1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CÁC NHÀ THƠ ANH QUỐC

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi budamato, 04/03/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. budamato

    budamato Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/02/2008
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    CÁC NHÀ THƠ ANH QUỐC

    [​IMG]


    Lord George Gordon Noel Byron (22 /1/1788 ?" 19 /4/1824) là nhà thơ lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn nhất thế kỷ XIX.

    Tiểu sử:
    Byron sinh ở London, trong một gia đình quí tộc đã sa sút. Học ở Harrow School và Đại học Cambridge. Năm 1807 in tập Hours of Idleness (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca English Bards and Scotch Reviewers (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh, sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Năm 1812 in 2 chương đầu của Childe Harold''s Pilgrimage (Chuyến hành hương của Childe Harold) kể lại chuyến đi Nam Âu và Cận Đông. Nhân vật của trường ca là chàng trai trẻ thất vọng trước cuộc sống thiếu lý tưởng và tự do. Năm 1812, phát biểu trước nghị viện, Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở Anh và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy.

    Trong những tác phẩm The Giaour, 1813; The Bride of Abydos, 1813; The Corsair, 1814; Lara, 1814; The Siege of Corinth, 1816 Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Năm 1816 ông đi sang Thụy Sĩ, gặp Shelley, hai người trở thành bạn của nhau. Những năm 1817-1820 Byron sống ở Venice, cảm thông với nỗi khổ của người Ý trước ách cai trị của người Áo. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của Childe Harold''s Pilgrimage. Những năm 1818-1819 ông viết trường ca Don Juan gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang Hy Lạp để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm 1824 ở Missolonghi.

    Lòng say mê mãnh liệt, tính trữ tình sâu sắc, sự bạo dạn về ý tưởng và vẻ sống động của những hình tượng khiến Byron trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất ở châu Âu thế kỷ XIX. Tác phẩm của Byron mở ra những khả năng mới của chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp nghệ thuật. Byron đưa vào thơ ca những nhân vật mới, làm giàu hình thức và thể loại thơ ca. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca thế giới thế kỷ XIX, sinh ra một trường phái thơ ca ở nhiều quốc gia khác nhau với tên gọi: chủ nghĩa Byron.

    Tác phẩm:
    *Hours of Idleness (1806)
    *English Bards and Scotch Reviewers (1809)
    *Childe Harold''s Pilgrimage (1812 ?" 1818)
    *The Giaour (1813)
    *The Bride of Abydos (1813)
    *The Corsair (1814)
    *Lara (1814)
    *Hebrew Melodies (1815)
    *The Siege of Corinth (poem) (1816)
    *Parisina (1816)
    *The Prisoner Of Chillon (1816)
    *The Dream (1816)
    *Prometheus (1816)
    *Darkness (1816)
    *Manfred (1817)
    *The Lament of Tasso (1817)
    *Beppo (1818)
    *Mazeppa (1819)
    *The Prophecy of Dante (1819)
    *Marino Faliero (1820)
    *Sardanapalus (1821)
    *The Two Foscari (1821)
    *Cain (1821)
    *The Vision of Judgement (1821)
    *Heaven and Earth (1821)
    *Werner (1822)
    *The Deformed Transformed (1822)
    *The Age of Bronze (1823)
    *The Island (1823)
    *Don Juan (1819 ?" 1824)



    FARE THEE WELL

    Than ôi! họ đã từng là bạn của nhau
    Nhưng ác nhân đầu độc lòng chung thủy
    Dù sự thật vẫn sống ở trên cao
    Nhưng tuổi thanh xuân phí hoài, vô nghĩa
    Và cuồng điên ngự trị ở trong đầu
    Và cuộc đời từ đây chia hai ngả.
    ***
    Không bao giờ họ còn gặp lại nhau
    Để con tim lại mừng vui, hớn hở
    Biệt ly này có ai muốn gì đâu
    Như vách đá bị chia làm hai nửa.
    Biển buồn bã giữa con sóng bạc đầu
    Không sấm chớp, oi nồng hay băng giá
    Tình đã chết ở trong lòng, tuy thế
    Hai người đã từng một thuở của nhau.
    Coleridge. Christabel.


    Vĩnh biệt em! và nếu là mãi mãi
    Thì đến muôn đời vĩnh biệt em
    Lòng hận thù anh không còn giữ lại
    Và em nhé, hãy quên.

    Có lẽ nào trên ngực của anh
    Nơi mái đầu của em từng cúi xuống
    Nơi đã từng say sưa trong giấc mộng
    Em còn nhớ chăng giấc mộng của mình?

    Và với anh, có lẽ nào em nỡ
    Khi đã nhìn xuyên suốt trái tim anh
    Rồi sau đấy em dễ dàng chối bỏ
    Trái tim anh em nỡ coi thường.

    Có thể là thiên hạ sẽ khen em
    Nhưng là điều tai họa, em có biết
    Rằng khi nhận về lời khen cho mình
    Em mang bất hạnh đến cho người khác.

    Ừ thì anh lỗi lầm, anh vẫn biết
    Anh vẫn mong chuộc lại lỗi lầm
    Nhưng tại sao bàn tay, em nỡ giết
    Bàn tay từng âu yếm cùng anh?

    Và dù sao, em đừng tự dối mình
    Ngọn lửa tình đâu đã tàn phai hẳn
    Dù bây giờ đã ly biệt con tim
    Tình đau đớn trong tim này vẫn sống.

    Tình của em trong tim anh vẫn giữ
    Đớn đau này rỉ máu trái tim anh
    Một ý nghĩ vẫn làm anh đau khổ
    Rằng sẽ không còn gặp nữa chúng mình.

    Em có nghe tiếng nức nở của ai
    Như tiếng khóc lạc loài trên xác chết
    Ta vẫn sống, nhưng mỗi sáng hai người
    Đều goá bụa trên giường khi tỉnh giấc.

    Và khi em âu yếm cùng con gái
    Dạy con mình cất tiếng gọi ?oCha ơi!?
    Thì với con của mình, em có nói:
    Cha của con vẫn sống ở trên đời?

    Khi bàn tay đứa con quàng âu yếm
    Khi hôn môi con em có biết rằng
    Anh vẫn mong và vẫn luôn cầu nguyện
    Vẫn nghĩ về em như thuở yêu anh.

    Nếu em thấy con gái mình rất giống
    Với kẻ mà xưa em nỡ phụ tình
    Nếu bỗng nhiên con tim em rung động
    Nhịp đập chân thành em hãy hướng về anh.

    Lỗi lầm anh, có thể là em biết
    Vẻ điên cuồng em chẳng biết được đâu
    Niềm hy vọng của anh còn tha thiết
    Như bên tai còn vọng mãi u sầu.

    Và tâm hồn rất kiêu hãnh của anh
    Trước tình em cúi xuống
    Hồn anh đuổi theo em
    Từ giã anh đi về nơi xa vắng.

    Hết thật rồi, tất cả lời trống rỗng
    Càng phí hoài hơn thế những lời anh
    Nhưng ý nghĩ không thể nào ngăn cản
    ý nghĩ khát khao bay đến với tình.

    Vĩnh biệt em! giờ tình yêu đã hết
    Mất em rồi, tình yêu đã xa xôi
    Không bao giờ tim anh còn được chết
    Bởi từ đây con tim đã chết rồi.

    [​IMG]


    CHẲNG CÒN NHỮNG ĐÊM XƯA

    Thôi đêm này chẳng cùng em sánh bước
    Như những đêm xưa từng bước chung đôi
    Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực
    Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời.

    Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ
    Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
    Giờ con tim đang rất cần hơi thở
    Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi.

    Dù đêm nay vẫn dịu hiền như trước
    Đêm dễ thương, âu yếm của hai người
    Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước
    Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi.

  2. budamato

    budamato Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/02/2008
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    John Donne (19/7/1572 ?" 31/3/1631) ?" nhà thơ Anh theo trường phái siêu hình, tác giả của thơ sonnet, thơ tình, bi ca và những lời thuyết giáo nổi tiếng, là một trong những nhà thơ lớn của Anh thế kỉ 17.
    Tiểu sử:
    John Donne sinh ở Bread Street, London trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa. Bố là một thương gia, mất khi John Donne mới lên 4 tuổi, mẹ là con gái của nhà thơ, nhà viết kịch Heywood. Trong số những người đời trước có nhà nhân văn Thomas Moore, tác giả của ?oUtopia? nổi tiếng. Năm 20 tuổi John Donne vào học ở Hart Hall (ngày nay là trường Hertford College, Oxford), sau đó học Đại học Oxford và Đại học Cambridge nhưng cả hai nơi đều không được nhận bằng do việc những người tốt nghiệp những Đại học này phải theo Anh giáo, trong khi John Donne là tín đồ của Thiên Chúa giáo. Sau khi nghỉ học John Donne đi du lịch sang Ý và Tây Ban Nha. Năm 1891 vào học Lincoln?Ts Inn trong 3 năm. Những năm 1596-1597 theo ngài bá tước Es*** tham gia vào trận đánh Cadiz ở Tây Ban Nha, sau đó làm thư ký cho ngài Thomas Egerton. John Donne yêu cô Anne More, cháu của ngài Thomas Egerton và bí mật làm đám cưới, khi ngài Egerton biết chuyện đã đuổi việc và bắt John Donne vào tù.
    Sau khi mãn hạn tù John Donne cùng Anne More về thăm quê ngoại và viết tác phẩm Ignatius his Conclave mong cải thiện điều kiện khó khăn về tài chính. Hai lần (năm 1601 và năm 1614) John Donne được bầu vào Quốc hội Anh, trở thành ông nghị giàu có và rất đông con.
    Năm 1617 Anne More mất, kể từ đây sáng tác của John Donne đượm vẻ u ám và thần bí hơn trước. John Donne mất năm 1631, trước khi chết ông còn đọc lời thuyết giáo để dùng trong lễ tang và sai người nhà vẽ chân dung đặt vào áo quan. Sau khi mất, gần 200 năm John Donne bị người đời quên lãng, chỉ đến đầu thế kỉ XX nhà thơ William Butler Yeats mới tìm thấy bậc tiền bối của mình. Thế kỉ XX John Donne là nhà thơ cổ điển thời thượng bậc nhất ở nước Anh.
    Câu thuyết giáo nổi tiếng: ?oCon người không phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa, một phẩn của tổng thể; nếu biển cuốn đi dù chỉ một hòn đất thì châu Âu sẽ trở nên ít hơn, cũng như nếu biển cuốn đi cả vùng đất mũi hay ngôi nhà của bạn anh, hay ngôi nhà của riêng anh. Cái chết của mỗi con người làm cho tôi trở thành ít lại vì tôi là một phần của nhân loại, và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai: chuông nguyện hồn anh đấy?. Những lời này của John Donne được nhà văn Ernest Hemingway dùng làm đề từ của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng ?oChuông nguyện hồn ai?.
    Tác phẩm:
    Thơ:
    *He had done most of his poems in 1633
    *Poems on Several Occasions (1719)
    *Love Poems (1905)
    *John Donne: Divine Poems, Sermons, Devotions and Prayers (1990)
    *The Complete English Poems (1991)
    *John Donne?Ts Poetry (1991)
    *John Donne: The Major Works (2000)
    *The Complete Poetry and Selected Prose of John Donne (2001)

    Văn xuôi:
    *Six Sermons (1634)
    *Fifty Sermons (1649)
    *Paradoxes, Problemes, Essayes, Characters (1652)
    *Essayes in Divinity (1651)
    *Sermons Never Before Published (1661)
    *John Donne?Ts 1622 Gunpowder Plot Sermon (1996)
    *Devotions Upon Emergent Occasions and Death?Ts Duel (1999)

    [​IMG]
    Buổi sáng

    Trước khi mình yêu, có phải em và anh
    Có phải chưa bao giờ chúng mình xa nhau cả?
    Và có phải mình đã từng đùa vui trên hoa cỏ?
    Có phải hai đứa đã từng ngủ ở trong hang?
    Nhưng tất cả những điều này quả đến lạ lùng.
    Hễ mắt anh nhìn thấy vẻ đẹp nào như thế
    Là lại khát khao, lại mơ ước về em.

    Và giờ đây mỗi buổi sáng hai chúng mình
    Đã không còn nhìn thấy nhau, trong nỗi sợ
    Tình làm cho cả thế gian trở thành xa lạ
    Căn phòng nhỏ này trở thành rộng mênh mông.
    Thì cứ mặc cho những nhà thám hiểm sẽ đi tìm
    Và cứ để cho họ sẽ mở ra những bến bờ xa lạ
    Nhưng chỉ một thế giới này của anh và em.

    Gương mặt anh trong mắt em và em trong anh
    Hai con tim chân thành cùng chung nhịp đập
    Còn ở đâu tìm ra hai nửa bán cầu
    Mà đã lặng phía Tây, đã yên phía Bắc
    Sẽ mất đi những thứ vô tình trộn lẫn vào nhau
    Nhưng nếu như hai tình yêu hòa chung làm một
    Thì nghĩa là chúng mình còn mãi đến nghìn sau
    [​IMG]
    The Good-Morrow

    I wonder, by my troth, what thou and I
    Did, till we loved? were we not weaned till then,
    But sucked on country pleasures, childishly?
    Or snorted we in the seven sleepers'' den?
    ''Twas so; but this, all pleasures fancies be.
    If ever any beauty I did see,
    Which I desired, and got, ''twas but a dream of thee.

    And now good morrow to our waking souls,
    Which watch not one another out of fear;
    For love all love of other sights controls,
    And makes one little room an everywhere.
    Let sea discovers to new worlds have gone,
    Let maps to others, worlds on worlds have shown:
    Let us possess one world; each hath one, and is one.

    My face in thine eye, thine in mine appears,
    And true plain hearts do in the faces rest;
    Where can we find two better hemishperes,
    Without sharp North, without declining West?
    Whatever dies was not mixed equally;
    If our two loves be one, or thou and I
    Love so alike that none do slacken, none can die.
  3. budamato

    budamato Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/02/2008
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0

    William Blake (28 tháng 11 năm 1757 ?" 12 tháng 8 năm 1827) ?" là nhà thơ, hoạ sĩ Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ XVIII. Thơ ca của William Blake là một hiện tượng, chuyển từ thơ ca thế kỉ ánh sáng sang thơ ca lãng mạn của Keats, Shelley. Năm 1957 Hội đồng Hòa bình Thế giới kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông. Năm 2002 đài BBC bầu chọn 100 người Anh vĩ đại nhất mọi thời đại, William Blake được bầu ở vị trí 38.
    Tiểu sử:
    William Blake sinh ở Broad Street, Golden Square, London, là con trai của một nhà buôn hàng vải. Lên 10 tuổi bắt đầu học vẽ, năm 1778 vào học Royal Academy ở Old Somerset House. Năm 1880 công bố bức tranh đầu tiên. Năm 1873 bạn bè bỏ tiền in cho cuốn Poetical Sketches (Những phác họa thơ ca), năm 1784 cưới Catherine Boucher và mở cửa hàng bán tranh. Đến năm 30 tuổi William Bake chỉ được một số ít người biết đến nhưng bắt đầu nổi tiếng sau khi minh hoạ cho cuốn Night Thoughts (Những suy ngẫm về đêm).
    Năm 1818 Blake làm quen và kết bạn với họa sĩ trẻ John Linnell, người gợi ý và tài trợ cho Blake vẽ minh hoạ cuốn Job của Kinh Thánh. Sau đó, cũng với sự giúp đỡ của John Linnell, Blake vẽ những bức tranh minh hoạ cho phần Inferno (Địa ngục) của Dante.
    Về thơ ca, William Blake cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu. Thơ của Blake bao gồm thơ trữ tình và thơ triết học. Năm 1789 ông in cuốn Songs of Innocence (Những khúc hát ngây thơ), gồm những bài thơ và hình minh hoạ. Năm 1794 Songs of Innocence in cùng Songs of Experience (Những khúc ca từng trải). Blake đón chào Cách mạng Pháp bằng trường ca The French Revolution, 1791.
    Từ sau năm 1790, Blake xuất bản một loạt sách minh hoạ, gồm The Marriage of Heaven and Hell (Đám cưới của Thiên đường và Địa ngục); Proverbs of Hell (Cách ngôn của Địa ngục); The First Book of Urizen (Cuốn sách đầu của Urizen); America, a Prophecy (Nước Mỹ và tiên tri); The Book of Ahania (Sách Ahania); The Song of Los (Bài ca của Los); The Book of Los (Sách của Los); Europe (Châu Âu); Vala, a Dream of Nine Nights(Vala, giấc mộng của chín đêm) Jerusalem (Jerusalem); The Everlasting Gospel (Sách Phúc âm muôn thuở); Milton: a Poems (Milton: Thơ)?
    William Blake mất năm 1827 tại London.
    [​IMG]

    CHÚA SƠN LÂM
    Chao ôi hổ! Hổ cháy bừng như lửa
    Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm
    Ánh mắt nào, bàn tay nào bất tử
    Có thể tạo ra cái vẻ kinh hoàng.
    Giữa trời cao, hay chốn nào sâu thẳm
    Đôi mắt của ngươi rực lửa cháy lên?
    Và nỗi khát khao nào trên đôi cánh?
    Bàn tay nào ngọn lửa dám tịch biên?
    Bờ vai nào, và từ đâu nghệ thuật
    Tạo đường gân thớ thịt của con tim?
    Mỗi khi con tim dồn lên nhịp đập
    Chân tay nào tạo nên vẻ khiếp kinh?
    Đe búa nào, và từ đâu xiềng xích?
    Trong thử thách nào trí tuệ của ngươi?
    Đã nhào nặn ra vòng vây khủng khiếp
    Và cái ôm choàng sợ hãi không thôi?
    Khi những vì sao tung ngọn giáo của ngươi
    Và khi bầu trời tuôn ra dòng lệ
    Thấy việc làm của mình có mỉm cười?
    Cái người tạo ra cừu non và hổ?
    Chao ôi hổ! Hổ cháy bừng như lửa
    Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm
    Ánh mắt nào, bàn tay nào bất tử
    Dám tạo ra ngươi với vẻ kinh hoàng?
    [​IMG]
    HOA HUỆ
    Hoa hồng e lệ có gai che chở
    Còn cặp sừng bảo vệ chú cừu non
    Nhưng hoa huệ với sắc đẹp trắng trong
    Chỉ tình yêu ?" huệ không cần gì cả.
    BÍ MẬT CỦA TÌNH
    Đừng bao giờ về tình
    Với người bằng lời nói
    Bởi lời theo gió thổi
    Lặng lẽ và vô hình.
    Tôi nói hết với em
    Những lời chất trong ngực
    Lạnh run trong nước mắt
    Sao tình vội đi nhanh!
    Sau đó kẻ du hành
    Đi qua đường lặng lẽ
    Vô hình và kín kẽ
    Sao tình thổn thức lên.
    http://www.walfrido.com/images/Garcia%20FAmily%20E***ions/Garden-of-Love.jpg
    VƯỜN TÌNH
    Tôi trở lại khu vườn tình yêu xưa
    Nơi đùa chơi trên cỏ hoa ngày bé
    Lại nhìn thấy tháp chuông của nhà thờ
    Đứng giữa màu xanh ngập tràn hoa cỏ.
    Những cánh cửa tháp chuông đóng im lìm
    ?oKhông được mở? ?" chữ đề trên cánh cửa
    Tôi quay trở lại với khu vườn tình
    Đâu rồi cỏ hoa êm đềm ngày cũ?
    Tôi nhìn quanh, bốn phía toàn mồ mả
    Bên một nấm mồ cha mặc áo đen
    Đọc bản thánh ca, giọng trầm buồn bã
    Niềm vui tôi tan vào bụi tầm xuân.
    [​IMG]

  4. budamato

    budamato Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/02/2008
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Robert Burns (25/2/1759 ?" 21/7/1796) là nhà thơ dân tộc Scotland, tác giả của các tập thơ, trường ca và những bài hát dân gian cải biên viết bằng tiếng Anh phương ngữ Scotland.
    Tiểu sử:
    Robert Burns sinh ở Alloway, South Ayrshire, Scotland, trong một gia đình nông dân nghèo. Suốt đời phải vật lộn với cảnh nghèo túng. Lên 12 tuổi được bố gửi đến trường học, cậu bé thích đọc nhiều và yêu thích thơ của Milton và Shakespeare. Biết làm thơ từ năm 15 tuổi. Năm 1784 bố mất, Burns và em trai chuyển đến trang trại Mossgiel ở Mauchline, công việc của Burns là làm việc ở trang trại kết hợp với làm thơ. Năm 1785 Burns yêu cô Jean Armour (1767-1834) ?" con gái của một kiến trúc sư giàu có trong vùng đã có thai với Burns. Burns đã viết tờ cam kết sẽ cưới cô làm vợ nhưng ông bố cô đã xé tờ cam kết và tuyên bố rằng không bao giờ gả con gái ?" dù là đứa hư hỏng cho một kẻ tay trắng như Burns. Không còn nhìn thấy tương lai ở quê hương và tình yêu cũng bị ngăn cấm Burns quyết định sang châu Mỹ (Jamaica) làm việc cho một thương gia. Nhưng tiền đi đường không có và không vay mượn đâu được, Burns nghĩ ra một cách ?" mặc dù rất ngờ vực là in thơ bán lấy tiền. Không ngờ, tập thơ Poems, Chiefly in the Scottish Dialect (Thơ, chủ yếu viết bằng phương ngữ Scotland) của Burns in ra bán rất chạy. Trước ngày lên đường sang châu Mỹ Burns nhận được thư mời lên thủ đô Edinburgh tái bản sách và làm việc. Chuyến đi được hoãn lại? Armour sau lần mang thai thứ hai bị ông bố đuổi ra khỏi nhà và cuối cùng hai người cũng lấy được nhau. Vinh quang đã đến với Burns nhưng cuộc đời của ông vẫn vất vả và không yên ổn vì những vụ kiện tụng xuất phát từ những mối liên hệ với nhiều người phụ nữ khác. Burns mất ngày 21-7-1796 ở Dumfries.
    Tác phẩm:
    *Poems, Chiefly in the Scottish Dialect(Thơ, chủ yếu viết bằng phương ngữ Scotland, 1786) 1786, thơ
    *Tam O'' Shanter. 1790, truyện thơ
    *The Antiquities of Scotland (Scotland cổ, 1789), truyện thơ
    *Select Collection of Original Scottish Airs (Tuyển tập những bài hát cổ Scotland, 1793-1805), lời bài hát dân gian
    *The Works of Robert Burns. Ed. By Thomas Stewart, 1801-1802
    *The Works of Robert Burns. Ed by James Hogg and William Motherwell, 5 vols, 1834-1836.
    *The Works of Robert Burns. Ed by Allan Cunningham, 8 vols, 1834.
    *The Poems and Songs of Robert Burns. Ed. By James Kinsley, 3 vols, 1968

    Một số bài thơ:
    ÊLIZA
    Vĩnh biệt em, Êliza thân thiết
    Và với người vĩnh biệt nhé, quê hương!
    Bởi số phận hẩm hiu đành vĩnh biệt
    Đến muôn đời ta cách bởi đại dương.
    Nhưng dù cho ngăn cách ta biển rộng
    Chẳng có gì chia cắt nổi con tim
    Anh sẽ gửi tình anh theo ngọn sóng
    Sẽ gửi hồn anh về với hồn em.
    Vĩnh biệt em, Êliza thân thiết
    Hai chúng mình chỉ còn gặp trong mơ
    Một giọng nói thì thầm cho anh biết
    Rằng hai ta không gặp nữa bao giờ.
    Nhưng em ạ, phút giây này đau khổ
    Tựa hồ như cái chết đã sau lưng
    Anh sẽ gửi về em từng hơi thở
    Và con tim với nhịp đập cuối cùng!
    ___________
    (1)Bài thơ này (và nhiều bài khác) được viết trong thời kỳ Burns chuẩn bị đi sang Jamaica.
    [​IMG]
    NẾU TA ĐỪNG YÊU
    Nụ hôn này rồi theo ta đến chết
    Thôi nhé em, đến muôn đời vĩnh biệt
    Con tim này giờ nức nở khôn nguôi
    Nỗi nhớ em theo anh suốt cuộc đời.
    Ai buồn đau vì đời không may mắn
    Chứ anh đâu dám trách gì số phận
    Nhưng bây giờ trước mặt anh
    Tất cả chỉ còn bóng tối vây quanh.
    Anh đâu trách nỗi đam mê của mình
    Đâu trách đời vì đã trót yêu em
    Ai gặp em mà chẳng yêu say đắm
    Đã yêu rồi, giờ chia tay sao đặng.
    Nếu ta đừng yêu tha thiết, chân tình
    Nếu ta đừng yêu mù quáng, cuồng điên
    Nếu đừng chia ly, nếu đừng gặp gỡ
    Thì tim ta chẳng bao giờ tan vỡ.
    Vĩnh biệt em, người yêu dấu nhất
    Vĩnh biệt em, người yêu xinh đẹp
    Cầu chúc cho em mọi sự tốt lành
    Cầu chúc cho em hạnh phúc, bình an.
    Nụ hôn này rồi theo ta đến chết
    Thôi nhé em, đến muôn đời vĩnh biệt
    Con tim này giờ nức nở khôn nguôi
    Nỗi nhớ em theo anh suốt cuộc đời.
    EM HÃY CÒN BÉ LẮM
    Quanh năm sống với mẹ
    Em còn bé, thưa Ngài!
    Nếu sống với người lạ
    Em sợ lắm, thưa Ngài!
    Em hãy còn bé lắm
    Để làm vợ người ta
    Bây giờ em chỉ muốn
    Cùng với mẹ ở nhà.
    Ngày lễ Thánh qua rồi
    Đêm mùa đông dài lắm
    Một mình em với người
    Chao ôi, em sợ lắm!
    Cây khô cành trơ trọi
    Gió lạnh thổi đêm đêm
    Nếu thương em hãy đợi
    Sang hè em lớn thêm.
    LÒNG TÔI Ở CAO NGUYÊN
    Lòng tôi ở Cao nguyên, không ở nơi này
    Lòng tôi ở Cao nguyên theo dấu chân nai
    Mơ đuổi hươu rừng nhớ theo vết hoẵng
    Lòng tôi ở Cao nguyên, dù tôi xa vắng.
    Tạm biệt nhé Cao nguyên, núi rừng phương bắc
    Quê hương anh hùng nghĩa tình son sắt
    Dù khi đi xa hay ở rất gần
    Tôi vẫn nhớ Cao nguyên như nhớ người thương.
    Tạm biệt nhé, những đồi cao tuyết trắng
    Tạm biệt nhé, thung lũng xanh trải rộng
    Tạm biệt nhé, hàng cây rủ bên đèo
    Tạm biệt nhé, tiếng nước chảy, suối reo.
    Lòng tôi ở Cao nguyên, không ở nơi này
    Lòng tôi ở Cao nguyên theo dấu chân nai
    Mơ đuổi hươu rừng nhớ theo vết hoẵng
    Lòng tôi ở Cao nguyên, dù tôi xa vắng.
    [http://www.conferences-uk.org.uk/images/conference__uk_Scotland_.gif/img]
    VĨNH BIỆT XCỐTLEN
    Thôi vĩnh biệt Xcốtlen thân thiết
    Xứ sở nghìn năm lịch sử ngoan cường
    Tên gọi Xcốtlen giờ đây vĩnh biệt
    Tổ quốc muôn đời hùng vĩ, oai phong!
    Quê hương của Sark đuổi thù trên cát
    Và Tweed đánh giặc giữa biển xanh
    Nhưng giờ đây đã trở thành mảnh đất
    Bị chia làm tỉnh lẻ của người Anh.
    Dùng sức mạnh chẳng hề chinh phục nổi
    Quê hương ta hàng bao thế kỷ nay
    Nhưng đã bán chúng ta quân phản bội
    Vì những đồng tiền dơ bẩn lắm thay!
    Sắt thép người Anh chẳng thể nào khuất phục
    Những người con đã chiến đấu ngoan cường
    Nhưng người Anh đã đem vàng mua chuộc
    Đáng rủa nguyền những kẻ bán quê hương!
    Tôi chỉ tiếc chẳng dự vào trận đánh
    Cùng anh em chiến đấu với quân thù
    Vì quê hương được hy sinh anh dũng
    Như Bruce, Wallace sáng mãi nghìn thu!
    Nhưng mãi mãi cho đến giờ phút cuối
    Xin được nói lên dõng dạc, đàng hoàng:
    Sẽ nguyền rủa muôn đời quân phản bội
    Những kẻ tham vàng bán rẻ quê hương!
    -----------------------------
    *Năm 1707 Anh và Xcốtlen ký ?oHiệp ước liên minh? (The Act of Union), theo đó hai nước thống nhất thành một quốc gia và giải tán quốc hội Xcốtlen. Trong một thời gian dài ?oHiệp ước liên minh? vẫn gợi trong lòng người dân Xcốtlen một cảm giác sỉ nhục và bị phản bội.
    Quân phản bội, bịp bợm (parcel of rogues) là cụm từ mà dân chúng dùng để gọi các đại biểu quốc hội (Scottish Commissioners). Thời Robert Burns họ gồm có 31 người.

    TÌNH NHƯ HOA HỒNG ĐỎ
    Người yêu anh như bông hoa hồng đỏ
    Bông hoa tươi đang nở giữa mùa hè
    Người yêu anh như bài ca trong gió
    Giai điệu ngọt ngào, êm ái, say mê.
    Nét duyên dáng của người em yêu dấu
    Với tình anh chỉ có một trên đời
    Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
    Đến bao giờ biển cạn hết mới thôi.
    Biển chẳng cạn bao giờ, em yêu dấu
    Như đá kia trơ gan với mặt trời
    Tình của anh mãi cùng em yêu dấu
    Dù dòng đời cứ thế, chẳng ngừng trôi.
    Tạm biệt nhé, người em yêu dấu
    Chia tay nhau em nhé đừng buồn
    Anh sẽ về với người em yêu dấu
    Dù phải đi qua ngàn vạn dặm đường.
    NHÀ EM BÊN SUỐI
    Tôi hỏi: ?oem đi đâu,
    Đi đâu mà vội thế??
    Em kiêu hãnh lắc đầu:
    ?oEm đi theo lời mẹ!?
    ?oNhà em đâu-tôi hỏi-
    Ơ gần hay ở xa??
    ?oNhà em ở bên suối
    Em sống với mẹ già?.
    Tôi tìm về nơi ấy
    Nhưng em giấu mẹ già
    Gần sáng cùng tỉnh dậy
    Em đã bớt kiêu sa.
    Chú gà trống ngủ quên
    Chưa cất lên tiếng gáy
    Nhưng hình như giường bên
    Mẹ già đang thức dậy.
    Mẹ nhìn anh giận dữ
    Lôi em ra khỏi giường
    Rồi lấy chiếc roi dẻ
    Đánh em thấy mà thương.
    Tạm biệt người em gái!
    Người em gái kiêu sa!
    Anh mong ngày gặp lại
    Nhưng anh sợ mẹ già.
    [​IMG]
    QUÁN TRỌ ĐÊM ĐÔNG
    Giữa rừng đêm tối mịt
    Ngọn gió rét tháng giêng
    Nhà cửa bưng kín mít
    Tôi tìm nơi trọ đêm.
    May mắn thay trên đường
    Tôi gặp người con gái
    Nàng tỏ ý sẵn lòng
    Mời tôi về nghỉ lại.
    Tôi cúi chào lễ phép
    Người con gái làm ơn
    Rồi tỏ ra lịch thiệp
    Nhờ nàng giúp trải giường.
    Tấm vải rộng làm chiếu
    Nàng trải chiếc giường con
    Rót mời tôi chén rượu
    Nàng chúc tôi ngủ ngon.
    Rồi lấy đi ngọn đèn
    Nhìn theo nàng tôi gọi:
    ?oNàng ơi cảm phiền em
    Cho anh nhờ chiếc gối?.
    Nàng mang tôi chiếc gối
    Đặt nhẹ xuống đầu giường
    Nàng dễ thương quá đỗi
    Khiến tôi ôm chặt nàng.
    Đôi má nàng ửng đỏ
    Như thoáng chút thẹn thùng
    ?oNếu yêu em hãy giữ
    Đời con gái nghe anh!?.
    Mái tóc xoăn mềm mại
    Toả mùi hương ngất ngây
    Của mùi hương hoa huệ
    Khiến lòng tôi mê say.
    Bộ ngực nàng tròn căng
    Ngỡ như cơn gió mạnh
    Của buổi sớm mùa đông
    Dồn tuyết về thành đụn.
    Tôi hôn nàng mải miết
    Lên mắt biếc môi hồng
    Thịt da nàng tinh khiết
    Như hương ngọn gió rừng.
    Nàng ngoan ngoãn dễ thương
    Đôi mắt hiền nhắm lại
    Giữa tôi và bức tường
    Nàng ngủ say êm ái.
    Tỉnh giấc lúc sáng trời
    Tôi yêu nàng lần nữa
    ?oTrời, em chết mất thôi!?-
    Nàng rưng rưng, nức nở.
    Hôn đôi mắt đẫm ướt
    Mái tóc đượm mùi hương
    Tôi nói: ?ocòn nhiều lượt
    Em giúp anh trải giường!?
    Nàng ngồi dậy tìm kim
    May cho tôi chiếc áo
    Trong buổi sáng tháng giêng
    Nàng ngồi may chiếc áo.
    Thời gian thấm thoắt trôi
    Hoa bên rừng đã nở
    Nhưng tôi nhớ suốt đời
    Đêm mùa đông quán trọ.

Chia sẻ trang này