1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các loại nhạc cụ và nguồn gốc

Chủ đề trong 'Nhạc Jazz' bởi CuGoiLa, 27/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CuGoiLa

    CuGoiLa Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/10/2005
    Bài viết:
    447
    Đã được thích:
    0
    Các loại nhạc cụ và nguồn gốc

    Một trong những đóng góp quan trọng nhất cho giá trị truyền thống của châu Âu là các loại nhạc cụ. Saxophone và Clarinet thuộc bộ khí nhạc. Bộ đồng cũng đóng góp trumpet và trombone. Bộ dây có bass. Bộ trống có nguồn gốc từ châu Phi. Bộ khí gồm saxophone, clarinet và flute

    Saxophone
    [​IMG]

    Saxophone được phát minh bởi Adolphe Sax năm 1846 và trở thành một nhạc cụ của giàn nhạc giao hưởng. Nó không nổi tiếng trong giàn nhạc giao hưởng nhưng lại khá phổ biến trong các đám diễu hành. Sax được sử dụng cho nhạc jazz kể từ năm 1920 và trở thành một nhạc cụ rất quan trọng. Trong bộ sax có các loại: soprano, alto, tenor và baritone.

    Clarinet
    [​IMG]

    Clarinet bắt đầu nổi tiếng trong thời gian 1900 đến 1920 khi nó là một bộ phận quan trong của ban nhạc Dixieland. Nó được thay thế bởi saxophone trong những năm 1920 mặc dù một số trưởng nhóm nhạc như Benny Goodman, Artie Shaw và Woody Herman vẫn chơi nhạc cụ này với vai trò chính của ban nhạc trong những năm 1940

    Flute
    [​IMG]

    Flute không được xem là một nhạc cụ của jazz. Trong thời kỳ hoàng kim của dòng nhạc Cool cuối những năm 50 đầu những năm 60, nó được dùng để nới rộng các quãng. Các nghệ sỹ saxophon trong các ban nhạc jazz thường chơi flute đểt tạo ra âm sắc khác nhau.

    Bộ đồng

    Bộ đồng trong nhạc jazz bao gồm Trumpet, Cornet, Flugelhorn, Trombone, Tuba và kèn Pháp. Nó được gọi là bộ đồng vì được làm từ chất liệu đồng và mạ vàng hoặc bạc

    Trumpet
    [​IMG]
    & Cornet
    [​IMG]

    Trumpet, Cornet, và Flugelhorn đều chơi cùng bộ hơi nhưng âm sắc khác nhau. Thời gian đầu của jazz, cornet được sử dụng chủ yếu sau đó nhường chỗ cho âm thanh tuyệt vời của trumpet trong những năm 30. Flugelhorn không nổi tiếng trong jazz trước những năm 60

    Trombone
    [​IMG]

    Trombone chơi với quãng âm thấp hơn so với trumpet. Nó chơi cùng quãng với tenor và đôi khi được xem như tenor trombone. Trombone là một phần của ban nhạc The Dixieland trong thời kỳ đầu của jazz và là đối tác của Cornet

    Tuba
    [​IMG]

    Tuba được sử dụng như nhạc cụ bass trong những năm đầu tiên của nhạc jazz. Đến giữa những năm 20 nó được thay thế bởi bass sử dụng dây vì tính tiện lợi.

    Piano, Bass, Guitar và Trống đảm trách phần giai điệu.

    Bass
    [​IMG]

    Mục đích của Bass trong ban nhạc là để lấp chỗ trống. Bass được chơi theo cách mà một nốt được chơi đi chơi lại theo nhịp. Các nhịp thứ 2 và thứ 4 được nhấn mạnh để tạo cảm giác về giai điệu.

    Piano
    [​IMG]

    Vai trò của piano là mang lại sự hài hòa và hỗ trợ nhịp điệu cho các nghệ sỹ chơi solo. Trong những năm đầu của nhạc jazz, các nghệ sỹ piano chơi 1 dây bass và các gam bằng tay trái và giai điệu chơi bằng tay phải. Khi jazz phát triển hơn, các nghệ sỹ piano bỏ chơi dây bass và chuyển sang chơi các gam bằng cả 2 tay trong quãng giữa của đàn piano hay nó còn được gọi là "comping" có nghĩa là hợp tấu. Khi chơi solo, các nghệ sỹ chơi hòa âm bằng tay trái và chơi solo bằng tay phải

    Synthesizer
    [​IMG]

    Synthesizer là bộ phát âm điện tử cho phép người chơi bộ phím tạo ra các âm sắc khác nhau. Nó được phát triển trong giai đoạn 60-70

    Trống.
    [​IMG]

    Trống là bộ phận cơ bản cho nhịp điệu và chơi lặp đi lặp lại và giữ nhịp bằng việc sử dụng trống và chũm chọe. Các nhạc cụ trong bộ trống bao gồm toàn bộ các âm sắc từ trống cái (thấp) đến trống có dây trên mặt (trung bình) đến chũm chọe (cao).

    Guitar
    [​IMG]

    Guitar trở nên phổ biến trong jazz với sự phát triển của guitar điện cuối những năm 40. Từ những năm 50 nó được dùng để chơi solo nhiều hơn. Guitar có thể được dùng để thay thế piano hoặc chơi cùng pianp tạo ra những giai điệu và âm sắc đa dạng hơn.
  2. bluebeach

    bluebeach Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/12/2002
    Bài viết:
    595
    Đã được thích:
    0
    Mình thấy nên thêm vào topic này cả những cách chơi riêng của jazz nữa ! Có lẽ như thế mọi người sẽ hiểu, sẽ yêu jazz hơn !
    Ví dụ như chơi trống, nhạc công của jazz còn dùng thêm loại dùi đặc biệt, đầu dùi như một chiếc chổi nhỏ.Khi chơi nó tạo ra thứ âm thanh đặc biệt rất lạ !
    Khi ngẫu hứng, các nghệ sĩ còn gõ, vỗ vào thùng guitar, vào thân của conterbass như những đoạn nhạc thực thụ và vì rất điêu luyện nên những đoạn ngẫu hứng đó mang lại cảm xúc lôi cuốn người xem cực kỳ !
    Mình nghe nhạc jazz đã thấy hay tuyệt rồi, nhưng đi xem biểu diễn trực tiếp thì gần như cả cơ thể mình hoà cùng vào với điệu nhạc ! Quên mất cả bản thân mình !!!!!! Thật tuyệt vời !
    Ở Việt Nam mình may sao có Liên hoan nhạc Jazz Châu Âu tổ chức thường niên, đó là cơ hội cho chúng ta thưởng thức thêm những vẻ đẹp kỳ diệu của nhạc jazz ! Hồi sinh viên khó khăn là thế mà mình cũng chắt bóp đi xem được vài lần. Không thể quên được !!!!!!!
  3. DJNRG

    DJNRG Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2005
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    0
    Công ty mình thiết kê cho CT nhạc Jazz châu Âu vừa rồi.
    lúc đó chưa thích nên kô đi xem nhưng nghe nói khá hay
  4. CuGoiLa

    CuGoiLa Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/10/2005
    Bài viết:
    447
    Đã được thích:
    0
    Dương cầm là tên Tiếng Việt của đàn piano,một nhạc cụ rất phổ biến và được ưa chuộng trên toàn thế giới. Đàn dương cầm có nhiều ứng dụng thực tế trong biểu diễn và sáng tác âm nhạc, trong nhiều thể loại âm nhạc: nhạc cổ điển và nhạc hiện đại. Piano được dùng phổ biến trong nhạc jazz, nó thường chơi solo như một nhạc cụ độc lập trên nền nhạc, hoặc cũng có thể đệm cho các nhạc cụ khác hoặc cho người hát. Có nhiều thể loại tác phẩm soạn riêng cho đàn dương cầm: sonata cho piano, concerto cho piano và dàn nhạc, mazurka, polonaise, rondo, nocturne, ....Piano đựơc dùng phổ biến trong các thể loại nhạc khác với vai trò là nhạc cụ đệm cho người hát, hoặc là nhạc cụ độc tấu các bản nhạc không lời được chuyển soạn cho piano.
    [​IMG]
    (Đàn dương cầm cho hai người)
    Tiền thân - Harpsichord:
    [​IMG]
    là một nhạc cụ xuất hiện từ thế kỉ 15.Đó là một nhạc cụ có phím và dây,trong đó dây được gẩy bằng một mẩu lông quạ gắn ở cuối phím.Harpsichord có nhiều kiểu hình dáng và có thể có dạng giống như một chiếc piano lớn.Mặc dù harpsichord rất phổ biến trong vài thế kỉ và được sử dụng bởi nhiều nhà soạn nhạc lừng danh như Bach,nó có một nhược điểm lớn:không có khả năng phát tiếng to nhỏ theo độ mạnh nhẹ khi bấm của người chơi.
    Clavichord
    [​IMG]
    là một trong những nhạc cụ phím đơn giản và nhỏ nhất mà âm thanh được phát ra bằng dây.Dựa trên các hình vẽ và ghi ghép,người ta cho rằng clavichord, với hình dạng giống như một số mẫu hiện còn tồn tại,đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ 15.Clavichord được sử dụng rộng rãi ở Tây Âu vào thời Phục hưng và ở Đức cho đến đầu thế kỉ 19,nhưng chỉ đựơc coi như một nhạc cụ để học và chơi chứ ít khi dùng để sáng tác.Khi người chơi bấm vào phím,một mảnh kim loại bật lên và đập vào dây đàn.Mảnh kim loại còn có tác dụng như một thanh chặn dây,và nốt nhạc được ngân lên cho đến khi phím đàn được thả ra.Hệ thống đơn giản này giúp cho người đọc kiểm soát được cường độ và trường độ của âm thanh.
    Pianoforte
    [​IMG]
    Năm 1709, thợ chế tạo Harpsichord người Italy Bartolomeo Cristofori chế tạo chiếc piano đầu tiên trên thế giới gọi là piano et forte (piano mạnh và nhẹ). Không lâu sau, những người thợ khác tạo ra những chiếc pianofortes với búa . Tiếp đó, pianoforte thay thế harpsichord và clavichord bởi nó có những ưu điểm mà các nhạc cụ phím khác không có.Fortepiano là một nhạc cụ dây-búa có khả năng tạo ra những sự thay đổi âm thanh nhỏ thông qua sự bấm phím mạnh hay nhẹ của người chơi . Đến khoảng năm 1850, từ "fortepiano" được thay thế bởi từ "piano".Vào những năm đầu thế kỉ 18,piano không mấy thu hút được sự chú ý và ủng hộ. J.S. Bach có lẽ thích clavichord,nhạc cụ mà ông đã quen chơi và cũng là nhạc cụ chơi dễ hơn.
    Piano vuông
    [​IMG]
     Vào khoảng 1760, Johannes Zumpe chế tạo chiếc piano vuông kiểu Anh lần đầu tiên tại London. (sau được biết đến với cái tên ?opiano vuông lớn?).Sau đó không lâu, Broadwood ở London và Erard ở Pháp cũng chế tạo ra những chiếc tương tự. Johann Behrend ở Philadelphia trưng bày chiếc đàn vuông của ông vào năm 1775. Những chiếc đàn vuông này có tiếng hơi yếu yếu và không thể so sánh được với chiếc pianoforte lớn (kiểu có nắp rộng bản ). Thêm vào đó, những chiếc piano vuông không có cơ cấu nhấc và búa của chúng không thể gõ vào dây một cách liên tục. Ngoài ra,búa đàn, làm bằng những mảnh gỗ nhỏ với một lớp da mỏng, đều cùng một kích thước dù chúng phải gõ lên những dây bass lớn nhất . Rất nhiều công ti sản xuất piano hàng đầu của Mĩ chế tạo những chiếc piano vuông lớn được đẽo nhằm mục đích trang trí trong suốt những năm 1800, bao gồm Chickering, Knabe, Steinway và Mathushek.Mặc dù trong suốt 75 năm sau đã có một số thay đổi về chế tạo đàn piano,chiếc piano vuông tiếp tục thống lĩnh thị trường,đặc biệt ở Mĩ.
    Một sự tụt hậu trong những nhạc cụ phím đầu tiên, bao gồm cả những chiếc piano vuông đầu tiên,chính là sự yếu ớt trong âm thanh .Yêu cầu phải có những âm thanh mạnh mẽ hơn chỉ có thể được thỏa mãn với việc sử dụng những dây nặng hơn và một khung âm lớn hơn. Cách giải quyết này rất hạn chế bởi khung gỗ không thể chịu đựng nổi sức căng của những dây nặng đó.Vào khoảng năm 1825, Alpheus Bab**** đã chế tạo một khung sắt hoàn chỉnh. Tuy nhiên,phải đến 1837 Jonas Chickering mới hoàn chỉnh cấu tạo và nhận được bằng sáng chế không lâu sau đó . Mặc dù vẫn có những tranh cãi rằng khung sắt ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng âm thanh,cuối cùng khung sắt vẫn được ủng hộ. Vào năm 1855, Steinway trưng bày chiếc piano vuông theo kiểu dây đan tại hội chợ thế giới ở New York và chứng minh rằng nó là một đối thủ đáng gờm của về chế tạo piano của Chickering .Thiết kế mới về cách mắc dây này đã tạo ra một sự thúc đẩy mạnh mẽ cho sự nghiên cứu chế tạo piano trong tương lai.
    Các kiểu đàn hiện tại - Hiện nay,trên thị trường có 3 kiểu đàn dương cầm: dương cầm lớn, dương cầm đứng và kiểu lai giữa 2 loại trên.
    [​IMG]
    Những chiếc đàn đứng,dù chất lượng có cao đến mấy,không được những người chơi piano coi là nhạc cụ có chất lượng thuộc hàng chuyên nghiệp.Nhiều yếu tố,dù đã được nghiên cứu hay chỉ là do sở thích,,là lí do cho sự đánh giá này.Một mục tiêu của các hãng sản xuất đàn đứng là mang lại chất lượng âm thanh giống như của đàn lớn cho những chiếc đàn đứng. Hình dánh của chiếc đàn đứng,ban đầu được chế tạo để dùng trong nhà,tạo ra một cảm giác thiếu dễ chịu theo một hướng.Đồng thời,cũng rất khó để người chơi đàn quan sát nhạc công,để khán giả nhìn thấy người chơi và để âm thanh tỏa ra một cách truyền cảm cho khán giả.
    Những chiếc đàn lớn
    [​IMG]
    có một hệ thống phím tận dụng trọng lượng của phím khiến cho phím trở về vị trí ban đầu.Đàn đứng lại sử dụng lò xo.Hệ thống phím là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến âm thanh từ đàn piano và ảnh hưởng đến đánh giá của người chơi đàn về chất lượng âm thanh.
    Những tấm chặn của đàn piano lớn có hiệu quả cao hơn bởi chúng chặn dây ở ngay chỗ búa gõ.Trong đàn đứng,những tấm chặn chặn ở bên dây và vì thế không đạt được hiệu quả như của đàn piano lớn.Tuy nhiên,hệ quả của quá trình chặn dây,một yếu tố rất quan trọng trong chất lượng âm thanh, lại chưa được nghiên cứu. Hình dáng của của đàn lớn thích hợp hơn đàn đứng. Đối với đàn lớn,cả 2 bên hộp cộng hưởng đều được mở ra khiến cho âm thanh phát ra mà không bị cản trở.Đối với đàn đứng,hộp cộng hưởng của đàn bị ngăn cách với phòng bởi vỏ đàn và thường ở rất gần tường.Kết quả là âm thanh của đàn đứng mềm và đục hơn của đàn lớn. 2 chiếc đàn với cùng một hình dáng có thể có âm thanh hoàn toàn khác biệt bởi sự tinh xảo về cấu tạo. Đàn lớn tạo nên cảm giác phím chuẩn hơn,âm thanh tốt hơn,có những nguyên liệu tốt hơn và nhiều thứ khác.Những khác biệt do kĩ thuật chế tạo này có thể nghe thấy,và những người thợ sửa đàn có thể phân biệt được điều này.
    Nhiều sự vượt trội về âm thanh của cây đàn lớn là do kích cỡ của nó so với cây đàn đứng hiện tại.Những ưu điểm khác là do vị trí nằm ngang của dây và hộp cộng hưởng tạo điều kiện tốt hơn cho âm thanh tỏa ra. Dương cầm lai có ưu điểm của cả 2 loại trên: dây và hộp cộng hưởng nằm ngang,kích cỡ nhỏ có thể chưa trong phòng ở.Tuy nhiên,nó vẫn to hơn đàn đứng và chất lượng âm thanh, dù hơn đàn đứng,vẫn thua xa một cây đàn lớn đúng nghĩa .
  5. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Bác cugoila nì, hehe. Đây là các nhạc cụ như người ta gọi là thuộc lớp " quý xờ tộc" .... và một topic hay như thế này thì em muốn thêm một phần bản sắc dân tộc nữa
    Tỳ Bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa.
    Người ta chế tác Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
    Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol -Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa.
    Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhã nhạc, Thi nhạc của cung đình, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
    Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.
    [​IMG]
    Đàn tỳ bà​
    Ước mơ từ nhỏ của em là biết chơi đàn tranh nhưng có lẽ chẳng bao giờ biết chơi loại nhạc cụ này ...vì móng tay lúc nào cũng cắt sát và cụt ngủn
    [​IMG]
    Đà Tranh​
    Được hình thành trong ban nhạc từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ XIV. Thời Lý - Trần đờn tranh chỉ có độ 15 dây, nên bấy giờ gọi là "Thập ngũ huyền cầm" và được dùng trong ban "Đồng văn, nhã nhạc" (Đời Lê Thánh Tôn thế kỷ thứ XV). Sau này được dùng trong cả ban nhạc giáo phường. Thời Nguyễn (thế kỷ thứ XIX) được dùng trong ban "nhạc Huyền" hay "Huyền nhạc". Lúc bấy giờ được xử dụng với 16 dây nên được gọi là "Thập lục huyền cầm".
    Hình dáng đàn dài, có 16 dây bằng kim loại. Mặt đờn nhô lên hình vòng cung. Từ trục đàn đến chỗ gắn dây đờn, khoảng giữa của mỗi dây đều có một con nhạn gọi là "Nhạn đàn" để tăng âm, lên dây đờn từ nửa cung đến một cung, khi đờn cần chuyền đổi dây, về sau này đàn tranh rất thông dụng được đứng thứ ba trong bộ tam tuyệt của dàn nhạc tài tử.
    Vì đàn tranh được thiết kế theo hình thức nhiều dây, nên khi tấu nhạc, đàn tranh phát ra âm thanh đanh tiếng, sắt tiếng hơn khi tấu chữ, đờn thường là "song thanh", ví dụ khi hết một câu hay hết một đoạn nhạc, hoặc một láy đờn nào đó thường lặp lại một nốt, một chữ nhạc của láy đờn (hò - líu, xàng - xang, xề - xê...).
    Nếu một lần tới Tây Nguyên xem tận mắt những nghệ sĩ bản địa chơi những loại nhạc cụ này em đảm bảo các bác sẽ mê mẩn giống em vậy
    [​IMG]
    Đàn K''''''''lông Put .​
    Loại này nghe tuyệt lắm. Nếu được một lần vỗ thử vào đó như em còn tuyệt hơn nhiều
    Một trong số không nhiều nhạc khí dành cho nữ giới. Tên gọi tiếng Xê-đăng này đã trở nên phổ thông để chỉ loại nhạc khí hơi của một số tộc trên Tây Nguyên như Xê - đăng, Bâhnar, Gia - rai, Hrê...
    Klông pút là một dàn gồm 2 - 3 cho tới 5 - 12 ống nứa, lồ ô hoặc tre cỡ tương đối lớn. Đường kính các ống khoảng 5 - 8 cm, chiều dài 60 - 120 cm, có khi 20 - 200 cm. Có loại klông pút kín một đầu và có loại rỗng hai đầu. Khi diễn tấu các ống được đặt nằm ngang vừa tầm tay người vỗ trong tư thế đứng lom khom hoặc quỳ. Dùng hai bàn tay khum vỗ vào nhau trước miệng ống, các cô gái tạo nên luồng hơi lùa vào ống làm vang lên âm thanh.
    Klon-Pút là nhạc cụ chỉ dành cho nữ giới. Tại sao vậy? lý do này có liên quan đến truyền thuyết mẹ lúa. Theo truyền thuyết thì mỗi một ống tre, hay nứa đều có linh hồn mẹ lúa trú ngụ. Nếu như đánh Klon-Pút vào mùa tra hạt thì mẹ lúa sẽ về ở đó và bảo trợ cho thóc gạo trong kho. Vì vậy nếu như nam giới mà vỗ đàn Klon-Pút thì mẹ lúa sẽ sợ hãi mà đi mất.
    Tương tự như đàn Klon-Pút, người Xê đăng có Đinh - Pút, người Bahnar có Đing - Pol, nhưng Klon -Pút của dân tộc Xê - Đăng khác biệt hẳn với Klon -Pút của các dân tộc khác là đàn có thể giành cho nhiều người chơi cùng một lúc. Họ chơi theo kiểu bè tòng hoặc một bè nền kéo dài trong khi bè giai điệu chạy ở phía trên hoặc ngược lại.
    Vào những đêm trăng sáng những ngày lễ hội, từ bàn tay tài hoa của những cô gái Xê - Đăng, tiếng Klon-Pút vang lên làm rộn vui buôn rẫy.
    Ngày nay klông pút đã được đưa lên sân khấu ca múa nhạc chuyên nghiệp để diễn tấu nhiều loại bài bản khác nhau.
    [​IMG]
    Đàn T''rưng​
    Với người Tây Nguyên lời ca tiêng đàn luôn luôn là nguồn cổ vũ trong đời sống. Đêm đêm quan ngọn lửa hồng dưới mái nhà rông người ta kể Khan, kể H''mon và hát lên những làn điệu dân ca Jôn-jơ, đợi chờ, giã gạo...
    Nói tới âm nhạc Tây Nguyên không thể không nhắc tới kho tàng nhạc khí hết sức phong phú với nhiều loại, nhóm và chất liệu khác nhau. Hầu hết các nhạc khí cổ thường dùng chất liệu sẵn có trong thiên nhiên như sáo, tiêu, goong rel, tù và, k''lông pút và T''rưng.
    Đàn T''rưng là một loại nhạc khí "thô" được chế tác từ những khúc gỗ bóc vỏ phơi khô hoặc những ống nứa vót một đầu, chặt theo những độ dài khác nhau để tạo nên những âm vực ưng ý đem treo lên một cái giá đủ trở thành một cây đàn gõ "phím" cho một hoặc hai người diễn tấu bằng cách cầm những dùi tre gõ vào phím này.
    Đàn T''rưng thường được diễn tấu bên trong nhà rông hoặc ngoài trời vào các dịp lễ hội truyền thống hay trong sinh hoạt cộng đồng của các dân tộc người Banah, Jarai, Êđê...
    T''rưng có khả năng diễn tấu phong phú và đa dạng. Với nguồn âm thanh bất tận khi êm nhẹ theo giai điệu trữ tình của một khục hát giao duyên, khi hoà cùng dàn nhạc tấu lên bản hợp tấu của núi rừng hùng vĩ... Trong giao lưu văn hoá T''rưng cũng xuất hiện trên các sân khấu ca nhạc hiện đại phụ hoạ theo tiếng hát rực lửa của những người con Tây Nguyên, nâng cánh cho những giọng ca vàng vang đến mọi nơi chốn xa xôi.
    Là một loại nhạc cụ đặc sắc trong kho tàng nhạc khí Tây Nguyên, âm thanh độc đáo của T''rưng không chỉ lôi cuốn làm say đắm tâm hồn các dân tộc anh em trên đất Việt, mà còn ra khỏi biên giới ngân vang đến tận những vùng đất xa xôi và được các bạn bè khắp năm châu, bốn bể nhiệt tình đón nhận.
    Trải qua quá trình sàng lọc với bao biến thiên của lịch sử, đàn T''rưng đã và sẽ tồn tại mãi mãi cùng với các dân tộc Tây Nguyên và cộng đồng dân tộc Việt.
    [​IMG][​IMG]
    Đàn đá​
    Theo Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Lộc thì hiện nay: ?oNgoài Việt Nam ra, thế giới chưa có đàn đá đúng nghĩa?. Ở Trung Quốc, Triều Tiên và một vài bộ tộc châu Phi cũng đã xuất hiện những thanh đá phát ra âm thanh, nhưng đó chỉ là những chiếc ?okhánh? đá có âm vực đơn giản không đủ khả năng diễn tấu như các bộ đàn đá tìm thấy ở Việt Nam. Nếu như thế thì đàn đá là báu vật không chỉ của Việt Nam mà còn của cả thế giới!
    Ở Việt Nam, lần đầu tiên một bộ đàn đá hoàn chỉnh được tìm thấy ở Khánh Sơn (Cam Ranh, Khánh Hòa) vào năm 1979. Sau đó lần lượt tìm thấy những bộ đàn đá khác nhau ở Bình Đa, Bác Ái... Gần đây nhất là đàn đá Tuy An (Phú Yên - 1992). Như vậy, Việt Nam đã tìm thấy trên dưới 10 bộ đàn đá, tập trung ở khu vực Nam Trung bộ. Các bộ đàn đá này đều giàu nhạc tính, có thể diễn tấu được những bản nhạc theo thang âm ngũ cung nhưng hầu hết đều mang âm hưởng nhạc dân gian Tây Nguyên, chỉ duy có bộ đàn đá Tuy An là mang âm hưởng đồng bằng (dân tộc Kinh) rất gần với điệu thức Oán của Nam bộ...
    Thế nhưng, để công nhận một bộ đàn đá đúng là ... ?ođàn? (chứ không phải là ?okhánh?) phải có người biểu diễn, phải có tác phẩm dành riêng cho đàn đá và phải có Hội đồng nghiệm thu.
    Khi tìm thấy bộ đàn đá ở Khánh Sơn (1979), cố GS Viện sĩ Lưu Hữu Phước - lúc đó là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam đã giao cho nhạc sĩ Đỗ Lộc nghiên cứu và ứng dụng sao cho hiệu quả. Khi nhạc sĩ Đỗ Lộc biểu diễn tác phẩm Gọi nhau lên nguồn của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ trên cây đàn đá trong lễ công bố Đàn đá Khánh Sơn thì bản nhạc này trở thành tác phẩm đầu tiên trên thế giới viết riêng cho đàn đá bằng phương pháp ký âm.
    Vì là ?obáu vật? nên tìm được bộ đàn đá nào, sau khi thử nghiệm, công bố là... cất kỹ ở các nhà bảo tàng nên ?odân trong nghề? ai cũng thèm muốn. Giới nghiên cứu âm nhạc thì muốn có để mày mò, tìm hiểu, các nhóm biểu diễn âm nhạc dân tộc thì muốn bổ sung thêm cho dàn nhạc của mình một nhạc cụ độc đáo chưa từng có trên thế giới. Không sở hữu được thì... photocopy! Người đầu tiên chế tác đàn đá là nhạc sĩ Thế Viên (Trung tâm Văn hóa TP.HCM). Ông đã cất công lặn lội tìm kiếm những ?othanh đá kêu? ở Khánh Sơn, Tuy An... để ?onhái? đúng âm thanh của bộ đàn đá mỗi vùng. Tính đến nay, nhạc sĩ Thế Viên đã ?oxuất xưởng? được 12 bộ đàn đá (8 Khánh Sơn, 4 Tuy An) cung cấp cho hầu hết các nhóm biểu diễn âm nhạc dân tộc trong cả nước.
    Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Lộc cũng đã chế tác một bộ đàn đá rất hiện đại, ông dùng cưa máy xẻ những ?othanh đá kêu? để có một dàn gồm những thanh đá mỏng bằng phẳng, trơn tru (không sần sùi, góc cạnh như những bộ đàn đá nguyên thủy). Bộ đàn đá này có âm vực rộng đến 3 octave, có thể diễn tấu bất cứ bản nhạc nào dù là nhạc dân tộc hay nhạc Tây phương. Nghệ sĩ Đỗ Lộc đã diễn báo cáo với Hội đồng nghiệm thu của Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam tại TP.HCM và được GS nhạc sĩ Tô Vũ, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đánh giá cao. Trong vòng 3 năm (1994 - 1996), Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Lộc đã ?omang đá đi đánh xứ người? qua 4 nước: Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, Nhật Bản và dĩ nhiên đã gây được những ?ochấn động? tại các nước này. Việc ?osản xuất? đàn đá rất khó khăn (có khi suốt cả đời người không tìm đủ ?onguyên liệu?) nên các bộ đàn đá hiện đang lưu hành rất ít và hoàn toàn là ?ohàng nhái? nhưng chất lượng hơn nguyên mẫu bởi trình độ thẩm âm của các nhạc sĩ bây giờ hơn hẳn các nghệ sĩ - nông dân ngày xưa.
    Tác phẩm viết cho đàn đá cũng là ?ocủa hiếm?. Nghệ sĩ ưu tú Mạnh Hùng (Trưởng đoàn nghệ thuật Âu Cơ) chỉ sáng tác được một bản Âm vang đất nước để truyền cho con trai là Hoàng Anh chơi. Ở nhóm nhạc Phù Đổng, hai anh em ruột Đức Dậu và Ánh Tuyết chỉ có một bài ?otủ? Nhịp điệu nước non do nhạc sĩ Vũ Lân sáng tác. Nhóm Phù Đổng 2, các cháu Triệu Vũ, Thành Nam, Đức Chung, Phan Lâm cũng chỉ có một bản Dân ca cổ Tây Nguyên (Vũ Lân cải biên) để biểu diễn. Nhạc sĩ Thế Viên làm được 12 bộ đàn đá nhưng chỉ viết cho đàn đá có 2 bản: Âm vang đàn đá và Tây Nguyên mùa xuân. Nghệ sĩ Nhân dân Đỗ Lộc có khá hơn nhưng cũng chỉ được vài bản: Âm vang mùa thu, Chào mặt trời mọc, Suối đàn quê hương, Lửa cháy lên rồi...
    Đàn đá là khí thiêng sông núi ngàn năm hun đúc, tích tụ. Lời của đá là hồn sông núi. Ai đã một lần nghe tiếng đàn đá lúc thánh thót, khi trầm đục hẳn sẽ thấy lòng mình bay bổng dạt dào xúc cảm thấm đẫm tình non nước.

    Source: giaidieuxanh.net

    Tìm kiếm
    Được silver_place sửa chữa / chuyển vào 11:01 ngày 19/05/2006
  6. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Chẹp. Post xong mới nghĩ, cái nì chả liên quan tới Jazz tẹo nào Nhưng mà, biết đâu được những nhân tài tương lai của Jazz jone như bác cugoila đã có thâm niên đi chơi đàn cho các em trường sư phạm nghe, bác GL đã đang và sẽ là một nghệ sĩ tâm huyết. Tdev cũng không kém phần máu me thì sao lại không sáng tác và chơi được Jazz Việt với các loại nhạc cụ này nhỉ?
  7. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Truyền thuyết về cây đàn Guitar​
    Ngày xưa có một cụ già và người con gái sống ở miền Nam Tây Ban Nha trong một ngôi nhà gỗ. Thời đó, cụ già nổi tiếng là một người thợ mộc giỏi, có người còn nói cụ là người thợ mộc tài danh nhất! Con gái của cụ tên là Citrạ Nàng có giọng hát tuyệt vời có một không haị Mỗi lần nàng cất tiếng hát, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, giọng hát của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ. Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha thường tìm đến yêu cầu nàng hát mỗi khi có dịch bệnh phát sinh.
    Một đêm mưa bão, có người gõ cửa ngôi nhà gỗ của cha con nàng! Họ mở cửa. Đứng trước ngưỡng cửa là một bà già khốn khổ, áo quần tả tơi ướt đẫm. Bà già lạnh cóng, cơ hồ đứng không muốn nổi. Hai cha con vội vàng nhóm bếp lò và mang quần áo khô cho bà cụ, rồi cho bà uống sữa nóng với mật ong cho lại sức.
    Sáng hôm sau, khi bà cụ đã hồi sức, bà cho Citra biết cụ có một cô cháu nội đang ốm nặng sắp chết vì mắc phải một căn bệnh là kỳ khiến mọi lang y đều bó tay. "Đó là lý do một bà già như lão phải lặn lội cả tháng trời đến đây gặp cô, Citra ạ, chỉ để cầu xin cô cứu cháu nội tôi." Và bà lão ngồi hàng giờ kể cho Citra nghe về cô cháu. Càng nghe, Citra càng cảm thấy gần gũi, gắn bó với cô gái đáng thương chưa quen biết như thể đã thân thiết tự bao giờ.
    Hôm sau, nàng cáo từ cha già để theo bà lão đi cứu cô cháu bằng chính giọng hát của nàng. Người cha nhờ hai người bạn đi theo hỗ trợ và sau mấy tuần lễ họ đã đến một ngôi làng ở Asturias. Cô cháu của bà cụ đã ngất liệm, thoi thóp gần chết. Citra liền cất tiếng hát. Chưa bao giờ trong đời mình nàng hát hay đến như thế! Nàng hát mãi không thôi... cho đến ngày thứ ba thì cô gái mở mắt tỉnh dậy. Căn bệnh quái ác đã được cứu chữa!
    Nhưng trên đường về, một trận bão tuyết trên vùng núi lạnh đã chôn vùi Citra và hai người bạn già đồng hành. Khi bão đã tan, may sao một đoàn người bắt gặp Citra vùi sâu trong tuyết và lạnh cứng như chết. Họ đã cứu nàng và đưa về với người cha già.
    Citra thoát chết, nhưng vì thanh quản đã bị liệt vì tuyết lạnh, nàng không bao giờ còn cất tiếng hát được nữa. Thế là nàng trở nên u sầu, lúc nào cũng đắm chìm trong một trạng thái ưu uất đáng sợ...
    Nóng lòng muốn cứu con gái, người cha bỗng nhớ ra mình còn một súc gỗ hồng trong nhà kho chứa đồ làm mộc của mình. Thế là ngày ngày ông cụ hết chăm lo cho Citra lại đục đẽo trong nhà kho âm thầm làm một món quà cho con gái. Ông cưa gọt cả năm ròng và cuối cùng hoàn thành một thứ nhạc cụ lạ kỳ nhưng xinh đẹp mang hình dáng một người thiếu nữ. Sau đó ông nhờ những người thợ săn trong làng săn về cho ông hai con naị Một con lớn, ông lấy gân chân căng ra làm những sợi dây trầm; còn con tơ, ông ấy gân căng làm những dây bổng.
    Khi cây đàn hoàn tất, ông đứng trước cửa nhà vuốt ngón tay trên những sợi dây đàn gân thú. Một chuỗi âm thanh sâu lắng, quyến rũ ngân rung... Lần đầu tiên, từ khi bình phục, Citra bước ra ngưỡng cửa tìm xem những âm thanh thần tiên ấy phát ra từ đâu.
    Người cha trao cho nàng cây đàn độc đáo ấy. Citra nâng đàn lên và ắt đầu dạo nhạc. Tiếng đàn bay bổng... Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha tìm đến xem chiếc đàn lạ lùng ấy. Mỗi lần nàng cất tiếng đàn, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, tiếng đàn của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ như tiếng hát của nàng ngày trước. Dân chúng thường tìm đến yêu cầu nàng đàn mỗi khi có dịch bệnh phát sinh....
    Cái tên Citra dần lan truyền khắp thế giới và cây đàn đã được đặt theo tên nàng cũng được mô phỏng ở khắp nơi. Ở Ấn Độ, cây đàn của nàng được gọi là đàn Sitar (hay Chitar), ở Ý nhạc cụ này được gọi là Chitarra. Một số nơi khác, chữ ?oC? được đổi thành chữ ?oG? và thế là ngày nay ta có đàn Gitara ở Tây Ban Nha, đàn Guitare ở Pháp, đàn Guitar ở Anh-Mỹ, và đàn Ghi-ta ở Việt Nam.
    Một chút ngẫy hững về Guitar​
    Guitar là nhạc cụ mà bất cứ chàng trai nào cũng có lúc muốn tìm hiểu lai lịch của nó. Guitar đã chu du khắp bốn phương trời và tạo nên những chiến công hiển hách. Tiếng guitare luôn là một thứ âm thanh mê hoặc, kỳ diệu, làm say đắm lòng người. Lịch sử guitar chứng kiến lắm cảnh thăng trầm.
    Guitar từng có 12 dây, 3 cần, không lỗ, nhỏ như mandoline hoặc bị xem là tròn ?ogia trung hữu cầm, nữ tử tắc dâm?. Guitar cũng có khi xênh xang võng điều vì là trò giải khuây của giới quý tộc và con nhà gia giáo. Nhưng một trong những trường phái nổi danh nhất của guitar lại ra đời từ những con người khố rách áo ôm, lang bạt kỳ hồ. Guitar chinh phục được những vùng đất thủ cựu bậc nhất, giúp nhiều nhạc sĩ thành danh và tạo nên một sắc màu độc đáo trong số các nhạc cụ trên thế giới.
    Đơn giản, gọn nhẹ và còn bình dân
    Trong tất cả các loại nhạc cụ, guitar chiếm vị thế ?ochiếu trên?, lại bình dân, không đòi hỏi gì nhiều. Nó không thuộc loại ta đây Kẻ Chợ như piano, cũng chả cồng kềnh như contrebasse. Bất cứ ai cũng chơi guitare được, dù phèng phèng như bật bông hay ?osáu dây rỏ máu năm đầu ngón tay? như Segovia. Trong mọi cuộc sinh hoạt tập thể, guitar tạo ngay không khí hừng hực, nối vòng tay lớn. Guitar song hành với điệu tango Nam Mỹ bốc lửa, làm nên chân dung Tây Ban Nha vấy xòe mũ rộng. Guitar chễm chệ tại Mexico nắng lửa, hiện diện tại những buổi biểu diễn trang trọng của Paris hay Vienne. Mọi ban nhạc trẻ đều không thể bỏ qua guitare điện. Khi Eagles chơi lại ?oHotel California? - dù với guitar thùng thì hiệu quả vẫn thế. Chơi guitar, người ta không mỏi cổ đau vai như violon, không phình bụng lấy hơi như flute, và cũng chẳng phải đổ mồ hôi như trống. Vậy, tạo ra guitare là cả một kỳ công. Lịch sử guitar ắt hẳn là tiểu thuyết chương hồi, đầy vinh quang và nước mắt.
    Một bức phù điêu thời xa xưa cho thấy bên mộ vua Thèbes có hình một người đàn ông quỳ gối, cầm một nhạc cụ hơi dài và có cán. Triều đại của vị vua này kéo dài từ năm 3762 đến năm 3703 trước Công Nguyên. Các sử gia cho rằng guitar đã có 38 thế kỷ tồn tại chứ không ít ỏi gì. Ai Cập gọi nào là kithara, Chaldé gọi là chetarah, Assyrie gọi là ketharah, Hy Lạp cũng gọi là quitara). Những cuộc tầm nguyên vất vả nhất cho rằng chữ guitare bắt nguồn từ tiếng Ba Tư ki-tar (nghĩa là ba dây). Nếu điều này đúng, cụ tổ của guitare chỉ là tam huyền cầm. Nhưng lịch sử đâu có đơn giản vậy: cây kithara của dân Hy Lạp có đến 7 dây, còn ở Alexandre, vào khoảng năm 285 trước Công nguyên, có 300 nhạc công kithara. Họ đều thuộc loại ăn trên ngồi trốc, được xã hội nể vì, có quyền ?oăn cổ đi trước, lội nước theo sau?.
    Một số người định thêm hoặc bớt dây cho dụng cụ này, nhưng bị cấm tiệt, chỉ vì thiên hạ xem tổng thể kithara là toàn bích. Thế kỷ thứ sáu, ở xứ Galles có loại nhạc cụ lai giữa guitare và lyre, có 6 dây. Nhiều cuộc so tài đã diễn ra giữa những ai yêu thích nó, thậm chí, nó còn là tiêu chuẩn cho những anh ?ođũa mốc chòi mâm son?, nghĩa là nghèo có truyền thống mà dám mơ tưởng tiểu thư cây quỳnh cành dao. Tại nhiều tu viện của Pháp, còn lắm bức họa tả cảnh guitare đang chinh phục lòng người. Những sử gia uyên bác nhất còn tin rằng vào thế kỷ 11, Pháp có đến 900 nhạc cụ, trong đó có 25 loại phổ thông và tất nhiên có guitare. Năm 1209, vì nhiều biến cố, các nhạc công xẻ đàn tan nghé, kẻ Đông người Đoài; thành thử phong trào tình tang cũng suýt hạ hồi. Tây Ban Nha có hai loại đàn, một là guitar latina và hai là guitare morisca. Danh thủ guitare lão luyện đầu tiên cho lịch sử là một ông mang tên Juan de Palencia (1414). Ba năm sau, nổi lên hai danh thủ khác là Alonso de Toledo và Rodrige de la Guitarra, đều công dân xứ đấu bò cả. Lúc này Pháp và Tây Ban Nha hội nhập văn hóa, thành ra âm nhạc ăn theo. Guitar được cải tiến, thêm dây, gọt lưng cho phẳng, thay vì nổi bướu như trước. Dù sao, tận khi này, thiên hạ vẫn có hai loại đàn: một là guitare dành cho đại đa số quần chúng, hai là vihuela chỉ dành cho con nhà kín cổng cao tường.
  8. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Những bước thăng trầm của Guitare
    Năm 1720, vì lý do chỉ có trời mới biết, Pháp bỗng tung hô những nhạc cụ khác mà ngoảnh mặt với guitare. Còn Đức lại cải biên đàn luth cho trũng và thanh hơn, thêm vào dây thứ sáu... Lúc này, chơi đàn luth cải biên quả là khổ hình, vì rất dễ ?ophô?, chói tai khôn tả. Năm 1770 là năm hồi sinh của guitare, châu Âu lại đưa nó lên đài vinh quang. Thế kỷ 19 là thời hoàng kim, với những danh cầm cự phách như Matteo Carcassi và Ferdinando Carulli của Ý, hay Dionisio Aguado và Fernando Sor của Tây Ban Nha. Riêng Fernando xứng đáng là đại cao thủ. Từ bé, ông đã vùi đầu vào âm nhạc, chơi sõi cả orgue. Nhưng dù thế, guitare lại bị thất sủng lần hai trên toàn châu Âu. Họa hoằn lắm, người ta mới lôi guitare ra như một dụng cụ tiêu sầu hạng bét. Nhiều học giả nửa mùa cho rằng guitare không có âm vực rộng, chả thu hút được ai. Một bác phó mộc Tây Ban Nha tên là Antinio Torres Jurado đã mày mò chỉnh lại hình dáng và giọng hót cho guitare. Ông cũng là ***** trong việc dùng gỗ thông làm thùng đàn guitare. Từ năm 1940, nhân loại biết dùng dây nylon cho guitare, vì loại dây này bền và khỏe hơn, tiếng rõ và vang xa hơn. Lịch sử khai quốc của Mỹ cũng có nhiều kỷ niệm với guitare. Về sau, guitare giá rẻ được sản xuất hàng loạt và rộng rãi theo kiểu quần áo may sẵn, chả nên cơm cháo gì, lại tổn hại thanh danh vạn cổ. Trên thế giới hiện nay, có khoảng 500 triệu cây guitare đang lưu hành, từ loại cực đắt chỉ dành cho dân chơi thứ thiệt đến loại thùng một nơi ngựa một nẻo. Điều đó chứng tỏ guitare vẫn là anh cả trong làng nhạc cụ.
    Nhắc đến guitare mà bỏ qua flamenco là thiếu sót lớn. Flamenco là cả một nền văn hóa của Tây Ban Nha, xuất xứ từ khu Andalouise. Theo sử sách, bộ môn này là của người nghèo, dân du mục, chứ không phải thuộc giai cấp thừa tiền lắm của. Flamenco gồm ba yếu tố: hát, múa và guitare. Từ thế kỷ 16, flamenco đã thịnh hành tại một số nước châu Âu, nhưng trường phái flamenco trong guitare thì mãi sau này mới có. Đệ nhị thế chiến đã làm guitare flamenco bị gián đoạn một thời gian dài, các nghệ sĩ phải phiêu bạt kiếm sống. Thập kỷ 40 là thời kỳ flamenco trong guitare lu mờ, sau đó mới lấy lại phong độ. Kỹ thuật flamenco riêng rẽ so với đại trào lưu kỹ thuật guitare hiện đại, nhưng nhiều người vẫn cho rằng chất liệu gỗ đóng vai trò quan trọng trong cây đàn. Gỗ đàn flamenco luôn nhẹ hơn gỗ đàn thường, vì vậy nó cho ra âm thanh nhẹ và vang hơn. Đàn flamenco có một bộ phận gọi là golpeadores, để bảo vệ thùng đàn trước những cú đánh móng nhanh và mạnh. Guitare flamenco là một trường phái riêng biệt, có sức hấp dẫn riêng, tạo thế đứng riêng trong lịch sử.
    Người Tây Ban Nha có tình cảm đặc biệt dành cho guitare, vì vậy mà nhiều tác phẩm - cả văn chương và hội họa - đều dành vị trí trang trọng cho guitare. Grancisco Goya từng vẽ nhiều tranh về guitare. Một số tác phẩm nghệ thuật còn xem guitare là biểu tượng của Tây Ban Nha. Bồ Đào Nha cũng say mê nhạc cụ này. Ý thì được mệnh danh là thủ đô guitar của thế kỷ 18. Những ai chế tạo guitare ở Ý thường là bậc thầy, từng đi xa hiểu rộng, tích lũy kinh nghiệm cũng lắm mà tài năng cũng thừa. Khi văn hóa châu Âu tràn qua tân lục địa, Argentine là xứ sở có nhiều nghệ sĩ nhất, kể cả nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ làm đàn. Trong số các anh kiệt, phải kể đến Manuel Macial và Antonio Guerrero.
    Những thử nghiệm xương máu trước khi hoàn thiện
    Trước kia, phím guitar khá ít, chỉ độ 10, sau đó tăng dần và được kéo dài đến tận gần lỗ tròn như ngày nay. Guitare 6 dây đơn thay cho guitar 6 dây kép là cả một quá trình gian khổ, vì bất cứ sự cách tân nào cũng bị xét nét quá đáng. Thùng đàn được mở rộng theo thời gian, không còn nhỏ xíu như xưa. Con ngựa ra đời, giúp 6 dây được căng hơn, cho ra âm thanh chính xác hơn, vì ngày xưa, chơi guitare đến là khổ: chơi một lát lại phải chỉnh lại dây đã lạc thê thảm. Về sau, các dây trầm được làm bằng kim loại quấn quanh tơ tằm. Để có được hình thù như ngày nay, guitare trải qua nhiều cuộc thử nghiệm xương máu, có lúc là quái thai. Thế kỷ 17, guitare có đến 3 cần đàn, mỗi cần 7 dây, chả hiểu làm sao chơi!
    Mấy ai ngờ: nhạc sĩ thiên tài Franz Schubert, do không đủ tiền mua piano, đã tạm bằng lòng với guitare, nhờ vậy mà nhân gian lại có những khúc nhạc bất hủ. Tuy nhiên, nhiều nhạc sĩ lại chưa dành cho guitare vị trí độc tôn, vì họ thường soạn những khúc tứ tấu cho lalto, flute, violoncelle và guitare.
    Thời kỳ thăng hoa sau cuộc thi danh cầm của châu Âu.
    Trong khi đó, tại Nga, guitare 7 dây lại là nhạc cụ khác được ?ochăm nom? cũng theo kiểu khác. Simeon N. Aksenow là cha đẻ của loại đàn này. Về sau, guitare 6 dây thật sự chinh phục nước Nga, làm nhiều người thề cả đời theo nghiệp kéo violon bỗng chuyển hướng. Số nghệ sĩ violon chuyển sang gãy guitare ở Nga là rất đông. Năm 1856, tại Bruxelles, nghệ sĩ Nga Nicolas, P. Marakow đã tổ chức cuộc thi guitare đầu tiên dành cho các danh cầm châu Âu. Đây thật sự là một cơn ?oHoa sơn luận kiếm? của những ai yêu guitare. Những kỳ nhân của cựu lục địa đã tề tựu và tranh tài cũng như góp ý cho việc hoàn thiện guitare. Từ đó, hầu như không còn cuộc hội ngộ nào mang tầm cỡ vang danh bốn bể như vậy nữa. Fernando Carulli xứng đáng là một đại danh cầm trong làng guitare của thế giới khi để lại 360 tác phẩm bất tử và cả 3 quyển sách dạy cách ?ochơi đùa với guitare?.
    Sau ông là Matteo Carcassi, người phát triển kỹ thuật Carulli lên cấp cao hơn, biến giáo trình này thành đại giáo trình chung nhất cho cả lục địa. Niccolo Paganini thường được đời ca tụng về tài kéo violon, nhưng ít người biết rằng ông còn là nghệ sĩ guitare có cỡ: 140 tác phẩm solo dành cho guitare đã đến từ con người tài hoa này. Một nghệ sĩ Pháp khác là Napoléon Coste lại bị bỏ quên chỉ vì tai nạn đã cướp đi bàn tay phải của ông. Nếu không sự nghiệp của ông còn vẻ vang hơn nhiều. Guitare đã xoay chuyển thời cuộc không ngờ; nhiều nhạc sĩ trước kia chỉ sáng tác cho piano hay violon đã xoay sang sáng tác cho guitare với tâm huyết cả đời. Họ hối hận vì từng xem thường một nhạc cụ lừng lẫy. Cả Von Weber và Richard Wagner đều dành cả phần xác lẫn phần hồn cho guitare. Một cây đại thụ trong làng guitare là Andres Segovia đã đưa nghệ thuật biểu diễn guitare lên nấc thang danh vọng mới. Kỹ thuật di chuyển của bàn tay trái và ?ophù phép? của bàn tay phải được Segovia hoàn thiện đến mức không còn gì để than phiền. Segovia đã đào tạo nhiều đệ tử chân truyền thuộc loại bảo thủ, với những phong cách riêng biệt, xuất sắc.
    Guitare lần hồi chinh phục những vùng đất khó tính nhất trên địa cầu. Nhật Bản - sau chiến tranh - đã có nhiều nghệ sĩ biểu diễn và chế tạo guitare. Trước đây, Nhật Bản là một trong những vùng đất ?okhép? của guitare. Các tạp chí chuyên về guitare ra đời, có số độc giả rất lớn, thu hút những cây bút có uy tín nhất. Trong số sách báo và tạp chí dành riêng cho guitare, phải kể đến Classical Guitare Magazine (Anh) hay Classical Guitare và Guitar Magazine (Mỹ). Hai tạp chí này đang được phát hành trên cả mạng lưới Internet.
    Khi âm nhác hiện đại làm người ta có cách nhìn mới và cả cách nghe mới, guitare - dù là thùng hay điện - vẫn để lại những dư âm huyền ảo nhất. Guitare đã tạo ra những tên tuổi như Eric Clapton, Jimmy Hendrix, Jeff Buckley và Ben Harper. Guitare điện để lại nhiều khúc solo fantasie cực kỳ biến ảo như trong ?oThe house of the rising sun?, ?oHotel California?. Người Pháp một thời không thích ca sĩ Enrico Macias, nhưng phải gật gù công nhận ca khúc ?oGuitare, oh guitare? của ông là tuyệt cú mèo. Guitare xóa được định kiến như vậy đó. Trong điện ảnh, người ta từng có ý định thống kê số lần guitare xuất hiện trên màn bạc, nhưng đành bỏ dở, vì không làm được. Hiện nay, tại một số vùng của Mỹ, guitare 12 dây vẫn được sử dụng một cách bài bản, để nhắc lại thuở vàng son của Blind Willie McTell. Cụ tổ của guitare 12 dây là Oscar Schmidt và nơi chôn rao cắt rốn của loại guitare này là New Jersey. Ông hoàng của loại nhạc cụ này là Huddie Ledbetter, với kỹ thuật chuyên hợp âm thần sầu quỷ khốc. Vì nhiều nguyên cớ, guitare 12 dây lùi vào quá khứ, nhường chỗ cho guitare 6 dây phổ thông như hiện nay.
  9. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Di sản Ségovia
    Có lẽ không có nhạc sĩ nào vào đầu thế kỷ 20 lại có thể tiêu biểu cho ý niệm lý tưởng của công chúng thế kỷ 19 về mẫu người nghệ sĩ như là danh cầm guitar Andrés Segovia (1893-1987). Suốt sự nghiệp 78 năm trình diễn, con người vĩ đại của cây guitar Tây Ban Nha đã thực sự chuyển tải hình ảnh của một con người giữ nguyên chất thời đại Lãng Mạn, một kẻ duy mỹ không hiểu sao lại lạc bước vào một thời đại khác, kém mỹ miều hơn. Giống như nhạc cảm của ông, tài nghệ âm nhạc của Segovia cũng tinh tế khác thường và tài nghệ ấy càng góp phần tạo nên hình ảnh của một con người thuộc về một thời đại khi mà nghệ sĩ trông giống nghệ sĩ, ăn mặc như nghệ sĩ, và mong đợi công chúng đối đãi với mình như là nghệ sĩ.
    Segovia chào đời ngày 21/2/1893. Từ thuở ấu thơ ở quê nhà Linares, miền nam Tây Ban Nha, Segovia đã mê đắm cây đàn guitar bất chấp sự phản đối gay gắt của người cha; ông ấy chỉ muốn con trai mình đi theo ngành luật. Người cha kinh hãi khi thấy cậu bé đã si mê cây đàn tuy là nhạc cụ dân tộc nhưng vốn bị xem thường ấy. Ông cho Segovia học thử piano và cello nhưng các nhạc cụ quý phái kia không thể nào buộc cậu bé từ bỏ được mối tình với cây đàn guitar. Mối tình ấy đã nhen nhúm ngay từ lúc cậu bé được nghe lần đầu tiên trong đời qua âm điệu của những nhạc công flamenco du mục. Người cha đã đập vỡ đến cây đàn guitar thứ ba của Segovia rồi đành bất lực. Ông không làm sao lôi kéo được cậu con trai thoát khỏi ma lực của thứ nhạc cụ hạ cấp chỉ dành cho dân di-gan múa may trong những hầm rượu tồi tàn. Rốt cuộc ông đành phải cho phép Segovia theo học danh cầm guitar Miguel Llobet một thời gian ngắn. Tuy nhiên, Segovia chủ yếu vẫn tự mình khám phá lấy những kỹ thuật chơi đàn. Segovia được gia đình gửi đi học nhạc ở Nhạc Viện Granada nhưng chỉ một thời gian cậu bé cũng bị "mời" ra khỏi trường. Không có chỗ cho cây đàn guitar trong thế giới âm nhạc cao quý thời đó! Thế là cậu bé bắt đầu cuộc hành trình cô độc đi tìm lại quá khứ khả kính của cây đàn yêu dấu.
    Segovia nhanh chóng phát triển được một kỹ thuật thượng thừa và một tri thức âm nhạc sắc sảo. Mới 16 tuổi, Segovia đã thực hiện thành công cuộc trình diễn đầu tiên và tên tuổi của cậu bé liền lan truyền khắp đất nước Tây Ban Nha. Sáu năm sau, Segovia làm náo động thế giới âm nhạc Paris khi chàng trình tấu với cây đàn guitar của mình. Thành công đó dẫn dắt Segovia làm một chuyến lưu diễn khắp Nam Mỹ.
    Tuy nhiên, mãi đến lần trình diễn chính thức tại Paris năm 1924, trước sự tham dự và xét nét của những nhạc sĩ và văn nghệ sĩ lỗi lạc, thì Segovia mới thật sự nổi tiếng khắp châu Âu. Vào thời ấy, ít người được nghe âm nhạc thần thánh của Johann Sebastian Bach chơi bằng guitar hay thậm chí nghĩ đến một chuyện lạ lùng như vậy. Những nhạc phẩm nguyên thủy được Bach viết cho cây đàn violon quý tộc khi được Segovia chuyển soạn lại cho guitar và trình diễn đã bộc lộ không những thiên tài của chàng trai "phạm thượng" kia mà còn cho thấy tiềm năng của loại nhạc cụ sáu dây "đầu đường xó chợ" này.
    New York lần đầu tiên nghe thấy tiếng đàn Segovia năm 1928 trong một buổi trình diễn ở thính đường Tòa Thị Chính. Các nhà phê bình sửng sốt: dưới những ngón tay thần của Segovia, sáu dây đàn guitar phô bày những âm sắc hết sức đa dạng và cực kỳ biểu cảm. Các buổi trình diễn sau đó của Segovia ở New York và các thành phố khác trên đất Mỹ phải chuyển sang những thính đường lớn hơn để đủ chỗ chứa hết số lượng thính giả ngày càng đông.
    Cái tên Andrés Segovia đã ghi vào lịch sử âm nhạc thế giới. Ông tiếp tục đeo đuổi sự nghiệp trình diễn và ghi âm thu đĩa của mình với sự trường thọ đáng kinh ngạc bất kể thị lực đã suy giảm vì phải giải phẫu võng mạc vào cuối thập niên 1960. Những nhạc sĩ có sức làm việc bền bỉ và được công chúng yêu mến lâu dài như Segovia chỉ đếm trên đầu ngón tay.
    Nếu không có sự gan lì trong bản chất thì nhà quý tộc với tính khí và mỹ cảm phức tạp ấy đã không trở thành một nghệ sĩ biểu diễn lừng danh trong suốt 78 năm trời. Rất may là từ trẻ ông đã hình thành và không bao giờ đánh mất niềm tin đến mức cuồng tín vào tài năng và sứ mệnh của mình. Chính cái tôi ngạo nghễ của Segovia đã bảo vệ Segovia ?" một yếu tố không thể thiếu cho sự sống còn của bất kỳ người trình diễn nào. Ngay cả những guitarist đồng nghiệp khá nổi tiếng của Segovia cũng khó chịu khi biết rằng những ai không trung thành với nghệ sĩ bậc thầy ấy, hay không tuân theo phương pháp hoặc ý nhạc của ông đều có thể bị thất sủng hay bị phủ nhận hoàn toàn.
  10. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    (Tiếp)
    Julian Bream, một trong những học trò cưng của Segovia, đã bị thất sủng bởi vì Bream khăng khăng chơi cả đàn lute lẫn đàn guitar. Trước ý tưởng ngoại đạo ấy, bậc thầy phán: ?oMột tôi không thể thờ hai chúa.? Segovia cũng không đánh giá cao những phiêu lưu trong lãnh vực nhạc pop của một môn đệ người Anh khác, John Williams và đặc biệt là của một số guitarist trẻ trong thập niên 1960 và 1970 khi họ bắt buộc phải chọn phe trong vấn đề này.
    Bất kỳ ai tự gọi mình là guitarist nhưng lại chọn cây đàn điện hình thù quái dị với dây nhợ lòng thòng như cuống rốn chưa lìa đều lãnh trọn sự khinh miệt của giáo chủ Segovia, bất kể việc một Beatles đã từng tuyên bố rằng Segovia là ?ocha của tất cả chúng ta.? Segovia bất cần sự tán thưởng của công chúng mà lại đòi hỏi sự chung thủy với truyền thống cổ điển ?" cái truyền thống ấy trong nhiều phương diện chính là một trong những yếu tố tạo dựng ra và duy trì cái tên Segovia.
    Cái tôi quá lớn của Segovia có thể khiến ông phải chọn những vị thế cố chấp: người ta cho rằng ông từ chối trình diễn hay ghi âm ?oConcierto de Aranjuez? của Rodrigo ?" một tác phẩm phổ thông nhất trong vốn tiết mục trình tấu ghi âm cho đàn guitar ?" chỉ vì nhà soạn nhạc mù người Tây Ban Nha ấy đã đề tặng bản concerto năm 1939 cho Sainz de la Maza, một guitarist khác. Để biện hộ cho Segovia, phải nói rằng bản thân ông không ưa chuộng mấy thể loại nhạc hợp tấu (ensemble), mặc dầu thỉnh thoảng ông có chơi các concerto của Ponce và Villa-Lobos, cũng như ?oFantasia para un gentil hombre? của Rodrigo ?" một sự kính nể khá muộn màng của Rodrigo khi viết tặng cho chính Segovia bản concerto này vào năm 1954. Trong vai trò người biểu diễn, ông vừa là nhung lụa vừa là sắt thép, một sự kết hợp mà cả ngàn môn đệ lẫn những kẻ bắt chước ông trên khắp thế giới không thể sao chép được. Trong tất cả các cầm thủ tuyệt kỷ náo loạn của thế giới guitar ngày nay, không có âm thanh nào lại vừa tự nhiên lại vừa được nắn nót tinh vi như là tiếng đàn Segovia, đặc biệt là trong thời kỳ sung mãn nhất của ông. Không ai có thể chơi ?oLeyenda? của Albeniz sánh được Segovia với những cảm xúc dữ dội bị kềm nén, những dòng âm thanh trào dâng và chùng lắng, những màu sắc đa dạng của thanh âm, và với bầu không khí nhạc Ấn Tượng triền miên.
    Vào thời mà các nhà âm nhạc học lẫn người biểu diễn đều coi trọng cách diễn tấu trung thực theo tính chất của thời đại âm nhạc, cách Segovia thể hiện ?oChaconne? của Bach lại nghe rất riêng tư đến thảng thốt và đầy hơi hướm xa vời của chủ nghĩa Lãng Mạn, một cách diễn tấu có thể nói là lỗi thời trong một số phương diện. Thế nhưng những ai có khả năng cảm nhận được nhịp đập của cuộc sống ẩn giấu trong những nốt ký âm vẫn tin rằng dẫu Bach của thời Baroque có sống lại để nghe Segovia chơi ?oChaconne? thì Bach cũng phải gật đầu.
    Những ngón tay, sự rọi phóng hiển hiện của cái thiên tài khuất lấp, là mối quan tâm không ngừng của Segovia suốt cả tuổi già lẫn những năm tháng son trẻ khi ông tự phát triển một kỹ thuật guitar riêng biệt cho mình, dựa theo những gì biết được từ các bậc tiền bối như Fernando Sor, Dioniso Aguado, Napoleon Coste và Francisco Tárrega. Theo truyền thống, người ta thường chơi đàn với móng của bàn tay phải (phương pháp Aguado) hay bằng đầu thịt của ngón tay (theo kiểu Sor và Tárrega). Segovia học hỏi và kết hợp cả hai kỹ thuật này; một kỹ thuật khiến cho cách trình tấu của ông đầy những âm sắc muôn màu trước đó có lẽ chưa từng thấy ở cây đàn guitar. Ông hợp tác chặt chẽ với những nhà làm đàn như Ramirez và Hauser để cải tiến cấu trúc của cây đàn guitar sao cho âm thanh nhỏ nhẹ bẩm sinh của nhạc cụ ấy có thể vang xa khắp các hội trường ngày càng lớn với thính giả ngày càng đông khi danh tiếng Segovia ngày càng lừng lẫy. Sự phóng âm ấy rất quan trọng nhất là sau Thế Chiến thứ II, khi giới phê bình và thính giả đã quá quen thuộc với âm lượng áp đảo của những danh cầm piano bấy giờ.
    Bản thân Segovia không bao giờ nhượng bộ với âm thanh khuếch đại qua ampli của thời đại mới. Ông đã nghĩ ra nhiều cách lịch sự để làm thính giả im lặng trước khi ông bắt đầu chơi đàn. Những cách thức ấy đã trở thành một biểu tượng mang tên ?otiếng suỵt Segovia?. Vào những mùa mà những con vi-rút bí ẩn có thể khiến đôi ba thính giả co giật vì những tràng ho bùng nổ, Segovia thường dừng giữa hai bài nhạc và đưa chiếc khăn tay lên miệng như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng. Nghe Segovia trình diễn đòi hỏi một sự nhạy cảm vượt ngoài khả năng tai nghe đơn thuần. Óc tưởng tượng và sự cảm thông là điều bắt buộc bởi vì như Stravinsky đã nói từ lâu: ?oÂm thanh của cây đàn guitar không những nhỏ nhẹ mà còn xa vắng.?
    Dù không phải lúc nào cũng nghe rõ tiếng đàn Segovia, sự cách tân kỹ thuật thấy rõ nhất của ông ra đời sau Thế Chiến thứ II liên quan đến việc chấp nhận và tán thành sử dụng dây đàn nylon ?" một điều khiến guitarist khắp thế giới mãi mãi ghi ơn. Tất cả đều đồng ý rằng với dây đàn nylon, âm sắc hay hơn và nhất quán hơn trên cả sáu dây đàn, và sự tiện lợi do dây nylon mang lại là vô bờ bến.
    Dây đàn làm bằng gân thú của thời xưa không những dễ bị lạc giọng hay đứt ngang vào những lúc bất ngờ nhất mà còn làm cho đầu đàn guitar xoắn vặn rối rắm mất thẩm mỹ. Với việc giáo dục là một thành phần trong di sản vô giá của Segovia, ông được công nhận như một trong những người thầy vĩ đại nhất thế kỷ này. Thế nhưng khác hẳn với hầu hết mọi đồng nghiệp của mình trong số những người trình tấu nhạc cụ danh tiếng nhất của thế kỷ, bản thân Segovia lại không được đào tạo chính quy. Trước Segovia đã có sẵn một truyền thống guitar cổ điển với những danh cầm tuyệt kỷ như Coste, Aguado và Miguel Llobet, nhưng truyền thống ấy đã bị xem như một thứ âm nhạc nghiệp dư hay chìm vào quên lãng, ngay cả ở Tây Ban Nha. Những danh cầm kiêm sáng tác gia như Sor hay Tárrega lừng lẫy một thời ít được giới âm nhạc chuyên nghiệp biết đến, và đối với giới này thì ngay cả những công phu của Paganini dành cho cây đàn guitar cũng chỉ là những huyền thoại mơ hồ.
    Thực tế mà nói, chính âm thanh của tiếng đàn guitar flamenco được dân gypsy du mục gảy móc thô bạo đã mê hoặc Segovia ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ; một sự mê hoặc tiền định. Segovia và cây đàn guitar như hai người tình của số phận và tiếng sét ái tình duy nhất thuở ban đầu đối với Segovia là những âm thanh gay gắt inh tai. Thế là Segovia bắt đầu mày mò tự học, và trở thành người tình chung thủy với loại nhạc cụ đáng hoài nghi không hề có vốn nhạc trình diễn và chủ yếu chỉ dùng để đệm cho những bài ca dân gian hay vũ điệu flamenco.
    Những danh thủ tiền bối, như Coste, đã từng trình tấu Bach trên cây đàn guitar; nhưng chỉ có Segovia mới có thể làm rúng động cả Paris với sự tinh thông Johann Sebastian trong buổi công diễn đầu tiên tại thủ đô Pháp năm 1924. Lúc đó, ông đã tự tạo cho chính mình và những tín đồ tương lai một vốn nhạc trình tấu, mở rộng nỗ lực chuyển soạn của mình vượt xa hơn nhạc của Bach để tìm tới âm nhạc của những tiền bối khả kính xa xưa hơn như Scarlatti, Handel và Purcell, đồng thời cũng dò tìm trong kho tàng âm nhạc của những danh cầm đàn lute cổ xưa như Sylvius Leopold Weiss và Dowland.
    Ông còn ?oxâm lược? (những kẻ xấu miệng đã từng bảo như thế) sang cả vốn nhạc piano linh thiêng ?" Chopin, Brahms, Albeníz, Granados, Debussy and Scriabin. Các nhạc sĩ nổi danh khác như Castelnuovo-Tedesco, Tansman, Rodrigo, Ponce, Lauro, và Moreno Torroba cũng đã sáng tác hàng chục tác phẩm cho Segovia hay cho các môn đệ của ông.
    Hàng hàng lớp lớp các môn đệ cũng như đối thủ, những kẻ đã được công chúng chấp nhận nhờ thành công của Segovia, đã chiếm lĩnh những đỉnh cao mà Segovia đã giành được, tràn ngập các phòng hòa nhạc và phòng ghi âm. Ttrong số đó không chỉ có Julian Bream và John Williams mà còn có Rey de la Torre, Eliot Fisk, Laurindo Almeida, Siefried Behrend, Christopher Parkening, Kazuhito Yama****a, David Starobin, Frederic Hand, Sharon Isbin, Liona Boyd, Konrad Ragossnig, Alirio Diaz, Pepe và Angel Romero, Narciso Yepes, Ida Presti, Alexandre Lagoya và Leo Brouwer, vv. Danh sách ấy còn có thể kéo dài hơn nữa. Vị chỉ huy già đã ngã xuống nhưng ngọn cờ của ông vẫn tung bay. Đoàn quân của ông xông tới củng cố những đồn lũy mà ông đã khó khăn mới chiếm giữ được và không ngừng chiêu mộ những tân binh mới vào hàng ngũ. Guitar cổ điển trở thành một bằng cấp tiêu chuẩn ở nhiều đại học và nhạc viện, và đây đó đã xuất hiện những nhà phê bình âm nhạc có hiểu biết về cây đàn guitar và kho tàng âm nhạc của nó. Những nhà phê bình này có lẽ chính là đài tưởng niệm ghê gớm nhất của Segovia, một "giống loài âm nhạc" được khai sinh và tồn tại hoàn toàn nhờ công sức của một mình ông.
    Suốt một cuộc đời dài đầy những thành tựu mang tên mình, Segovia chắc chắn phải hiểu rõ giá trị của mình hơn bất kỳ nhà phê bình nào. Kẻ tự học kiêu hãnh này thích thú bông đùa về lợi thế của việc không có thầy: ?oCho tới hôm nay, thầy và trò chưa hề có trận cãi nhau nghiêm trọng nào.? Bằng cách nào Segovia có được đôi cánh mạnh mẽ đưa ông bay bổng tới những tầng trời cao nhất của nghệ thuật? Điều đó mãi mãi là một bí mật. Ngay khi còn sống, ông đã chiếm lĩnh một vị trí trong ngôi đền của những danh cầm thế kỷ, bên cạnh Rubinstein, Casals, Toscanini, Heifetz và Horowitz. Giống như các danh cầm kia, ông quyến rũ được công chúng là nhờ ghi âm thu đĩa. Sự nghiệp nửa thế kỷ ghi âm của Segovia bắt đầu tại London ngày 2 tháng Năm 1927 và kết thúc với lần thu tại Madrid ngày 23 tháng Sáu 1977. Vào những năm cuối đời, Segovia vẫn còn nhận được tiền tác quyền của đĩa nhạc ghi âm đầu tiên dạo ấy. Segovia đã ghi âm hơn 30 đĩa nhạc và các đĩa ấy đã được tái bản liên tục cho tới bây giờ.
    Trong những thập niên cuối cùng, Segovia tổ chức nhiều lớp chuyên tu (master class) ở Santiago de Compostella, Tây Ban Nha cũng như ở nhiều nhạc viện trên khắp thế giới. Ba tháng trước khi từ trần, Segovia vẫn còn giảng dạy trong những khóa chuyên tu như vậy ở Nhạc Viện Manhatten và thính đường Carnegie Hall, Hoa Kỳ. Ông cũng từng giảng dạy nhiều năm ở Siena, Italia. Được thụ giáo Andrés Segovia là một nhãn hiệu công nhận quốc tế đối với nhiều guitarist thế hệ sau như Julian Bream, John Williams, Eliot Fisk và Christopher Parkening.
    Cuộc hôn nhân đầu tiên của Segovia kết thúc bằng một quyết định ly dị năm 1951. Mười năm sau, ông thành hôn với người vợ kế Emilia del Corral. Khi ấy ông đã 68 tuổi trong khi Emilia chỉ mới ngoài 20. Emilia từng là môn đệ guitar của ông suốt 12 năm trời. Cậu con trai của họ, Carlos Andrés, chào đời khi Segovia đã 77 tuổi. Cậu bé này cách biệt hai người con đầu của Segovia đến nửa thế kỷ!
    Segovia có lần bông đùa với một nhà báo trong một cuộc phỏng vấn: "Tôi nổi tiếng là một người cha hơn là một nhà nghệ sĩ!" Sức khỏe dần suy giảm theo thời gian, Segovia không còn duy trì được nhịp độ căng thẳng của 100 lần biểu diễn một năm như trước. Ông lui về nghỉ ngơi trong một ngôi nhà trên đỉnh đồi ở Granada quê hương. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục duy trì khoảng 10 buổi trình diễn mỗi mùa và dạy các lớp chuyên tu gần như đến tận cùng cuộc đời mình ?" một cuộc đời với tình yêu bất diệt dành cho cây đàn guitar.
    Nhìn lại lịch sử âm nhạc, thật ngạc nhiên khi thấy rằng chỉ có ít nhạc sĩ có thể làm thay đổi đáng kể lịch sử của loại nhạc cụ họ chọn lựa. Listz, Paganini và Casals đã làm thay đổi lịch sử của piano, violon và cello, chủ yếu qua những cải tiến cách mạng về mặt kỹ thuật. Wanda Landowska đã làm thay đổi số phận của cây đàn harp. Trong danh sách cực kỳ ngắn ấy, ta có thể thêm vào cái tên Andrés Segovia. Thế giới âm nhạc đã từ lâu công nhận rằng Segovia không những đã hoàn thiện kỹ thuật của một vài người tiên phong ở thế kỷ 19 mà còn vượt xa hơn cả các bậc tiền bối ấy trong tài soạn nhạc nữa.
    Những gì Segovia đạt được trong sự nghiệp biểu diễn chính là sự tái sinh ?" một số người dám nói là sự khai sinh ?" của cây đàn guitar như một nhạc cụ trình tấu nghiêm túc. Cả cuộc đời ông là một cuộc thánh chiến để cứu vớt chiếc đàn sáu dây này thoát khỏi cảnh thấp hèn của một nhạc cụ ?odu đãng?.
    Giờ đây, khi thế kỷ 21 bắt đầu ló dạng, sứ mệnh của nhà tiên tri đã hoàn thành. Cây đàn guitar cổ điển ?" sở dĩ được mang cái tên này là do cấu trúc truyền thống và phương pháp chơi đàn chứ không phải vì vốn nhạc của nó ?" đã có chỗ đứng đàng hoàng trên sàn diễn bên cạnh những nhạc cụ độc tấu nổi bật nhất: violon, piano, cello.
    Khi Segovia bước vào những năm tháng cuối đời, những buổi trình diễn của ông vẫn liên tục đầy ắp thính giả. Segovia là một minh chứng cho sự trường thọ và sung mãn. Ông là một trong số rất ít những nhạc sĩ vẫn còn trình diễn ở tuổi 80 và 90. Lúc cuối đời, khi mắt ông bị cườm và thị giác đã mờ phải dùng đôi mắt kính dày cộm mới thấy rõ, một người bạn quan tâm hỏi ông sao vẫn tiếp tục làm việc quá sức ở cái tuổi già lão này. Ông đáp ?" một câu trả lời đối nghịch tiêu biểu Segovia:
    ?oTôi còn cả thiên thu để an nghỉ.?
    (theo Donald Henaban, ?oThe Segovia Legacy?)

Chia sẻ trang này