1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các loại nhạc cụ và nguồn gốc

Chủ đề trong 'Nhạc Jazz' bởi CuGoiLa, 27/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    Lịch Sử Của Cây Guitar Bass​
    Thuật ngữ Bass Guitar ra đời khá muộn, khoản đầu thập niên 60, khi cây đàn Contra Bass (còn được gọi là Arcobass hoặc Double Bass) được cách mạng hoá để trở thành cây bass điện ngày nay. Cây đàn bass nguyên thuỷ thuộc họ đàn Viol (họ đàn dây dùng vĩ để kéo bao gồm Violon, Viola, Violon Celle và Cello) xuất hiện từ thế kỉ thứ 17 với cái tên gọi đầu tiên là Violon da Gamba, cao khoảng 2m4 với 5 dây làm bằng ruột cừu hoặc ruột lợn (Gut strings).Cũng giống như các loại đàn cùng họ, cây Violon da Gamba cũng được kéo bằng vĩ (bow). Điểm thú vị của cây đàn này là lúc đầu nó được chia ngăn (fret) giống như cây đàn bass hiện đại. Đây là một điều trái khoáy vì những nhạc cụ trong họ Viol đều không chia ngăn trên cần đàn. Đến thế kỉ thứ 18, dây thứ năm và các ngăn được bỏ đi. Cây Violon da Gamba có hình dạng gần giống như cây Contra Bass sau này.
    Đến thời điểm đó (đầu thế kỉ thứ 18), việc chơi cây đàn có kích thước to quá khổ với những sợi dây đàn to như sợi dây thừng là một cực hình. Việc lên dây cũng như thay dây cũng tốn khá nhiều công sức. Người ta đã nhiều lần tìm cách loại cái của nợ này ra khỏi dàn nhạc để phần bè trầm cho Violone (loại đàn này khác với Violin tức là vĩ cầm) và Cello đảm nhiệm. Tuy nhiên những nguời có tâm huyết với cây đàn này đã một lần nữa cải tạo nó, giảm kích thước của nó xuống khoản ngang đầu người (bằng khoản 3/4 kích thước cũ) và thay các dây ruột cừu bằng ruột mèo và thống nhất một cách lên dây chung (trước đây có đến 4 cách lên dây khác nhau). Cái vĩ cũng được bỏ đi để người chơi có thể dùng các ngón tay của mình để chơi.
    Cây Contra Bass được cải tiến thêm vài lần nữa cho đến tận thế kỉ thứ 19 mới dừng lại. Người ta đã thử chế những cây Octobasse hay còn gọi là Grand Bass cao khoăng 15 feet , có ba dây và cần đến hai người để chơi. Tuy nhiên mọi cải tiến chẳng làm nên được gì nên tất cả trước sau đều thất bại.
    Cây Contra Bass đến đầu thế kỉ 20 được giảm kích thước thêm một lần nữa,con ngựa (bridge) được nâng cao hơn và phần chân chống (tailpin) được gắn thêm ở dưới đáy để phần đáy đàn tránh tiếp xúc với mặt đất. Lần này người ta đặt cho nó cái tên Arco (sidon) Bass và thôi không nâng cấp cải tiến nữa. Cây Arco Bass được sử dụng khá nhiều trong nhạc Jazz, Blues, nhạc nhà thờ và nhạc Semi-Classic (trong nhạc Classic, nguời ta vẫn sử dụng cây Contra Bass). Cho đến nay, cây đàn này vẫn được sử dụng trong các nhà thờ bên cạnh Piano, Accordeon và Violin.
    Vậy gọi cây đàn rắc rối này bằng cái tên gì cho đúng: Contra Bass, Double Bass hay Arco Bass? Nếu gọi một cái tên chung thì Double Bass là cái tên chính xác nhất. Nguồn gốc của cái tên này thì có khá nhiều tranh cãi. Có nguời nói gọi là Double Bass vì kích thước và cường độ âm thanh của cây đàn này phát ra gấp đôi các loại nhạc cụ khác trong dàn nhạc giao hưởng (Nguời ta chỉ cần đến 1 cây Contra Bass trong một dàn nhạc trên 20 người). Có giả thuyết lại cho rằng cái tên gọi Double Bass xuất phát từ nhiệm vụ làm nền (doubling) của nhạc cụ này. Cũng có người bảo rằng chính hai khe cộng âm hình chữ C (doubled C-shape sound holes) nằm ở hai bên hông đàn đã khiến cho cây đàn mang tên là Double Bass, giả thuyết này xem ra kém thuyết phục vì các nhạc cụ họ Viol đều có Double Sound Holes hai bên thân cả. Trở lại vấn đề của chúng ta, như đã nói, Contra Bass có kích thước to hơn, khi chơi người chơi phải đứng để chơi, trong khi Arco Bass có kích thước nhỏ hơn, người chơi có thể ngồi và để cây đàn tựa vào người của mình như Cello.
    _ Cây guitar bass ngày nay:
    Đến năm 1959,cây Guitar Bass vẫn còn chưa ra đời. Nếu bạn đã từng xem Elvis Presley biểu diễn bài Heartbreak Hotel hoặc Hound Dog thì vẫn thấy sự hiện diện của cây Contra Bass phía sau. Đến năm 1960, nhu cấu chơi nhạc rock bắt đầu bùng phát mạnh mẽ, những nhà làm đàn đã điện khí hoá cây guitar mới bắt đầu nghĩ đến việc điện khí hoá cây đàn bass. Dựa trên hình mẫu của cây guitar điện, người ta bắt đầu tạo ra cây guitar bass gồm 4 dây bằng kim loại, cần đàn được chia thành các ngăn (từ 28-32 ngăn) với thùng đàn đặc và bộ phận khuyếch âm. Đến năm 1967 thì cây Guitar Bass 5 dây và 6 dây cũng ra đời và cho đến nay, đã có loại Guitar Bass 7 dây.Tuy nhiên về cấu tạo thì hầu như không có gì thay đổi nữa. Bass điện cũng sử dụng những đồ nghề giống như guitar điện chỉ trừ bộ phận biến âm Distortion ít được sử dụng hơn.
    (ST)
  2. bluebeach

    bluebeach Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/12/2002
    Bài viết:
    595
    Đã được thích:
    0
    Woa !
    em princess hay quá !
    He he he, bắt đầu sâu lắng rồi đây. Cám ơn bài viết của em nhé !
    @cugoila: Bài về piano của bác hay quá, thanks bác nhiều vì đã cho anh em hiểu biết thêm những kiến thức rất bổ ích !
    viva jazzzone !
  3. silver_place

    silver_place Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/11/2004
    Bài viết:
    4.817
    Đã được thích:
    3
    [​IMG]
    Đàn Tam Thập Lục​
    Là nhạc khí dây, chi gõ của dân tộc Việt. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục.
    Đàn Tam thập lục hình thang cân, mặt đàn hơi phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so le hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây, bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí. Que đàn được làm bằng hai thanh tre mỏng, dẻo, ở đầu được quấn dạ để tiếng đàn được êm. Âm thanh đàn Tam thập lục trong sáng, thánh thót, rộn rã.
    Âm vực đàn Tam thập lục tương đối rộng. Từ âm trầm nhất đến âm cao nhất trên hai quãng 8, được mắc theo gam nguyên.
    - Khoảng âm dưới: Tiếng đàn ấm áp, khá vang.
    - Khoảng âm giữa: Tiếng đàn đầy đặn, trong.
    - Khoảng âm cao nhất: Tiếng đàn sắc, gọn.
    Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm...
    Đàn Tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát, độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

    [​IMG]
    Sáo Trúc​
    Sáo trúc là tên gọi một nhạc cụ họ hơi, chi hơi vòm của dân tộc Việt. Đặc biệt rất được phổ biến ở vùng nông thôn Việt Nam.
    Sáo được làm bằng một đoạn ống trúc, hoặc nứa có chiều dài 40 - 55 cm, đường kính 1,5 - 2 cm. Ở phía đầu ống có một lỗ hình bầu dục đó là lỗ thổi. Trong lòng ngay gần lỗ thổi được chặn bằng một mẩu nút bấc hoặc gỗ mềm để điều chỉnh độ cao thấp khi cần thết. Thẳng hàng với lỗ thổi có khoét 6 lỗ bấm, lỗ bấm thứ nhất cách lỗ thổi 12 cm, các lỗ bấm còn lại cách đều nhau (1 cm). Mở dần các ngón ở 6 lỗ bấm ta sẽ có các âm Do1, Rê1, Mi1, Fa1, Sol1, La1, Si1, Do2. Phía sau cuối ống sáo có một lỗ không bấm là lỗ định âm.
    Khi thổi sáo, thân sáo đặt ngang sang bên phải, miệng đặt lên lỗ thổi. Người thổi sáo có thể điều chỉnh luồng hơi (rót hơi yếu đường hơi đi từ từ và yếu, rót hơi mạnh đường hơi đi nhanh và mạnh). Sáo thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu trong các dàn nhạc chèo, hát văn, tiểu nhạc.
    Khoảng cuối thập kỷ 70 nghệ sĩ Đinh Thìn và Ngô Nam đã cải tiến cây sáo 6 lỗ thành sáo 10 lỗ để mở rộng âm vực, cho các nghệ sỹ chơi những tác phẩm tương đối dễ dàng hơn như "Tiếng gọi mùa xuân" của Đinh Thìn, "Tình quê" của Hoàng Đạm, "Tiếng sáo bản Mèo" của Ngọc Phan v,v...
    [​IMG]
    Đàn bầu​
    Trong kho tàng văn hoá âm nhạc dân tộc Việt Nam, đàn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và hấp dẫn nhất. Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến ai đã nghe một lần thì thật khó quên. Chẳng thế mà các cụ ngày xưa đã kín đáo nhắc nhủ: "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu"
    "Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha. Ngân nga em hát, tích tịch tình tang"
    Dường như âm thanh mộc mạc, chân quê nhưng sâu lắng đến vô cùng của cây đàn bầu, hoà quện với tấm lòng của tác giả đã tạo nên những vần điệu chất chứa trong bài hát ru ấy. Điều gì đã kiến cho cây đàn bầu có sức quyến rũ độc đáo đến như vậy?
    Có nhiều cách giải thích khác nhau về sự xuất hiện của cây đàn bầu trong kho tàng văn hoá dân gian. Chỉ từ trò chơi trống đất của trẻ em đồng bằng Bắc bộ là đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng bung bung mà các cụ ngày xưa đã cho ra đời nhạc cụ mang tên đàn Bầu, được làm từ ống tre và quả bầu khô. Từ thời nhà Lý, đàn Bầu đã xuất hiện, nhưng thời ấy nhạc cụ này chỉ được dùng để đệm cho những người hát xẩm. Thời gian qua đi cây đàn dần được cải tiến, đàn được làm từ những chất liệu tốt hơn như gỗ, sừng. Ông Đỗ Văn Thước, một nghệ nhân làm đàn Bầu nói "cuộc sống và mọi sinh hoạt của nông dân Việt Nam đều bắt nguông từ cây tre: ống nước, ống cơm, rổ rá, đòn gánh, Bởi vậy, để bảo vệ bụi tre họ lấy dây rừng buộc quanh gốc tre, thấy âm thanh phát ra từ đó như những cuộc giao lưu tình cảm khiến người nông dân xưa nghĩ đến việc hạ tre thành cọc căng dây tơ cho âm thanh hay hơn, rồi sử dụng vỏ quả bầu dài làm hộp cộng hưởng". Song có lẽ tất cả cũng chỉ là những giả thuyết. Còn thực tế thì cây đàn bầu đã gắn bó với làng quê con người Việt Nam từ bao đời nay còn chưa ai biết.
    Cái độc đáo ở đây là cây đàn cấu trúc rất đơn giản. Chỉ với một dây nhưng nó diễn tả được mọi cung bậc của âm thanh và tình cảm. Âm thanh cũng mang sức quyến rũ lạ kỳ, gần với âm điệu tiếng nói của người Việt, bởi vậy mà đàn Bầu trở thành nhạc cụ được mọi người ưa thích.
    Để có được cây đàn như ý, người làm đàn phải rất công phu trong việc chọn lựa chất liệu. Cây đàn phải hội đủ hai yếu tố "Mặt ngô thành trắc", có nghĩa là mặt đàn phải làm bằng gỗ cây ngô đồng sao cho vừa xốp vừa nhẹ, thớ gỗ óng ả, thẳng thì mới có độ vang. Khung và thành đàn làm bằng gỗ trắc hoặc gụ, vừa đẹp lại vừa bền. Cần rung, còn gọi là vòi đàn được làm từ sừng trâu. Bầu đàn được lấy từ quả bầu khô hoặc tiện bằng gỗ. Từ những chất liệu hết sức giản dị ấy gia đình nghệ nhân Đỗ Văn Thước đã cho ra đời bao đứa con tinh thần này. Sinh trưởng trong gia đình ba đời đều làm nhạc cụ dân tộc, năm 1953 bác Thước đượ ông ngoại và cậu truyền cho nghề này. Đến nay khi đã nghỉ hưu, bác lại cùng vợ con chế tạo nên những chiếc đàn cao cấp chỉ dành riêng cho những nghệ sĩ chơi đàn trong các đoàn nghệ thuật. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong vấn đề cấu tạo cây đàn. Người thì cho rằng nên kéo dài đàn ra để có được tiếng trầm hơn hoặc đổi đàn bầu thành hai dây (một cao, một thấp), hai cần và mở to thùng đàn ra, nhưng cuối cùng tất cả đều không phù hợp. Việc dùng vòi đàn để căng dây lên hoặc hạ chùng dây xuống đã tạo ra nhiều âm thanh và cao độ khác nhau. Cần đàn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sắc độ âm thanh khác nhau và làm cho tiếng đàn tròn, mượt. Mặt đàn với thới gỗ óng ả, khi kết hợp với hộp cộng hưởng sẽ tạo nên những âm thanh vang, trong. Đàn còn được trang trí nhiều hoa văn hoặc khảm trai với các hình ảnh miêu tả cảnh sinh hoạt phong phú của người dân Việt Nam. Ngày nay người ta thường có xu hướng thay thế đàn gỗ bằng đàn điện, kéo dài và làm mỏng thân đàn để tạo âm trường và tiếng vang hơn.
    Đàn Bầu thể hiện một cách thành công những làn điệu dân ca khác nhau của từng vùng, từng miền của dân tộc. nó còn có thể diễn tấu rất hay những giai điệu của nước ngoài, từ nhạc dân gian đến nhạc nhẹ. Nghệ sĩ đàn Bầu Kim Thành cho biết, hiện anh còn giữ chiếc đàn bầu có tuổi thọ 70 năm của nghệ sĩ Bá Sách để lại. Chơi đàn dân tốc không phải là một nghề đem lại sự giàu có, nhưng với anh đó là niềm đam mê từ khi còn là đứa trẻ. Đến nay đã 32 năm trong nghề, bằng lối chơi đầy sáng tạo qua mỗi lần biểu diễ, anh đã khiến người nghe say mê. Anh cho biết "năm 1994, tôi được mời đến nước Anh biểu diễn cho nữ hoàng Elizabeth tại nhà hát Hoàng Gia. Buổi biểu diễn rất thành công. Sau đó tôi được mời ở lại định cư tại đất nước này. Nhưng tôi không thể rời bỏ được tổ quốc và gia đình ruột thịt của mình. Đến năm 1995 một lần nữa nữ hoàng Anh lại mời tôi sang biểu diễn. Đây thật là một vinh dự lớn trong cuộc đời làm nghệ thuật của tôi. Không chỉ mình tôi, đến nay chúng ta đã có rất nhiều tài năng trẻ chơ đàn Bầu đang được cả nước và thế giới biết đến như Hoàng Tú, Huỳnh Tú..."
    Phải trăng vì sự độc đáo có một không hai của cây đàn Bầu mà mỗi khi nhắc đến Việt Nam, nhiều khác nước ngoài đã cây đàn bầu như một biểu tượng của Việt Nam "Đất nước đàn Bầu". "Quê hương đàn Bầu". Nhà thơ nữ người Pháp MeRay đã thốt lên: "Cây đàn Bầu thật giống với con người Việt Nam. Nghèo của cải mà giàu lòng nhân ái, giản dị mà thanh tao, đơn sơ mà phong phú".
    [​IMG]
    Đàn Nguyệt ( Đàn Kìm)​
    Đàn nguyệt được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian cũng như cung đình bác học cổ truyền của người Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam từ thế kỷ XI, cho tới nay nó vẫn giữ một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt âm nhạc của người Việt và là nhạc cụ chủ yếu dành cho nam giới.
    Nhờ có cần tương đối dài và những phím cao, nhạc công có thể tạo được những âm nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại.
    Tiếng đàn trong, vang, khả năng biểu hiện phong phú- khi thì sôi nổi ròn rã, lúc lại nỉ non sâu lắng, do đó đàn nguyệt có mặt cả trong những cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi cuốn, những lễ tang bùi ngùi xúc động cũng như những cuộc hoà tấu thính phòng thanh nhã với những hình thức diễn tấu khác nhau: đệm cho hát, hoà tấu và độc tấu.
  4. bluebeach

    bluebeach Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/12/2002
    Bài viết:
    595
    Đã được thích:
    0
    Nếu bạn là người yêu nhạc chắc hẳn bạn đã từng ít nhất một lần thưởng thức âm thanh tuyệt diệu của cây đàn được gọi là nữ hoàng - cây đàn piano (dương cầm). Tôi xin góp thêm vào bài viết của Cugoila về một cái tên đã gắn liền với sự tuyệt diệu của cây đàn này !

    Ðàn dương cầm Steinway
    [​IMG]
    Ông Henry Steinway (AP)
    Có một số những nhãn hiệu được coi là đồng nghĩa với sự toàn bích. Và một trong những nhãn hiệu này là đàn dương cầm Steinway, nổi tiếng trên thế giới và được coi là nhạc cụ được giới nghệ sỹ trong các ban nhạc đại hòa tấu trên khắp thế giới ưa thích. Mời các bạn theo dõi câu chuyện của Melinda Smith về những chiếc dương cầm do nhà Steinway sản xuất . ​
    Công ty Steinway and Sons tại New York vẫn sản xuất đàn dương cầm từ 152 năm nay, và là hãng lớn cuối cùng vẫn còn làm ra những chiếc dương cầm bằng tay. Một chiếc dương cầm của hãng bán ra với giá rất cao. Một chiếc đàn nhỏ khoảng 30000 đô la, và cỡ lớn dùng cho các ban đại hòa tấu lên đến trên 100000. Công ty rất tự hào về tài khéo của thợ và sự công nhận giá trị sản phẩm của công ty từ rất nhiều nghệ sỹ thuộc đủ thể loại từ Van Cliburn, Ahmad Jamal đến Billy Joel.
    Trước khi một chiếc dương cầm Steinway được sử dụng trên sân khấu trình diễn thì nó được ra đời ở ngay đây, tại cơ xưởng của công ty có từ 125 năm nay trong quận Qeens của thành phố New York.
    Chỉ có một ít ngoaị lệ, tiến trình sản xuất ra một chiếc dương cầm của công ty Steinway đã thay đổi rất ít trong suốt thế kỷ qua. Muốn làm xong 1 chiếc dương cầm phải mất hết một năm trời, và phần lớn trong số 12000 bộ phận của nó đều được làm bằng tay. Phó chủ tịch chấp hành công ty, ông Frank Marzurko nói rằng đó là lý do tại sao xảo năng của thợ lại quan trọng đến như vậy.

    Đây là loại siêu đẳng, và nó chính là điều làm cho sản phẩm của công ty chúng tôi khác hẳn với tất cả mọi chiếc dương cầm khác.
    Công ty Steinway and Sons được ông Henry Steinway, một di dân người Đức, thành lập năm 1853. Nhưng đến đời con ông , ông William Steinway, mới trở thành động lực chính thúc đẩy sự tiến bộ của công ty. Đến năm 1870 ông William Steinway đã xây 1 xưởng làm đàn dương cầm lớn nhất thế giới và còn xây nguyên cả một ngôi làng ở gần đó cho công nhân.
    Vì thế thợ có thể đến đây làm việc cho Steinway và được ông cung cấp nhà ở và trả tiền nợ mua nhà hàng tháng cho họ.
    Ngôi làng nay không còn nữa và gia đình Steinway đã bán lại công ty từ năm 1972. Thế nhưng vẫn còn những thế hệ của công nhân hết sức tự hào về công việc của họ và coi công việc sản xuất đàn dương cầm bằng tay mà họ làm cho công ty là một hoạt động của một gia đình.
    Ông thợ Rupert Forbes, khắc những miếng gỗ để rung dây đàn ở trong bụng chiếc dương cầm, cho biết cảm nghĩ của ông:
    Tôi rất thích khi cắt và chạm những miếng gỗ để làm đàn, tôi muốn được thấy một công việc được hoàn tất, trông thật dẹp mắt
    Rupert Forbes là người từ Jamaica đến. Rất nhiều trong số 400 nhân công làm việc tại đây là di dân. Có chừng 25 thứ ngôn ngữ mà các công nhân ở đây xử dụng. Cô Anita Glavan, một người Croatia vẫn thông dịch cho Camil Katana, gốc gác từ Bosnia.
    Anh rất biết ơn nước Mỹ đã nhận cho anh sang đây, anh kiếm được việc làm tốt trong một khung cảnh làm việc hài hòa và anh đã xây dựng lại cuộc sống mới. Anh đã ở đây được 7 năm rồi.
    Đừng đánh giá một chiếc dương cầm Steinway qua cái âm thanh này. Mỗi cây đàn dương cầm có một âm thanh đặc thù của riêng nó, tùy từng người thợ điều chỉnh âm thanh của cây đàn, như Yuriy Kosachevich từ Ukraina và Victor Tilak từ Guyana đến.
    Tôi thử từng phím đàn, từng nốt gõ, để thấy âm thanh đã hoàn chỉnh và không bị lạc điệu.
    Tôi là người cuối cùng thử đàn trước khi cây đàn rời xưởng thợ giao cho khách. Tôi phải chơi nhạc để nghe thử, xem xét lại thật kỹ, để bảo đảm rằng mọi bộ phận trong cây đàn đều hoàn chỉnh.
    Có thể ông Walter Boot là người có được công việc đắc ý nhất. Ông có trách nhiệm làm sao để bảo đảm rằng âm thanh của chiếc dương cầm do hãng làm ra thật đúng với các cung bậc. Theo ông muốn làm được công việc như vậy thì tai, mắt và ngón tay gõ phím phải thật bén nhạy.
    Tài đàn của ông Walter Boot có thể không đến cỡ như dương cầm thủ Shura Cherkassky nhưng khi ông dạo nhạc, gõ phím và rồi chấp thuận cho một chiếc dương cầm được ra khỏi hãng giao cho khách thì nó cũng đủ để giữ được danh tiếng cho công ty Steinway.
    © VOA 2005
    Được bluebeach sửa chữa / chuyển vào 17:32 ngày 03/07/2006

Chia sẻ trang này