1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các mối quan hệ và phong tục Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanh_ala, 27/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Tang ma .​

    Khi mới mất
    - Nhà nào có ông già bà cả gần mất, con cái vực đến chỗ chính tẩm, hỏi xem người giối giăng những gì, rồi đặt tên hiệu cho người biết, dùng nước trầm hương lau sạch sẽ, thay đổi quần áo tươm tất. Khi tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa, để ngang hàm, bỏ một vốc gạo và ba đồng tiền vàng vào miệng. Nhà phú quý thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là ngậm hàm.
    Đoạn giải chiếu xuống đất, đưa người xuống một lát (lấy nghĩa người ta bởi đất sinh ra thì khi chết lại về đất), rồi lại đem lên giường. Người con cầm cái áo của người mất mới thay, trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý còn mong cho người sống lại, rồi lấy áo ấy phủ lên thây.
    Khâm liệm nhập quan - Nhà giàu dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà thường dùng vải trắng may làm đại liệm, tiểm liệm, (đại liệm một mảnh dọc, năm mảnh ngang, tiểu liệm một mảnh dọc, ba mảnh ngang) để khâm liệm, rồi thì nhập quan (bỏ vào săng).
    Tục ta phần nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tài thường có mảnh ván đục sao Bắc đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan phải chọn giờ chánh tuổi rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong ngoài quan tài. Có người cho là chết phải giờ xấu thì lại bỏ cỗ bài tổ tôm, hoặc quyển lịch Tàu, hoặc quyển lịch ta (Nhất là quyển lịch có có dấu bộ đóng thì càng hay), hoặc tàu lá gồi, để trấn áp ma quỷ. Đâu đấy sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt chính gian giữa, hoặc nhà còn người tôn hơn thì đặt gian cạnh. Nhà nào muốn để lâu một vài tháng thì quan lại để trong nhà, hoặc đem ra vườn mà phủ cát lên.
    Mấy hôm mới nhập quan, con cháu còn được phép cưới, gọi là cưới chạy tang.
    Thành phục - Được vài hôm, công việc lo liệu đâu đấy thì làm lễ thành phục. Trước bàn thờ bày linh sàng linh toạ, đặt hồn bạch (hồn bạch là lấy lụa đắp vào khi người gần mất, rồi kết lại có đầu, có tay, có chân như hình người). Ở ngoài thì bày hương án bàn độc và đồ cúng cấp. Con cháu mặc đồ tang phục, xoã tóc, theo thứ tự đứng sắp hàng ra sân mà khóc lóc., Nhà phú quý có tế, nhà thường dân thì mượn thầy phù thuỷ cũng đỡ cho.
    Tang phục - Con trai, con gái, con dâu, đội khăn sô, mũ chuối, mặc áo sô, ngoài quàng sợi chuối, thắt lưng dây bằng chạc. Cháu nội thì đội mũ mấn, khăn trắng, mặc áo thụng trắng, thân thuộc cũng mặc đồ trắng cả.
    Chiêu tịch diện- Tế thành phục rồi thì mỗi ngày buổi sớm buổi chiều cúng cơm, gopị là chiêu tịch diện. Lễ chiêu tịch diện như thờ khi người còn sống. Buổi sáng con cháu bưng chậu nước, khăn mặt, cau trầu vào chỗ giường nằm, khóc ba tiếng rồi nước hồn bạch ra chỗ linh toạ, mới dưng cúng. Buổi tối dưng cúng xong, lại rước vào chỗ linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới ra.
    Lễ ấy, nhà đại gia mới dùng, nhà thường chỉ cúng ở chỗ linh toạ mà thôi.
    Thổi kèn giải - Trong những đêm ma còn quàn ở trong nhà, có nhà mỗi tối mời phường bát âm gảy đàn thổi sáo và có phường tang nhạc thổi kèn đánh trống. Con cháu, mỗi người thổi một câu khóc ông bà cha mẹ, rồi thưởng tiền cho bọn ấy. Nhà nào không có kèn giải thì không vui.
    Chuyển cữu - Trước hôm cất ma, hoặc ban đêm, hoặc buổi sớm, làm lễ chuyển cữu, nghĩa là xoay quan tài. Nguyên lễ có rước quan tài sang chầu tổ miếu, nhưng nhà chật hẹp không mấy người rước quan tài. chỉ có rước hồn bạch, nhà đại gia thì phong áo mũ đại trào rước sang mà thôi. Còn những nhà không có nhà thờ tổ riêng thì chỉ xoay quan tài đi một vòng rồi lại đặt ở đấy.
    Phát dẫn- Hôm cất ma gọi là ngày phát dẫn. Hôm ấy con cháu anh em và người quen biết đều đi đưa cả.
    Cha mất thì con trai chống gậy tre, mẹ mất thì chống gậy vông. Con trai nào mất trước thì con trai người ấy phải chống thay cho cha, hoặc con nào đi vắng thì treo cái gậy ở đầu đòn đại dư. Nếu không có con giai thì ai vào ăn thừa tự phải chống gậy. Con gái con dâu thì lăn đường cho cha mẹ mới là con có hiếu.
    Người thân thích một vài người đi kèm chỗ linh cữu gọi là đi hộ tang.
    Còn người đi đưa hết thảy gọi là tống tang.
    Nghi trượng đi đường - Trước hết có hai thần phương tướng làm bằng giấy, bốn mắt, hình dung dữ tợn, cầm đồ qua mâu đi dẫn đạo.
    Thứ đến thể kỳ, có hai người khiêng một bức hoành vải trắng để bốn chữ (ví dụ cha mất thì để Hổ sơn vân ám, mẹ mất thì để Dĩ lĩnh vận mê...) Đôi bên treo đèn ***g chức tước huý hiệu của người mất.
    Thứ đến minh tinh. Minh tinh làm bằng lụa hoặc bằng vóc nhiễu đỏ, dài độ 7,8 thước, lấy phấn trắng đề chức tước, họ tên thuỵ hiệu người đã mất, treo vào một cành tre, hoặc làm như hình cái trụ, đề vào toàn bộ cho người khiêng. Để lòng minh tinh thường tình theo bốn chữ " quỷ, khốc, linh, thinh", viết dài ngắn thế nào mặc lòng, như chữ cuối cùng, không được chạm vào chữ quỷ, chữ khốc, e chạm phải hai chữ đó thì độc chang.
    Kế đến hương án, bầy giá hương, độc bình, đồ tam sự (hai cây nến và một cái lư hương), mâm ngũ quả.
    Kế đến thực án bày tam sinh, hoặc lợn quay, bánh trái. Rồi đến linh xa rước hồn bạch, có phường tài tử bát âm đi dàn mặt và có đủ đồ minh khí, nào đèn giấy, nào biển đan triệu: đàn ông đề hai chữ trung tín, đàn bà đề hai chữ trinh tiết. Nào trướng, nào câu đối liễn của con cháu của người phúng viếng.
    Kế nữa thì cờ công bố, đèn chữ á, nhà đại gia dùng đủ đồ nghi trướng sứ thần, có kiệu phong áo mũ đại trào, có cờ, có tán, đồ lộ bộ, nến sáp hai dãy, có chiêng có trống, có võng có lọng, có trống cà rồng. Nhà thường chỉ có phường kèn trống thổi khúc nam thương mà thôi.
    Sau cùng là đại dư rước linh cữu, trên linh cữu treo nhà táng giấy. Nhà phú quí làm nhà táng rất hoa mỹ, có cái tốn đến ba bốn chục bạc, có trống tiêu cổ hoặc lịnh dẫn linh cữu đi.
    Con cháu tống táng đi theo linh cữu, có bạch mạc (ta thường gọi là phương du) để che cho khỏi mưa nắng.
    Ở các vùng quê, thì chỉ dùng mấy đồ minh tinh nhà táng, võng chủ, đèn biển sơ sài mà thôi, không mấy nhà trang hoàng như cách phố xá, nhưng lại có các vãi cầm phướn đi dưỡng dực đôi bên, tụng kinh niệm Phật, gọi là đi hộ phúc, có nhà sư ngồi xe bận áo cà sa; tay gõ mõ miệng tụng kinh, để cầu nguyện cho linh hồn được về Tây phương cực lạc thế giới, các người quy phật mà mất, thì các vãi lại đội cầu bát nhã để làm đường cho vong hồn đi sang Tây phương.
    Trong khi đi đường có rắc vàng thỏi bằng giấy, là tục cho rằng có quỷ phụ vào quan tài, phải rắc vang để tống quỷ, kẻo quan tai nặng khó đi.
    Nhà trạm - Khi đi đường, nhà phú quý có trạm trung đồ, để đình cữu mà diện tế. Nhà trạm lợp bằng lá hoặc bằng cót, căng vải kết hoa treo đèn treo liễn, bài trí lịch sự. Đến chỗ huyệt lại có một trạm tế hạ huyệt. Lúc tế trạm, tục thường kén mời người nào có chức tước danh giá đề chủ và mượn một người nữa phủng chủ. Lúc tế thì người phủng thần chủ phủng ra đặt lên trên án, người đề chủ cầm bút chấm một nét trên đầu chữ chủ và sổ một nét. Đề xong thì nhà chủ phải hậu tạ lễ vật cho người đề chủ, có khi bao nhiêu đồ tế tự trong rạp phải biếu cả.
    Hạ huyệt - Lúc hạ huyệt có tế thổ thần ở nơi đó. Có ông thầy địa lý phân kim gióng hướng, đợi đến giờ tốt (giờ hoàng đạo) thì hạ huyệt. ở nhà quê thì các vãi chờ khi lấp đất xong, mỗi người cầm một nắm hương tụng kinh, niệm phật đi chung quanh mộ, rồi mỗi người cầm một hòn đất ném xuống mộ, gọi là dong nhan.
    Huyệt thường nhờ thầy địa lý tìm đất trước, nhà địa gia thì làm sẵn sinh phần.
    Khóc lạy - Từ lúc ma còn để trong nhà thì con cháu và khách khứa phúng viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người còn sống. Đến lúc hạ huyệt rồi thì mới lạy bốn lạy, nghĩa là đến đó thì mới lấy đạo thờ người chết mà thờ.
    Trong lúc đưa ma, con cái lúc này cũng phải khóc. Khi có khách vào phúng viếng, thường có ô hô ba tiếng (hoặc tình không thân thì lễ không), con trai con rể phải khóc mà đáp lễ lại, nhưng chỉ đáp có một nửa mà thôi, nghĩa là khách lạy hai thì mình đáp một, khách lạy bốn thì mình đáp hai.
    Ngu tế - An táng rồi trở về nhà lại tế, gọi là Ngu tế. Ngày hôm trước gọi là sơ ngu, ngày thứ hai gọi là tái ngu, ngày thứ ba gọi là tam ngu. Ngu nghĩa là yên. Vì người mất, nên xương thịt mới chôn dưới đất, hồn phách chưa được yên, cho nên tế ba lần để yên hồn phách cho người mất.
    Nhà phú quý mới có ngu tế, nhà thường thì trong ba ngày chỉ những họ hàng thân thuộc đến phúng viếng mà thôi. Ở quê thì có tư văn hàng giáp đến trợ tế, ăn uống tốn lắm.
    Viếng mộ đắp mộ - Trong ba ngày sau khi mới chôn, mỗi buổi chiều con cái đem cơi trầu đén chỗ mà khóc lóc, gọi là viếng mộ. Tục ta thường để đến hôm ba ngày mới sửa sang lại mộ cho tốt đẹp, hoặc làm nhà mộ. Thường dân thì hay mượn thầy phù thuỷ yểm bùa ở mả, hoặc dùng gà trắng, hoặc dùng chó đen để cúng thổ thần, hoặc dùng lươn, cá chép, ốc, mỏ quạ để yểm bùa, cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần, kẻo nó quấy nhiễu người mới chết.
    Từ đó trở đi, thì ngày nào cũng cúng cơm hai buổi và phải khóc lóc.
    Chung thất - Bốn mươi chín ngày gọi là tuần chung thất. Tuần này có tế, co mhà đem vào chùa làm chay, nhờ nhà sư tụng kinh sám hối ba đêm hoặc bảy đêm ngày, để cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ.
    Tốt khốc - Một trăm ngày là tuần tốt khốc nghĩa là đến bấy giờ mới thôi khóc, tuần này tế lễ một tiệc rồi thì thôi không cúng hai buổi nữa.
    Tiểu tường - Được một năm thì giỗ đầu gọi là lễ tiễu tường. Bấy giờ mới trừ bỏ đồ hung phục như đồ sô gai gậy mũ... Nhưng vẫn còn mặc đồ tang cho hết ba năm.
    Đại tường - Hai năm giỗ hết gọi là đại tường.
    Đàm tế - Sau đại tường hai tháng, chọn một ngày làm lễ trừ phục, gọi là đàm tế. Bấy giờ mới bỏ hết đồ tang phục mà mặc những sắc phục thường.
    Đốt mã - Trong khoảng tiểu, đại tường, có hai kỳ đốt mã. Kỳ mã đầu gọi là mã biếu, kỳ mã sau mới thực là mã dưng cho người mất dùng. Tục hay đốt về tuần trung nguyên tháng bảy, cũng nhiều nhà thì đốt về ngày giỗ đầu và ngày giỗ tết.
    Đồ mã thì dùng những đồ thường dùng của người, như chăn màn quần áo, hòm xiểng mâm bát... cho chí thằng quít con nhài, con mèo con chó, có nhà sắm đồ mã tốn đến năm bảy chục, một vài trăm bạc.
    Nhà thì đốt mã tại gia, nhà thì đốt mã tại chùa. Có người làm chay cúng tam tứ phủ năm bảy ngày.
    Từ khi mới khâm liệm cho đến khi đàm tế, mỗi tuần mỗi tiết, như ngày thành phục, ngày phát dẫn, trong ba ngày tế ngu cho đến đại tường, tiểu tường, giỗ đầu giỗ hết, nhà giàu có thì tế bái linh đình, nhà nghèo thì cúng cấp. Tuần tiết nào cũng mời họ mạc làng nước khách khứa. lại có bánh dầy bánh chưng biếu, người có nhiều tốn nhiều, người có it thì tốn ít, có nhà tốn một vài nghìn bạc.
    Sự báo hiếu cho cha mẹ , ai không muốn hết lòng hết sức. Nhưng cứ như tục ta thì phiền văn quá thể, ăn uống lôi thôi, làm cho nhiều người khổ vì tục. Vả lại nhiều người khi cha mẹ còn thì bạc thị chẳng ra gì, đến lúc mất, lại cúng tế linh đình, kẻ có đã vậy, kẻ không có thì cố đi vay mượn, cầm nhà bán ruộng, để trả nợ miệng và lấy thể diện với đời, thực là một sự vô ích quá.
    Một điều nữa là khi cha mẹ mới mất, mặt không dám rửa, ăm cơm không dám xỉa răng, mặc đồ sô gai, nón mê dây lưng chạc, dơ dáy bẩn thỉu, chịu làm sao cho được; và người hiếu tử thì chẳng cứ thế mới là thương cha mẹ, kẻ bất hiếu thì dẫu bẩn thỉu tiều tuỵ đến đâu, thì vẫn không có lòng gì nghĩ đến mẹ, thì sự ấy chẳng qua cũng chỉ là hư văn mà thôi.
    Một điều nữa là tục ta đưa ma, con cái khóc lóc sầu thảm quá sức, kể lể con cà con kê, kêu trời kêu đất, nhiều người hết hơi khản tiếng mà vẫn gào. Sự thương cốt ở trong lòng, chỉ ứa hai hàng nước mắt là đủ, mà người thực tình thương, có khóc được đâu, có kể được đâu, thì sự khóc cũng là sự che mắt thế gian mà thôi lại làm cho vang tai dức óc người ta khó chịu.
    Một điều nữa là những nhà hoặc vì cớ tìm đất, hoặc vì cớ lo liệu công kia việc nọ mà quàn ma trong nhà đến hàng tháng, thì chẳng những phiền phí hại của, mà có khi tử khí truyền nhiễm , lại hại đến cách vệ sinh nữa. Vả tử giả dĩ đắc táng vi vinh, để lâu như thế đối với người mất cũng là không phải.
    Còn như lệ làng thì lắm nơi lại hủ quá, sẽ luận ở mục hương đảng về sau.
    Xét như tục tang ma Âu châu, người mất hoặc ở lại nhà, hoặc đem đến tại nhà thờ làm lễ. Hiếu chủ chỉ đưa cái thơ báo tang cho người thân tình hoặc người quen thuộc, nói rõ ngày giờ mà đưa ma, người nào có thân tình thì phúng một vòng hoa hoặc bằng sành, bằng hạt bột, hoặc vòng hoa thực.
    Trong khi đưa ma, ai nấy im phăng phắc như tờ. Đưa đến huyệt thì các người thân thích đọc một bài điếu tang, rồi đâu về đấy, hiếu chủ chỉ đón của tạ ơn người đi đưa, chứ không có lệ mời mọc ăn uống lôi thôi gì cả.
    Về sau cứ ngày lễ thì đem bó hoa đến thăm mả tỏ lòng hiếu kính biết là dường nào.
    Tục Nhật Bản cũng dùng một cách thanh đạm mà tống táng. Nhưng ai muốn lấy danh giá với đời, thì bỏ ra một món tiền, hoặc dăm ba chục, một vài trăm, hoặc một vài ngàn, gửi vào ngân hàng hoặc thương hội nào để giúp một việc gì công ích cho xã hội, rồi đăng báo cho ai nấy biết rằng người có xuất tiền để làm kỷ niệm cho người chết, thế là danh giá, thế là để cho cha mẹ được vẻ vang.
    Tuy vậy mỗi nước có mộ tục riêng, mà tục nước ta thì quen theo đã lâu, chưa có thể bỏ tục mình mà theo ngay tục khác được. Nhưng tưởng nên nghĩa cách nào cho tiện mà giảm bớt phiền vặt, bỏ bớt sự ăn uống, thì người giàu có đỡ tốn của, để đồng tiền mà dùng vào việc công ích, người nghèo khỏi vay công lĩnh nợ, không đến nỗi hết cơ nghiệp mà làm ma.
    Bây giờ cũng đã nhiều mgười giảm bớt rồi, nhưng cái tục bó buộc, có nhiều người biết tục dở mà không bỏ được.
    Better late than never
  2. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Cải táng​
    Người mất, sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa, thì con cái lo việc cải táng.
    Trước hôm cải táng, làm lễ cáo từ đường. Đến hôm táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng.
    Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp thành một cái tiểu sành, rẩy nước vang vào, rồi che đậy kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quí thì dùng quan quách liệm như khi hung táng.
    Đoạn đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân.
    Tục lại tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thôi (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để dưới gầm dường thì khỏi đau tức.
    Cải táng có nhiều cớ:
    Một vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài.
    Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì phải cải táng.
    Ba là các nhà tin địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất, hoặc cây cối ở trên mả mà tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng.
    Năm là những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có nhà thấy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình cải táng vào gần mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
    Trong khi cải táng, lại có ba điều cho là tường thuỵ mà không táng.
    Một là khi đào đất thấy có rắn vàng thì cho là long xà khí vật. Hai là mở quan tài thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết. Ba là hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào mà gặp như thế thì phải lập tức lấp ngay lại.
    Trước khi hung táng thì đắp hình vuông, đến lúc cải táng thì đắp hình tròn. Nhà phú quý thì xây lăng, nhà thường thì dựng mộ chí, đợi khi tuần tiết thì đến thăm viếng.
    Tục cải táng có người theo, nhưng cũng có nhiều người khi hung táng, sắm sửa quan cách kỹ càng, thì không cần gì phải cải táng nữa.
    Tục này bởi ta tin cái lý tưởng tổ tiên với con cháu, huyết mạch có quan hệ với nhau. Hễ hài cốt tổ tiên có ấm cúng thì con cháu mới mát mặt, hài cốt không yên thì con cháu cũng không yên thì lại cải táng, có khi cải táng đến năm sáu lần.
    Thiết tưởng hài cốt tiên nhân, nếu có lòng thương kính trọng thương xót, thì chớ nên di đi dịch lại làm gì. Trừ ra những khi vạn bất đắc dĩ thì phải cải đi mà thôi, chớ không nên vì công danh phú quý là việc hy vọng chưa trông thấy mà làm đến việc thương tâm thảm mục. Vả lại sự khai mả cũng có khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên lắm. Nếu có tại đất thì không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nào khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên lắm. Còn như gia đình hay dở thì tại người sống một khôn một đại khác nhau, chớ có phải tại đất đâu. Nếu có tại đất cũng không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nhà nào có phúc hậu thì tự nhiên gặp hay, nhà nào bạc ác thì có khi gặp dở, cần gì phải uổng công mệt sức mà đi cầu cái việc vu vơ làm gì.
    Better late than never
  3. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Phong tục Việt Nam - Tìm hiểu về cưới hỏi .​
    Tại sao phải có phù dâu ?
    Tại sao phải có phù dâu
    Quay trở lại
    Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục", con giá mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.
    Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.
    Đám cưới ngày xưa phải có phù đâu, không định lệ, và cũng không có danh từ "Phù rể". Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toàn là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngày nay chàng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra nhiều đám cưới sau nên phải chăm lo đào tạo những cô dâu, chú rể tương lai.

    Better late than never
  4. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?
    Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ.
    Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi "Giá thú bất luận tài" nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp "Gả bán" liền nhau.
    Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này.
    Better late than never
  5. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Mẹ chồng làm gì khi con dâu về nhà chồng ?​
    Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay:
    Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu:
    Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một cái nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi, chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. Con dâu, một tay cầm lấy quan tiền, một tay vẫn cầm quạt che mặt. Mẹ chồng dắt con dâu vào nhà đặt quan tiền và cái quạt lên bàn thờ, cúi đầu lễ gia tiên (bốn lạy ba vái theo tư thế của nữ). Sau đó mẹ chồng dắt cô dâu cầm cả tiền và quạt vào buồng. Trong buồng đã chuẩn bị sẵn trầu nước hoa quả, giường chiếu mới. Đôi chiếu trải úp vào nhau, do một người thân trong họ có tuổi tác, vợ chồng song toàn, con cháu đông, làm ăn nên nổi, được gia đình mời đến trải chiếu; nếu mẹ chồng có đủ tiêu chuẩn trên thì mẹ chồng trực tiếp dọn giường trải chiếu, nhưng bố chồng thì không được. Khi con dâu nghỉ ngơi xong, khăn yếm chỉnh tề mới bưng hộp trầu ra chào họ. Trường hợp mẹ chồng đã mất thì một bà cô hay bà dì thay thế.
    Phong tục này có nhiều ý nghĩa:
    - Thời xưa, con dâu trước khi về làm dâu, còn hoàn toàn xa lạ, bỡ ngỡ, chưa biết đâu là buồng đâu là bếp, ai là bố mẹ chồng. Trừ trường hợp xóm giềng quen biết nhau từ trước không tính, là thân phận con gái chưa cưới đã về nhà trai thì bị dư luận gièm pha là con nhà hư đốn. Có người chồng lại rụt rè e lệ, có trường hợp trước lễ cưới chưa hề tỏ mặt nhau, vậy nên mẹ chồng niềm nở ra đón dâu, dắt dâu vào nhà là hay, là phải lẽ. Mới bước về nhà chồng đã được tổ tiên, ông bà, cha mẹ chồng ban phước lộc, dồi dào như nước quan tiền là biểu tượng vốn liếng của riêng mà mẹ chồng trao cho.
    Nhiều địa phương lại có tục khác: Khi con dâu vừa vào đến nhà thì mẹ chồng cầm chiếc bình vôi tạm lánh sang hàng xóm ít phút.
    Tục đó cũng có ý nghĩa hay: Tức là mẹ chồng đã xác định vai trò, trách nhiệm con dâu sẽ về làm chủ, mẹ chồng sẵn sàng trao quyền công việc trong nhà trong cửa cho con dâu, nhưng không phải trao toàn quyền đẩy hết trách nhiệm mà bà vẫn là người nắm quyền điều hành, vì bình vôi là vật tượng trưng cho bà Chúa trong nhà.
    Better late than never
  6. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.​
    Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp.
    Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay:
    Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
    Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm".
    Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò.
    Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một.
    Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
    Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... ) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.
    Better late than never
  7. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Cô dâu trước khi về nhà chồng phải có những thủ tục, động tác gì?​
    Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu thì cô dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ gia tiên, khấu đầu làm lễ, tự khấn niệm xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà. Cũng có thể nhờ gia trưởng khấn hộ cho có bài bản hẳn hoi. Lễ xong, hai người đưa hộp trầu, bao thuốc, đi mời chào thân nhân, khách, bạn khắp một lượt, người nhà sau, những đám cưới có tổ chức thường đã có sự sắp xếp vị trí sẵn. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.
    Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ: Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở ghế cao hơn. Thời xưa cả đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính "Xin phép ông bà, cha mẹ con về nhà chồng", "Xin phép ông bà, cha mẹ con xin đón em X về". Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỉ niệm, có thể là nột cái bút, một gương soi nho nhỏ, một cuốn sách hoặc một chiếc khăn, chiếc quạt... Nhà giầu còn cho thêm hoa tai, nhẫn cưới hoặc quan tiền... (Những thứ này nhà trai đã đưa đến hôm lễ nạp tài. Trong gói quà của bà mẹ cho con gái có cái châm cài tóc, hoặc bảy chiếc kim đính tóc hoặc kim khâu gói trong khăn vuông).
    Better late than never
  8. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới​
    Đáng lẽ mừng đám cưới nhưng tục lệ trói buộc thành ra lo đám cưới. Tục cũ đã truyền nhiễm lâu không dễ một mai đổi ngay được. Vậy phải làm thế nào?
    Để giúp các gia đình cưới dâu, một số gia vùng nông thôn có tục góp lễ cưới: đầu năm gia đình báo cho họ hàng xóm giềng biết dự định cưới dâu vào tháng nào, thông thường vào sau vụ thu hoạch. Lần lượt các gia đình đóng góp các khoản gạo nếp, gạo tẻ, đậu xanh, rượu hoặc tiền theo định lượng. Còn lợn gà thì gia đình nào tự liệu cho gia đình ấy. Tục góp cưới cũng giống như hội tương tế tương trợ, hội cày cấy, hội lợp nhà... luân phiên các gia đình. Đây là một tục hay, cùng nhau lo dần đến lượt mình đỡ phải lo những khoản lớn. Tiền, quà cưới của khách, bạn đưa tới thực chất cũng là hình thức góp lễ cưới, nhưng không chủ động được kế hoạch, thứ có không cần, thứ cần không có, thành ra tốn kém. Lệ chơi họ ngày nay, chung vốn để kinh doanh buôn bán cũng là xuất phát từ hình thức góp tiền nhau để làm nhà cưới vợ, tậu trâu bò ở nông thôn. Vì xuất phát từ họ hàng giúp nhau nên mới gọi là chơi họ. Nếu đoàn thanh niên địa phương nào vững mạnh, cán bộ đoàn công tâm liêm khiết tháo vát, tổ chức "Hội chơi họ cưới vợ" có kế hoạch quản lý kinh doanh sử dụng phân phối chặt chẽ, ắt được nhiều bạn thanh niên hưởng ứng, tham gia... Bước đầu cũng đã có một số địa phương tổ chức "Dịch vụ đám cưới" như mua sắm cho thuê quần áo cưới, bát đĩa, ấm chén bàn ghế, phông màn, tổ chức trang trí, chụp ảnh, ca nhạc... vừa kinh doanh gây quỹ, vừa phục vụ thuận tiện, có chế độ ưu đãi với người góp cổ phần,với Đoàn viên.
    Better late than never
  9. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3

    Tiền nạp theo (hay treo) là gì?​
    Tiền "cheo" là khản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "Nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người làm ăn bất chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng, tức là đám cưới được làng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng vào việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Nhưng nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ này bị bãi bỏ rồi. Thanh niên ngày nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền cheo qua ca dao- tục ngữ.
    - Nuôi lợn thì phải vớt bèo
    Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
    - Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối.
    - Ông xã đánh trống thình thình
    Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.
    - Lấy chồng anh sẽ giúp cho
    Giúp em...
    Giúp em quan tám tiền cheo
    Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
    Thật quá cường điệu, Chứ tiền cheo không thể vượt quá tiền cưới.
    Better late than never
  10. thanh_ala

    thanh_ala Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    4.820
    Đã được thích:
    3
    Bánh su sê hay bánh phu thê?​
    Trong lễ cưới có nhiều lễ vật, nhưng không thể thiếu bánh "Su sê", nguyên xưa là bánh "Phu thê", một số địa phương nói chệch thành bánh "Su sê".
    Bánh su sê làm bằng bột đường trắng, dừa, đậu xanh và các thứ hương ngũ vị, nặn hình tròn, bọc bằng hai khuôn hình vuông úp lại với nhau vừa khít, khuôn làm bằng lá dừa, lá cau hoặc lá dứa, vỏ để nguyên không luộc để giữ màu xanh thắm.
    Sở dĩ gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm, đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương ngũ hành: Ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.
    Better late than never

Chia sẻ trang này