém tự vệ và bắn được những loại đạn rất yếu, chúng chỉ là vũ khí bí mật bất ngờ cắn trộm. Các tầu ngầm tấn công hạt nhân được cử bám đuôi các tầu ngầm hạt nhân mang đạn chiến lược không phải vì chúng mạnh, mà vì chúng có khả năng đi theo mà không tai tiếng như kéo con tầu nổi chạy hạt nhân rê theo người ta khắp các biển.

    Các tầu nổi và máy bay chống ngầm rất tốt, vì chúng bắn được những loại vũ khí mạnh, điều khiển tốt, cơ động tốc độ cao, máy bay gần như là trơ trước hỏa lực tầu ngầm, còn tầu nổi khi cảnh giác và đã phát hiện khu vực có tầu ngầm thì cũng khá trơ với tầu ngầm.



    Người ta có nhiều lớp chống ngầm. Ở khu vực rộng, máy bay trực thăng và các máy bay trinh sát dò quét phát hiện từ trường (tầu nông 50 mét và khoảng phát hiện chỉ vài trăm mét), âm thanh.... và các cách khác. Ví dụ Su-32 ở 120 km phát hiện giao thoa biết có tầu ngầm di chuyển. Khi đã phát hiện khu vực có tàu ngầm thì người ta dùng các tầu nổi có sornar hạ âm rất mạnh để ước lượng khu vực nhỏ hơn. Sau đó bắn ra các phao âm thanh có liên lạc radio và định vị toàn cầu GPS, các phao này lần lượt nổ từng tiếng và báo cáo tiếng vọng về tầu mẹ hay máy bay mẹ như Su-32/34. Từ đó tầu ngầm được định vị rõ ràng. Giai đoạn tiêu diệt tầu ngầm dùng ngư lôi hoặc bom chìm. Ở xa hay máy bay người ta ném xuống các đạn có 2 phần, phần nổi liên lạc radio với mẹ, phần chìm là ngư lôi lái dây nối phần nổi, ngư lôi có thể có sornar thụ động hay chủ động, dẽ dàng đánh chính xác. Bom chìm được ném từ máy bay hay phóng từ tầu nổi, có ngòi áp suất, xuống độ sâu có tầu ngầm thì nổ, nó tạo áp lực nước lớn làm hỏng tầu.

    Các phương tiện chống ngầm chính là tầu nổi và máy bay vũ tranh mạnh. Đương nhiên, chúng phải dò ra tầu ngầm và bắn được tầu ngầm. Nhưng, chúng chỉ có thể hoàn thành được nhiệm vụ đó nếu như chúng tồn tại được, ít nhất chúng phải đỡ được đòn từ tầu ngầm, ngoài ra chúng phải đánh bại và đỡ đòn được các máy bay và tầu nổi... hay vũ khí nào đó đánh chúng ở mức độ của chúng.

    Tầu nổi như Petya-II nói trên. Tầu được trang bị radar chủ động quét tầu ngầm nổi lên, radar thụ động (ESM Bizan`-4B) để phát hiên các phiên liên lạc tầu ngầm. Sornar mạnh để phát hiện và định vị chính xác tầu ngầm. Tầu có pháo bắn nhanh để bắn các chiến hạm nhỏ đi bảo vệ tầu ngầm (vì tầu ngầm tự vệ rất yếu) cũng như mở rộng nhiệm vụ bảo vệ hạm đội (tầu khu trục, tầu hộ tống), bắn các tầu tấn công chạy nhanh như tầu tên lửa hay tầu lôi. Tầu có phòng không mạnh đánh trả máy bay địch đến cứu tầu ngầm. Tầu có bom chìm đánh chặn ngư lôi tầu ngầm phản cồng, tốc độ cao làm máy tính tấn công điều khiển ngư lôi tầu ngầm lạc, và dùng bom chìm tiêu diệt tầu ngầm khi đã áp sát. Ở khoảng cách xa, tầu cũng dùng ngư lôi có điều khiển tiêu diệt tầu ngầm, hay không điều khiển mang bom chìm vào khu vực có tầu ngầm.

    Máy bay chống ngầm là các máy bay có điện tử mạnh, mang vũ khí mạnh, như máy bay cường kích trên biển Su-32/34, hay máy bay trực thăng Ka. Máy bay có các phương tiện phát hiện tầu ngầm đi nổi, đi chìm như nói trên, và định vị chính xác , rồi tấn công bằng bom chìm và ngư lôi có điều khiển. Máy bay Su-32/34 cũng có khả năng tự vệ khá, nó có thiết bị tác chiến điện tử để đảm bảo đạn đối không điều khiển radar Tây không bắn được nó, đạn hồng ngoại cũng rất khó đánh vì hệ thống đối kháng quang điện tử nhà Su, chưa nói Su-32/34 được bảo vệ bởi các máy bay không chiến chuyên nghiệp. Su-30 là phiên bản lưỡng tính, không chuyên đối đất như Su-32/34, nhưng cũng chống ngầm tốt. Su-32/34 hay Su-30 đều không chiến quá mạnh với các trực thăng thường thấy ở hạm đội.

    Các máy bay chống ngầm phổ biến của các tầu khu trục là các trực thăng, cất cánh được từ tầu khu trục. Chúng không mạnh như Su-32/34 và Su-30 trên không, những diệt tầu ngầm cũng rất hiệu quả, có tầm xa và tốc độ cao, linh hoạt, mang vũ khí như các Su và phương thức đánh cũng như các Su. Ở vùng biển sâu, tiếng dội hạ âm từ tầu ngầm rất rõ, nên các tầu khu trục thiên về chống ngầm hay các tầu chuyên dụng sẽ có các sornar hạ âm rất lớn, phát hiện sự có mặt của tầu ngầm từ xa hàng chục km, rồi cử trực thăng đến làm rõ, đánh giết. Ở vùng biển nông thì trực thằng tuần phòng tầm xa và phản ứng nhanh bảo vệ tầu khu trục. Trực thăng không chiến kém, nhưng nó cũng đánh giết được các tầu nổi nhỏ của định, tầu lớn hơn thì hạm đội sẽ bắn, bảo vệ toàn bộ tầm trực thăng. Hạm đội cũng có đạn đối không tầm xa bảo vệ toàn bộ tầm chiến đấu của trực thăng. Trực thăng cũng như các máy bay khác, nó rất an toàn với tầu ngầm, khả năng bắn khi lặn của tầu ngầm rất kém và khi bắn sẽ bị phát hiện, khi nổi thì trực thăng cũng dễ dàng né xa rồi dùng vũ khí điều khiển từ xa hay gọi tầu mẹ săn đuổi truy quét, khi tầu ngầm đã nổi lên bắn trực thăng thì trực thăng cũng dùng những tên lửa chống hạm bắn, tầu ngầm hoàn toàn không có thiết bị đánh chặn tên lửa chống hạm. Vì vậy, trực thăng dùng cho tầu khu trục rất hữu hiệu, và đa năng, ngoài chống ngầm nó còn làm nhiều việc khác.

    Ở tầm xa, chúng ta đã biết Tu-142 là máy bay chống ngầm có bán kính chiến đấu 7 ngàn km.

    http://ttvnol.com/baochi/p-24097042#post24097042
    http://ttvnol.com/baochi/564995/page-79


    "máy bay chống ngầm tuần biển như P-3 Orion" sau các Galil AK nhái, MP5 Pakistan, UZI Micro Do Thái bắn xa 30 mét, RAM-2000 xóc lọ trên bờ - việt dã 2 chân bốn bánh, EC-225 chở đĩ đi tắm biển mỗi cái bằng 5 con Mi-17 tiếp viện Hoàng Trường.... Bao cao su *************** đòi nhập bằng được những con P-3 Orion này.

    Ở đây, mình đã nói về con P-3 này. Điều đầu tiên mình muốn nói rằng, P-3 không phải là máy bay chống ngầm, đơn giản là nó không tự vệ được. Môt tầu ngầm chiến đấu solo với nó cũng có thể măcj dù theo lẽ thường thì tầu ngầm rất yếu so với máy bay, tầu ngầm nghe thấy P-3 trước xa khi P-3 dò được từ trường, và có thể nổi lên bất ngờ hạ P-3. Những thông thường nhất là, người ta phái máy bay MiG-15 đi cũng hạ được P-3 baỏ vệ tầu ngầm.

    Máy bay chống ngầm là gì chúng ta đã nói trên, chúng là các máy bay chiến đấu, Su-32/34 có khả nanwg không chiến khá và mang thiết bị phòng thủ điện tử nhà Su, được bảo vệ bơỉ các Su-27/30. Su-30 đa năng diêtj ngầm tốt mặc dù mang được ít bom đạn, truực thăng được hạm đội bảo vệ....

    Còn P-3 Orion là máy bay tuần tiễu thời bình, hay các cường quốc dùng để bắt nạt trẻ con.
    http://ttvnol.com/baochi/p-24097042#post24097042


    P-3 Ottion và các biến thể của nó là cỗ máy rửa tiền thuần chủng, nói chính xác hơn, đó là cái máy bay vận tải chở các cỗ máy rửa tiền Hợp Chủng Quốc, các băng đảng bang phái Mỹ đánh nhau ở đâu thì kệ, nhưng chung nhay con thuyền chở các cỗ máy rửa tiền đó. Máy bay xuất phát từ một máy bay vận tải dân sự thiết kế sai từ trong trứng. Sau đó nó tồn tại vì trọng tải lớn chở được nhiều cỗ máy rửa tiền phi lý nhất phục vụ cho mọi bang phái mafia quân sự Mỹ.

    Mình chỉ ví dụ, nếu để dò từ trường thì người ta chỉ có thể dò được ở khoảng cách rất gần, như đã nói tren, các tầu ngầm Nga làm bằng titan không nhiễm từ, trên tầu có rất ít thành phàn thép nhiễm từ, và cũng chỉ có thể dò từ trường khi tầu ngầm lặn nông 50 mét ở khoảng cách rất gần vài trăm mét. Với nhiệm vụ đó, người ta cần những máy bay nhỏ, số lượng lớn, như các máy bay có người lái nhỏ hay các UAV. Không ai cần đến máy bay 60 tấn có cả mấy chục người ngồi trên.

    Bản thân Việt Nam không cần di theo dõi tầu ngầm chiến lược thời bình, và thời thiêts thì P-3 Orion bay chậm hơn MiG-15 không thể tồn tại nổi nếu như P-3 Orion không ở trong tầm ô che 200km của những hạm đội cỡ như thê tử Kirov.

    Vũ khí cuar P-3 hoàn toàn là hàng rửa tiền. Các thiết bị trinh sát không làm việcc tự động, cũng không truyền tìn hiệu đi xa ddể đội kỹ thuật viên ở chỗ khác sử lý, như trên căn cứ hoặc trên tầu chiến, đối với ngày nay điều này hết sức đơn giản. Người ta phải đem rất đông kỹ thuật viên lên máy bay , rất thích hợp với nhiệm vụ rửa tiền. Năm 2001 Mỹ đã pải đem tiền chuộc 24 cái hóa đơn sống đó ở Hải Nam Trung Quốc trên một banr anh em là EP-3.

    Vì thiết kế rửa tiền nên P-3 không có các phương tiện trinh sát tầu ngầm rất hữu hiệu như các radar thụ động . Nếu như so sánh, thì IL-38 đã có radar thụ động từ đời định hướng, rồi cải lên đời sử dụng GPS so sánh chênh lệch khoảng cách (ở dây mình đã nói về nguyên lý radar thụ động của các thiết bị chống ngầm, bao gồm loại radar thụ động định hướng ban đầu của IL-38 vaf sau đó là loại tính chênh lệch thời gian đến bằng GPS của IL-38 Sea Dragon). Tầu chiến Petya-II của ta cũng có radar thụ động để phát hiện các phiên liên lạc tầu ngầm "Bizan-4B". Mỹ là con số không về radar thụ động. P-3 cũng không dủ xa tầm đại dương như Tu-142.


    Và đương nhiên P-3 Orion được các chó dại lấy làm ****** sủa điên rồ.


    P-3 Orion được cải lại đôi chút từ máy bay vận tải dân sự Lockheed L-188 Electra bay lần đầu năm 1957. Máy bay Lockheed L-188 Electra vô cùng thành đạt, một đời nó có 170 chiếc được chế tạo. Nó có một vài đặc điểm sau để vô cùng thành đạt. Máy bay bay ở daỉ 600-700 km/h tốc độ tối đa 750, nhứng sử dụng máy ddẩy cánh quạt ngoài 1 tầng và cánh chữ T (nhìn trên xuống) và V (nhìn trước sau. Đây là mô hình những máy bay chiến đấu của WW2, khi chưa có cánh xuôi sau từ Đức cuối chiến tranh. Những máy bay kiểu đó ban đầu được dùng cho dải tốc độ 400km/h, sau đó cố kiết đẩy lên chạy đua vũ trang khi người Đức chưa thiết kế ra cánh xuôi sau. (ảnh L-188, sơ đồ 3 chiều của P-3, và so với An-24 ở dải tốc độ thấp hơn nhiều 450km /h ) AN-24 có 450 km/h nhưng không quá V (nhìn trước sau) và hơi xuôi sau (nhìn trên xuống). Nếu như nói năm 1957 không có tuốc bin tốt, thì cũng không thể chấp nhận ddược dáng máy bay quá lạc hậu như thế. Bên Liên Xô có cái L-18 625 km/h cánh quạt có thiết kế tương tự từ năm 1946, nhưng cũng đến mức ngang phè (nhìn trên xuống) và không quá V (nhìn trước sau). Từ mẫu máy bay này mà người ta phát triển đến P-3 Orion.

    Còn ngày nay , nếu coi ngày nay là quá thông thái so với ngày đó, ATR-72 sử dụng cấu hình cánh-cánh quat gần như P-3 để bay ở dải 500km /h , tuy nhiên ATR-72 cánh ngang không V tí nào.

    Cũng vào thời điểm đó thì các máy bay cánh quạt tốc độ cao ở dải này đổ lên người ta dùng 2 tầng cánh quạt quay ngược nhiều nhau như Tu-95 , Tu-95 có cánh xuối sau. Độ V lên (nhìn trước sau) của Tu-95 giống IL-18. Còn ngày nay thì đương nhiên dải tốc độ này dùng máy Turbofan, như AN-70 có tốc độ tối đa 780, cánh nó hơi xuôi sau nhưng xuôi ít hơn Tu-95, cũng cánh quạt 2 tấng.

    Như vậy, lúc mới ra đời, thì khung thân cánh của Lockheed L-188 Electra đã lạc hậu hơn bản vẽ phác thảo IL-18 năm 1946. Khi bay thử thì nó lạc hậu hơn cái cánh quạt 2 tầng và đến nay quá lạc hậu với turbofan. NHững máy bay đó tạo lực cản lớn khi hoatj động, nên sự nghiệp Lockheed L-188 Electra mới hoàng tráng đến vậy.

    Và người ta tom lấy cái máy bay này để làm tầu hàng chở máy rửa tiền, chở được càng nhiều máy rửa tiền càng tốt, đương nhiên vì bản thiết kế của nó siêu rẻ so với các máy bay cùng cỡ.

    Dĩ nhiên, máy bay không bị tầu ngầm đánh lại, nên một máy bay tầm xa đi theo dõi tầu ngầm tầm xa, phản ứng nhanh vơis tầu ngầm xuất hiện tầm xa.... là điều ai cũng nghĩ đến. Nhưng Lockheed P-3 Orion lại không có phưoưng tiện chống ngầm, chí ít là radar có chức năng phát hiện sóng tầu ngầm hay radar thụ động định vị được các lần nổi lên liên lạc radio của tàu ngầm.

    Bằng các radar thụ động của IL-38, các sornar Ấn Độ đã phát hiện các phiên liên lạc của tầu ngầm và phân loại được loại tầu.
    "Headlines Today has exclusive access to a report from the Indian Navy to the Defence Ministry that says 22 unknown submarine contacts were detected by Indian and U.S sonar in the Indian Ocean.
    The assessment is that China is the only other navy capable of operating in the area. The assessment has been confirmed by U.S. and Indian intelligence inputs.
    " Đương nhiên cả P-3 và P-8 đều không có sornar và radar thụ động.

    Bản tin này được cacs chó dại như rận chí chế biêns theo kỹ thuạt lìn nàng dâu kẹp chym bố chồng nhnhư thế này
    "Theo báo cáo, hải quân Trung Quốc đang triển khai các tàu ngầm hạt nhân hiện đại, lặn sâu tới 10.000 dặm dưới biển. Địa điểm các tàu này xuất phát là ở Tam Á, trên Biển Đông." Nguyên văn là "deploying the state-of-the art nuclear submarines on a 10,000-mile deepwater run
    " = chạy 10 ngàn dặm dưới tầng nước sâu.





    Chúng ta cần gì để chống ngầm nhở ? Chúng ta ddã có máy bay chống ngầm, đó là các Ka và Su-30, bây giờ cần là chọn lựa, mua vũ khí khí tài cho chúng, và huấn luyện. Các máy bay này tổ chức thành lực lượng phản ứng nhanh. Bên cạnh đó laf rất nhiều loại vũ khí chống ngầm.


    Vùng biển của ta nông, các tàu ngầm phải đi nông, thế thì ở các vùng biển ddó "hạ âm bề mặt" rất mạnh, tại sao chúng ta không đặt các sornar hạ âm ở các đảo ven bờ hay các tầu chiến cỡ nhỏ, phát hiện tầu ngầm ở vùng biển nông hàng trăm-hàng ngàn km, vung biển sâu địch vẫn phải nổi lên, nổi để dùng GPS sửa sai lại hệ thống dẫn đường quán tính, và liên lạc radio. Vậy chúng ta tổ chức bố trí các radar thụ động trên đảo, các Petya-II đi tuần thế nào... để sử dụng radar thụ động của chúng.


    À, không, các chó dại mua con máy bay quái thai chết yeur từ trong trứng. Đêns hôm nào thì chúng ta đi chuộc 24 cái hóa đơn sống ở Hải Nam như Mỹ năm 2001. .

    À không, các chó dại chỉ cần ****** để sủa.





    [​IMG]
  3. kuemhoito

    kuemhoito Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    15
  4. kuemhoito

    kuemhoito Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    15
  5. kuemhoito

    kuemhoito Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    15
    https://www.facebook.com/notes/sinh...ội-hóa-giáo-dục-như-thế-nào/10151487787618443
    đồng nghiệp của bác huyphuc,em quen bác này từ vụ 2 bà cháu bị mương phò cho lên thớt.phải nói bác này văn phong đặc săc chẳng lẫn đi đâu đc (cũng giống chó,lợn,liệt não,cám...của bác huyhuc :D ).
    những lúc rảnh,em toàn lên face bác này đọc,cách nhìn rất hay về cuộc đời,thời cuộc và cách viết buộc người đọc phải vắt óc suy luận (chỗ này cũng giống bác Phúc) mới hiểu hết đc ý nghĩa
  6. DKSH

    DKSH Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Bài viết:
    896
    Đã được thích:
    39
    Ngày xưa hồi làm cái seminar về khởi nghĩa HBT, em có nhớ mấy nét thế này:
    - Lão Mã Viện là một người khốn khổ; khổ bằng mấy lần Trương Phụ sau này. Lão thần trung thành với vua, nhưng bị bọn gian thần đẩy ra ngoài biên ải, đến cái xứ rừng thiêng nước độc với non 2 vạn quân, và chỉ có 8.000 quân tinh nhuệ. => Xác định ngay từ đầu là chúng nó mượn tay Hai Bà để giết ông ta rồi. Khi vào đến Lục Đầu thì tay Lâu thuyền tướng quân phụ trách thủy chiến của Mã Viện tên là Đoàn Chí cũng ngỏm củ tỏi.
    - Nhưng không ngờ là thằng cha này cao tay quá[:D]
    - Đầu tiên nó công thành Cổ Loa, định 1 phát đánh vỡ khối chủ lực của ta nhằm giải quyết trận đánh. Hai Bà Trưng quyết tử giữ thành, đồng thời ra sức gọi cơ từ khắp các nơi về để hội đồng lại Mã Viện. Mã Viện biết và vội rút lui.
    - Sau đó, hắn bày kế giả yếu ở Lãng Bạc lầy lội, nhử quân Hai Bà vào giữa cánh đồng rồi từ các triền núi cao tung kị binh xuống càn quét, chia cắt đội hình quân Hai Bà để mần thịt.
    Liền sau đó là trận Cấm Khê, Hai Bà đánh quyết tử "tất tay" với quân xâm lược.
    Hai trận chiến và 4 vạn người Việt ngã xuống! Trong khi tổng dân số hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân lúc đó chưa đầy 91 vạn.

    Nhưng có một bộ phận do Đô Dương chỉ huy rút vào Thanh Hóa tiếp tục kháng chiến.
    Có thể họ đã vượt biển, theo các đoàn buôn sang Indo Malai chăng?
  7. DKSH

    DKSH Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Bài viết:
    896
    Đã được thích:
    39
    http://diendangame.org/threads/hotgirl-mai-tho-dung-dan-violin-de-khoe-‘nguc-khung’.2085/
    Ặc ặc!=))=))=))=))
    Chêt cháu rồi các bác ơi, ăn hai quả bom vào mặt nổ tanh bành!
    Có bác nào từng chơi violin không nhỉ?
    Cháu thấy cách cầm arche của nàng này không ổn lắm. Nhưng chưa có bằng chứng để đem nàng ra tế, vì cháu có biết gì về nhạc cụ đâu!^:)^^:)^
    Vẫn biết là nàng ấy khoe ngực thôi; dưng mà mò ra được cái sai yếu lĩnh của nàng ta thì vui phải biết!

    [​IMG]
    Mai Thỏ chơi được bằng cả tay trái lẫn tay phải. VL!
  8. kuemhoito

    kuemhoito Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    2.675
    Đã được thích:
    15
    mới liếc qua tao chỉ thấy vếu chứ có thấy vi-ô-lông *** đâu.nhfin mãi mới ra
  9. DKSH

    DKSH Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Bài viết:
    896
    Đã được thích:
    39
    Bác nhìn cái ảnh bìa ấy. Tay cầm arche phía trên là tay phải, dưới là tay trái!
    Công nhận Mai Thỏ cao thủ vãi!
  10. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    [​IMG]



    Bạn ấy cầm đúng đáy, nhưng chính vì thế bức ảnh chứng minh bạn ấy không biết chơi violon, và vì bạn ấy không biết chơi violon, nên bạn ấy chơi tay phải và tay trái như nhau.

    Bạn ấy cầm vĩ bằng tất cả các ngón tay, đó là đúng, nhưng đúng của trẻ con. Các em còn bé nên ngón tay yếu phải làm như thế. Dưới đây là video em bé đang tập kéo từng nốt nhạc đầu tiên

    http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=KxzALAzh63I#at=38
    [​IMG]







    Còn người lớn, thì đương nhiên người ta chỉ cầm vĩ bằng 1 đôi = 2 ngòn tay, như thế vĩ sẽ linh hoạt hơn. Người ta chỉ chuyển sang cầm các ngón khác khi kéo vĩ quá xa, phải với.

    Hình liền dưới là hình của trang dạy đàn, xem cái trang đó khó nên mình copy ra



    http://violon.hebergratuit.com/

    [​IMG]




    Bùi công duy
    [​IMG]


    [​IMG]



    [​IMG]

    [​IMG]





    Cách cầm đàn cũng sai. Người ta cầm đàn phải chắc tay, tức là lòng bàn tay và ngón cái phải giữ được đàn, các ngón khác không tham gia vào việc giữ đàn mà dùng để bấm phím đàn. Tay cầm vĩ của Mai Thỏ cầm như cầm búa, còn tay cầm đàn lại hời hợt. Ngón tay Mai Thỏ dài nhưng cầm đàn không khác gì em bé trên đang tập kéo từng nốt nhạc
    [​IMG]

    [​IMG]





    Mai thỏ phải lấy các ngón bấm phím bấm mạnh đàn mới không rơi ^.^ Như thế sẽ không thể bấm phím được nuột.

    [​IMG]







    Mình ko học violon, mình trước chơi piano, nhưng cái đàn của anh em nhà mình hỏng rồi. Nó là cái Boro 1938. Video chơi violon thì nhiều, dưới đây là video một người bình thường tức là người lớn chơi. Trong nhạc cổ điển châu Âu, Piano là vua, Violon là chúa. Cả hai thức đàn đều có âm thanh rất hay, nhiều bội tạp. Bội tạp là thế này, khi muốn phát ra âm thanh nnn Hz, thì đàn sẽ phát ra kèm các âm thanh 2nnn 3nnn .... Hz, ví như phát nốt đô thì nó cho ra các nốt đô khác ở các cung trên, càng nhiều âm thanh như thế tiếng đàn càng hay. Violon nhiều bội tạp hơn Piano, tiếng hay hơn, nhưng Piano giúp người chơi thao tác dễ dàng hơn. Một điểm nữa của Violon là cả giàn chơi bè ở nhiều cung khác nhau, mỗi cung có nhiều đàn đồng bộ, âm thanh rất hay, đạt được bởi vì đàn nhỏ gọn số lượng lớn.

    Chơi nhạc cổ điển Piano / Violon rất phát triển trí tuệ, là một trong những các rèn luyện trí não tâm hồn và giác quan cao cấp. Ngày nay Piano điện cũng rẻ, nhưng mình hỏng tay rồi ko chơi nữa, các em gái thì vẫn.
    http://www.youtube.com/watch?v=4TuyjQ-W6ts

Chia sẻ trang này