1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các mối quan hệ và phong tục Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanh_ala, 27/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Natania

    Natania Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/02/2003
    Bài viết:
    72
    Đã được thích:
    0
    Góp thêm : Gia tô giáo .
    Đạo Gia Tô gốc ở Do Thái mà ra. Nguyên dân Do Thái (Juifs) ở về phía Tây Thổ Nhĩ Kỳ, xưa nay vẫn trùng phụng một vị thần Jehovah, dân tin rằng thần Jehovah sáng lập nên trời đất và tạo thành ra muôn vật, sau lại tạo ra người theo như hình dung của thần, đàn ông thì gọi là Adam, đàn bà thì gọi là Eve, cho ở vườn cực lạc để cai quản các giống thú vật và được ăn các thứ hoa quả, chỉ trừ ra không được ăn quả cây táo thần cấm mà thôi. Đến sau, quỷ thấy người được sung sướng, mới xúi Eve ăn quả táo và đem cho chồng ăn nữa. Khi ăn rồi thì mới biết mình trần truồng là xấu hổ. Đến lúc thần lại thăm vườn thì người ấy chạy đi chốn. Thần giận bèn đuổi hai người xuống phàm trần, để cho chịu những điều cực khổ, nhưng lại hứa rằng sau sẽ sai người xuống chuộc tội cho.
    Ấy là những sự tôn tín của dân Do Thái. Dân Do Thái bị dân Ai Cập (Egypte) áp chế bắt đi làm nô lệ, chụi nhiều điều cực khổ. Mãi đến về sau mới có một người tên là Moise đem dân về sứ Gia lộ tát tĩnh (Jérsalem) làm đền thờ thần Jehovah mà theo giữa lời thập giới. Có một đảng thầy thường có những người tiên tri gọi là Prophète, bảo dân Do Thái rằng: thần Jehovah sắp sai người xuống chuộc tội và cho dân ta được vinh hiển hơn dân khác.
    Sau các thầy tu gọi là bọn Pharsiens cứ vin tiếng thần để làm bậy bạ và hiếp dân, bấy giờ mới có Đức Tô Gia (Jésus) ra đời, cải lương đạo khác, gọi là đạo thiên chúa.
    Cứ theo sách của bác sĩ Âu châu thì Đức Gia tô sinh tại Nã Tát Lặc (Nazereth) ở một tỉnh nhỏ ở xứ Gia Lik Lị (Galillée) ở Đông Thổ Nhĩ Kỳ (tức là Tiểu Á tế á) vào chừng năm nguyên thuỷ đời vua Hiếu Bình nhà Hán. Lịch tâm kỷ nguyên, bắt đầu ngày từ hôm ấy.
    Sách bác sĩ nói: Phụ thân ngài Joseph, mẫu thân ngài là Maria, và ngài cũng có nhiều anh em. Nhưng cứ lời tục truyền thì bà Maria cảm thần mộng mà sinh ra ngài, mà ông Joseph là cha nuôi mà thôi. Tính ngài rất thông minh, trước học theo đạo Do Thái, sau thấy bọn thầy tu làm nhiều chuyện bậy bạ hại dân thì mới lập ra môn đạo khác để cứu đời. Mục đích đạo thiên chúa thì chỉ cốt dạy người ta lấy sự yêu mến tôn kính Đức Thiên Chúa làm gốc, mà sự thờ kính cốt ở trong lòng không cần gì trang sức bê ngoài. Đối với người ta thì côt giữ bụng từ bi nhân thứ, coi nhau như anh em ruột một nhà, mà ai ai cũng bình đẳng cả.
    Môn đồ tin theo mỗi ngày một đông. Bọn thầy chùa đạo Do Thái sợ mất quyền lợi, mới xui quam La Mã làm hại, Xong dẫu có đức Gia Tô bị hại mà người tin theo lại càng nhiều. Sau này các môn đồ lại đem đạo ấy mà đi truyền đi khắp nơi. Ông Saint Pierre thì sang truyền giáo bên La Mã, ông Saint Paul thì sang truyền giáo bên Hy Lạp, rồi rải rác đi khắp nơi, ai ai cũng tôn ngài là con của Thiên Chúa, thay cha mà xuống cứu dân.
    Trong khoảng đệ ngũ thế kỷ, các nước bên Âu châu tôn tín đạo Thiên Chúa rất thịnh. Mở ra một toà Giám đốc kinh đô La Mã mà công cư một người làm Giáo Hoàng để coi việc giáo, từ đệ thập thế kỷ trở về, các nước có việc gì to cũng xin phép đến Giáo Hoàng, các vua nối ngôi, được Giáo Hoàng làm lễ gia miện ( đội mũ) ch làm vinh hiển lắm. Mà quyền chính trị cũng về tay Giáo Hoàng.
    Vào hồi thập lục thế kỷ, có người Nhật Nhĩ Man tên là Mã Đinh Lộ Trắc (Martin Luther) và người học trò tên là Uốc Hàn Gia nhĩ (người Pháp) dựng ra môn giáo mới để phản đối với đạo Thiên Chúa, vì thế trong tôn giáo phân ra làm hai đàng đánh nhau chết bại rất nhiều. Giáo Hoàng khi thấy quyền hành không được bằng như trước, mới tìm cách truyền đạo ra toàn cầu.
    Đạo Thiên Chúa truyền sang nước ta, kể ra cũng có lâu, cứ trong Quốc sử chép thì đời Nguyên Hoà nguyên niên nhà Lê (1523), người nước Hà Lan là I Nê Khu, mới bắt đầu đến các địa phương Nam Chân, Dao Thuỷ ( thuộc tỉnh Nam Định) giảng đạo thiên chúa. Ở sách tây thì chép rằng: Các thầy Dòng bên Âu Châu năm 1615 đến sứ Nam Kỳ, 1626 thì đến sứ Bắc Kỳ; các thầy ấy là người nước Pháp, nước Tây Ban Nha và người nước Giéc Manh (Đức).
    Vậy thì đạo truyền sang nước ta, chắc là bắt đầu từ người Hà Lan, mà người các nước là tiếp theo đến sau truyền giáo cả.
    Trong năm 1765, Giáo hội cử thầy Bá Đa Lộc (Pígneau de Béhaine) sang giảng giáo ở các miền Xiêm La, Tây Trúc, Cao Man: Năm 1780 thì thầy Bá Đa Lộc đến miền Biên Hoà, dựng nên nhà thờ để giảng đạo. Năm 1783 Gia Long bấy giờ là chúa Nam Kỳ, nhân vì đánh nhau với Nguyễn Huệ bị thua phải tránh nạn, gặp Bá Đa Lộc ở Cà Mau, nói chuyện với nhau vui lòng lắm. Đức Gia Long mới cậy ngài đem Hoàng tử Cảnh về cầu cứu bên nước Pháp, rồi vì thế mà khôi phục được nước và nhất thống cả nước Nam.
    Đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thì nước nghiêm cấm người theo đạo Thiên Chúa, nhưng chẳng bao lâu vì chuyện ấy mà gây nên mối hiềm khích cho nước Pháp. Từ lúc vua nước ta và nước Pháp lập hoà ước thì đạo Thiên Chúa lại thịnh hành ở xứ ta.
    Quy ước của người thao đạo Thiên Chúa, mỗi người phải đeo một bộ câu rút, ở nhà thờ thì tượng Thiên Chúa và cây thánh giá hình chữ thập (+), tức là một thứ hình cụ khi đức Chúa bị nạn thay tội cho trần gian. Đeo vào mình để làm một sự kỷ niệm cho lúc nào cũng trông thấy công đức của Chúa.
    Mỗi ngày trước khi ăn cơm và lúc đi ngủ lúc mới thức dậy, phải chỉ lên trán, hai vai, ngực, gọi là làm dấu, rồi tụng một bài cầu nguyện, tức là chúc tụng công đức của Thiên Chúa và cầu Chúa cho mình được cái lòng yêu mến ngài mãi mãi. Mỗi một chủ nhật và ngày lễ thì người có đạo đến nhà thờ quỳ trước tượng Thiên Chúa mà cầu kinh, đoạn rồi vào một nhà riêng quỳ trước mặt ông cố mà thú tội. Ông chúa ban cho ăn một miếng bánh thánh cho được gội nhuần ơn Chúa.
    Người theo đạo chỉ được phép lấy một vợ một chồng. Khi mới cưới, vợ chồng phải đem nhau đến nhà thờ làm phép cưới, ông cố chúc cho một vài câu, và rảy nước phép rửa tội cho. Khi sinh con, khi chết, cũng đều đem đến nhà thờ rửa tội.
    Mỗi năm có ngày thứ tư gọi là ngày vào mùa (Cendres) và một ngày chủ nhật gọi là ngày ra mùa (Pâque). Trong khoảng hai ngày ấy cả thảy bốn mươi ngày thì nhà theo đạo cứ ngày thứ tư và thứ sáu phải ăn chay (kiêng thịt, cá và trứng thì ăn được). Nghĩa là trong những ngày Đức Cháu bị nạn thì phải kiêng kỵ, đến ngày ra mùa là ngày phục sinh thì mới thôi. Còn quanh năm thì thường ngày thứ sáu bao giờ cũng phải ăn chay. Mỗi năm cứ đến ngày 25 tháng 12 ngày sinh nhật Đức Chúa thì các nhà thờ làm lễ Noel, ngày mười lăm tháng Aout là ngày Thánh Mẫu lên trời thì các nhà thờ làm lễ Assomption. Người có đạo đến lễ đông lắm. Lại có một nhà thờ rước đi quanh phố, gọi là lễ Fête Diêu.
    Người đi tu chia làm hai thứ: Một thứ vào nhà tu, chỉ chuyên nghề tụng niệm suốt cả đời, mà cách ăn ở thì rất khổ hạnh. Một thứ thì phải học cho giỏi khoa thần học và biết đủ loại nhà thờ, ai thi đỗ thì mới được phép làm lễ ở nhà thờ và được cử đi làm cố, làm giáo mục...
    Nước ta khi trước rất mộ nho giáo, mà nho giáo thì trọng nhất là việc tế tự, thấy đạo Thiên Chúa chỉ sùng bái riêng một phần, ngoại giả không lễ, bài gì nữa, cho nên gọi là đạo phản đối mà sinh ra lắm sự tàn ngược. Song cứ sét cái chủ ý của Đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt khuyên người ta phải thương yêu nhau, chẳng khác gì lòng nhân thí đạo nho, lòng từ bi của đạo Phật, vạy mới biết thánh nào cũng vậy, chỉ dạy người ta cái sự làm lành mà thôi. Người ta không xét đến nơi đến chốn mà cứ lạ tai lạ mắt thì đem lòng hiềm nghi lẫn nhau thực là điều trái với tôn chỉ của đạo giáo mình cả.
    Vả lại lòng tin tưởng của người nên mặc cho người ta được tự do, sao nên lấy ý riêng của mình mà ngăn cấm, ấy lại là trái với lẽ công bằng nữa.
    Bây giờ thì nước nào cũng rõ cái lẽ tự do tôn giáo, đạo thịnh nay suy chỉ cốt bởi lòng người tôn tín nhiều hay ít, chứ không còn thói ghen ghét nhau như xưa nữa.
    TTVNONLINE Tiến lên...!
  2. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Phong tục gia tộc :
    Thứ nhất : Kỷ nhật .
    Ngày giỗ cụ kỵ, ông bà, cha mẹ gọi là ngày kỵ nhật. Chiều hôm trước là cúng tiên thường, hôm sau mới là ngày chính kỵ. Cái giỗ xa (cụ kỵ ông bà) thì sắm sửa con gà, ván xôi hoặc một vài mâm cỗ, trước cúng gia tiên, sau con cháu sum họp ăn uống với nhau. Còn về ngày giỗ cha mẹ thì tục thường làm phong hơn.
    Trong khi giỗ, dẫu làm lớn nhỏ thế nào mặc lòng, nhưng tất làm sao phải có bát cơm úp vào một quả chứng luộc làm đầu. Cỗ bàn thì tuỳ nhà giàu, nghèo mà sử phong kiệm khác nhau. Nhiều nhà mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa người thì mang chè, cau, rượu, người thì đem vàng hương đến lễ giỗ, rồi mới uống rượu.
    Nhà hào trưởng trong làng, có khi cả làng đến ăn giỗ, nhà ông thầy dạy nhiều học trò, thì cả học trò đến ăn giỗ, nhà quan trưởng thì thường cả tổng lý phủ huyện đến lễ giỗ, ăn uống phiền phí lắm.
    Có nơi, nhiều hôm cúng tiên thường, bà con đã đến chơi đông, uống rượu xong thì dở ra bài bạc thuốc phiện, lấy tiếng rằng ở lại chầu chực gia tiên mà bày ra cuộc vui vẻ. Sáng hôm sau uống một bữa rượu chính kỵ nữa mới tan.
    Nhớ kỵ nhật tiền nhân mà cúng cấp cũng là một bụng tốt. Nhưng nguyên ý lúc người mới chế lễ ra, chẳng qua dùng cách ấy để tỏ lòng nhớ tiền nhân là người sinh mình, người gây dựng nên cơ nghiệp cho mình, là một ý bất vong bản mà thôi. Chớ không dùng cách ấy để làm sự vui vẻ làm cách giao thiệp với đời. Kỳ thủy ta không phải là không hiểu ý ấy, nhưng chắc vì cớ mấy người trước muốn nhân dịp nhà mình có sẵn cỗ bàn cúng cấp mà muốn hội mặt bà con anh em. Hoặc vì bà con anh em, cùng người gia hạ, nhớ đến ân tình của ông cha mình, hay là ví nể mình và đến lễ kỵ, mình có lẽ nào vong tình được mà chẳng khoản đãi. Vì thế thành tục, rồi nhiều người phải miễn cưỡng mà theo tục, té ra phần nhớ đến tiên nhân thì ít, mà phần lo về khoản đãi bà con khách khứa thì nhiều.
    Đã đành cho rằng có thì mâm cao cỗ đầy, chẳng có thì lưng cơm cái trứng, cũng đủ tỏ chút lòng thành, nhưng ngặt vì tục đã quen, không cố mà lo được thì người ta chê là bủn xỉn, mà trong lòng mình cũng áy náy không đành!
    Ngày kỵ, là một ngày chung thân chi tang, là ngày thương xót, ngày rầu buồn, đáng lẽ chỉ nên đóng cửa mà thương nhớ mới phải. Mà dẫu có theo tục dùng cách cúng tế làm sự kỷ niệm thì làm thế nào cho giản tiện, miễn là tỏ chút lòng với tổ tiên là đủ, tưởng không nên bày vẽ cho sinh tốn làm gì. Nếu có của mà muốn họp mặt bà con anh em, khoản đãi khách khứa thì tưởng nên dùng vào những dịp ăn mừng còn phải hơn.
    Xét như tục Âu châu, nhớ ngày huý nhật, con cái chỉ đem bó hoa ra mả là cùng.
    Tục Nhật Bản cũng chuộng sự tế tự, nhưng đến ngày huý nhật, con cháu chỉ đem hương hoa dưng cúng mà thôi.
    Xem như tục các nước văn minh ấy, tuy rằng thanh đạm nhưng thực đủ tỏ lòng thành kính, mà lại giữ được tiền của để dùng vào việc đáng dùng.
    Better late than never
  3. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Cha mẹ với con cái .
    Cha mẹ - Hai tiếng cha mẹ, nước ta mỗi nơi gọi cũng hơi khác nhau: Nơi gọi là Bố là Đẻ, nơi thì gọi là Thầy là U. Về đường ngược (Hưng Hoá ) thì gọi mẹ là Bầm, về đường trong thì gọi là Bụ. Nam kỳ gọi cha là Tía, gọi mẹ là Má. ở đây bây giờ lại nhiều người cho con gọi là Ba, gọi mẹ là Me. Còn các nhà hiếm hoi thì chẳng cứ gì, người thì cho con gọi là Chú Thím, người thì cho con gọi Anh Chị, Cậu Mợ. Ngày xưa lại có tiếng gọi mẹ là Cái nữa, tiếng ấy thì bây giờ không đâu dùng.
    Sinh con - Đàn bà có mang ai cũng muốn sinh con giai mà ít người muốn sinh con gái. Hàng xóm bà con nghe thấy sinh con giai thì mừng, trong khi có mang, váng đầu đau mình gọi là ốm nghén; hay thèm ăn của chua của chát, gọi là ăn dở. Đến lúc sinh sản mời bà tắm đến đỡ, con xổ ra rồi thì cắt rốn chôn nhau. Chôn phải sâu nếu nông thì con hay trớ; mà tránh chỗ giọt gianh, kẻo về sau con trốc đầu toét mắt.
    Người mẹ thì phải kiêng kem gió máy, phải nằm than. Ăn cơm chỉ với muối trắng hấp hay là nước mắm chưng, vài ba hôm mới dám ăn đến thịt. Đầy cữ (con giai bẩy ngày, con gái chín ngày) xông muối xoa nghệ rồi mới ra đến ngoài.
    Nhà nghèo nuôi con lấy, nhà giầu nuôi vú cho con. Có người cho vú đem về nhà nuôi. Cho bú độ ba, bốn tháng thì cho ăn cơm và vẫn cho con bú đến ba, bốn tuổi mới thôi.
    Con nhà nào ba tháng biết lẫy bảy tháng biết bò, chín tháng biết lò cò chạy chơi, là hợp vào ca thì dễ nuôi mà mai sau làm nên người.
    Tục ta hỏi thăm nhau đẻ con giai hay là con gái, người có chữ thường nói lộng chương hay lộng ngoã (nghĩa là chơi ngọc hay chơi ngói) Điển ấy do ở Kinh thi : sinh con giai thì quí hoá mà cho chơi bằng hạt ngọc, sinh con gái thì khinh bỉ mà cho chơi bằng hòn ngói. Lại có người hỏi huyền hồ hay là huyền cân (nghĩa là treo cung hay là treo khăn mặt). Điển ấy cũng do tục tàu : đẻ con trai đeo cái cung ngoài của, mà đẻ con gái thì treo khăn mặt. Ta dùng điển mà hỏi thăm chứ không có tục ấy.
    Cúng mụ - Trong sách "Bắc bộ lục" có nói rằng: Tục Lĩnh Nam nhà giàu đẻ con được ba ngày, hoặc đầy tháng, thì tắm cho con, làm một bữa tiệc gọi là đoàn du phạn (nghĩa là bữa cơm tròn trặn trơn tru). Sách "Vân đài loại ngữ" của ông Lê Quý Đôn thì nói rằng: Tục nước ta, đẻ con được ba ngày, làm mâm cơm cúng mụ. Đến hôm đầy tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi, đều có làm cỗ cúng gia tiên, bầy tiệc ăn mừng. Bà con, người quen thuộc, dùng thơ, câu đối, đồ chơi, đồ quần áo trẻ để mừng nhau. Mà nhất là tiệc một trăm ngày là tiệc đầy tuổi tôi to hơn cả.
    Cứ như tục thành phố Hà Nội bầy giờ thì đẻ con ra đầy cữ, đầy tháng, đầy tuổi tôi, mới làm cỗ cúng mụ. Trong lễ cúng thì dùng mười hai đôi hài, mười hai miếng trầu, cua, ốc, bánh đúc, v.v.... Vì ta tin rằng có mười hai bà mụ nặn ra người.
    Thử con - Tầu có tục đẻ con đầy một năm thì làm tiệc thử con. Hôm ấy tắm cho con sạch sẽ, mặc quần áo mới, con trai thì bầy đồ cung tên, giấy bút; con gái thì bầy đồ kim, chỉ, dao, kéo. Lại bày những đồ chơi quí báu ở trước mặt đứa trẻ để thí nghiệm xem nó tham liêm ngu trí làm sao, chữ gọi là tiệc thí nhi (thử trẻ). Các nhà đại gia ở ta cũng theo tục ấy, nhưng chỉ bày ít món đồ triện, cung tên, mực bút, cày bừa, gọi là trong bốn món văn, vũ, canh độc, để nghiệm đứa trẻ mai sau làm nghề gì mà thôi.
    Thuật kiêng giữ - Con nhà nào sinh phải giờ con sát, hay phải giờ kim xà thiết toả, sợ mai sau khó nuôi thì cúng đổi giờ. Nhà nào sinh con muộn mằn sợ khó nuôi thì làm lễ bán cửa tĩnh hoặc cửa chùa nào cho làm con thánh con phật gọi là bán khoán. Bán cho cửa tĩnh thờ Đức Thánh Trần, thì đổi họ gọi là họ Trần, bán cho cửa chùa thì đổi họ gọi là họ Màu, đến khi mười hai tuổi mới làm lễ mà chuộc về làm con mình.
    Đưa con cho người khác bế, không được đưa qua cửa, sợ mai sau nó đi ăn cắp ăn trộm. ẵm con đi đâu phải bôi ít nhọ chảo trên trán hoặc cầm con dao, cái kéo hay chiếc đũa đi theo, kẻo sợ người ta quở quang.
    Con hay khóc đêm, gọi là dạ đề, thì mượn một người khác họ lấy cái cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường thì khỏi khóc. Có người lạ vào, con khóc mãi không thôi thì lấy một bó lửa ném vào trước mặt người ta thì con thôi khóc.
    Con ngủ lì không dậy, lấy vài cái tóc mai của người ngoài phẩy vào miệng đứa trẻ thì khỏi.
    Con hay trớ, lấy nước lòng đò cho uống thì khỏi.
    Con nấc, lấy ngọn lá giầu không gián vào chỗ trán cho nó. Con ngủ giật mình , luộc một cái trứng gà, con trai thì cắt làm bảy miếng, con gái thì cắt làm chín miếng, và bảy hay là chín nắm cơm, hú vía cho nó rồi cho nó ăn thì nó khỏi sợ.
    Con đau bụng khóc lắm, mượn người nhổ bão (nhổ cục tóc trên đầu) cho mẹ nó thì khỏi.
    Con lồi rốn, mượn kẻ ăn mày cầm gậy chọc vào rốn thì khỏi.
    Con chơi phải chỗ cỏ ngứa, rồi mẩn tịt cả mình mẩy gọi là ma tịt, thì giải một cái nón mê, tễ bẩy hoặc chín miếng giầu lá lốt cúng ông Cầu bà Quán cho nó thì khỏi.
    Con lên đậu, ngoài cửa ngõ treo một bó vàng mã và giồng một cây lá ráy vào cái nồi đất ở trước cửa, hoặc cài một cành kinh giới để giữ cho nó được bình yên.
    Con hắt hơi, thì nói : "Sống lâu, trăm tuổi, già đầu , thượng thọ" để chúc thọ con.
    Con quặt quà quặt quẹo thì bế đứa con đưa qua cái săng người già chết thì nó được sống lâu.
    Cách đặt tên - Con mới sinh ra thì gọi là thằng đỏ con đỏ, ở về nhà quê thì gọi là thằng cu con đĩ, ở về vùng Thanh Nghệ thì thường gọi là thằng cò cái hĩm, chớ không mấy người mới sinh ra đã đặt tên. Đặt tên thì nhà thường dân hay bạ tên gì đặt tên ấy, hay lấy vần hoặc lấy nghĩa gần nhau lấy tên cha mẹ mà đặt. Ví như cha mẹ là Lần thì con đặt tên là Thần, cha mẹ là Nhăng thì con đặt tên là Nhố, hoặc cha mẹ là Đào thì đặt con là Mận, cha mẹ là Sung thì đặt con là Vả v.v. . . Nhà có học thì thường kiếm những tên đẹp đẽ mà đặt cho con, mà nhất là hay tìm từng bộ phận chữ nho. Ví như người thì dùng một bộ chữ Ngọc như anh là Hoàng thì em là Hành, là Cư, là Vũ; người thì dùng toàn một bộ chữ Thuỷ như anh là Giang thì em là Hoài, là Hà, là Tế v.v. . .
    Cho con đi học - Nhà nho cho con độ năm sáu tuổi, nhà thường dân con độ mười một, mười hai thì cho con đi học. Người biết chữ thì dạy lấy hoặc mời thầy trong làng. Lúc mới học phải biện lễ giầu, rượu hoặc con gà ván xôi, để ông thầy làm lễ Thánh sư, rồi dạy vỡ lòng cho con dăm ba chữ hoặc bảy tám chữ, dần dần mới lại kén thầy mà học rộng mãi ra. Con gái thì ít người cho đi học, đủ biên sổ sách và biết tính toán mà thôi. Về phần nhà nghèo thì con lên bảy tám tuổi còn phải ở nhà bồng em làm đỡ cho cha mẹ, chín, mười tuổi đã phải tập nghề làm ăn, không mấy nhà cho đi học.
    Lo lắng cho con - Con độ mười bốn, mười lăm tuổi trở lên, cha mẹ đã đem lòng lo bề gia thất, con giai thì mong dựng vợ, con gái thì mong gả chồng. Xong việc vợ chồng thì lo đến việc lập thân cho con, ngần nào lo phường lo trưởng, lo nhiêu lo xã, cho con bằng mày bằng mặt với làng với nước; ngần nào lo sinh cơ lập nghiệp cho con mai sau có chỗ nương nhờ. Nước ta làm người đẻ nhiều con, thì phải lo hết con này đến con khác, có người lo cả đời chưa hết.
    Xét cái tục ta, sinh con ra ai cũng biết thương, biết mến, biết chăm chỉ nuôi nấng, dậy dỗ cho con nên người, nưng như nưng trứng, hứng mnhư hứng hoa, thực là hết lòng hết dạ. Loài người cũng nhờ có tánh ấy mà bảo tồn được chủng loại cho mỗi ngày một sinh sôi nảy nở thêm ra, thì lòng nhân từ ấy rất là hay lắm. Nhưng chỉ hiềm ta khi xưa chưa hiểu cách vệ sinh trong khi sinh sản, nào nằm than, uống nước tiểu, rất là một cách làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người hay sinh ra hậu sản và ốm mòn. Đến lúc nuôi con thì hay tin những điều nhảm nhí, không có bậc triết học nào mà triết hết được những sự huyền hão ấy. Cho đi học, không có quy củ cách thức nào, còn phần nhiều thì do học năm mười năm thì dốt vẫn hoàn dốt, cho nên trong nước một trăm người mới được một hai người biết chữ, cũmg chỉ vì cách dạy dỗ không tiên liệu đấy thôi. Đến lúc con lớn thì lại lo thay cho con quá. Mà nào lo có ra lo, lo những ngôi thứ trong làng, lo những danh phận vô ích. Chớ nào có lo cho nên một bậc người gì, hay là thành một được nghề gì đâu. Cái lo lắng ấy, hẳn sinh ra lười biếng, hay ăn chơi. Cho nên làm người , đời cha mẹ hàn gắn chắt chiu, làm nên giàu có, mà đến đời con thì chỉ ăn chơi chỉ phá, chẳng bao lâu mà lại chẳng hết nhẵn như không.
    Cứ như châu Âu, khi sinh sản, các bà đỡ, cô đỡ chuyên môn đến đỡ, có thuốc có thang, ăn uống sạch sẽ.
    Khi còn thơ ấu, nuôi nấng có điều độ, từ lúc cho bú, lúc cho ngủ, lúc cho chơi thì cũng có thì giờ, thực là hợp với cách vệ sinh. Khi biết học thì cho vào trường học, dạy dỗ có thứ tự, có khuôn phép. Đến lúc khôn lớn, mặc ý cho mà lập thân, không cần gì phải lo lắng thay cho nữa. Bởi vậy con ít bệnh tật, mà nhiều người thông thái, lại gây cái tính tự lập cho con.
    Ít lâu nay ta cũng đã nhiều người nhiễm theo thói châu Âu, trong sách sinh sản, nuôi nấng, cũng đã đổi bỏ thói cũ, có lẽ về sau cũng theo nhau mà đổi được hết.
    Better late than never
  4. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Anh em, chị em
    Nghĩa anh em - Anh em cùng cha cùng mẹ đẻ ra, gọi là anh em đồng bào, anh em cùng cha khác mẹ gọi là anh em dị bào, nhưng tổng chi gọi là anh em ruột cả, còn anh em cùng mẹ khác cha thì gọi là anh em đồng mẫu dị phụ, anh em ấy không thân thiết gì mấy, cũng như người ngoài mà thôi.
    Anh em cùng một mẹ đẻ sinh ra, thì cứ theo thứ tự đẻ trước là anh đẻ sau là em. Nhiều mẹ đẻ ra thì con vợ cả là anh con vợ lẽ là em, không cứ gì nhiều tuổi hay ít tuổi. Cũng có nhà lấy vợ hầu trước, dù có đẻ con cũng không được là con cả, khi nào kén được người chính thất, đẻ con mới là con cả, cũng có nhà thì bất cứ vợ nào, hễ đẻ trước gọi là anh đẻ sau gọi là em.
    Anh em cốt lấy tình thân ái làm đầu, lá lành đùm lá rách, bênh vực giúp đỡ lẫn nhau, ta vẫn thường cho anh em ăn chung ở lộn với nhau. NHưng thường tình thì anh em phương trưởng, phận ai người ấy lo. Nhà phong phú thì cha mẹ lập cho con một cơ nghiệp, nhà tầm thường thì ai phải lo thân người ấy, có tư cấp ít nhiều, chớ không mấy người ôm ấp đùm bọc lấy nhau được mãi.
    Quyền lợi - Người anh cả có quyền hơn cả các người em. Cha mất thì người anh là người thay mặt cho cha mà trông nom các em. Em còn thơ bé thì anh phải nuôi nấng, rồi phải lo dựng vợ, gả chồng cho em nữa, gọi là quyền huynh thế phụ. Gia sản của cha mẹ để lại, cũng người anh cả được hưởng phần lợi hơn, mà công việc trong nhà như là ma chay giỗ tết, người anh phải chịu phần nặng.
    Nhưng cũng có khi người con út được hưởng phần lợi của cha mẹ để lại nhiều hơn các anh. Vì là anh em trước đã đâu yên phận đó, còn em út ở nhà với cha mẹ, rồi thì thừa hưởng cái cơ nghiệp ấy. Cho nên có câu tục nhữ rằng :"Giàu con út, khó con út, trút sạch của nhà".
    Câu chuyện khuyên anh em thân nhau - tục nhữ ta có một câu chuyện gọi là chuyện giết chó khuyên chồng: Xưa có một người chồng chơi bời thân thích với một người bạn, nay chè mai chén, ngày kia thuốc phiện, chỉ chơi với bạn mà không biết em là đâu. Người vợ khuyên can mãi chồng mà không được. Mới nghĩ ra một kế: Một hôm người vợ giết một con chó cạo lông cho trắng trẻo, để trong xó nhà tối. Chồng đi chơi khuya về. Vợ nói dối rằng: Hôm nay lỡ đánh chết một đứa trẻ, để giấu trong buồng, làm thế nào bây giờ? Chồng sợ mất vía, vào xó buồng xem, quả nhiên có một đứa trẻ nằm đó. Chồng bảo gọi em để nhờ em chôn cho. Vợ nói: Xưa nay chàng chơi thiết với người bạn, không tưởng đến chú nó, bây giờ có nạn sao nó chịu giúp mình, bất nhược nhờ người anh em còn hơn. Chồng nghe lời cho mời người bạn tới, nói chuyện đầu đuôi rồi nhờ người bạn chôn hộ cho. Người bạn chôn xong lập tức sáng mai đi báo quan để lấy công. Anh ta lại chỉ dẫn cho quan về tận nơi mà khám. Quan đào lên thì là con chó. Hỏi ra thì người vợ thuật chuyện mà nói cái mưu kế của mình cho quan nghe. Chồng từ đó chán người bạn mà thân với em. Câu chuyện tuy tầm thường, nhưng cũng làm được cho cái gương cho anh em.
    Chị em, chị em dâu, anh em rể - Chị em ở với nhau, cũng có tình thân ái như anh em, có câu rằng: "em ngã chị nâng, chị ngã em nâng", ấy là thường tình của người ta. Còn về phần anh em rể, chị em dâu, thì không được thương nhau mấy. Trừ ra nhà nào có giáo dục, biết lấy lễ nhượng ăn ở với nhau. Còn phần nhiều là hay khủng khỉnh với nhau lắm. Có câu rằng: "yêu nhau chị em gái, khái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể", tục ấy cũng là một tục xấu.
    Anh em, chị em ở trong nhà lủng củng, gọi là gia đình bất mục. Nhiều người vì một chút lợi gia sản của cha mẹ, đến nỗi xâu xé nhau, đem nhau đi kiện, làm cho tàn gia bại sản. Thậm chí có nhà cha mẹ chết, quàn ma lại một chỗ để tranh hương hoả, chờ cho quan sử đoán xong rồi mới cất ma. Tục ấy gội là đồi phong bại tục, nhà nào suy đốn mới có anh em, chị em như thế.
    Anh em chị em là bát máu sẻ đôi, tình thân thiết hơn cả người khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhau. Mà muốn cho được hoà mục mãi mãi thì lại cốt lấy chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường nhịn nhau, dẫu có kẻ ngang trái, cũng nhịn đi, rồi sẽ lấy lời khôn lẽ phải mà khuyên bảo nhau thì không bao giờ đến nỗi khích bác nhau, mặt lăng mày vực với nhau, mà trong nhà vẫn vui vẻ, cha mẹ cũng được thoả lòng.
    Nhưng cũng chớ nên mong nhờ lẫn nhau, mong nhờ nhau là một thói ỷ laị, không biết quý sự tự lập, thì làm cho hư mất nết người. Đã đành cho anh em nghĩa nên cứu giúp nhau, nhưng cũng phải nghĩ kế tự lập mới được. Chớ cứ ăn không ngồi rồi rượu chè cờ bạc để chắc trông cậy về anh em chị em thì là một tính cách rất đa tiện, làm hại lây cho người có chí mà thôi.
    Better late than never
  5. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thân thuộc .
    Danh hiệu: Trên cha mẹ thì có ông bà, gọi là tổ phụ mẫu; trên ông gọi là cụ, gọi là tằng tổ phụ mẫu; trên cụ goi là kị, gọi là cao tổ phụ mẫu; còn thì gọi chung là cao cao tổ, mãi đến thuỷ tổ là cùng.
    Dưới mình là con, dưới con là cháu, dưới cháu là chắt gọi là tằng tôn, dưới chắt là chút, gọi là huyền tôn. Còn ở dưới nữa, tổng chi gọi là viễn tôn. Tự cao tổ cho đến viễn tôn gọi là cửu tộc. Trong cửu tộc chia ra năm bậc để chở tang gọi là ngũ phục. Ngũ phục là:
    1- Chở ba năm gọi là đại tang,
    2- Chở một năm gọi là cơ niên,
    3- Chở chín tháng gọi là đại công,
    4- Chở năm tháng gọi là tiểu công,
    5- Chở ba tháng, gọi là ti ma.
    Trong ngũ phục tuỳ theo tình thân sơ bên nội, bên ngoại mà gia giảm (kể rõ trong các sách gia lễ).
    Anh em trai với cha gọi là là bác chú, chữ gọi là bá phụ thúc phụ. Chị em gái đối với cha gọi là cô, chữ gọi là cô mẫu. Anh em với mẹ gọi là cậu (cữu). Chị em gái với mẹ gọi là dì (di). Anh em con chú, con bác, gọi là tùng huynh đệ. Anh em con cô, con cậu hay là đôi con dì, tổng chi gọi là biểu huynh đệ.
    Anh em thúc bá về đàng cha là họ nội. Anh em di cửu về đàng mẹ gọi là họ ngoại.
    Tiếng gọi ông bà... ở về Nam Kỳ có tiếng gọi thế cho khi vắng mặt. Như ông gọi ổng, bà gọi bả, cậu gọi cẩu, mợ gọi mở, thầy gọi thẩy, cô gọi cổ, anh gọi là ảnh, chị gọi là chỉ... Tiếng ấy có lẽ tiện hơn là gọi ông ấy bà ấy. Nhưng là tiếng gọi tình sơ, chớ không phải tiếng gọi quý trọng.
    Luân thường - Trong cùng một họ nội không được phép lấy nhau. Nếu lấy nhau là loạn luân, luật có phép cấm, mà tục cũng chê cười. Phép này từ ông Châu Công đời nhà Chu (bên Tàu đặt ra mà tuân giữ rất nghiêm cẩn). Duy về đời nhà Trần thì trong tôn thất thường có lấy nhau, không biết khi đó nước ta có luật cấm chưa, hay là vì cớ gì nhưng tiên nho vẫn chê về điều ấy.
    Họ ngoại thì con cô con cậu hay là đôi con dì cũng không được phép lấy nhau. Có câu cho rằng: "Cháu cậu mà lấy cháu cô, thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta".
    Một người có thể lấy hai chị em một nhà hay là hai cô cháu một nhà. Tục này khác với tục Âu châu đã lấy một người thì không được phép lấy chị em cô cháu người ấy nữa. Nếu lấy nhau là loạn luân, coi như là lấy cùng họ của ta.
    Tình thân sơ - Trong tình thân sơ dưới bậc cha thì là chú, dưới bậc mẹ thì là dì. Có câu rằng :"Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì". Thường ở khắt khe với nhau là mẹ chồng nàng dâu và dì ghẻ con chồng. Cho nên có câu khuyên nàng dâu rằng : "Mẹ chồng già thì mẹ chồng chết, nàng dâu có nết thì nàng dâu chừa" và có câu rằng " Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng".
    Trong thân thuộc là một gia tộc. Góp nhiều gia tộc này gia tộc khác mới thành ra nước, thành xã hội. Vậy thì hợp lại mà nói thì là một nước, phân ra mà nói thì từng gia tộc một. Gia tộc thì là một đoàn thể nhỏ ở trong đoàn thể lớn vậy. Người ta đối với xã hội có nghĩa vụ chung, thì đối với gia tộc thì cũng phải có nghĩa vụ riêng. Nghĩa vụ riêng là gì? Là cách cư sử trong gia đình. ở trên kính dưới nhường , ở trong ấm ngoài êm là đủ. Nghĩa là trong họ hàng chỉ cốt lấy hoà mục làm đầu mà thôi.
    Cách dựng gia tộc của ta cũng là một phong tục hay. Vì có nghĩa gia tộc thì người ta mới biết quý trong cái thân mình để phụng sự tổ tông và khiến cho người ta phải lo lắng để di truyền cho con cháu. Ai cũng mong cho con cháu khá thì ai cũng phải làm chọn cái nghĩa vụ của mình, đem mồ hôi nước mắt ra mà gầy dựng cho kẻ mai sau; rồi thành ra mở lối phá rừng, sinh công nghiệp cũng bởi đó mà ra cả.
    Vậy thì do một đoàn thể nhỏ mà gây ra một đoàn thể lớn, do một dân tộc bé mà thành ra một dân tộc to, thực là một cái gốc của xã hội. Nhưng một điều là ta thường cho gia đình được quây quần với nhau là quý thì nghĩa khí hẹp. Người ta phải trọng sự lập thân, dẫu kẻ Nam người Bắc cũng không có hề gì. Nếu quanh năm khư khư trong nhà, động đi đâu thì sợ xa cha mẹ, xa của xa nhà, xa anh xa em, xa vợ xa con thì sao cho mở mang được tai mắt mà thêm khôn ngoan ra được. Ta cũng vì tục ấy mà nhiều người kiến thức hẹp hòi, không bằng được người các nước như vậy.
    Thời này là thời buổi dua ganh, càng đi được nhiều nơi xa thì càng trải biết, càng khôn ngoan. Có khôn ngoan thì mới đứng được với đời. Vậy thì giá có thể đi đâu được cũng nên đi, chớ không quản xa xôi gì hết
    Better late than never
    Được thanh_ala sửa chữa / chuyển vào 15:57 ngày 28/04/2003
  6. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Phụng sự tổ tông
    Nhà thờ - Bao nhiêu con cháu dòng dõi trong một họ lập chung một nhà thờ Thuỷ Tổ, gọi là mỗ tộc (Trần tộc, Nguyễn tộc...) từ đường. Nhà thờ ấy chỉ thờ riêng một Thuỷ tổ và khi tế tự thì lấy các tổ tông biệt chi, biệt phái mà phối hưởng. Có họ không có nhà thờ thì xây một cái bàn lộ thiên, đựng bia đá ghi tên thuỵ hiệu các tổ tiên để khi tế tự thì ra đó mà tế. Có họ thì làm nhà thờ để cho chi trưởng nam đời đời giữ phong hoả, chi trưởng tuyệt thì mới truyền sang chi thứ. Có họ thì con cháu luân lưu thờ tổ ở nhà riêng của mình.
    Nhưng họ về chi khác, cũng có nhà thờ tổ tông trong bản chi, gọi là bản chi từ đường.
    Nhà phú quý có gia từ, phụng thờ cao, tăng, tổ, khảo tại chính giữa bàn, còn đôi bên bàn cạnh nhà thì thờ Thổ công, Táo quân. Nghệ sư, nhà thì thờ Bà Cô, Ông Mãnh...
    Nhà thường dân không có nhà thờ riêng thì thờ tại nhà mình ở. Dẫu nghèo cũng có một bàn thờ.
    Đồ thờ - Nhà thờ Thuỷ tổ có riêng một thần chủ, để thờ mãi mãi, không bao giờ thay đổi, gọi là "bách thế đất diêu chi chủ". Còn về gia từ, nhà phú quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo, lấy nghĩa rằng gỗ táo sống lâu được nghìn năm. dài độ một thước, ở giữa đề tên, họ , chức tước và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hộp vuông che kín và để trong lòng khám, khi nào cúng tế mới mở ra. Hễ đến năm đời thì lại đem thần chủ đi mà nhắc lần tằng, tổ, khảo lên bực trên, rồi đem ông mới nhất mà thế vào thần chủ ông khảo gọi là " ngũ đại mai thần chủ". Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng có nhà dùng một bộ ỷ để thờ. Đồ thờ phụng thì đại khái nhà nào cũng có một đèn nến, tư lương, bình hoa, mâm quỳ, mâm bồng, cỗ đài rượu, hộp giầu, đài nước... Người thì dùng đồ đồng đồ thiếc, người thì dùng đồ sơn son thiếp vàng thiếp bạc. Nhà nào giàu có treo hoành biển khắc ba, bốn chữ đại tự và treo kèm đối liễn đôi bên nhà thờ hoặc khảm trai, hoặc sơn thếp. Nhà không có cũng treo hoành biển và đối liễn dán giấy. Đại ý trong chữ thì chỉ là ghi tụng công đức của tổ tông.
    Đồ phụng thờ, càng nhà giàu thì càng trang hoàng nhiều đồ quý, mà nghèo đến đâu cũng có được một vài cây đèn đến sơn son và một cái bình hương.
    Ta coi đồ phụng thờ tự là đồ rất kính trọng, không ai dám đem cầm đem bán bao giờ. Nếu nhà nào nghèo quá phải cầm bán thì ai cũng chê cười.
    Gia phả - Nhà thờ nào cũng có cuốn sổ ghi chép theo thứ trước sau và họ tên chức tước ngày tháng sinh tử của tổ tông và người trong nhà, gọi là gia phả. Gia phả thường dùng bằng giấy sắc, viết tinh tả, nghĩa là lấy lòng kính trọng mà thờ tổ tiên vậy.
    Nhà đại gia thì gia phả ghi chép cả công nghiệp sự trạng của tổ tông, mả táng tại đâu cũng có ghi vào quyển sổ gia phả, tức như một quyển sử ký trong nhà.
    Gia phả để lại nhà thờ, cũng có nhà in ra phát cho mỗi chi một bản để cho con cháu được biết sự tích của tổ tông.
    Ruộng kỵ - Một họ hoặc một chi, đã có nhà thờ thì có ruộng kỵ. Ruộng kỵ ấy là hương hoả của tổ tông để lại hay là trong họ chung nhau mà tậu, hay là của người trong họ chung nhau mà tậu, hay là của người trong họ cúng để lấy hoa lợi mà chi về việc tế tự. Có họ, người con gái đi lấy chồng, không có con, cúng tiền cúng ruộng về họ để mai hậu họ nhận lấy ruộng ấy làm ruộng kỵ, rồi cũng phải thờ phụng người ấy vào trong nhà thờ, họ nào không có ruộng kỵ thì mỗi kỳ cúng tế, phải đóng tiền góp gạo với nhau.
    Tế Thuỷ Tổ - Mỗi năm vào ngày huý nhật ông Thuỷ Tổ, cả họ họp mặt tại nhà thờ, dùng lễ tam sinh, hoặc tuỳ họ to họ nhỏ mà dùng bò hoặc lợn để tế tổ. Tế xong làm cỗ bàn ăn uống vui vẻ với nhau. Mỗi tiết thanh minh thì cả họ rủ nhau đi đắp mả tổ, nhiều họ đắp mả to gần bằng núi. Có họ đắp xong thi tế ngay ở mả tổ, có họ thì đem về nhà.
    Các tuần các tiết cũng có cúng, nhưng chỉ là trưởng nam cúng mà thôi. Đến tháng chạp lại có một tuần hợp tế các Tổ tông trong họ, thì họ lại họp đông như giỗ Tổ.
    Trong ba ngày Tết Nguyên Đán, con cháu trong họ đem trầu cau đến nhà thờ lễ Tổ, chớ không có ăn uống gì cả.
    Cúng vái gia tiên - Mỗi tuần tiết, hoặc ngày kỵ, hoặc mùa có của mới, gạo mới, hoặc khi có việc hiêú hỉ, việc to việc nhỏ, nhà kiệm nhà phong, hoặc dùng bò lợn dê gà, hoặc làm một vài mâm cỗ, hoặc dùng đồ hoa quả bánh trái, hoặc thủ lợn mâm xôi, hoặc bát cơm quả trứng, con cá bát canh, tuỳ thế nào cho tiện thì thôi. Nhưng thế nào cũng phải có cơi trầu, bát nước trong, một hồ rượu mới là thành lễ. Đốt đèn đốt hương tuỳ việc mà khấn vái gia tiên.
    Đồ cúng cấp chưa cúng thì dẫu lưng cơm thừa, bát canh dở cũng không ai dám ăn trước, ấy cũng là một lòng rất thành kính vậy.
    Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của người. Nhưng cũng nên biết rằng sự cúng cấp là để tỏ cái lòng thành kính, chứ không phải là để phụng dưỡng tổ tiên, thì dù có làm cách nào cho ngụ cái lòng ấy cũng đủ.
    Cúng cấp tuy không tốn kém là bao nhiêu, nhưng nhiều nhà vì cớ nay dỗ mai tết mãi mà sinh ra khốn khó; hoặc là vì cúng cấp ăn uống mà anh em thường hay khích bác nhau, nào là trách người này một nén hương chẳng mất, nào là chê trưởng nam kiệt, nào là phàn nàn: bao nhiêu nước sáo đổ đầu trưởng nam, thì ra kính lại chẳng bõ phiền.
    Giả thử dùng cách nào thanh lịch mà đỡ phiền phí thì có lẽ tiện hơn.
    Better late than never
  7. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Đạo làm con .
    Hiếu thảo - Ta đọc sách Thánh hiền, thấy sự hiếu với cha mẹ là mối luân thường rất lớn, làm đầu trăm nết hay của người. Mà nhất là ta hay lấy chuyện Nhị thập chữ hiếu làm phương châm cho đạo làm con.
    Hiếu là biết kính trọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ, biết phụng dưỡng cha mẹ.
    Tục thường cha mẹ còn không nên đi xa, sợ không được thừa hoan ở dưới gối cha mẹ. Cho nên một vài người phải bổ đi làm quan xa, hoặc phải đi làm ăn xa xôi thì thường hay từ rằng ở nhà còn chút cha già hay mẹ già.
    Cách phụng dưỡng - Nhà nào cha mẹ mạnh khoẻ giàu có thì thường ở riêng một mình. Người nào già yếu hoặc không có thì mới ở với con. Con có thì quả ngon vật lạ, cơm dưng nước tiến, nhà nghèo cũng biết lưng cơm ngon lành bát canh ngon để phụng dưỡng cha mẹ. Cũng nhiều người ăn riêng ở riêng, cứ tháng đưa tiền cung dưỡng. Hoặc ở xa xôi cách biệt đôi khi gửi đồng quà tấm bánh về dâng cha mẹ. Nhưng lắm kẻ cũng chỉ biết vợ con, không biết cha mẹ là đâu, cho nên có câu rằng: Lúc sống thì chẳng cho ăn, để đến khi chết làm văn tế ruồi.
    Kiêng tên - Tục ta gọi tên cha mẹ là rất kính trọng, hễ đọc đến thì phải kiêng. Ví như tên Kèo phải đọc là Cừu, tên Cột thì đọc tránh là Kẹt... Nhiều người tên cha mẹ mình lại muốn cho người ta phải kiêng nữa, cho nên có chữ "nhập gia vấn huý" (vào đến nhà phải hỏi tên huý để mà kiêng). Lại nhiều người ai mừng hoặc phúng câu đối nhà mình, có chữ gì phạm đến tên thì giận mà xé câu đối đi, hoặc bắt người ta phải đổi. Cho nên người cẩn thận có mừng ai phúng ai bằng câu đối, thường phải hỏi trước chủ nhà để có chữ gì phạm huý thì đổi đi mới dám viết vào vải mà đem đến...
    Nếu hiếu vẫn là nết đầu trong luân lý của người ta nếu cha mẹ là người rất thân mà cư xử đã chẳng ra gì, thì ra đến xã hội còn tử tế với ai được nữa.
    Tuy vậy, hiếu với cha mẹ, chỉ cốt giữ được lòng kính mến là đủ, tưởng không cần phải giữ lễ tỉ mỉ nhỏ nhặt từng tí làm gì. Quí hồ phụng dưỡng đâu có đấy, đừng để cho cha mẹ phiền lòng. Mình mong cho cha mẹ vẻ vang thì lại càng phải giữ cách mà lập thân mình. Hoặc học được một cái gì, hoặc làm được một sự nghiệp gì, để có ích lợi cho xã hội tức là làm thoả lòng cha mẹ và đừng để tiếng xấu với xã hội, mới là làm cho cha mẹ được vẻ vang.
    Còn cách kiêng tên, tuy là một lòng kính trọng, nhưng mà khí hẹp hòi. Tên là một tiếng để chỉ riêng người ấy đối với người khác, dẫu không kiêng cũng chẳng sao. Mà có quen theo thói tục, thì tên nhà mình, mình kiêng, hà tất phải ép người ta kiêng thay cho nhà mình.
    Vả lại mỗi người một kiêng, mỗi chữ một đọc chạnh thành ra chữ này đọc ra chữ nọ, chữ khác đọc ra chữ kia, lâu dần có lẽ sai hết tiếng, cách nhôn ngữ không biết thế nào cho nhất định được.
    Tôi thấy có người cữ kiêng quá, nghe ai nói chạm đến tên cha mẹ mình thì không bằng lòng. Hoặc nói chuyện với ai, một câu đọc chạnh đến hai ba tiếng làm cho người ta chẳng hiểu ý nghĩa gì, ngộ quá ! Nực cười quá!
    Better late than never
  8. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thượng thọ .​
    Nhà nào có cha mẹ già đến bảy tám mươi tuổi, mà nhà phong phú, đông con cái, thì làm lễ mừng thọ cha mẹ, gọi là lễ thượng thọ.
    Hôm ăn mừng, trước hết làm lễ xôi gà, hoặc tam sinh, hoặc lợn bò, đem ra đình lễ thần, gọi là bái tạ thần hưu, nghĩa là tạ ơn thánh thần đã phù hội cho cha mẹ được sống lâu.
    Đến lúc lễ, cha hoặc mẹ ăn mặc lịch sự ngồi ghế đặt chính gian giữa cho con cái lễ tự tế bái. Con cháu mỗi người dâng chén rượu mừng thọ, hoặc là dâng quả đào, gọi là bàn đào chúc thọ, lấy điển bà Tây Vương Mẫu ngày xưa hiến vua Hán Vũ Đế mấy quả đào tiên, nói rằng ăn quả đào ấy thì được tràng thọ.
    Con cháu lễ bái xong, ăn mừng ăn rỡ, mời làng nước khách khứa, có nhà ăn hai ba ngày, có nhà ăn đến năm bảy ngày.
    Khách khứa đem đồ lễ vật đến mừng, cũng như mọi việc ăn mừng khác.
    Better late than never
  9. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Thần Hoàng .​
    Người nào làm quan từ nam, tứ phẩm trở lên thì nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà, cụ kị, tuỳ theo phẩm tước của mình: như nhất phẩm thì được phong tặng tam đại, nhị phẩm thì được phong tặng nhị đại, tam tứ phẩm thì được phong tặng nhất đại.
    Sắc của vua ban, đại để kể công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy ân ra mà truy phong đến tiền đại. Phong về làng nào, dân làng phải rước sắc về nhà chủ, rồi nhà chủ chọn ngày lành tháng tốt làm lễ cáo gia miếu.
    Trước hết sao bản sắc của nhà vua ra một tờ giấy vàng, cũng y như bản sắc chính. Hai bản ấy đựng vào một cái mâm, đặt trên hương án, trên bàn thờ bày đủ đồ tế tự, người chủ đốt hương làm lễ, rồi tuyên đọc một bài văn kể duyên do tổ khảo được phong tặng, và được phong chức gì. Đoạn rồi tuyên đọc đến bản sắc. Xong rồi đốt bản sao mà để bản nguyên lại thờ, cho nên gọi là Thần hoàng (đốt tờ sắc vàng).
    Tế lễ xong thì khoản đãi khách khứa, cũng như các việc ăn mừng.
    Xét cái điểm phong tặng này, chủ ý triều đình cốt để khuyên người làm con có tài có đức thì tổ tiên cũng được gội nhuần mưa móc triều đình. Vậy thì mình hay bao nhiêu; mà nhớ đến công đức cha ông thì lại nhớ đến ơn vua, ơn nước, càng nên hết lòng mà báo đáp ơn sâu.
    Điều này vừa hồi phục được nhân tài, mà lại duy trì được nhân tâm, thực là một điển rất trọng, tục ăn mừng phải lắm.
    Better late than never
  10. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Sinh nhật .​
    Tục ta không có mấy người mừng ăn sinh nhật, nhưng nhà đại gia cũng có ăn mừng.
    Ngày sinh nhật, con cái làm lễ tế cha mẹ, rồi làm cỗ làm bàn, khoản đãi khách khứa như lễ mừng thọ.
    Mừng thọ và mừng sinh nhật của cha mẹ cũng là một tiệc để tỏ lòng yêu kính cha mẹ, là việc rất hay, người không có thì chẳng kể gì, nhưng giàu có thì nên lắm, có lẽ hơn là làm giỗ ngày huý nhật. Ta không mấy nhà theo lễ ấy mà chỉ phù hoa sau khi cha mẹ đã mất rồi, thực là một việc sai lầm.
    Better late than never

Chia sẻ trang này