1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các mối quan hệ và phong tục Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanh_ala, 27/04/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Các mối quan hệ và phong tục Việt Nam

    Thứ nhất : Quan hệ vua tôi .​

    Vua làm chủ tể trong một nước, khắp trong nước từ quan đến dân, ai ai cũng là tôi tớ nhà vua. Có chữ rằng: "Phổ thiên chi hạ, mặc phi vương thổ, xuất thổ chi hạ, mạc phi vương thần" nghĩa là khắp nơi dướí trời đâu cũng là đất nhà vua, suốt mặt đất, ai cũng là tôi tớ nhà vua.

    Vua thay trời để cai trị muôn dân, cho nên uy quyền của vua rất trọng, vị trí của vua rất tôn. Mà phàm danh hiệu thì cũng có một danh hiệu đặc biệt cho khỏi lẫn với danh hiệu của người thường.

    Chỗ vua ở gọi là ngự cung, sập vua ngồi gọi là ngự toạ, đồ vua dùng gọi là ngự dụng, cơm vua xơi gọi là ngự thiện, vua đi chơi gọi là ngự du.

    Vua thay quyền cho trời, cho nên gọi là Thiên Tử, vua ban ơn gọi là Thiên ân, vua giận giữ gọi là Thiên uy, vua đánh đâu gọi là Thiên thảo, vua tha tội cho gọi là Thiên xá.

    Vua cũng quý như thần long, cho nên phàm đồ dùng của vua, thức gì cũng vẽ rồng. Áo thêu rồng gọi là Long cổn, sập trạm rồng gọi là Long toạ, kiện vua ngự gọi là Long giá, thuyền vua ngự gọi là Long thuyền, mà sân cùng bệ nhà vua cũng gọi là sân rồng bệ rồng.

    Duy vua được xưng là Trẫm, điển ấy do từ Tần Thuỷ Hoàng rồi các vua đời sau đều nói theo tiếng ấy, thành ra một tiếng riêng của nhà vua tự xưng.

    Vua lại như cha mẹ của muôn dân, cho nên từ quan đến dân đối với vua đều phải hết dạ trung thành, hết lòng cung kính. Các vua chầu yết tất phải hô vạn tuế, nghĩa là tôn chúc vua tuổi lâu dài. Vua ban ân cho ai một chút gì tất phải bái mạng (lạy tạ ơn vua). Chiếu sắc dụ chỉ ban về đâu tất phải rước xách tôn trọng. Ai được mông ơn của vua, dẫu bằng sợi tơ sợi tóc cũng quý, coi như được gội nhuần mưa móc ơ chín tầng trời.

    Vua, trong có phi tần lục cung giúp việc nội trị, ngoài có văn võ bách quan giúp việc ngoại trị. Muôn dân trong nước thì chỉ trông mong về nhân chính của vua mà thôi.

    Họ nhà vua gọi là Tôn thất, làng nhà vua gọi là là thanh mộc, họ hàng của vua được hưởng quyền lợi hơn người thường.

    Tên huý của vua phải kiêng, không được dùng, mà đặt rồi thì phải cải đi. Phàm tấu sớ văn chương, dùng đến chữ trong huý thì phải đổi làm chữ khác, dùng chữ khinh huý thì được phép tỉnh hoặch (bỏ bớt một nét); khi đọc đến tên huý phải đọc tránh ra tiếng khác. Học trò thi cử làm văn, cũng là các giấy má việc quan, phạm đến tên húy phải tội.

    Vua có chiếu dụ mà ai dám sai lời, gọi là vi chế, phải tội; vua có chiếu sắc ban cho ai mà không nghênh bái gọi là bất kính quân lịnh, phải tội; ai dám bàn bạc đến điều làm lỗi của vua, gọi là dương quân chi ác, cũng phải tội.

    Vua băng hà, cả nước phải để tang, gọi là quốc tang. Quốc tang tuỳ mỗi trào gia giảm khác nhau. Song từ năm Tự Đức thứ ba mươi sáu thì lệ định như sau này:

    Quan tam phẩm trở lên, bất câu là chưa bổ hoặc đã hồi hưu, cũng với hàng ấn quan từ, ngũ phẩm, đều phải mặc đồ trảm khôi ba năm. Lục phẩm trở lên, áo vải trắng để tang đủ ba năm. Cửu trở lên, bất câu chưa bổ hoặc hồi hưu, cũng khăn trắng để tang chín tháng; con cả quan nhất phẩm để tang một năm, con cả quan nhị phẩm để chín thang, con cả quan tam phẩm để năm tháng, cũng đều khăn áo trắng. Tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, giám sinh, ấm sinh, học sinh cũmh để tang chín tháng; võ cử anh danh cũng vậy. Thân phụ các quan từ thất phẩm trở lên, phải để ba tháng. Vợ mệnh phụ của quan tam phẩm trở lênvà vợ cả của quan lục phẩm trở lên, để tang theo chồng.

    Ở kinh bắt dầu từ ngày phát tang, ở ngoài bắt đầu từ ngày mới đưa tin, hạn trong năm ngày, quân dân cấm không được mặc đồ điều, đỏ; trong hai mươi bảy tháng, cấm không được hát xướng đàn địch.

    Việc giá thú, tam phẩm trở lên cấm một trăm ngày tứ phẩm trở xuống cấm hai tháng, quân dân cấm hai mươi bảy ngày.

    Quan viên nào mới được thăng hàm hễ trong một trăm ngày thì chiếu theo phẩm hàm mới mà để tang, ngoài một trăm ngày thì cứ theo nguyên phẩm cũ mà để tang. Các quan viên khi thường làm việc phải dùng khăn trắng áo thâm. Gặp khi có việc sai phái việc quân, thì được mặc đồ nhung phục; còn việc thường đều bận khăn trắng áo thâm.


    Nước ta xưa nay vốn là một nước quân chủ, phận vua tôi rất nghiêm, mà uy quyền thế lực của nhà vua rất lớn. Của trong một nước tức là của nhà vua, đất trong một nước cũng là nước của nhà vua, mà người suốt trong một nước, cũng đều là tôi tớ của nhà vua.

    Phận làm thần dân lấy một chữ trung làm gốc, chữ kính làm đầu, tôn mạng như thánh, như thần, sợ oai vua như sấm như sét. Gặp được vua hiền minh, thì dân được hưởng phúc sung sướng; gặp phải lúc hôn quân, bạo chúa, thì dân phải chịu khổ ải lầm than.

    Than ôi! Giang sơn như hoa như gấm kia, bao nhiêu mồ hôi nước mắt mở rừng phá núi của tổ tiên nghìn muôn người để lại, có phải riêng của một mình ai? Vua là một người đứng thay mặt muôn dân, để cai quản tài sản tính mạng cho muôn dân, thì dân phải tôn kính, phải thờ phụng vẫn là cái lẽ đương nhiên. Nhưng cũng nên biết mình là người trong một nước, thì việc nước cũng là việc mình, không coi nước là nước của riêng một mình vua, nghĩa là cũng phải đem mình mà lo lắng, gánh vác lấy một vai chung cho xã hội.


    Better late than never


    Được thanh_ala sửa chữa / chuyển vào 18:07 ngày 27/04/2003
  2. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 2 : Quan hệ thầy trò .
    Học trò học nghề hay là học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa là thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
    Học trò khi mới vào học là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Gặp mặt khi mồng năm ngày Tết như Tết nguyên đán, Tết thanh minh, Tết đoan dương, Tết trung thu, mùa nào thức ấy, hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tuỳ tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
    Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỷ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc nhà thầy.
    Cả bao nhiêu học trò hội lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra, hoặc của học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh là người hiểu đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làm trưởng trường để đứng đầu mà coi việc môn sinh. Lại bầu một người làm giám tràng để hiệp trợ với trưởng tràng. Ngoài nữa thì liệu xem ai là người mẫu cán đặt ra năm bảy người hoặc mươi, mười hai người Cán tràng, để giúp cho trưởng giám, mà coi công việc chạy chọt vành ngoài.
    Thầy đặt ra trưởng, giám, cán, phải có chữ của thầy, thì đồng môn mới phục tùng. Khi thầy có việc cần đến đồng môn phải giúp thì thầy bảo qua với Trưởng, Giám một tiếng, Trưởng, Giám tuân lời thầy đặt tờ cho cán tràng, cán tràng lại thông báo cho các môn sinh hội lại bổ bán mà giúp đỡ cho thầy.
    Khi cha mẹ thầy mất, đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền, và phải sửa lễ phúng viếng đưa đón phân minh. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất thì đồng môn phải sử trọng thể hơn, mà phải phục tùng quyền thế huynh là người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, tất cả môn sinh phải khăn trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ bốn lạy mới trở về. Về đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.
    Môn sinh cũng phải để tang thầy học ba năm song không phải phục tang chế, gọi là tâm trang, nghĩa là để tang trong bụng mà thôi.
    Trong môn sinh thể thống rất nghiêm, ai đã vào học đều phải đóng đồng môn cả. Hễ ai bỏ không đóng góp hoặc ai trái lễ phép với nhà thầy, Trưởng, Giám tràng có phép bắt bớ cùm trói, cho nên có câu rằng: Môn sinh tiểu triều đình.
    Từ sau mỗi năm ngày giỗ thầy hoặc vợ thầy, đồng môn phải biện lễ đem đến giỗ. Hoặc nhà thầy suy đồi đi rồi, không có người kế tự thì đồng môn họp ở nhà trưởng tràng mà làm lễ giỗ thầy và vợ thầy, giữ giỗ cho đến hết đời thì thôi.
    Có nơi môn sinh đóng tiền làm nhà thờ thầy và tậu đất ruộng để làm ruộng kỵ, cứ năm năm lấy hoa lợi mà xung vào việc cúng giỗ cho khỏi phải đóng tiền. Nơi ấy thì học trò thường thường nối dõi giữ giỗ ông thầy và vợ thầy.
    Người ta ở đời nhờ có cha mẹ sinh ra mình, lại phải nhờ thầy dạy cho mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một mối luân thường của Á Đông ta.
    Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dở. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hoá nhuần thấm đến người thì người ta không quên đã đành. Như mấy ông thầy đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trướng, gõ đầu năm ba đứa để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng giám lên mặt đạo mạo, động một tí thì đổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi nhà thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ.​
    Better late than never
  3. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 3 : Quan hệ bầu bạn .
    Bầu bạn là người đồng học, đồng nghệ, đồng liêu, đồng sự, hoặc là người thuở nhỏ quen biết nhau, hoặc là khi mới gặp nhau một lần, mà trong câu trò chuyện lại tâm đầu ý hợp thì cũng kết làm bầu bạn với nhau.
    Nghĩa bầu bạn trọng nhất là tư ích lẫn cho nhau. Tư ích có hai cách: Một là khuyên bảo nhau lấy điều hơn lẽ thiệt, hai là khi anh em có tai nạn nguy cấp thì giúp đỡ lẫn nhau. Bạn ấy mới gọi là bạn ích hữu.
    Đôi khi anh trong em qua lại thăm nhau, lấy chén chè chén rượu khoản đãi nhau làm vui mừng, hoặc việc tang gia, hoặc ngày giỗ kỵ, thường cũng có mời mọc nhau, ấy là quý mến nhau lắm.
    Bực giàu có thì khi thường khi làm việc mời nhau ăn uống vui chơi. Hoặc giở ra tổ tôm ít xì, làm cuộc tiêu khiển. Còn hạng nữa thì mỗi tối dắt díu nhau năm bảy người, nay cao lầu, mai chả cá khi thăm các ả, khi giở bàn đèn, ấy cũng là một cách sum họp của anh em bạn.
    Trong bầu bạn, người nào là người đồng tâm đồng chí với mình gọi là bạn tri kỷ. Bạn tri kỷ là bạn rất thiết chẳng nề giàu nghèo sang hèn, lúc nào cũng yêu mến nhau, cũng khi sống chết chết cũng chịu với nhau nữa. Song cũng nhiều kẻ lúc trước chơi với nhau rất thân thiết, đến lúc mỗi người sang một người hèn, hoặc một người giàu một người nghèo đã coi trọng coi khinh có phần khác trước.
    Lại còn một thói anh em chơi với nhau, chỉ thấy cái lá mặt thết đãi nhau từ chầu hát bữa tiệc, tốn kém vài ba chục bạc chẳng coi vào đâu, làm ra bộ hào phóng lắm và giả thử anh em có nhỡ nhàng, giật tạm dăm ba đồng thì một xu không giám rời ra, và lại có ý kẻ một quan khinh rẻ chín tiền, tục ấy cũng là một tục tệ.
    Xưa nay bầu bạn ở với nhau; nước ta còn có Lưu Bình Dương Lễ, nước Tàu thì có Quản Trọng, Bảo Thúc là có tiếng ở với nhau thuỷ chung hết lòng. Dương Lễ cho vợ thứ ba đi nuôi bạn, chuyện ấy ở sách tuồng ta đã chép, và ta thường đi xem hát bội thì ai ai cũng đã biết rồi. Còn chuyện Quản Trọng, Bảo Thức tưởng nên nói qua đây để các người chưa xem sách tàu coi chơi, cũng có thể làm gương được cho trọng đạo bầu bạn.
    Quản Trọng thuở hàn vi cùng với Bảo Thúc đi buôn, cứ chia lời thì Quản Trọng chiếm lấy phần hơn, vậy mà Bảo Thúc cũng không chê Quản Trọng là tham, vì biết Quản Trọng nghèo hơn. Đến khi Quản Trọng gặp nạn công tử Củ, Bảo Thúc cố sức giúp thoát nạn, lại dựng lên vua Tề Hoàn Công để vua dùng làm tướng; mà mình lại chịu ở hàng dưới, mà Bảo Thúc cũng không lấy thế làm hiềm. Về sau Quản Trọng sắp mất, vua hỏi ai thay được ngôi mình, thì Quản Trọng tiến cử người khác, mà bác Bảo Thúc đi không tiến, Bảo Thúc lại càng phục chớ không giám giận. Ấy là vì Bảo Thúc biết cái tài Quản Trọng hơn mình nhiều, mà Quản Trọng thì một lòng vì nước, coi việc nước trọng hơn tình riêng anh em, cho nên Bảo Thúc càng sợ bụng công bình của Quản Trọng, mà Quản Trọng cũng càng phục cái lượng to của Bảo Thúc. Vậy cho nên Quản Trọng có câu than rằng: "Sinh ra ta là cha mẹ, mà biết bụng ta thì là Bảo Thúc".
    Giả thử thường tình của thiên hạ thì khi Quản Trọng tham lời cũng đủ ghét rồi. Huống chi đến sau lại ra công cứu nạn, lại tiến lên làm tướng mà mình chịu ở dưới, thế mà khi mình gần mất vua muốn dùng người có ân với mình, thì mình lại bác đi. Như thế thì ai không giận, ai không cho là người phụ ơn. Vậy mà Bảo Thúc không lấy làm hiềm. Quản Trọng cũng không lấy làm ngượng. Ấy mới thực là anh em tri kỷ.
    Nước ta anh em bạn mấy người được biết bụng mà chiều tính nhau như thế. Trừ ra mấy người bạn thiển giao, chẳng qua gặp gỡ nhau thì lấy câu chuyện làm cách chơi bời không kể. Còn những người thuở nhỏ ăn cùng một mân, nằm cùng một chiếu, ngày đêm to nhỏ ân tình đằm thắm biết là dường nào. Vậy mà đến khi kẻ sang người hèn thì đã coi nhua như rác, đi qua trông mặt chẳng thèm hỏi, vào chơi không thèm tiếp. Lại còn có kẻ đã chẳng giúp gì cho nhau thì chớ, ví dù thấy anh em khá, lại sinh ra tình ghen ghét, chực hại nhau nữa cũng nên. Sách có chữ rằng: "nhất quý nhất tiện, giao tình nãi kiến; nhất tử nhất sinh, nãi kiến giao tình" nghĩa là một kẻ quý một kẻ tiện, mới rõ cái tình bầu bạn, một người sống một người chết, mới tỏ cái tình anh em, quả nhiên thế thực.
    Than ôi! kết bạn với nhau, cốt để mài giũa nhau cho cùng nên người, và để khi hoạn nạn thì giúp đỡ nhau. Gần mực thì đen gần đèn thì rạng, ai mà không muốn được người bạn tử tế thuỷ chung, nhưng hồ dễ đã được mấy người tử tế, cho nên muốn tìm một người để làm bạn tri kỷ thì phải cẩn thận mới được. Nếu không cẩn thận mà chơi với phỉ nhân, thì sự bầu bạn chẳng những là vô ích cho mình, mà lại sinh ra đua nhau những thói du đãng làm luỵ cho mình nữa.​
    Better late than never
  4. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 4 : Quan hệ quan dân .
    Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.
    Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp.
    Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay:
    Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
    Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm".
    Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò.
    Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một.
    Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
    Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... ) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.​
    Better late than never
  5. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 5 : Quan hệ chủ khách .
    Bất cứ quen lạ thân sơ, người đến chơi với mình thì mình là chủ, người ta là khách.
    Khách đến chơi nhà phải có trầu nước khoản đãi. Tình nhạt nhẽo thì mời ăn khẩu trầu hút điếu thuốc, nói vài ba câu chuyện; mặn mà thì pha ấm nước chè hạt chè mạn mời khách uống, thân quý hơn thì nước chè Tàu, trầu khơi thiếc, ấy là lịch sự. Khách xa đến chơi, thân thiết thì thiết đãi cơm rượu. Chỗ thành thị thì sẵn đồ sào đồ nấu, phong vận nữa thì mời ra cao lâu, ô-tên, nơi quê mùa thì con gà con cá, kiếm đồ gia vị, uống chén rượu chơi. Xa xôi lâu ngày mới đến chơi nhau thì mời lưu lại ở chơi một vài hôm, năm bữa nửa tháng.
    Người làm quan, có khách đến thăm, bực sang trọng thì rượu chè rồi dở ra tổ tôm, thuốc phiện, hát xướng; người thân thích họ hàng hoặc bạn kiết thì khách về phải tặng đĩa ít tiền ăn đường, hoặc kiếm thức gì như chè thuốc, lụa nhiễu hay là đồ sản vật gì để làm quà cho bà con. Người nào thân tình thì tặng nhiều, người nào sơ tình thì tặng ít, thế nào cũng phải có mới xong, nếu không có gì thì bà con cho là đồ bủn xỉn. Có khi anh em cùng kiết đến thăm rồi nhờ cho ít tiền tiêu, cũng phải lượng tình mà chu cấp ít nhiều.
    Ông thầy nào có học trò làm nên quý hiển, đôi khi thầy có lòng hạ cố, học trò phải hờ phụng hết lòng, qũi dị tất phải phong hậu.
    Khách khứa qua lại chơi bời, cũng là một cách vãn lai thủ tục, không có thể khiết nhiên đi được. Mà người đã không có ai là kẻ qua lại thăm viếng, thì chắc nhân phẩm cũng chẳng ra gì. Song trò ở đời: nhân tình khoan lãnh noãn, thế diện trục cao đê. Hễ người phú quý hiển đạt thì chẳng thiếu gì kẻ thăm người viếng, động khi nhức đầu sổ mũi cũng có kẻ quà bánh đến thăm, dẫu có ở xa đến đâu, bà con cũng có lòng cố cập. Còn người cùng kiết thì chẳng mấy khi bà con rỗi công đến chơi được, dẫu ở gần nhau, nhưng cũng ít khi có câu chuyện gì mà đến. Có câu rằng: "bần cư thành thị vô nhân vấn, phíu tại sơn lâm hữu khách tầm", nghĩa là người nghèo ở ngay chốn thành thị, cũng không ai hỏi, người giàu dẫu ở rừng xa núi thẳm cũng có người tìm, ấy là cái thói thường rất đáng khinh bỉ của thiên hạ.
    Vả, khách đến thăm chủ nhà, ít khi vô cớ mà đến, và ít khi vì nhớ nhau mến nhau mà đến, phần nhiều là có lòng yêu cầu thì mới lấy nê đến thăm mà nói chuyện, phí giật mượn thì là nhờ làm ơn việc gì. Cũng có nhiều người tính hay quấy quả anh em, không giúp thì sinh ra hiềm khích, mà giúp mãi thì lấy đâu được.
    Song cái tình của người chủ đối với bà con khách khứa thì cũng nên lượng cái sức mìnhvà tuỳ cái tình người mà khu sử cho một vừa hai phải mới là phải đạo. Chớ thấy anh em đến chơi có ý nhờ vả mà đem lòng khinh bỉ thì lại là một người bạc tình. Còn như người nhờ trời làm nên giàu có phú quý, động thấy bà con anh em đến thăm thì sợ người ta kéo cúi, phải thác việc này việc khác để cho người khỏi quấy đến mình, người ấy lại là người biển lận đáng khinh lắm.​
    Better late than never
  6. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 6 : Quan hệ chủ nhà đầy tớ .
    Nhà phong lưu nuôi đến ba, bốn đầy tớ, nhà phú quý có khi nuôi đến vài chục người. Đầy tớ trai dùng để hầu hạ sai khiến gọi là thằng, cam thằng quít, thằng nhỏ, thằng nấu gọi là thằng bếp. ở nhà quê cứ đến mùa cày cấy thì mới nuôi để làm ruộng, gọi là kẻ đi ở mùa. Đầy tớ già có tuổi gọi là đầy vú già; người trẻ tuổi nuôi cho con bú gọi là vú em, những đứa nuôi để hầu hạ đàn bà gọi là con nhài, con mụ.
    Bọn đầy tớ toàn những kẻ nghèo khó mới đi ở, tuỳ chủ nhà chi công tháng hoặc nuôi ăn, nhiều ít thế nào, miễn là đôi bên bằng lòng thì thôi.
    Đầy tớ ở với chủ nhà phải thực thà, phải siêng năng, phải trước sau một lòng, mới là có nghĩa. Mà chủ nhà với đầy tớ thì nên ở có lượng khoan dung nhân từ, đừng cay nghiệt quá, đừng hành hạ quá. Khi kẻ ăn người ở có bệnh tật gì cũng nên chăm nom thuốc ********* nó, chớ đừng nên như câu tục ngữ "Khoẻ mạnh thì ở cùng bà, đau mình sốt mẩy thì ra ở cầu". Khi có công việc hoặc có hoạn nạn gì thì nên giúp đỡ cho nó ít nhiều. Nó có lỗi to mở quở mắt trừng trọi, nếu lỗi nhỏ thì nên ngơ đi cho nó, thế mới là lựơng kẻ bao dung.
    Đầy tớ là kẻ chẳng may cô cùng sa sút, mới phải đi ở với mình, thì mình làm chủ nhà, phải có lòng thương, chớ nên khinh quá, mà ngược đãi làm chi. Lời phương ngôn"mất tiền mua mân bà đâm cho thủng, mất tiền mua bát bà đập cho tan", là một điều rất ác nghiệt, chớ nên bắt chước lời đó. Kẻ đầy tớ cũng phải nghĩ cái phận mình, chẳng may sinh vào cửa hèn hạ, hoặc cảnh khốn nạn phải đem thân mình làm kẻ tôi đòi người ta, mà lại gặp ông chủ có lòng thương yêu, có lượng rộng rãi thì phải hết lòng mà ở với chủ. Nếu chỉ biết cơm nhà chúa múa tối ngày, hoặc chỉ ích kỷ sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ đẫy, thì là một kẻ bất nghĩa, mang tiếng chê cười. Còn kẻ lừa thầy phản chủ lại là kẻ tối bất lương, muôn đời ai cũng chửi.​
    Better late than never
  7. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 7 : Quan hệ dâu gia .
    Hai nhà có con lấy nhau, gọi là dâu gia, hoặc là thông gia. Dâu gia vì tình con mà có nghĩa liên can với nhau. Khi dâu gia có người mất, ở thành thì phúng nhau bằng vàng hương câu đối. Ở nông thôn thì phúng nhau bằng sỏ lợn mâm xôi. Về sau người dâu gia khác mất, thì người ăn thừa tự của người dâu gia trước phải phúng, gọi là phúng trả nợ thay cho cha mẹ.
    Nếu người nào lấy con gái mồ côi, không còn cha mẹ nào, thì nhà trai đối với anh em người con gái, cũng gọi là thông gia.
    Dâu gia nhiều người rất quý mến nhau. Khi hoạn nạn cũng cứu giúp nhau, mà cũng nhiều người vì nghe lời con mà sinh ra ghét nhau, có khi vì con mà thưa kiện nhau nữa, thế là dâu gia hóa ra oan gia.
    Dâu gia không có tình thâm nghĩa trọng với nhau gì mấy, nhưng vì con mà sinh ra tình nghĩa, thì thương yêu con bao nhiêu nên quý trọng dâu gia bấy nhiêu. Còn như con cái chẳng ưa nhau, về nhà thêm đặt lời này tiếng khác thì nên cho là kẻ non người trẻ dạ mắng bảo cho con chớ đừng nên nghe lời con mà mếch lòng ngườii lớn.
    Vả lại dâu gia cũng là người đồng thanh đồng khí với mình, xưa nay cũng chẳng đã than thiết với nhau và dẫu chưa biết nhau bao giờ nhưng chắc cung là xứng đáng với mình, thì mình có lẽ nào vì lời con mà bỏ tình cũ được.
    Lạ gì mẹ chồng nàng dâu, có tài nào mà giữ được khỏi điều này tiếng nọ mà nghe con gái bù lu bù loa, ít xít ra nhiều có điều gì mà chẳng về mách với mẹ, đàn bà lại hay nhẹ dạ thấy con khóc nức nở thì thương. Đàn ông thì lại hay nghe vợ, nghe vợ nói thì cho là thực rồi nhân thế mà dâu gia oán ghét nhau. Vậy không nên nghe lời con làm gì, thì nghĩa mới chọn thuỷ chung.
    Better late than never
  8. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 8 : Quan hệ nho giáo .
    Nước ta sùng nhất là nho giáo. Nguyên uỷ nho giáo lưu truyền kể cũng đã lâu: Bắt đầu từ vua Phục Hy chế ra bát quái, vua Hạ Vũ dựng ra cửu trùng, đã là gốc triết học của nho giáo. Điển, mô, huấn, cáo là những lời khuyên răn của Vũ Đại, Cao dao, Y Doãn, Phó Duyệt, đã là gốc luôn lý học của nho giáo, Nghiêu, Thuấn đặt ra điển hình, Châu Công chế ra lễ nhạc, đã là gốc chính trị học của nho giáo.
    Đến đời Xuân Thu có Đức Khổng Phu Tử, ngài góp nhặt các lời lẽ, văn chương của các tiền thánh để giạy thiên hạ, từ đó mới thành lối học riêng gọi là nho giáo. Và muôn đời về sau, ai ai cũng suy tôn là Tiên Thánh, Tiên Sư.
    Ngày huý là Khâu, biểu tự là Trọng Ni, Thánh phụ là Khổng Gia Phủ, tự là Thúc Lương Ngột, làm quan nước lỗ. Thánh mẫu là Nhan thị. Cầu tự ở núi Ni Sơn mà sinh ra ngài. Ngài sinh ngày hai mươi bảy tháng tám Canh Tuất là năm thứ hai mươi một đời vua Linh Vương nhà Châu, Trước Thiên Chúa giáng sinh 445 năm, sinh tại làng Xương Bình huyện Khúc Phụ, nước Lỗ.
    Ngoại thư chép rằng: Khi ngài mới sinh, có năm ngôi sao hiện thành năm ông già xuống sân mà thăm ngài, lại có ba con rồng phủ quanh nhà, Lời ấy là lời tục truyền, chắc là của người suy tôn đạo Ngài, bày ra một điển linh dị, để phân biệt với người thường.
    Hồi ngài còn nhỏ, hay chơi những đồ biển đậu (như các thức đèn nến trẻ con chơi). Ngài bẩm tính sinh tri, thiên tự rất thông minh. Học rộng kiến văn nhiều, biết thấu lẽ huyền diệu của tạo hoá. Vua nước Lỗ, nghe tiếng ngài là bậc hiền thánh dùng ngài làm quan tư Khấu (coi việc hình) và đã dùng ngài làm tướng, song chẳng bao lâu, vua nước lỗ đam mê về vũ nhạc, trễ nải việc triều chính, Ngài can ngăn không được nên đã từ chức.
    Từ đó Ngài chu du các nước chư hầu như: Tề, Vệ, Sở, Tống... Ngài mong đem đạo học của Ngài để cứu đời, nhưng khi đi đến nước nào vua nước ấy cũng không biết tin dùng ngài, đến khi Ngài già, trở về nước Lỗ, mở trường học ở nơi Hạn đàn để dạy học trò. Ngài san định lại kinh thi, kính thư, kinh dịch, kinh lễ, kinh nhạc, kinh xuân thu, gọi là lục kinh (sáu bộ sách), Ngài dạy người ta cốt nhất là những điều hiếu, trung, thứ, tu, tề, trị, bình. Hiếu để thờ cha mẹ cho có lòng thảo thuận đễ để với anh em cho có lòng hoà thuận, trung để thờ vua cho hết lòng, thứ để ở với người cho biết suy bụng ta ra bụng người. Tu là sửa cái nết trong mình, tề là đạo tề gia, trị là đạo trị nước, bình là đạo trị thiên hạ.
    Tám điều noí đó là tôn chỉ của đạo Ngài. Ngài lại dạy người ta lấy tục nghệ (sáu nghề). Lục nghệ là: Lễ (lễ nghi), nhạc (âm nhạc), xạ (là phép bắn cung), ngự (phép cưỡi ngựa), thư (phép viết), số (phép tính). Lễ là một cách để giao thiệp, nhạc để dưỡng tính tình, xạ, ngự tức là cách thể thao, số tức là toán pháp.
    Học trò ngài đông tới ba ngàn người và vào bực cao hiển được bảy mươi hai người. Trong bọn cao hiền lại duy có Nhan Hồi, Tăng Xâm là giỏi hơn hết.
    Ngài thọ bảy mươi ba tuổi thì mất, bấy giờ là ngày mười tám tháng hai nam Nhâm Tuất là năm thứ bốn mươi mốt đời vua kinh vương nhà Châu trước Thiên chúa giáng sinh ba trăm ba mươi bảy năm.
    Ngài mất rồi, thì học trò lập đền thờ ngay ở chỗ nhà Ngài. Thầy tăng Tử chép lời ngài soạn ra sách Đại học, các học trò ghi chép lời ăn nết ở của ngài soạn ra sách luận ngữ, để truyền đạo giáo của ngài. Kế đến cháu Ngài là thầy Tử Tư soạn ra sách Trung Dung, cách đời ngài một trăm mười năm lại có thầy mạch Tử soạn ra sách Mạnh Tử, cũng toàn là phát minh thêm đạo ngài, để truyền bá đi thiên hạ dạy người.
    Từ đó thì đạo nho mỗi ngày lưu truyền một rộng. Đến đời vua cao tổ nhà Hán, mới lên ngôi vua, trước hết dùng lễ thái lao (một con trâu, một con bò và một con dê) than đến tế ngài tại nơi nhà thờ. Các đời vua sùng đạo nho trước từ đấy. Đến đời vua Vũ Đế, đặt quan Bác sĩ đem năm kinh của Ngài ra để dạy thiên hạ (vì kinh nhạc đã mất từ khi nhà Tần đốt sách, cho nên chỉ còn năm kinh). Lại chuyên tôn đạo Khổng Tử mà bỏ cả các sách vở của các nhà (như Lão Tử, Trang Tử, Dương Tử, Mạc Tử...) vì thế đạo nho lại thịnh hơn nữa, mà từ đó mọi cách chính trị, đạo luân lý, khoa triết học của Tàu, nhất thiết đều tuân theo đạo nho.
    Trên thì có nhà vua tôn sùng, dưới thì có các nha hiền triết đặt ra lời bàn câu nói, soạn ra sách nọ sách kia, đều để phát minh thêm cái nghĩa đạo nho. Như nhà Hán thì có Đổng Trọng Thư, Giả Nghị, Lương Hướng, Trịnh Khang Thành: Nhà Đường thì có Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên: Nhà Tống thì có Chu Liêm Khê, Trình Minh Đạo, Trương Hoành Cử, Chu Khảo Đình... Các bậc ấy đều là danh nho một đời, có công duy trì đạo thống rất nhiều.
    Nguyên, Minh trở về sau; đạo nho lại càng thịnh hành. Quân ấp nào cũng có miếu thờ ngài gọi là Văn Miếu. Đâu đâu cũng tôn ngài là Chính thánh tiên sư.
    Nho giáo thịnh hành ở Trung Quốc rồi truyền dần về khắp á Đông mà nước ta từ lúc nội thuộc nhà hán, người Trung Quốc như ông Sĩ Nhiếp, ông tích Quang đã đem đạo nho mà rải rác sang nước ta. Đến đời vua Thánh Tôn nhà Lý mới lập Văn Miếu( tức đền Giám Hà Nội bây giờ) thờ Thiên thánh; thờ kèm thầy Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, gọi là tứ phối bọn thầy Tử Cống, Tử Hạ cả thảy mười người, gọi là thật triết. ở ngoài hai bên tả mạc hữu mạc, thì thờ các vị cao hiền và thờ các bậc tiên hiền tiên nho từ đời nhà Hán, Đường cho đến đời Nguyên, Minh, Các người ấy toàn là người tàu, người nước ta thì sau mới thờ thêm ông Chu Văn An là người làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trỉ về đời nhà Trần.
    Văn Miếu là nơi duy trì đạo thống cho trong nước. Vua mỗi năm hai kỳ xuân thu dùng trong lễ than ra tế để tỏ lòng tôn sùng đạo Ngài. Lại dùng kinh truyện để thi học trò, dùng nho thuật để trị thiên hạ. Các đời vua về sau, mỗi ngày một mở mang thêm sự văn hoá thì đạo nho mỗi ngày một thịnh thêm.
    Vài chục năm nay nước ta tiêm nhiễm lối Âu học, xem ra nhiều ý tưởng cao là và nhiều sự thực nghiệm. Đạo nho tuy cũng có nhiều người sùng mộ, mà cũng có người tù thời mà theo lối Âu châu. Mà trong việc học hành chữ nho cũng không được thịnh như trước nữa. Ở Sài Gòn còn không mấy người tinh thông chữ nho, ở Bắc có lẽ vài chục năm nữa cũng vậy, ấy cũng là một cơ hội xoay đổi quan hệ đến vận nước hay dở mai sau.
    Đạo nho là một đạo bình thường giản dị, thuận lễ tự nhiên của tạo hoá, và hợp với tính tình đương nhiên của người ta, ai cũng có thể noi theo được. Người mà có nho học, thì nên có một người nết na, có phép tắc, có lòng nhân ái. Nước mà dùng nho đạo, thì nên có một nước kỷ cương, có thể thống dễ cho việc cai trị.
    Duy có một điều: triết lý thì nhiều điều viển vông, mà khiến cho người ta khó hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc, mà khiến cho người ta khó theo. Tính tình thì chuộng một cách êm ái hoà nhã, khiến cho dân khí nhu nhược, không được hùng dũng hoạt động như tính người Âu châu, nhu dụng thì chuộng một cách tiết kiệm tầm thường khiến cho kỹ nghệ thô sơ, không được tinh xảo phát đạt như các nước Thái Tây. Nói rút lại thì đạo nho là một đạo tự trị thi rất hay, mà đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh. Còn như các thói hủ bạo phần nhiều là bởi tự người làm nên tệ, chớ không nên đổ cho tại nho giáo. ​
    Better late than never
  9. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 9 : Quan hệ phật giáo .
    Phật giáo là do đạo Bà la môn mà ra, nguyên trước Thiên chúa giáng sinh, dân tộc Á Lợi An tràn vào đất Ấn Độ, ở rải rác một dọc sông Hằng, dựng ra thành nhiều nước nhỏ. Dân xứ đó chia ra làm bốn bậc người: bậc thứ nhất, gọi là Bà la môn, có bọn thầy tu làm chủ, coi riêng việc tế tự, bậc thứ nhì là Lý đế lợi, các quý tộc làm chủ, coi về quyền chính trị, bậc thứ ba gọi là Phệ xá tức là hạng bình dân, bậc thứ tư gọi là Thủ đà chỉ làm nô lệ mà thôi.
    Đạo Bà la môn vẫn thông hành ở xứ đó. Đến sau có ông Thích Ca mầu ni, thấy bọn thầy tu đạo Bà la môn sinh lắm điều lệ, và lại thấy người ai cũng ở trong vòng luân hồi, cũng chịu cảnh khổ não, như là: sinh, lão, bệnh, tử là bốn cái kiếp khốn nạn, vì thế chán đời, mà cầu một phép để giải thoát cái khổ não ấy, mới dựng ra một tôn giáo riêng gọi là Phật Giáo. Môn đồ về sau suy tôn ông ấy gọi là Phật Tổ Như Lai.
    Nguyên ông ấy là Thích ca, tên là Cổ Đàm (Gôtama) tự là Thất Đạt ca, con vua nước Ca Duy Vệ (một nước nhỏ trọng nước Ấn Độ) tên là Tĩnh Phạm Đồ đầu gia. Phật mẫu tên là Tĩnh Diệm. Sách phật nói rằng: "bà mẹ chiêm bao thấy người vàng đầu thai, mà sinh ra ngài". Lại có sách nói rằng: "Bà mẹ chiêm bao thấy con voi có sáu ngà, biến thành hào quang soi vào bụng, rồi có mang mười tháng, đến lúc sinh ra thì sinh ra đằng sườn phía hữu, tự nhiên có cái hoa sen nảy ra để đỡ ngài lên, lại có hai con rồng ở trên trời xuống phun nước để tắm cho ngài, và có bách thần xuống chăm nom săn sóc. Ngài màu da vàng, lông tóc dựng ngược. Sinh ra khỏi, Ngài bước đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà thét rằng "trên là trời, dưới là đất duy có ta là quý hơn cả". Lời ấy chắc cũng là môn đồ bày ra.
    Ngài sinh bấy giờ là ngày mồng tám tháng tư, nhưng không tường về năm nào. Một môn phái phía Bắc ấn Độ, thì nói sinh về năm 1028 trước Thiên Chúa vào khoảng đời vua Chiêu Vương nhà Chu, một môn phái ở phái Nam ấn Độ thì cho vào chừng năm 624 trước Thiên chúa, nhưng các nhà bác học thái tay bây giờ thì cho vào chừng năm 558 hoặc 520; cùng một thời với đức Khổng Tử.
    Ông Thích Ca cũng đã lấy ba vợ, sinh được một con trai là La Hầu La. Năm hai mươi chín tuổi (đây theo sách ấn Độ, chớ sách tàu thì nói năm mười chín tuổi) xảy thấy một người già yếu tàn tật vào ăn xin, mới suy nghĩ ra đời toàn cảnh khổ, lập túc bỏ nhà vào rừng đi tu. Trước hết nhà tu ở núi đàn Đặc và núi Toàn Sơn, sau đến tu ở xứ Xá Vệ, ngày ngày mặc áo cà sa ngồi dưới gốc cây, để tĩnh niệm nghĩ cách giải thoát. Được bảy năm, xẩy tỉnh ngộ được đạo huyền diệu, tự xưng là Bồ Đà (bouddha) nghĩa là trong tâm tính đã sáng suốt cả rồi, từ bấy giờ mới đi truyền đạo.
    Tục truyền ông ấy về sau ăn mỡ lợn, phát trướng mà mất ở nơi Câu thi. Lúc gần mất ông ấy nói rằng: "nay ta đã lên cõi Niết Bàn, nghĩa là lên chỗ cực lạc thế giới".
    Ngài mất rồi, các học trò soạn nhặt các lời di ngôn, lập lại thành sách, cả thảy bốn mươi hai chương, chia làm ba quyển gọi là kinh Tam Tạng. Tạng nghĩa là chứa, vì các lời ngài chép ra chứa vào một chỗ, cho nên gọi là tạng, Tam Tạng:
    1- Kinh Tạng, là những lời luân thường đạo lý;
    2- Luật Tạng, là những lời trời cấm;
    3- Luận Tạng, là những lời nghị luận.
    Mục đích đạo Phật, chỉ có hai chữ hư vô là kiêm hết. Có câu rằng: "Hết thảy không có cái gì, chỉ vì cái nhâm duyên mà sinh ra. Nay dẫu tạm có, nhưng bản tính vẫn là không. Người đời càn dở giữ lấy cho làm của mình có, cho nên Đức Như Lai ra đời, lấy một chũ vô mà phá cái hoặc đấy". Mấy câu ấy đủ rõ đạo phật.
    Đạo Phật chia trong cơ thể, gọi là Lục côn ) sáu cái gốc) là : nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), thân (mình), uý (ý tưởng). Các động vật có tới cơ thể, gọi là lục trần (sáu cái bụi) là: sắc (sắc đẹp). thanh (tiếng bay), hương (mùi thơm), vị (vị ngon), súc (chạm tới mình), pháp (tưởng tượng).
    Lại có ngũ giới (năm điều cấm) là bất sát sinh (không được giết súc vật), bất đạo (không được trômg cắp), bất gian dâm (không được gian dâm), bất vọng ngôn (không được nói càn), bất ẩm tửu, thực nhục (không được uống rượu, ăn thịt).
    Phép Phật có cách toạ thiền. Toạ thiền là người tu hành ngồi nhắm mắt ngoảnh mặt vào vách, tĩnh hết lòng trần tục, không nghĩa ngợi gì. Có bốn bậc:
    1- Sơ thiền, không lo lắng
    2- Nhị thiền, không khổ não
    3- Tam thiền, rất vui sướng
    4- Tứ thiền, không phải chịu vòng luân hồi nữa.
    Luân hồi là kiếp trước làm những điều tội ác, thì chết xuông âm phủ phải chịu những tội khổ sở, rồi kiếp sau lại phải làm các giống súc vật, hoặc phải đầy đoạ những khổ ải.
    Dưới âm phủ có một trăm ba mươi sáu động là những nơi ngục hình làm tội người ác. Những lời ấy là cách khuyên để khuyên cho người ta làm hiện mà chớ làm ác ấy thôi.
    Rút lại thì đạo phật có hai chủ ý: một là sự khổ não, hai là giải thoát sự khổ não. Khổ não là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì khỏi khổ, vậy thì bỏ hết lòng dục trói buộc ở trần thế, thì ra được ngoài vòng luân hồi, rồi mới lên được cõi Niết bàn, nghĩa là lên cõi không khônglà nơi cực lạc thế giới.
    Trên này nói đại khái nguyên uỷ đạo phật, còn đạo phật thịnh hành ở Ấn Độ và truyền bá sang tàu, sang ta, thì trongViệt sử yếu của cụ Quận Hoàng nói đã tường, nay xin nhắc lại và dịch như sau này:
    "Sau khi ông Thích Ca mất, học trò là Ma Kha Ca Diệp hội hết đồ để thành Vương Sá cả thảy năm trăm người, đó là lần thứ nhất Phật giáo hội tụ. Cách một trăm năm nữa, Gia Sá Đa lại họp đệ tử ở Đôn sá Lị, cả thảy bảy trăm người, đó là lần thứ hai Phật giáo hội tụ. Tuy vậy trước sau trong ba năm, phật giáo lưu truyền, chỉ ở quanh một giải sông Hoàng Hà. Đến đời vua Mai Lị Gia dựng nước ở giữa đất Ấn Độ, hết sức mà chủ trì Phật giáo, thì Phật Giáo mời lan khắp cả sứ Ấn Độ. Trước Thiên chúa hai trăm ba mươi bốn năm (năm thứ hai mươi bốn đời Châu Noãn Vương), vua Kế Ma đại hội ở Kinh Đô, duy lấy phật giáo làm tôn chủ, bắt ép người trong nước phải theo, và sai bọn thầy chùa làm giáo sĩ, đi ra ngoại quốc mà truyền đạo; Từ đó Phật giáo mới lan khắp ra thế giới vậy.
    Nước Tàu từ khi Ban Siêu (vào đời Hán Võ đế) đi sứ Tây Vực trở về danh hiệu Phật ở phương Tây, mới thấu đến tai người tàu. Năm Vĩnh Bình thứ tám đời vua Minh đế hán (Sau Thiên chúa sáu chục năm), vua sai người Thái Tịch sang Tây trúc cầu Phật. Thái Tịch mạng kinh Phật và hai thầy tăng là Nghiệp Mã đằng, Chúc Pháp Lan về Lạc Dương, vua sai lập chùa Bạch Mã để thờ Phật. Về sau có bọn Chi Đầu đà, Mã An Thế, Khang MịchTường mới dùng chữ nho mà dịch kinh là phật để dạy người tàu, các người ấy toàn là người Ấn Độ đến ở Tàu.
    Năm Long An thứ ba đời vua An Đế nhà Tần (402) có người Phát Hiển qua đời Ấn Độ , đi du lịch hơn ba chục nước, rồi tự Tích Lan đảo vượt bể Nam Hải, mà về nước. Năm Đại Thông đời vua Vũ Đế nhà Lương (532), người Phổ Văn là người Tuệ Sing sang phía Bắc nước Ấn Độ, đem kinh phật về nước. Năm Trinh quán thí ba đời vua Thái Tôn nhà Đường, thầy chùa là Huyền Trang đi men Tây sang Ấn Độ mua được kinh Phật sáu trăm năm mươi bản. Năm Hàm Thanh thứ hai đời vua cao Tôn nhà đường (726) thầy chùa là Nghĩa Tính đi qua bể Nam Hải sang Ấn Độ, lấy được kinh Phật bốn trăm bản, ấy đều là người tàu sang Ấn Độ.
    Đương khi nước ta nội thuộc, người tàu tôn tín thì người nước ta cũng tôn tín, ấy gọi là chủ đi đường nào thì đi đường đấy. Xét cho nội thuộc nhà Lương. Có người Lý Phật tử, Lý là họ, Phật Tử là tên, tức là tục cầu tự di truyền lại, mà thói mộ đạo Phật đã lâu chăng?
    Xét ở cựu sử chép năm Thái Bình thứ hai đời vua Tiên Hoàng nhà Đinh, vua mến đạo phật, dùng người Ngô Chân Lưu làm Khuôn Việt thái sư. Đời vua Đại Hành nhà Lê, Sứ, Tàu đến nước ta, bao nhiêu tờ bồi vãng lai đều do ở tay Khuông Việt. Sau vua lại sai sứ sang Tàu cầu kinh Tam Tạng, vậy thì phật giáo truyền sang nước ta từ đó.
    Vua Lý Thái Tổ là một vị vua chúa mà học thầy chùa là Vạn Hạnh; người nước ta như Từ Đào Hạnh, Không Lộ, Mẫu Giác, Lư ất đều là bậc danh nho mà tham tuý về phật học. Từ nhà Đinh đến nhà Lý, dựng chùa mô tượng, không lúc nào không có, vậy thì phật giáo thịnh hành ở nước ta cũng đã lâu.
    Song đương bấy giờ các bậc danh công như ông Phạm Sư Mạnh, ông Lê Bá Quát cũng đã bài bác đi rồi. Đến đời vua Lê Thánh Tôn, lại cấm dân không được lập chùa mới, vậy Khổng giáo mỗi ngày một thịnh, thì Phật giáo mỗi ngày một suy, cũng là cái thềm bậc tiến hoá tự nhiện đó.
    Xét đạo phật ấy hư vô làm tôn chỉ. chú ý rằng hết thảy chúng sinh nếu bỏ hết lòng ham muốn mà rũ sạch cái bụi đời bám vào mình, thì ngày sau mình hưởng cái phúc vô lượng. Cái mục đích ấy cũng cao, cái chủ ý ấy cũng lạ. Song hiềm vì đạ phật bày ra lắm điều kỳ ảo, nào luân hồi, nào siêu thoát, nào hoạ phúc, nào nhân quả, nói toàn những mối dị đoan, làm cho lòng người mê tín, mà không ích cho s ự thật cho nên đạo nho phải bác đi mà không cho là chính đạo.
    Tuy vậy, Phật giáo cũng là một đạo giáo, người tầm thường vị tất đã hiểu thấu lý cao âu của nhà phật, thì cũng chớ nên bài bác khinh bỉ mà thành ra một người vô hạnh. ​
    Better late than never
  10. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thứ 10 : Quan hệ lão tử .
    Lão tử giáo tức là đạo giáo, Lão Tử họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thuỵ là Đam, người làng Khúc Nhân, huyện Hỗ nước Sở, sinh năm thứ ba vua Định Vương, đời Đông Châu cũng đồng thời với Khổng Tử. Bà mẹ mang thai tám mươi năm mới sinh ra ông ấy, lúc sinh đầu đã bạc cho nên gọi là Lão Tử.
    Lão Tử làm quan trụ hạ sở đời Châu, rồi thấy nhà Châu suy nhược bèn thôi làm qua mà đi ẩn.
    Lão Tử thấy đời bấy giờ chuộng về lễ nghĩa, nhiều điều vụn vặt, muốn uốn nắn lại cái lệ ấy, bèn soạn ra một đạo kinh Đạo Đức, cả thảy hơn năm ngàn câu nói, chủ ý cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh, không cần phải làm gì, nghĩa là muôn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng nghĩ ngợi, mới hưởng được sự khoái lạc tiều diêu.
    Sử ký chép rằng: Khổng Tử hỏi lễ. Lão Tử đáp "người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón mà đi chân không. Ta nghe: Người buôn bán giỏi khéo chứa của, như người không có gì; người quân tử có tốt đức, coi diện mạo như người ngu. Bỏ cái khí kiêu căng và lòng ham muốn, cùng là cái sắc dục và cái dâm chí của người; ấy điều là vô ích cho mình ngươi cả".
    Xem mấy lời đó thì đủ biết tôn chỉ của lối học Lão Tử.
    Lão Tử không biết mất về năm nào, Sau đó Liệt Khâu soạn ra sách Liệt Tử, Trang Chu soạn ra sách Trang Tử, cũng đều là lưu phái của đạo giáo.
    Trung Quốc mãi đến đời Tần, Nguỵ thì lối học của Loã Tử mới được thịnh hành. Trên từ Vua Chúa, dưới đến sĩ phu, ai ai cũng tôn sùng đạo giáo và Tôn Lão tử là Thái thượng Lão Quân.
    Đạo Lão Tử truyền sang nước ta cũng từ buổi nội thuộc ấy.
    Đạo giáo tuy không thịnh hành như đạo nho, đạo Phật, nhưng các bậc cao nhân dật sĩ phần nhiều tiêm nhiễm đạo giáo mà lĩnh hội được cái tinh thần. Phàm người phóng khoáng, người có mưu cơ, người biết nhẫn nhục, người ưu thanh tĩnh; người chán việc đời là hội được cái tinh thần của đạo giáo cả.
    Còn cái hình thức bề ngoài, như các việc ma quỷ thần tiên, kiêng khem cấm kỵ, nhương tai, kỳ phúc, thì ta tin theo cũng nhiều, nhưng bất cứ hạng người nào, ai tin thì tin không có đạo phái môn đồ nào ép buộc. Còn chính đạo phái môn đồ thì chẳng qua lác đác có mấy nhà phù thuỷ đạo sĩ mà thôi, mà bọn này thì cũng chẳng qua theo thể hức cũ, bùa bèn ấn quyết, trừ ma quỷ dùng cách ấy để làm nghề kiếm ăn trong vòng hạ lưu xã hội, chớ kỳ thực thì không biết tôn đạo chỉ đạo giáo là gì?
    Đạo Lão Tử cốt lấy thanh tĩnh tự nhiên làm tôn chỉ, cái ý tưởng ấy rất cao xa, không phải người tầm thường hiểu thấu được. Người ta có biết đích xá được cái thân là cái nguồn khổ sở, cái trí không là cái gốc phiền luỵ, thì mới biết được cái tôn chỉ ấy là rất cao; lại phải xét cho thấu hết việc đòi, hiểu cho rõ hết tính người, đem một tấm lòng nhạt nhẽo hư không mà giao thiệp cho đời, không có một sợi tơ sợi tóc nào vương vít đến trước mắt, thì mới biết được đạo ấy có một cái thú ung dung, nhà nhã, sung sướng, khoan thai. Còn các việc đời tuỳ sảy đến việc gì thì ứng đối việc đấy, không cần phải khó nhọc hơi sức, lao tổn tinh thần, dùng cái lẽ tự nhiên mà đâu ra đấy cả.
    Vậy thì đạo ấy cũng là một lối học rất cao, một ý tưởng rát lạ, không dễ mà bỉ bác được. Duy học theo đạo ấy thì phàm việc gì cũng cho là phù phiếm hư không, chỉ biết nhàn chán sung sướng riêng lấy một mình, mà không biết tưởng gì đến đời, cho nên đạo nho cũng bác đi mà không cho là chính đạo.
    Còn cái lưu phái đạo Lão Tử, về sau biến ra thành lối thuật số, cách tu luyện, đạo phù thuỷ, thì là các môn đồ đạo phái nhân trong ông chỉ mà suy diễn ra toàn là các mối dị đoan, làm cho dân trí hư hoại, không có ích gì cho sự hực dụng.
    Nước ta bây giờ tuy không có môn phái đạo Lão Tử, nhưng cái tính mê tín dị đoan thì tiêm nhiễm đã lâu, cũng bởi đạo ấy di truyền lại. Mà lòng người mê tín dị đoan, thì lại là bởi không hiểu đến tôn chỉ của đạo ấy. Chớ nếu hiểu được tôn chỉ thì dầu chẳng như Thánh nhân hưng công lập nghiệp, nhưng cũng làm nên một bậc người chí hướng cao kỳ, tiêu diêu ở ngoài cõi phong trần, Vậy ta chớ nên vì mấy bác thầy cúng, mấy kẻ in dị đoan mà vội khinh bỉ Lão được.​
    Better late than never

Chia sẻ trang này