1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tác phẩm Hồ Anh Thái

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 11/01/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Lê Minh Khuê - Cõi người rung chuông tận thế và Hồ Anh Thái
    Trong những câu chuyện hàng ngày tôi thường nghe thấy tiếng thở hắt ra rồi tiếng ta thán: chán quá. Chán sống như chán mọi thứ! Thì thực ra là chán. Nhưng khi nghe cậu nói với cái giọng rất thật ấy, khi chỉ có hai chị em hoặc là có vài người bạn thân, tôi lại át đi: xem nào! Trời cho được một tí ti thời gian đâu có nhiều nhặn gì mà lúc nào cũng la oai oái. Chán cái gì!
    Hồ Anh Thái cười xòa. Rồi bận rộn lôi trong cái cặp to đùng ra những bài báo của ai đó đã được phô tô nhiều bản, vì theo Thái là rất hay. Ðọc, phô tô, thấy hay là đi phân phát cho tất cả ai mà cậu yêu quý. Trong túi còn đĩa phim VCD, đĩa DVD, toàn phim hay lại bỏ tiền mua có khi hàng chục bản để phát không cho bạn bè vì: thấy nó hay quá, mọi người không xem thì uổng! Sách cũng vậy. Nếu là hay thì chết tiền. Mua có lúc hàng chục cuốn mà cho. May có nghề làm báo để có tiền mà xa xỉ đến thế! Nhưng nếu nghĩ sâu xa thì đấy là con người quyết theo đuổi đến cùng những say mê mà vì nó có thể bỏ tất cả những cám dỗ lợi lộc. Say mê và truyền nó cho những ai hiểu mình. Trong cái nhóm bạn bè chọn lọc có thể bỏ qua cho nhau nhiều khiếm khuyết để chỉ nhìn thấy cái tốt đẹp của nhau, chừng như ai cũng vừa quý Thái vừa buồn cười trước cái lòng tốt đôi khi như ngây thơ, như đứa trẻ. Không phải ai cũng hiểu được lòng tốt ấy trừ những người thân. Nhưng đời sống mà. Ta hãy sống cái phần hay ho của nó, thời gian đâu bận lòng vì những thứ không đem lại niềm vui.
    Trở lại cái câu: chán quá! Chán chỉ muốn chết... có lẽ nó là sự tức tối, là nỗi tuyệt vọng trước những điều mình muốn tốt đẹp mà không thể được. Thực ra đã nhiều lần và trong nhiều tác phẩm người ta đọc được sự ấm áp của con người tha thiết sống. Cõi người rung chuông tận thế có đoạn: "Nhưng đau khổ nhiều, chứng kiến chết chóc nhiều để rồi được sống mà quan sát mà nhìn thấy tất cả những điều đang diễn ra dưới những mái nhà kia, những đường phố kia thì không vui nhưng cũng có ích...
    ... Phải chứng kiến tận mắt, phải ôm người chết trong tay, phải khâm liệm cho một tử thi... người đó mới xem như thực hiểu đời, hiểu người hiểu sự sống.
    Khi đã hiểu cái chết. Khi ấy anh thấy mình cần phải sống.
    Tôi cần phải sống".
    Lời của một nhân vật. Lời của tác giả sau bao nhiêu thăng trầm. Tình yêu cuộc sống, bực bội vì cái xấu xí độc ác có lẽ là cảm hứng chính cho cuốn sách nhiều lận đận Cõi người rung chuông tận thế. Tác giả nói rất nhiều về cái ác bản năng như loài thú, sự mưu mô xảo quyệt của con người như loài thú. Rồi xuyên qua cái đám bùng nhùng hỗn độn ấy là một nhân vật giả tưởng chuyên đi trừng trị sự độc ác ở cõi nhân gian chung quanh nhân vật chính. Ðó là ý tưởng, là sợi chỉ xuyên suốt gây ấn tượng đặc biệt.
    Yêu cuộc sống mà như không chịu thừa nhận tình yêu ấy vì nó không được như mình muốn. Nhưng yêu và muốn bảo vệ nó nên tìm ra được cái ý như là có siêu nhân, có con người ảo đi cùng tác giả để bảo vệ chân lý cuộc sống. Người ta gấp sách lại và nghĩ như vậy về Cõi người rung chuông tận thế.
    *
    Hồ Anh Thái viết khi còn là sinh viên. Ngày ấy thấy một cậu trắng trẻo rụt rè đưa đến tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, ý thức của người ta lúc ấy còn ngập ngừng giữa những ngây ngô của thời cũ và sự tò mò với thời mới, giữa mất tự do mà không có ý thức và sự vươn xa làm chủ bản thân. Văn chương khi ấy còn đầy những sáo mòn, đầy khuôn phép. Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái làm tôi ngạc nhiên. Tác giả đã tìm ra trong đời sống có những bóng ma, có quỷ dữ. Và những nhân vật ma quỷ khống chế đời sống theo quan niệm cũ, trở thành những nhân vật của tương lai. Quả nhiên chỉ vài năm sau đời sống mất dần sự bình yên. Tâm hồn con người bị nhiễm độc. Ðọc xong tiểu thuyết ấy tôi nghĩ tác giả sẽ là người tỉnh táo để có thể sáng tạo những cuốn sách mang vác các vấn đề quan trọng của văn học. Trước đó Thái đã có nhiều truyện ngắn. Có cái hay, cái trung bình, nhưng vì còn quá ít tuổi, ai có thể dửng dưng lạnh lùng và thờ ơ để làm chủ ngòi bút như người lành nghề bây giờ. Phong cách tiểu thuyết của Thái hầu như mở đầu và chững chạc trong Người và xe chạy dưới ánh trăng từ những năm đầu thập kỷ 1980.
    Thái học đại học. Ði làm cán bộ ngoại giao. Rồi làm lính binh nhì thời "giấc mơ chiến sĩ" đã tan trong tâm trí nhiều người vì sau chiến tranh chống Mỹ đến các thứ chiến tranh biên giới tâm trạng người ta xáo trộn bất ổn nên cả trong cả ngoài quân đội đang xao xác. Thái làm binh nhì. Luyện tập. Quan đánh lính. Lính đánh quan. Ðốn nứa làm doanh trại đến nỗi bị thương thành sẹo. Kể chuyện đơn vị. Lính muốn ăn thịt lợn, mà lợn trong chuồng chưa lớn lắm. Lính nghĩ ra mẹo cho đỗ xanh khô vào tai lợn. Ðỗ xanh ngấm nước nở ra trong tai làm lợn phát điên. Quan cho làm thịt lợn. Mỗi thằng vài miếng mà sung sướng. Thái đã sống những ngày như vậy nên mỗi khi nhìn thấy một người nghiêm chỉnh kiểu quan chức ngoại giao, bạn bè không khỏi ngạc nhiên. Cũng như mọi người, Thái đã trải qua tất cả những tối tăm bức bối của xứ sở, có cả hạnh phúc cả đắng cay nhưng là người kín đáo, ít bộc lộ, mọi người cứ nhầm tưởng ra đời là gặp may.
    Trong Cõi người rung chuông tận thế viết xong từ năm 1996, tác giả đã vững tay tạo nên một cốt truyện hấp dẫn ngay từ dòng đầu... Lại là người từng trải nên chi tiết đắt. Cái khung cảnh để nhân vật sống trong tác phẩm là khung cảnh sang trọng, con cái của những nhà nhiều tiền lắm của sống nhơn nhơn trên đống tiền và chả nghĩ đến ai. Những cái tên như Bóp - Phũ - Cốc... là tên của những đứa trẻ dư thừa tiền bạc nhưng không có gốc rễ của đời sống chủ nghĩa. Tác giả miêu tả họ thông thạo như là người từng sống ở đó để thấy hết sự độc ác của một lớp người mà cái ác chính là sự vô sỉ.
    Hồ Anh Thái ghét cay đắng lối quay phim chụp ảnh trong tác phẩm văn học. Ghét vì sống đã như thế rồi ngày ngày chen chúc ngột ngạt đến khi đọc lại thấy nó lù lù trên trang giấy, xem lại thấy bê nguyên cả quán ăn cả vỉa hè đường phố ngã năm ngã tư lên màn ảnh. Vậy nên đời sống trong tiểu thuyết thực đấy mà không phải là thực. Cõi người rung chuông tận thế có những trang miêu tả nhưng lại là của trí tưởng tượng không phải sự bê nguyên si ở đâu. Với khách sạn, nhà hàng, phòng ngủ, biển, đường... như trong một xứ sở thực đấy mà khó thấy. Ðó cũng là một thành công của Cõi người rung chuông tận thế. Thoạt đọc người ta e ngại. Ðằng sau chữ nghĩa như lạnh lùng như chính xác người ta vẫn sợ có một cái gì. Vì thế tác phẩm làm cuộc hành trình qua các nhà xuất bản suốt sáu năm trời. Khi đọc một cách thấu đáo mới nhận biết ý tưởng sâu sắc của tác phẩm là có thực, sự đa nghĩa là có thực, tri thức của tác giả phong phú nhưng viết kiệm lời là đúng, nhưng vượt lên trên hết vẫn là một tâm hồn trong sáng hướng thiện mong muốn cho cái đẹp chiến thắng. Hầu như ít nhà văn nào thành công nếu mổ xẻ cuộc sống tanh bành ra đấy mà không xót thương và không tìm được cách thu dọn sự bừa bộn.
    Sau khi cho một loạt nhân vật chết một cách thê thảm, tác giả đã hướng người đọc tới lòng tin: không bao giờ sự độc ác có thể tự do tung hoành trong cõi nhân gian...
    *
    Hồ Anh Thái đi bộ đội, làm ngoại giao rồi sang Ấn Ðộ vừa đi học vừa làm ở sứ quán Việt Nam bên Ấn Ðộ. Viết thư về cho bạn bè nói rằng chữ Hinđi loằng ngoằng thế thôi chứ cũng có chữ cái. Em viết tên của chị cho mà xem. Và viết tên người Việt bằng tiếng Hinđi. Thông thạo thứ tiếng này để đi hầu khắp xứ sở Ấn Ðộ vào chùa chiền nghiên văn hóa và tôn giáo. Viết một loạt truyện về Ấn Ðộ như một nhà du lịch thông thái. Ðọc những truyện ngắn của Thái người ta như được đi thăm thú xứ sở bí ẩn này với những quan hệ sâu kín trong xã hội ấn, với những truyền thuyết, những triết lý cuộc sống mà đọc ở những thể văn khác rất khó ghi nhận. Văn học đến với ta giản dị và sâu sắc, dễ gần gũi nếu tác giả có tri thức về vùng đất mà mình sáng tạo.
    Ở Ấn Ðộ sáu năm với mùa hè nóng trên 40 độ C, thức ăn không quen, những công việc ngoại giao lúc nào cũng bắt mình phải trịnh trọng thường trực nụ cười, con người nghệ sĩ như bị gò bó. Nhớ đất nước. Tiếc vì thời gian đi mà mình không làm được gì cho niềm đam mê văn chương. Thái về nước nhận làm một việc có tính công chức của Bộ, từ chối đề bạt, giấu mình đi. Bạn bè không khỏi tiếc. Văn chương thì làm ở đâu chẳng được? Làm lúc nào chả được? Thăng tiến trong nghề chính cũng cần lắm chứ. Hỏi thì lắc đầu có vẻ không tiếc gì. Học hành nghiêm chỉnh thế. Tiếng Anh thông thạo thế. Ði nhiều miền đất thế mà hy sinh cho văn chương ư? Ai cũng muốn Thái phải là một VIP của ngoại giao. Ðến bây giờ vẫn nghĩ thế. Nhưng người trong cuộc đã quyết thì bạn bè biết nói sao?
    Những năm gần đây văn chương như thăng hoa. Sau Cõi người rung chuông tận thế là một loạt những truyện ngắn đặc sắc. Tập truyện Tự sự 265 ngày là một phong cách như trình bày sự hóm hỉnh, có duyên, cười vào thói hư tật xấu thời hiện đại của người Việt, và những trang viết là sự nhào nặn tiếng Việt, trân trọng tiếng Việt. Ðối với tác giả, một dấu phẩy cũng đáng để nhà văn phải trăn trở. Tác giả ghét lối viết ào ào in lấy được. Sách xếp cả chồng mà chẳng ai nhớ nổi. Viết rồi vô trách nhiệm với tác phẩm của mình đến nỗi để ai làm gì nó cũng được. Vì cái sự coi trọng nghề mà nhiều lần suýt mất cả những mỗi quan hệ tốt đẹp. Nhiều lần tức tối: mình đã góp ý rồi. Vì bạn bè nên nhúng tay vào sửa cho nó rồi. Vậy mà nó vứt đâu cái bản đã sửa để in bản cũ. Biết rõ nó không phải coi thường mình. Nó vô trách nhiệm với chính nó thế thì viết văn làm gì!
    Giận thật sự người nào đó nhưng rồi cũng nguôi ngoai vì: có ai như mình đâu. Mình làm quá người ta lại không hiểu cho là mình rách việc!
    Cũng trong cung cách kết bạn. Ðùng đùng yêu mến như sẻ lòng với ai đó. Ðùng đùng bắt bạn bè phải được thấy gã này, phải chuyện trò với gã này - vì nó cực hay. Nhưng rồi lại: thôi, không gặp nữa. Chán lắm!
    Suy cho cùng cái thói yêu chữ nghĩa đấy mà. Thấy gã nào đó viết một cái gì hay quá là quý mến ngay. Nhưng quý rồi, đọc cái thứ hai thấy sự cẩu thả đã chán. Ðọc cái nữa càng chán. Chuyện trò thấy chán ngắt. Thấy nó chả yêu nghề. Chọn nghề mà không hết lòng vì nghề chả đáng cho mình hết lòng với nó. Cho nên loanh quanh lại vẫn chơi với những người bạn không cùng tông màu cho lắm, nhưng trân trọng nghề nghiệp. Và có những người bạn tốt. Lê Dung chẳng hạn. Khi Lê Dung mất đi Thái gọi điện giọng buồn như khóc: Đấy! Vừa cười nói vừa rủ nhau đi chơi đã không còn nữa. Cứ như thế này mình làm sao sống được! Buồn bã rất lâu như là có cái gì rất quan trọng giữa hai người. Nhưng đối với chị Ðoàn Lê, em Thu Huệ, với anh Vũ Bão, cũng như với anh Ma Văn Kháng, anh Xuân Thiều... Thái cũng hết sức trân trọng, chung thủy. Ai bình luận khen chê mặc kệ. Thái quý họ như Thái đã từng biết không hề chao đảo vì ai đó yêu ghét không giống mình. Hiếm khi thấy một nhà văn chung thủy với những gì mình chọn lựa như Thái...
    Văn của Thái không có độ du dương của tiếng Việt. Tác giả không thích không chú trọng điều này. Trừ cuốn Tự sự 265 ngày là những khám phá và lối viết như "chơi" tiếng Việt, còn các tác phẩm khác rất được người đọc tiếng Anh thú vị. Văn học dịch ra ngôn ngữ khác mạnh ở ý tưởng và cách kể chuyện. Cuốn Trong sương hồng hiện ra và các truyện khác được bạn bè ở Mỹ đánh giá cao, được báo chí Mỹ bình luận là một tác phẩm đặc sắc là thành công của Thái. Qua những bản dịch tác giả được người đọc ở Mỹ chú ý. Ðược mời thỉnh giảng ở Ðại học Tổng hợp Washington. Ðược mời đi dự hội thảo văn học ở Úc, ở Thụy Ðiển... Quen biết nhiều. Giao tiếp nhiều. Cuốn Người đàn bà trên đảo in ở Mỹ, ở Pháp, ở Anh, Ấn Ðộ, Thái Lan và sắp tới in ở vài thứ ngữ khác.
    Người như thế nhưng sưu tầm nhiều băng hát chèo, hát ca trù, mê hát xẩm, chịu khó đi xem các vở ca kịch mới dựng, xem phim trong nước. Vẫn là nghệ sĩ sống chết với đất này, với ngôn ngữ của xứ sở này dù ngày nào cũng bực bội. Lúc nào cũng có cớ để kêu: chán thế. Chán muốn chết! Và chân thật nên chỉ có thể ở cạnh người thân mới dễ nói ra mọi chuyện. Làm ngoại giao nhưng trong đời sống ghét thói xã giao giả dối. Vì thế mới ham văn chương. Nhờ văn chương nói hộ mình.
    Cõi người rung chuông tận thế như được kết cấu từ ý tưởng hôm nay. Mạch truyện liền tù tì những cái chết, sự trả thù, nhưng xen vào đó là ngôn ngữ người Việt hôm nay. Không lôi thôi lòng thòng. Chi tiết cô đặc và đắt. Nó ám ảnh ở dòng mở đầu như phũ phàng và tiếng thở dài nhẹ nhàng khi cô gái Mai Trừng được giải khỏi lời nguyền oan nghiệt, trở lại là người bình thường được sống như người chung quanh cô khi kết sách. Vẫn là cách nghĩ của người Việt. Qua lửa qua máu qua nước... là cõi bình yên. Nhân vật của cuốn sách này có hình ảnh đường nét. Người ta tưởng tượng được vóc dáng của ba thằng thanh niên. Cũng tưởng tượng được hình hài đứa con gái tên Mai Trừng. Nhân vật đi lại có động có tĩnh không nhạt nhòa trộn lẫn. Cuốn tiểu thuyết viết như là thiên về kỹ thuật nhưng để nhớ và hình dung ra nhân vật lại phải xuất phát từ trí tưởng tượng và cảm hứng sáng tạo.
    Ðây là người còn đi dài với văn chương.
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Hồ Anh Thái -Thấp thoáng văn học Việt Nam ở Mỹ
    Ðó đây trong những hiệu sách trên toàn nước Mỹ đã thấp thoáng những tác phẩm văn học Việt Nam. Còn ít ỏi, nhưng những cuốn sách này đã làm được một việc có ý nghĩa quan trọng: trở thành sách để giảng dạy trong nhiều trường đại học Mỹ.
    Vượt rào cản ngôn ngữ
    Nhà văn Việt Nam có một công cụ hiệu quả để làm nên tác phẩm - đó là tiếng Việt. Nhưng cũng chính ngôn ngữ lại trở thành một rào cản, thậm chí thành "bức tường lửa", một khi muốn đưa tác phẩm ra với thế giới bên ngoài. Chạm phải rào cản ấy, mọi cố gắng đều bật ngược trở lại. Ðây là tình trạng chung của tất cả những ngôn ngữ không phổ biến. Vươn ra bên ngoài - đúng, hội nhập - cũng đúng. Nhưng ai dịch? Chất lượng dịch có thực sự là văn học? Dịch rồi thì ai xuất bản? Xuất bản rồi thì hiệu quả ra sao?
    Bắt đầu từ việc nhà xuất bản Curbstone Press tung ra một hợp tuyển truyện ngắn hậu chiến của các nhà văn Việt Nam và Mỹ Phía bên kia góc trời (The Other Side of Heaven). Nhân tiện xin nói ngoài lề, chữ heaven ở đây không thể dịch sai thành thiên đường, mà hàm nghĩa bầu trời. Việt Nam và Mỹ là hai đất nước ở tận hai góc trời, nay cần có một nhịp cầu hoà giải nối liền hai góc trời xa xôi ấy - ý tưởng của những người làm sách là thế. Cuốn sách được Hội các nhà phê bình văn học Mỹ bầu chọn là cuốn hợp tuyển hay nhất của năm 1995. Hai nhà văn Việt Nam tham gia thực hiện là Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái được mời đi gần 20 bang nước Mỹ (National Book Tour) để gặp gỡ độc giả và giới thiệu về cuốn hợp tuyển này. Cho tới nay, cuốn sách đã được đưa vào giảng dạy ở các khoa văn học, khoa nghiên cứu quốc tế của hàng chục trường đại học Mỹ, trong chương trình văn học của nhiều trường phổ thông trung học. Hệ thống giáo dục Mỹ để ngỏ một thời lượng lớn cho phép nhà trường tự tìm thêm những cuốn sách hữu ích phục vụ việc giảng dạy.
    Nhà xuất bản Curbstone Press từ đó xuất bản một bộ sách mang tên Những tiếng nói từ Việt Nam (Voices from Vietnam) với những cuốn cũng ngay lập tức được hàng chục trường đại học và trung học phổ thông xin phép đưa vào giảng dạy: Thời gian của người của Nguyễn Khải, Những ngôi sao, trái đất, dòng sông của Lê Minh Khuê, Ngược dòng nước lũ của Ma Văn Kháng, Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái, tập thơ Ðường về của Nguyễn Duy. Những cuốn sách này cũng trở thành bạn đường của các đoàn sinh viên Mỹ sang Việt Nam thực tập lâu nay. Mỗi người cầm theo cả bộ sách để trực tiếp trao đổi với các tác giả được mời tới giảng dạy.
    Bộ sách vẫn đang được tiếp tục với tập Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Ðoàn Lê, Nguyễn Thị Thu Huệ. Ðầu năm 2003 sẽ ấn hành tuyển tập truyện ngắn Việt Nam có lẽ là dầy dặn nhất in ở nước ngoài, gồm 45 truyện ngắn, mang tên Tình yêu thời hậu chiến - hợp tuyển sáng tác Việt Nam đương đại (Love after War: An Anthology of Contemporary Fiction from Vietnam) do hai nhà văn Hồ Anh Thái và Wayne Karlin làm chủ biên.
    Ði cùng với bộ sách này, một số tác phẩm của những nhà xuất bản khác cũng đã được giáo sư và sinh viên Mỹ đón nhận, đưa vào giảng đường: Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái...
    Văn học Việt Nam đã vào thị trường Mỹ. Có thể nói như vậy. Ðội ngũ còn mỏng manh, lẻ loi, nhưng dần dần đã thấy hiện diện trong hệ thống phát hành sách toàn quốc, có nghĩa là người đọc có thể đặt mua trên mạng (Amazon.com), có thể nhặt chúng ở các hiệu sách trên toàn nước Mỹ. Sự hiện diện ấy vẫn còn khiêm tốn (xin được trình bày ở phần sau), số lượng phát hành cũng chỉ ở mức vừa phải, nhưng ngay từ rất sớm, sách văn học Việt Nam đã đạt được một ý nghĩa quan trọng mà nhiều tác phẩm bán rất chạy ở Mỹ không làm được: trở thành sách giáo khoa trong nhiều trường học. Các tác phẩm này cũng được đánh giá tốt, không chỉ về nội dung mà cả về nghệ thuật. Nhà văn đoạt giải Pulitzer, Robert Olen Butler viết: "Những tác phẩm này cho chúng ta hiểu thêm về tâm hồn Việt Nam - sự nồng hậu và rộng lượng, lòng khát khao và chan chứa tình cảm". Nữ văn sĩ đoạt giải sách quốc gia Gloria Emerson nhận xét: "Chúng ta được đến với những con người Việt Nam cụ thể, thông qua những tác phẩm đặc sắc". Tuần báo Người xuất bản: "Các tác phẩm gây bàng hoàng cả về tầm cỡ và dư vị để lại". Báo Công chúng Texas: "Trang viết của các nhà văn Việt Nam trải dài từ cái siêu nhiên đến cái tự nhiên và cực kỳ sinh động". Còn nhiều đánh giá như thế của những tờ báo có uy tín như Thời báo New York, Bưu báo Washington, Thời báo Los Angeles...
    Nhiều trí thức Mỹ cho biết, ngay cả nhà văn Mỹ, có người cả cuộc đời viết văn cũng không được Thời báo New York nhắc đến một dòng. Thế mà tờ báo "kênh kiệu" ấy đã có nhiều bài đánh giá các tác phẩm văn học Việt Nam là "hiện thực và siêu thực, hài hước và nghiêm nghị, hồn nhiên và suy tư, được cấu trúc một cách tự nhiên mà tao nhã"...
    Chuyện xuất bản ở Mỹ
    Người ta vẫn chưa lý giải nổi việc người Mỹ không thích đọc sách dịch. Rất nhiều tác phẩm làm mưa làm gió ở châu Âu, sang đến Mỹ chỉ có thể lay lắt... "chuông nguyện hồn ngươi". Ở một mức độ khiêm nhường hơn, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh gây được dư luận nhất định ở Anh, nhưng dầm dề mấy ngàn bản bán mãi ở Mỹ. Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Ðại học Oxford ở Malaysia in, chỉ bán trong hệ thống các trường đại học, không ra đến thị trường.
    Sách do các trường đại học xuất bản hiếm khi có mặt trong hệ thống hiệu sách công cộng ở Mỹ, thông thường chỉ phát hành trong hệ thống các trường đại học với nhau. Ðó là những cuốn Ánh đèn thành phố, tập phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng (Ðại học Oxford), Thời xa vắng (Ðại học Massachusetts), Người đàn bà trên đảo (Ðại học Washington), Số đỏ...
    Các nhà xuất bản Mỹ thường thăm dò số lượng phát hành, nếu khả năng chỉ bán được dưới 5000 bản thì họ sẽ từ chối bản thảo. Họ kinh doanh sách chứ không làm nghĩa vụ xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Rất nhiều tác phẩm hay của nhà văn Việt Nam, được gửi "chào hàng" cho các nhà xuất bản Mỹ, nhưng đều bị từ chối. Tất cả chỉ có một lý do: tác phẩm có thể hay, nhưng không hợp với độc giả Mỹ, họ sẽ không mua.
    Thật hiếm có nhà xuất bản như Curbstone Press. NXB đã dịch văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha của các nước Nam Mỹ và Mỹ Latinh đến cho độc giả Mỹ, đang tính chuyện giới thiệu văn học một số nước á-Phi. Với văn học Việt Nam, từ một nhà xuất bản nhỏ ở bang Connecticut, giờ đây Curbstone đã có uy tín nhờ không chỉ in một cuốn mà cả một bộ sách Những tiếng nói từ Việt Nam. Nói cách khác, sách Việt Nam vào được thị trường Mỹ phần lớn là nhờ Curbstone. Những cuốn ấy hàng năm vẫn được in nối bản đều đều, có cuốn như Trong sương hồng hiện ra đã được phát hành gấp ba lần số lượng bình thường.
    Curbstone Press là một nhà xuất bản không lợi nhuận. Tính chất không lợi nhuận khiến thu nhập của người làm xuất bản và nhuận bút cho tác giả, dịch giả là rất hạn chế. Không lợi nhuận còn có nghĩa là nhà xuất bản không phải nộp thuế thu nhập và để đáp lại việc không phải đóng thuế, họ phải làm nghĩa vụ phát triển văn hóa xã hội bằng cách tặng sách cho các thư viện trên toàn quốc, cho các trường học... Sách của NXB vì thế được in với số lượng lớn, ngoài mấy ngàn cuốn bán trên toàn quốc để thu hồi vốn và một phần lãi để trang trải nhuận bút và nuôi sống người làm sách, còn có một số lượng đáng kể được đem tặng đến tận tay sinh viên và trí thức. Lợi nhuận là quan trọng, nhưng với nhà văn có thêm người đọc cũng là điều quan trọng không kém.
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Hồ Anh Thái -Thấp thoáng văn học Việt Nam ở Mỹ
    Ðó đây trong những hiệu sách trên toàn nước Mỹ đã thấp thoáng những tác phẩm văn học Việt Nam. Còn ít ỏi, nhưng những cuốn sách này đã làm được một việc có ý nghĩa quan trọng: trở thành sách để giảng dạy trong nhiều trường đại học Mỹ.
    Vượt rào cản ngôn ngữ
    Nhà văn Việt Nam có một công cụ hiệu quả để làm nên tác phẩm - đó là tiếng Việt. Nhưng cũng chính ngôn ngữ lại trở thành một rào cản, thậm chí thành "bức tường lửa", một khi muốn đưa tác phẩm ra với thế giới bên ngoài. Chạm phải rào cản ấy, mọi cố gắng đều bật ngược trở lại. Ðây là tình trạng chung của tất cả những ngôn ngữ không phổ biến. Vươn ra bên ngoài - đúng, hội nhập - cũng đúng. Nhưng ai dịch? Chất lượng dịch có thực sự là văn học? Dịch rồi thì ai xuất bản? Xuất bản rồi thì hiệu quả ra sao?
    Bắt đầu từ việc nhà xuất bản Curbstone Press tung ra một hợp tuyển truyện ngắn hậu chiến của các nhà văn Việt Nam và Mỹ Phía bên kia góc trời (The Other Side of Heaven). Nhân tiện xin nói ngoài lề, chữ heaven ở đây không thể dịch sai thành thiên đường, mà hàm nghĩa bầu trời. Việt Nam và Mỹ là hai đất nước ở tận hai góc trời, nay cần có một nhịp cầu hoà giải nối liền hai góc trời xa xôi ấy - ý tưởng của những người làm sách là thế. Cuốn sách được Hội các nhà phê bình văn học Mỹ bầu chọn là cuốn hợp tuyển hay nhất của năm 1995. Hai nhà văn Việt Nam tham gia thực hiện là Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái được mời đi gần 20 bang nước Mỹ (National Book Tour) để gặp gỡ độc giả và giới thiệu về cuốn hợp tuyển này. Cho tới nay, cuốn sách đã được đưa vào giảng dạy ở các khoa văn học, khoa nghiên cứu quốc tế của hàng chục trường đại học Mỹ, trong chương trình văn học của nhiều trường phổ thông trung học. Hệ thống giáo dục Mỹ để ngỏ một thời lượng lớn cho phép nhà trường tự tìm thêm những cuốn sách hữu ích phục vụ việc giảng dạy.
    Nhà xuất bản Curbstone Press từ đó xuất bản một bộ sách mang tên Những tiếng nói từ Việt Nam (Voices from Vietnam) với những cuốn cũng ngay lập tức được hàng chục trường đại học và trung học phổ thông xin phép đưa vào giảng dạy: Thời gian của người của Nguyễn Khải, Những ngôi sao, trái đất, dòng sông của Lê Minh Khuê, Ngược dòng nước lũ của Ma Văn Kháng, Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái, tập thơ Ðường về của Nguyễn Duy. Những cuốn sách này cũng trở thành bạn đường của các đoàn sinh viên Mỹ sang Việt Nam thực tập lâu nay. Mỗi người cầm theo cả bộ sách để trực tiếp trao đổi với các tác giả được mời tới giảng dạy.
    Bộ sách vẫn đang được tiếp tục với tập Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Ðoàn Lê, Nguyễn Thị Thu Huệ. Ðầu năm 2003 sẽ ấn hành tuyển tập truyện ngắn Việt Nam có lẽ là dầy dặn nhất in ở nước ngoài, gồm 45 truyện ngắn, mang tên Tình yêu thời hậu chiến - hợp tuyển sáng tác Việt Nam đương đại (Love after War: An Anthology of Contemporary Fiction from Vietnam) do hai nhà văn Hồ Anh Thái và Wayne Karlin làm chủ biên.
    Ði cùng với bộ sách này, một số tác phẩm của những nhà xuất bản khác cũng đã được giáo sư và sinh viên Mỹ đón nhận, đưa vào giảng đường: Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Người đàn bà trên đảo của Hồ Anh Thái...
    Văn học Việt Nam đã vào thị trường Mỹ. Có thể nói như vậy. Ðội ngũ còn mỏng manh, lẻ loi, nhưng dần dần đã thấy hiện diện trong hệ thống phát hành sách toàn quốc, có nghĩa là người đọc có thể đặt mua trên mạng (Amazon.com), có thể nhặt chúng ở các hiệu sách trên toàn nước Mỹ. Sự hiện diện ấy vẫn còn khiêm tốn (xin được trình bày ở phần sau), số lượng phát hành cũng chỉ ở mức vừa phải, nhưng ngay từ rất sớm, sách văn học Việt Nam đã đạt được một ý nghĩa quan trọng mà nhiều tác phẩm bán rất chạy ở Mỹ không làm được: trở thành sách giáo khoa trong nhiều trường học. Các tác phẩm này cũng được đánh giá tốt, không chỉ về nội dung mà cả về nghệ thuật. Nhà văn đoạt giải Pulitzer, Robert Olen Butler viết: "Những tác phẩm này cho chúng ta hiểu thêm về tâm hồn Việt Nam - sự nồng hậu và rộng lượng, lòng khát khao và chan chứa tình cảm". Nữ văn sĩ đoạt giải sách quốc gia Gloria Emerson nhận xét: "Chúng ta được đến với những con người Việt Nam cụ thể, thông qua những tác phẩm đặc sắc". Tuần báo Người xuất bản: "Các tác phẩm gây bàng hoàng cả về tầm cỡ và dư vị để lại". Báo Công chúng Texas: "Trang viết của các nhà văn Việt Nam trải dài từ cái siêu nhiên đến cái tự nhiên và cực kỳ sinh động". Còn nhiều đánh giá như thế của những tờ báo có uy tín như Thời báo New York, Bưu báo Washington, Thời báo Los Angeles...
    Nhiều trí thức Mỹ cho biết, ngay cả nhà văn Mỹ, có người cả cuộc đời viết văn cũng không được Thời báo New York nhắc đến một dòng. Thế mà tờ báo "kênh kiệu" ấy đã có nhiều bài đánh giá các tác phẩm văn học Việt Nam là "hiện thực và siêu thực, hài hước và nghiêm nghị, hồn nhiên và suy tư, được cấu trúc một cách tự nhiên mà tao nhã"...
    Chuyện xuất bản ở Mỹ
    Người ta vẫn chưa lý giải nổi việc người Mỹ không thích đọc sách dịch. Rất nhiều tác phẩm làm mưa làm gió ở châu Âu, sang đến Mỹ chỉ có thể lay lắt... "chuông nguyện hồn ngươi". Ở một mức độ khiêm nhường hơn, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh gây được dư luận nhất định ở Anh, nhưng dầm dề mấy ngàn bản bán mãi ở Mỹ. Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Ðại học Oxford ở Malaysia in, chỉ bán trong hệ thống các trường đại học, không ra đến thị trường.
    Sách do các trường đại học xuất bản hiếm khi có mặt trong hệ thống hiệu sách công cộng ở Mỹ, thông thường chỉ phát hành trong hệ thống các trường đại học với nhau. Ðó là những cuốn Ánh đèn thành phố, tập phóng sự của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng (Ðại học Oxford), Thời xa vắng (Ðại học Massachusetts), Người đàn bà trên đảo (Ðại học Washington), Số đỏ...
    Các nhà xuất bản Mỹ thường thăm dò số lượng phát hành, nếu khả năng chỉ bán được dưới 5000 bản thì họ sẽ từ chối bản thảo. Họ kinh doanh sách chứ không làm nghĩa vụ xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Rất nhiều tác phẩm hay của nhà văn Việt Nam, được gửi "chào hàng" cho các nhà xuất bản Mỹ, nhưng đều bị từ chối. Tất cả chỉ có một lý do: tác phẩm có thể hay, nhưng không hợp với độc giả Mỹ, họ sẽ không mua.
    Thật hiếm có nhà xuất bản như Curbstone Press. NXB đã dịch văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha của các nước Nam Mỹ và Mỹ Latinh đến cho độc giả Mỹ, đang tính chuyện giới thiệu văn học một số nước á-Phi. Với văn học Việt Nam, từ một nhà xuất bản nhỏ ở bang Connecticut, giờ đây Curbstone đã có uy tín nhờ không chỉ in một cuốn mà cả một bộ sách Những tiếng nói từ Việt Nam. Nói cách khác, sách Việt Nam vào được thị trường Mỹ phần lớn là nhờ Curbstone. Những cuốn ấy hàng năm vẫn được in nối bản đều đều, có cuốn như Trong sương hồng hiện ra đã được phát hành gấp ba lần số lượng bình thường.
    Curbstone Press là một nhà xuất bản không lợi nhuận. Tính chất không lợi nhuận khiến thu nhập của người làm xuất bản và nhuận bút cho tác giả, dịch giả là rất hạn chế. Không lợi nhuận còn có nghĩa là nhà xuất bản không phải nộp thuế thu nhập và để đáp lại việc không phải đóng thuế, họ phải làm nghĩa vụ phát triển văn hóa xã hội bằng cách tặng sách cho các thư viện trên toàn quốc, cho các trường học... Sách của NXB vì thế được in với số lượng lớn, ngoài mấy ngàn cuốn bán trên toàn quốc để thu hồi vốn và một phần lãi để trang trải nhuận bút và nuôi sống người làm sách, còn có một số lượng đáng kể được đem tặng đến tận tay sinh viên và trí thức. Lợi nhuận là quan trọng, nhưng với nhà văn có thêm người đọc cũng là điều quan trọng không kém.
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ðăng Điệp - Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc
    1. Cuộc sống như những mảnh vỡ
    Khi bắt đầu bước vào nghiệp văn, ngòi bút Hồ Anh Thái khá giàu chất trữ tình. Nhưng nếu tinh mắt, người đọc sẽ nhận thấy đã xuất hiện một phẩm chất sau này sẽ trở thành nét trội trong ngòi bút của anh: khả năng chiếm lĩnh hiện thực ở tầng sâu và màu sắc tượng trưng trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái đã nêu lên được một cách khá sắc sảo tâm lý hoang mang của con người thời hậu chiến. Cái nhìn của nhà văn đã thoát khỏi cảm hứng ngợi ca thường có của văn học ta để nhìn sâu vào những dòng chảy tâm lý bên trong. Ðến nay, dù mới ở độ "tứ thập bất nghi hoặc" nhưng Hồ Anh Thái đã có tới vài chục đầu sách. Trong khi nhiều cây bút, sau một vài tác phẩm gây được sự chú ý, bỗng dưng mất hút thì Hồ Anh Thái đã chứng tỏ một "sức rướn" thật đáng nể. Không trông chờ vào ngẫu hứng, Hồ Anh Thái tìm cảm hứng trên bàn làm việc, tìm thấy gương mặt thế giới chính trong bản thể mình. Ðây là một cách viết mang tính chuyên nghiệp rất cao. Nó khác xa với kiểu đi thu hoạch thực tế, đi thì có nhưng thấy thì không. Ðối diện với nỗi cô đơn, khi nghe những con chữ bắt đầu vang lên trên bàn phím ấy cũng là khi trí tưởng tượng của nhà văn "ẩn sĩ" này bắt đầu cất cánh. Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống thực bằng những chi tiết ngỡ nhặt được từ đời sống ồn tạp vừa tạo nên một thế giới ngập đầy những biểu tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy đầy chất ảo.
    Khi tiếp xúc với những nhà văn trẻ, L. Tolstoi có lần đòi hỏi rất cao: "Nào anh có thể cho tôi biết anh sẽ nói một cái mới nào". Ngẫm ra, đây không phải là câu hỏi dành cho các nhà văn trẻ mà dành cho tất cả mọi người. Trong quan niệm của L. Tolstoi, mới lạ là một yêu cầu tối quan trọng của văn chương. Ðây cũng là trăn trở thường trực của Hồ Anh Thái và trên thực tế, bằng những nỗ lực không mệt mỏi, anh đã tạo nên những cái nhìn độc đáo về đời sống. Chiều sâu trong cái nhìn nghệ thuật của Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản (điều mà Hồ Anh Thái gọi là hiện thực thô sơ) để nhìn cuộc đời như nó vốn có. Hiện thực trong thế giới nghệ thuật Hồ Anh Thái vì thế, không phải là thứ hiện thực "dẹt", "phẳng" mà góc cạnh, nhiều chiều. Ðã có lúc, khi nhìn về hiện thực ta chỉ chú ý đến phần nổi mà không hay rằng phần ẩn chìm bên trong mới là điều đáng nói. Một giấc mơ, một ý nghĩ cũng là hiện thực chứ sao. Ðó là thứ hiện thực không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nó phải được cảm nhận bằng hồn. Thậm chí, có khi, phía sau thân xác anh hàng thịt lại là hồn vía của Trương Ba. Cho nên, cái hiện thực ngoài đời kia phải thông qua sự tự cảm thấy của nhà văn, được nhào nặn lại bằng những suy tưởng và tưởng tượng của chủ thể sáng tạo thì mới đủ sức hấp dẫn người đọc. Tôi muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng, năng lực tự cảm thấy là một năng lực đặc biệt vì nó gắn với quan niệm nghệ thuật của nghệ sĩ. Trong văn học, quan niệm không toát lên từ những lời tuyên bố mà toát lên từ chính tác phẩm. Ðây là điều mà những cây bút như Nguyễn Minh Châu đã làm được trong phiên Chợ Giát, Ma Văn Kháng ở Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Huy Thiệp ở Tướng về hưu, Bảo Ninh ở Nỗi buồn chiến tranh? Là cây bút nhạy bén và tỉnh táo, Hồ Anh Thái cũng tạo được cái nhìn riêng về thế giới. độ sắc trong những trang viết của Hồ Anh Thái lộ ra ở chỗ anh dám nhìn thẳng vào những "mảnh vỡ", những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo? Một khi hình dung cuộc sống như những mảnh vỡ ta sẽ nhận thấy sự xen cài của cái ác và cái thiện, cái cao cả và thấp hèn, cái sang trọng đi liền với cái nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn cái phàm tục. Ðây là cái nhìn "suồng sã" của tư duy nghệ thuật hiện đại. Tác giả không bái vọng đối tượng mà như đang trò chuyện cùng nhân vật. Bởi thế, trong truyện Hồ Anh Thái, nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giọng giễu nhại. Sự xuất hiện của loại giọng điệu này hiếm khi xuất hiện trong tư duy nghệ thuật sử thi. Cái nụ cười chua chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những sự trớ trêu, nghịch cảnh trong đời chỉ có thể có được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần túy màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ. Ðây có thể coi là yếu tố đầu tiên tạo nên bản giao hưởng đời sống trong văn chương Hồ Anh Thái. Chân dung của hiện thực trong văn Hồ Anh Thái vì thế bề bộn, nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị xấu tốt đan cài chứ không đơn điệu kiểu mở đầu ta thắng địch thua và khi kết thúc thì phải gióng lên những tiếng hát lạc quan cho đúng quy phạm nghệ thuật trong văn học một thời. Ðó là hiện thực "phân mảnh" như các nhà văn hậu hiện đại vẫn thường nói đến. Nhưng vấn đề là phía sau những bi kịch nhân sinh, nhà văn không mất đi niềm hy vọng vào con người. Khát khao hướng thiện sẽ làm cho thế giới này thoát khỏi vòng tận thế. Nói thế để thấy rằng, Hồ Anh Thái có quan niệm riêng về thế giới. Anh không ảo tưởng về cuộc sống nhưng không vì thế mà quay lưng lại với nỗi đau con người. Trái lại, nhà văn dám nhìn thẳng vào nỗi đau, niềm nhức nhối bủa vây cõi người để gióng lên những tiếng chuông khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang có mặt khắp nơi. Ðiều này có thể thấy rất rõ trong Cõi người rung chuông tận thế. Sự thù hận và cái ác làm cho con người sống trong nghi kỵ, cầm tù con người trong đời sống bản năng. Có thể, những ngày sống trên đất Phật đã góp phần tạo nên chất giọng suy tư phía sau cái nhìn tỉnh, sắc về cuộc sống. Tiếng thở dài qua rừng kim tước là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Anh Thái. Tác phẩm này, đúng như có người nói, đã điểm trúng "huyệt" tính cách của người Ấn Ðộ bằng những "mũi kim" hết sức chính xác. Ðây là câu chuyện về những đứa trẻ chưa kịp sống đã phải chết vì món hồi môn sau này bố mẹ chúng phải trả. Hồ Anh Thái đưa người đọc vào một không gian ghê rợn, đầy âm khí. Mỗi đứa trẻ chết được đánh dấu bằng một cây kim tước. Chẳng mấy chốc, một rừng kim tước đã mọc lên. Nhưng cuối cùng, một trận cuồng phong đã quật đổ rừng cây. Cơn cuồng phong ấy như được góp bằng hơi thở của những người đàn bà đang sống. Màu sắc siêu thực phủ đẫm thiên truyện. Rừng kim tước oan nghiệt kia là một ẩn dụ nghệ thuật có sức biểu đạt lớn. Nó xoáy vào tâm trí người đọc một niềm nhức nhối: tại sao cái xã hội kia lại có thể thờ ơ đến thế trước số phận con người?
    Rõ ràng, xuất phát từ quan niệm coi cuộc đời như những mảnh vỡ, bản thân mỗi một con người lại mang những mảnh vỡ, những xung lực khác nhau trong trăm ngàn mảnh vỡ kia đã trở thành nét chính trong quan niệm về cuộc sống của Hồ Anh Thái. Chính quan niệm này sẽ tạo nên tính đa cấu trúc trong các tác phẩm của anh. Thật đơn giản, theo Hồ Anh Thái, mỗi một số phận có kiểu vỡ khác nhau, mỗi một tình huống có hình thức bi hài khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, phía sau sự nhốn nháo ấy ta bắt gặp khuôn mặt đích thực của cuộc sống, nhận ra cái hữu lý và cái phi lý của cõi nhân sinh. Thử xem Hồ Anh Thái đã miêu tả như thế nào chân dung của một kẻ thất phu trong hình hài một trí thức: "Ðấy, chính là gã. Một thứ trẻ con tồ tồ tẹt tẹt, lớn xác 1,82m nhưng đầu óc vĩnh viễn là một thằng phụ hồ mất dạy tuổi mười bảy. Nó ở quê ra tìm việc làm, ông chú nó là phó phòng tổ chức viện xin cho vào làm bảo vệ. Anh bảo vệ ít năm sau được chiếu cố cho đi học tại chức. Anh đại học tại chức ít năm sau được chiếu cố trở về làm nghiên cứu viên cho viện. Anh nghiên cứu viên ít năm sau tuyên bố tiếng Việt thiếu sức biểu cảm chỉ vì vừa đăng ký lớp tiếng Trung ban đêm. Gã đi đâu cũng kẹp nách một quyển Trung văn, kẹp đến hôi cả sách vẫn mấy câu nỉ hảo ủa ái nhi. Ði hội thảo Nhật về, gã quảng phắt cuốn Trung văn ẵm mùi xơ xác như một bó dưa, kẹp thế vào đó một cuốn tiếng Nhật cấp tốc, tiếng Nhật thực sự tinh tế hơn tiếng Tàu nhiều". ( Sân bay). Nhìn vào cấu trúc đoạn văn có thể thấy hình ảnh cuộc sống ở tầng sâu của nó đã được thể hiện một cách sinh động : a- Cơ chế xin-cho (nhờ thế nhân vật của chúng ta mới thành bảo vệ), b- Cơ chế chiếu cố vô lý (thế mới từ bảo vệ thành nghiên cứu viên), c- Sự nghênh ngang của những kẻ dốt hay khoe chữ mặc dù không có chữ (học tiếng Trung rồi tiếng Nhật mà vẫn đặc cán mai, ngoại ngữ chỉ là một thứ mốt trang sức). Nhìn từ góc nhìn liên văn bản ta sẽ thấy đây là những Xuân Tóc Ðỏ thời mới. Nếu trong kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, Xuân từ hạ lưu bước vào xã thượng lưu rồi thành anh hùng cứu quốc thì nhân vật của Hồ Anh Thái cũng có những nét tương đồng. Chỉ có điều cái nhí nhố trong xã hội của Vũ Trọng Phụng khác với cái rởm trong cuộc sống hôm nay qua ống kính Hồ Anh Thái. Cái rởm ấy được dung túng bởi cái gọi là cơ chế. Cái "ông cơ chế" này vô hình nhưng hoá ra lại ăn vào máu con người một cách thật khủng khiếp. Nó cho phép cái vô lý tồn tại một cách hợp lý. Có thể nói, Hồ Anh Thái đã xây dựng những tác phẩm của mình bằng tư duy nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại. Tự sự 265 ngày mặc dù là tập truyện ngắn nhưng khi đặt trong một tập thì mỗi truyện lại tựa như một chương của một cuốn tiểu thuyết trào phúng hoạt kê. Nhà văn không chú ý nhiều đến chuyện mà chú ý nhiều hơn cấu trúc truyện. Tương ứng với điều đó là sự gia tăng các chi tiết miêu tả không gian so với hệ thống chi tiết miêu tả thời gian. Ðiều này giúp nhà văn dựng lên các hoạt cảnh để nhân vật diễn vai mình một cách chân thực trong quá trình va quệt với môi trường và với các nhân vật khác. Bởi thế, các nhân vật trong sáng tác của Hồ Anh Thái chinh phục người đọc một cách khá tự nhiên, không gây cảm giác gượng. Dấu vết các "mối hàn" khi xây dựng nhân vật trong các trường đoạn khác nhau được ngụy trang rất khéo khiến cho người đọc không nhận thấy sự sắp xếp lộ liễu của nhà văn. Ðây là một thành công đáng ghi nhận của Hồ Anh Thái về nghệ thuật dựng truyện và tạo "lực hấp dẫn" nhằm thu phục người đọc.
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ðăng Điệp - Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc
    1. Cuộc sống như những mảnh vỡ
    Khi bắt đầu bước vào nghiệp văn, ngòi bút Hồ Anh Thái khá giàu chất trữ tình. Nhưng nếu tinh mắt, người đọc sẽ nhận thấy đã xuất hiện một phẩm chất sau này sẽ trở thành nét trội trong ngòi bút của anh: khả năng chiếm lĩnh hiện thực ở tầng sâu và màu sắc tượng trưng trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái đã nêu lên được một cách khá sắc sảo tâm lý hoang mang của con người thời hậu chiến. Cái nhìn của nhà văn đã thoát khỏi cảm hứng ngợi ca thường có của văn học ta để nhìn sâu vào những dòng chảy tâm lý bên trong. Ðến nay, dù mới ở độ "tứ thập bất nghi hoặc" nhưng Hồ Anh Thái đã có tới vài chục đầu sách. Trong khi nhiều cây bút, sau một vài tác phẩm gây được sự chú ý, bỗng dưng mất hút thì Hồ Anh Thái đã chứng tỏ một "sức rướn" thật đáng nể. Không trông chờ vào ngẫu hứng, Hồ Anh Thái tìm cảm hứng trên bàn làm việc, tìm thấy gương mặt thế giới chính trong bản thể mình. Ðây là một cách viết mang tính chuyên nghiệp rất cao. Nó khác xa với kiểu đi thu hoạch thực tế, đi thì có nhưng thấy thì không. Ðối diện với nỗi cô đơn, khi nghe những con chữ bắt đầu vang lên trên bàn phím ấy cũng là khi trí tưởng tượng của nhà văn "ẩn sĩ" này bắt đầu cất cánh. Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống thực bằng những chi tiết ngỡ nhặt được từ đời sống ồn tạp vừa tạo nên một thế giới ngập đầy những biểu tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát lên từ tình thế, qua các biểu tượng thấm đầy đầy chất ảo.
    Khi tiếp xúc với những nhà văn trẻ, L. Tolstoi có lần đòi hỏi rất cao: "Nào anh có thể cho tôi biết anh sẽ nói một cái mới nào". Ngẫm ra, đây không phải là câu hỏi dành cho các nhà văn trẻ mà dành cho tất cả mọi người. Trong quan niệm của L. Tolstoi, mới lạ là một yêu cầu tối quan trọng của văn chương. Ðây cũng là trăn trở thường trực của Hồ Anh Thái và trên thực tế, bằng những nỗ lực không mệt mỏi, anh đã tạo nên những cái nhìn độc đáo về đời sống. Chiều sâu trong cái nhìn nghệ thuật của Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản (điều mà Hồ Anh Thái gọi là hiện thực thô sơ) để nhìn cuộc đời như nó vốn có. Hiện thực trong thế giới nghệ thuật Hồ Anh Thái vì thế, không phải là thứ hiện thực "dẹt", "phẳng" mà góc cạnh, nhiều chiều. Ðã có lúc, khi nhìn về hiện thực ta chỉ chú ý đến phần nổi mà không hay rằng phần ẩn chìm bên trong mới là điều đáng nói. Một giấc mơ, một ý nghĩ cũng là hiện thực chứ sao. Ðó là thứ hiện thực không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nó phải được cảm nhận bằng hồn. Thậm chí, có khi, phía sau thân xác anh hàng thịt lại là hồn vía của Trương Ba. Cho nên, cái hiện thực ngoài đời kia phải thông qua sự tự cảm thấy của nhà văn, được nhào nặn lại bằng những suy tưởng và tưởng tượng của chủ thể sáng tạo thì mới đủ sức hấp dẫn người đọc. Tôi muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng, năng lực tự cảm thấy là một năng lực đặc biệt vì nó gắn với quan niệm nghệ thuật của nghệ sĩ. Trong văn học, quan niệm không toát lên từ những lời tuyên bố mà toát lên từ chính tác phẩm. Ðây là điều mà những cây bút như Nguyễn Minh Châu đã làm được trong phiên Chợ Giát, Ma Văn Kháng ở Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Huy Thiệp ở Tướng về hưu, Bảo Ninh ở Nỗi buồn chiến tranh? Là cây bút nhạy bén và tỉnh táo, Hồ Anh Thái cũng tạo được cái nhìn riêng về thế giới. độ sắc trong những trang viết của Hồ Anh Thái lộ ra ở chỗ anh dám nhìn thẳng vào những "mảnh vỡ", những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo? Một khi hình dung cuộc sống như những mảnh vỡ ta sẽ nhận thấy sự xen cài của cái ác và cái thiện, cái cao cả và thấp hèn, cái sang trọng đi liền với cái nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn cái phàm tục. Ðây là cái nhìn "suồng sã" của tư duy nghệ thuật hiện đại. Tác giả không bái vọng đối tượng mà như đang trò chuyện cùng nhân vật. Bởi thế, trong truyện Hồ Anh Thái, nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giọng giễu nhại. Sự xuất hiện của loại giọng điệu này hiếm khi xuất hiện trong tư duy nghệ thuật sử thi. Cái nụ cười chua chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những sự trớ trêu, nghịch cảnh trong đời chỉ có thể có được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần túy màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ. Ðây có thể coi là yếu tố đầu tiên tạo nên bản giao hưởng đời sống trong văn chương Hồ Anh Thái. Chân dung của hiện thực trong văn Hồ Anh Thái vì thế bề bộn, nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị xấu tốt đan cài chứ không đơn điệu kiểu mở đầu ta thắng địch thua và khi kết thúc thì phải gióng lên những tiếng hát lạc quan cho đúng quy phạm nghệ thuật trong văn học một thời. Ðó là hiện thực "phân mảnh" như các nhà văn hậu hiện đại vẫn thường nói đến. Nhưng vấn đề là phía sau những bi kịch nhân sinh, nhà văn không mất đi niềm hy vọng vào con người. Khát khao hướng thiện sẽ làm cho thế giới này thoát khỏi vòng tận thế. Nói thế để thấy rằng, Hồ Anh Thái có quan niệm riêng về thế giới. Anh không ảo tưởng về cuộc sống nhưng không vì thế mà quay lưng lại với nỗi đau con người. Trái lại, nhà văn dám nhìn thẳng vào nỗi đau, niềm nhức nhối bủa vây cõi người để gióng lên những tiếng chuông khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang có mặt khắp nơi. Ðiều này có thể thấy rất rõ trong Cõi người rung chuông tận thế. Sự thù hận và cái ác làm cho con người sống trong nghi kỵ, cầm tù con người trong đời sống bản năng. Có thể, những ngày sống trên đất Phật đã góp phần tạo nên chất giọng suy tư phía sau cái nhìn tỉnh, sắc về cuộc sống. Tiếng thở dài qua rừng kim tước là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Anh Thái. Tác phẩm này, đúng như có người nói, đã điểm trúng "huyệt" tính cách của người Ấn Ðộ bằng những "mũi kim" hết sức chính xác. Ðây là câu chuyện về những đứa trẻ chưa kịp sống đã phải chết vì món hồi môn sau này bố mẹ chúng phải trả. Hồ Anh Thái đưa người đọc vào một không gian ghê rợn, đầy âm khí. Mỗi đứa trẻ chết được đánh dấu bằng một cây kim tước. Chẳng mấy chốc, một rừng kim tước đã mọc lên. Nhưng cuối cùng, một trận cuồng phong đã quật đổ rừng cây. Cơn cuồng phong ấy như được góp bằng hơi thở của những người đàn bà đang sống. Màu sắc siêu thực phủ đẫm thiên truyện. Rừng kim tước oan nghiệt kia là một ẩn dụ nghệ thuật có sức biểu đạt lớn. Nó xoáy vào tâm trí người đọc một niềm nhức nhối: tại sao cái xã hội kia lại có thể thờ ơ đến thế trước số phận con người?
    Rõ ràng, xuất phát từ quan niệm coi cuộc đời như những mảnh vỡ, bản thân mỗi một con người lại mang những mảnh vỡ, những xung lực khác nhau trong trăm ngàn mảnh vỡ kia đã trở thành nét chính trong quan niệm về cuộc sống của Hồ Anh Thái. Chính quan niệm này sẽ tạo nên tính đa cấu trúc trong các tác phẩm của anh. Thật đơn giản, theo Hồ Anh Thái, mỗi một số phận có kiểu vỡ khác nhau, mỗi một tình huống có hình thức bi hài khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, phía sau sự nhốn nháo ấy ta bắt gặp khuôn mặt đích thực của cuộc sống, nhận ra cái hữu lý và cái phi lý của cõi nhân sinh. Thử xem Hồ Anh Thái đã miêu tả như thế nào chân dung của một kẻ thất phu trong hình hài một trí thức: "Ðấy, chính là gã. Một thứ trẻ con tồ tồ tẹt tẹt, lớn xác 1,82m nhưng đầu óc vĩnh viễn là một thằng phụ hồ mất dạy tuổi mười bảy. Nó ở quê ra tìm việc làm, ông chú nó là phó phòng tổ chức viện xin cho vào làm bảo vệ. Anh bảo vệ ít năm sau được chiếu cố cho đi học tại chức. Anh đại học tại chức ít năm sau được chiếu cố trở về làm nghiên cứu viên cho viện. Anh nghiên cứu viên ít năm sau tuyên bố tiếng Việt thiếu sức biểu cảm chỉ vì vừa đăng ký lớp tiếng Trung ban đêm. Gã đi đâu cũng kẹp nách một quyển Trung văn, kẹp đến hôi cả sách vẫn mấy câu nỉ hảo ủa ái nhi. Ði hội thảo Nhật về, gã quảng phắt cuốn Trung văn ẵm mùi xơ xác như một bó dưa, kẹp thế vào đó một cuốn tiếng Nhật cấp tốc, tiếng Nhật thực sự tinh tế hơn tiếng Tàu nhiều". ( Sân bay). Nhìn vào cấu trúc đoạn văn có thể thấy hình ảnh cuộc sống ở tầng sâu của nó đã được thể hiện một cách sinh động : a- Cơ chế xin-cho (nhờ thế nhân vật của chúng ta mới thành bảo vệ), b- Cơ chế chiếu cố vô lý (thế mới từ bảo vệ thành nghiên cứu viên), c- Sự nghênh ngang của những kẻ dốt hay khoe chữ mặc dù không có chữ (học tiếng Trung rồi tiếng Nhật mà vẫn đặc cán mai, ngoại ngữ chỉ là một thứ mốt trang sức). Nhìn từ góc nhìn liên văn bản ta sẽ thấy đây là những Xuân Tóc Ðỏ thời mới. Nếu trong kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, Xuân từ hạ lưu bước vào xã thượng lưu rồi thành anh hùng cứu quốc thì nhân vật của Hồ Anh Thái cũng có những nét tương đồng. Chỉ có điều cái nhí nhố trong xã hội của Vũ Trọng Phụng khác với cái rởm trong cuộc sống hôm nay qua ống kính Hồ Anh Thái. Cái rởm ấy được dung túng bởi cái gọi là cơ chế. Cái "ông cơ chế" này vô hình nhưng hoá ra lại ăn vào máu con người một cách thật khủng khiếp. Nó cho phép cái vô lý tồn tại một cách hợp lý. Có thể nói, Hồ Anh Thái đã xây dựng những tác phẩm của mình bằng tư duy nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại. Tự sự 265 ngày mặc dù là tập truyện ngắn nhưng khi đặt trong một tập thì mỗi truyện lại tựa như một chương của một cuốn tiểu thuyết trào phúng hoạt kê. Nhà văn không chú ý nhiều đến chuyện mà chú ý nhiều hơn cấu trúc truyện. Tương ứng với điều đó là sự gia tăng các chi tiết miêu tả không gian so với hệ thống chi tiết miêu tả thời gian. Ðiều này giúp nhà văn dựng lên các hoạt cảnh để nhân vật diễn vai mình một cách chân thực trong quá trình va quệt với môi trường và với các nhân vật khác. Bởi thế, các nhân vật trong sáng tác của Hồ Anh Thái chinh phục người đọc một cách khá tự nhiên, không gây cảm giác gượng. Dấu vết các "mối hàn" khi xây dựng nhân vật trong các trường đoạn khác nhau được ngụy trang rất khéo khiến cho người đọc không nhận thấy sự sắp xếp lộ liễu của nhà văn. Ðây là một thành công đáng ghi nhận của Hồ Anh Thái về nghệ thuật dựng truyện và tạo "lực hấp dẫn" nhằm thu phục người đọc.
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    2. Sáng tạo đồng nghĩa với quá trình phi monotone hóa
    Mỗi nhà văn thực tài bao giờ cũng xây dựng được một nhãn quan riêng về thế giới. Hồ Anh Thái không nhìn cuộc sống theo lối "chưng cất", ở đó chỉ hiện lên những khuôn mặt đẹp đẽ, những tính cách "vô trùng" mà tạo nên những tác phẩm nghệ thuật mang dáng dấp của một một tổng phổ nhiều bè, đầy nghịch âm.Trước một hiện thực đa dạng như thế, giữ nguyên một chất giọng sẽ có cơ làm mòn cảm hứng và thu hẹp khả năng bay lượn của trí tưởng tượng. Trên vốn văn hóa đã được tích lũy, nhà văn phải luôn thay đổi giọng điệu. Ðây là tính "động" của phong cách và giọng điệu nhà văn. L. Tolstoi cũng từng nói rằng, cái khó nhất khi bắt tay vào một tác phẩm mới không phải là chuyện đề tài, tư liệu mà là phải chọn cho được cái giọng điệu thích hợp. Trong văn học, giọng điệu không tự nhiên mà có. Nó phải là một hiện tượng nghệ thuật được tổ chức công phu, chặt chẽ. Bản thân giọng điệu là một tổ hợp trong một tổ hợp hoàn chỉnh lớn hơn là tác phẩm. Việc tạo nên giọng điệu trong tác phẩm vì thế cũng phải tuân theo cách tổ chức cấu trúc nghệ thuật của nhà văn. Sự thay đổi giọng điệu trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái cho thấy anh là người không muốn lặp lại mình. Mỗi một tác phẩm, mỗi một chặng sáng tác là một tone khác nhau. Sự khác biệt ấy, dĩ nhiên phải gắn liền với cách tổ chức cấu trúc tác phẩm. Muốn tìm hiểu cái mới trong giọng điệu văn chương Hồ Anh Thái phải đặt các tác phẩm của anh vào thời điểm mà nó xuất hiện. Nếu như văn học giai đoạn 1945-1975 chủ yếu mang giọng điệu sử thi thì vào thời điểm những năm 1980 của thế kỷ XX đã bắt đầu xuất hiện hiện tượng "vỡ giọng". Cùng với một số cây bút khác như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài? Hồ Anh Thái đã có ý thức tạo nên những giọng điệu mới. Bên cạnh màu sắc trữ tình, người đọc khi tiếp xúc với những tác phẩm đầu tay của Hồ Anh Thái có thể bắt gặp những màu giọng khác: trẻ trung, tinh nghịch, nhưng cũng rất hóm hỉnh. Những tác phẩm viết về miền đất ấn Ðộ lại được tác giả thể hiện bằng một hình thức giọng điệu hoàn toàn khác. Chất giọng trữ tình đã nhường chỗ cho một giọng văn sắc lạnh. Không né tránh nỗi đau, trái lại, nhà văn có ý thức xoáy sâu vào các vết thương nhức nhối trong đời sống và thể hiện chiều sâu những tiếng thở dài nén ghìm sau những bi kịch nhân sinh. Thực ra, ở giai đoạn này, Hồ Anh Thái cố gắng tạo ra sự hòa trộn của nhiều sắc thái giọng điệu. Có giọng xót xa trong Tiếng thở dài của rừng kim tước, có sự hài hước trong Người đứng một chân. Trong truyện ngắn Hồ Anh Thái thời kỳ này, màu sắc triết luận khá đậm. Dường như sau mỗi tác phẩm là một câu hỏi, một băn khoăn về cõi thế, về bi kịch của những "kiếp người đi qua". Như vậy, màu sắc trữ tình không mất đi mà chìm xuống mạch ngầm ngôn bản. Ðây là lý do nhiều người thích đọc Hồ Anh Thái. Từng trải hơn, chiêm nghiệm hơn, cùng với thời gian, Hồ Anh Thái nhận ra cái bi hài có mặt khắp nơi, thậm chí cả những nơi sang trọng, cái hài vẫn xuất hiện dưới trạng thái che giấu, nhưng càng giấu thì chất hài lại càng rõ (Phòng khách). Chất giọng giễu nhại trong sáng tác Hồ Anh Thái trở nên nổi bật trong Tự sự 265 này. Trong Bãi tắm, Hồ Anh Thái miêu tả chân dung một nữ viên chức: "Khi cô vắng mặt trong phòng, nghiên cứu viên Hai gật gù, đúng là nhìn rất rõ, đùi đĩa tươm ra phết. Nghiên cứu viên Một vẫn cảm thán: Nhưng mà hôi lách cực kỳ. Nghiên cứu viên Ba lúc này mới nhảy vào giữa cuộc hội thảo: Ngày trước tớ cũng hôi lách, may mà tìm đúng thuốc. Cả phòng mười bốn người thì tám người buột miệng đồng thanh: Thuốc gì? Chỉ một câu mà những tám người phải tự thú trước bình minh.
    Kết thúc hội thảo người ta đi đến nghị quyết, từ nay mùi hành tây ủng ủ trong đống rác nhiệt đới trước những cổng chợ được mã hóa thành thỏ lon (thỏ lon = hôi lách). Chữ thỏ lon hợp với một cô gái hồn nhiên hơn". Quan sát văn chương Hồ Anh Thái và một số cây bút khác như Lê Minh Khuê trong Bi kịch nhỏ, Phạm Thị Hoài trong Thực đơn chủ nhật chẳng hạn ta sẽ thấy khá rõ sự thay đổi mô hình giọng điệu tự sự trong các thời kỳ khác nhau. Trước 1975, văn học trôi trong hai kênh giọng chủ đạo: hào hùng ngợi ca và chất trữ tình lãng mạn; sau 1975, nhất là sau thập kỷ 1980, giọng điệu giễu nhại trở thành yếu tố thẩm mĩ nổi bật. Tự sự 265 ngày được viết bằng chất giọng này. Hai trăm sáu mươi lăm ngày ở công sở, một trăm ngày là của mình nhưng dường như ở đâu, cái máu công chức vẫn hiện hữu. Ðây là tác phẩm có cấu trúc lạ. Mỗi một truyện như một phiến đoạn trong một tiểu thuyết. Các trạng thái đời sống được Hồ Anh Thái xây dựng theo nguyên tắc hài hước và lật tẩy. Nhà văn đặc biệt chú ý thay đổi các điểm nhìn nghệ thuật, người kể chuyện không đơn giản kể chuyện theo kiểu liệt kê những điều đã được chứng kiến một cách đơn giản theo kiểu "Tôi thấy?" Cách thay đổi cấu trúc kể như đã nói khiến cho câu chuyện trở nên khách quan hơn, mạch chuyện trở nên biến hóa hơn. Quá khứ đã qua không phải lúc nào cũng trong veo. Con đường đi học không phải lúc nào cũng thơ mộng rợp **** vàng bay. Ðiều này có thể thấy rất rõ qua Chạy quanh công viên mất một tháng. Với cái nhìn suồng sã, lật tẩy, Hồ Anh Thái phơi bày cái trần tục của đời sống công chức qua Bãi tắm. Toàn lòng vả cũng như lòng sung nhưng lại cố giấu sau các loại mặt nạ khác nhau. Tôi nhớ, gặp Hồ Anh Thái ngoài đời, đôi mắt của anh toát lên sự cả tin trẻ thơ nhưng miệng thì lúc nào cũng kêu chán. Hai chữ "chán lắm" của anh có lẽ xuất phát từ cái nhìn lật tẩy, nhưng đôi mắt cả tin kia thì vẫn nhiều hy vọng về cõi người lắm. Nói theo Nguyễn Huy Thiệp thì sự nhốn nháo trong văn Hồ Anh Thái cũng là một kiểu Ðời thế mà vui. Trở lại chuyện Bãi tắm sẽ thấy rõ điều này: "Cô Thỏ Lon nôn ra một đống túi ni lông. Mắt lờ đờ, mí mắt sưng húp, tóc tai rũ rượi, cô lả lướt nghoẹo đầu nhắm mắt cho quên đi nỗi đường còn dài. Mấy đứa trẻ con bây giờ quay sang mời cô nước vuốt tóc cho cô, bị mẹ chúng lườm nguýt. Thằng bé con nhà Nghiên cứu viên Hai nhìn ngực áo xộc xệch của cô Thỏ Lon rồi ngang nhiên tuyên bố: Con đã sờ vào ti cô Thỏ Lon rồi. Thằng anh hét lên: Mày im đi. Thằng em cáu kỉnh: Hai lần cơ. Cô ấy cho mà. Củ tam thất giật thằng bé ngã ngửa sang ghế mình, phát vào đít nó mấy cái, hấm hứ lườm sang chồng: Con với cái, rõ rau nào sâu ấy". Có lẽ Hồ Anh Thái có chủ định đặt tên nhân vật: cô Thỏ Lon, Nghiên cứu viên Một, Hai, Ba, Bạch Cốt Tinh ? Cách đặt tên như vậy vừa gây sự hài hước, vừa cho thấy sự tha hóa trong đời sống đang là một hiện tượng phổ biến. Thảo nào câu cửa miệng của Thái ngoài đời là Chán lắm. Chán vì sự nhố nhăng, chán vì sự đơn điệu, vì cách sống mặt nạ, vì sự cũ mèm, chán với sự văn minh nửa vời? Ðến Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái sử dụng nhịp mạnh để gây ấn tượng. Những chương đầu tiết tấu rất nhanh, giọng điệu đầy chất trinh thám. Những cái chết bí ẩn nối nhau. Ai là thủ phạm? Sao những kẻ chuyên gây ác lại phải chết một cách kỳ lạ thế? Hồ Anh Thái chọn cách trần thuật từ ngôi thứ nhất. Tôi là một kẻ tay đã từng trót nhúng chàm.Tính chất phóng sự điều tra tạo nên sự gấp gáp trong giọng điệu thực ra ra là cách tạo lực hút của nhà văn. ống kính của nhà văn vừa quay lướt vừa biết dừng ở những điểm nhấn cần thiết nhằm tạo ra một thế giới nhiêu khê, bất trắc, hỗn tạp. Phần cuối truyện nhịp điệu chậm hơn, màu sắc trữ tình xuất hiện như một phép cân đối "ngón chơi cấu trúc" của nhà văn.
    Khảo sát hành trình văn chương Hồ Anh Thái có thể nhận ra một kiểu đối thoại mang tính văn hóa thấm trong từng văn bản: văn xuôi Việt không có truyền thống lâu đời như thơ ca. Ðây là một khó khăn cho các nhà văn trong quá trình thiết lập hệ ngôn từ tự sự. Khi sáng tạo, không ít nhà thơ bị rơi vào tình trạng thơ hóa. Bởi thế, để tránh những lực cản truyền thống, nhà văn phải biết vượt ra khỏi sự du dương của ngôn ngữ thơ ca. Từ quan niệm ấy, cấu trúc ngôn ngữ của Hồ Anh Thái không bằng phẳng mà "lổn nhổn" một cách cố ý. Ðiều này khiến cho hình ảnh đời sống trong tác phẩm của anh gần gũi với hơi thở của đời. Nó không phải là cuộc sống ở trạng thái chưng cất giống như rượu cồn pha tinh dầu lúa nếp. Chai rượu ngon, theo Hồ Anh Thái phải có nguyên liệu là lúa nếp chứ không phải bằng cách thêm vào rượu sắn một chút tinh dầu công nghiệp. Cũng phải, nửa cái bánh mỳ không phải là tất cả cái bánh. Tôi nghĩ, cùng với những cây bút khác như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ?, Hồ Anh Thái đã đã góp phần tạo nên một động hình ngôn ngữ mới và giọng điệu văn xuôi khác hẳn so với văn xuôi 1945-1975. Tuy nhiên, sự đổi mới này cần cảnh giác với mặt trái của nó: có sự giống nhau giữa ngôn từ của các nhà văn. Ðọc một số tác phẩm của một số cây bút gần đây không ít khi tôi thấy mình rơi vào tình trạng không phân biệt được mình đang đọc văn ai. Rất có thể cảm giác ấy là do người đọc nhầm lẫn và thiếu tinh tế chăng? Nhưng tôi tin không ít người đọc sẽ chia sẻ cùng mình cảm giác ấy. Sự ảnh hưởng này có lúc Hồ Anh Thái vượt qua (và anh có đủ điều kiện để vượt qua), nhưng cũng có lúc anh bị "dính đòn". Trong ngôn ngữ của Hồ Anh Thái có những lúc ta bắt gặp bóng dáng của vài người gần gũi về phong cách. Rất may điều đó không nhiều. Vả chăng, trong văn học, đây cũng là chuyện thường. Ngay cả những tài năng lớn cũng từng rơi vào trường hợp này như M. Solokhov chịu ảnh hưởng của L. Tolstoi. Là một cây bút sung sức, có phông văn hóa dày dặn, tôi nghĩ Hồ Anh Thái, một khi hãy còn nuôi giữ được ngọn lửa đam mê, anh còn đi xa trên con đường mà có lần anh tự nhận là quá đỗi chông gai. Không còn cách nào khác, nhà văn phải chịu mình thánh trước vẻ đẹp chữ và chỉ qua chữ, anh ta mới thực sự chứng minh được giá trị đích thực của mình.
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    2. Sáng tạo đồng nghĩa với quá trình phi monotone hóa
    Mỗi nhà văn thực tài bao giờ cũng xây dựng được một nhãn quan riêng về thế giới. Hồ Anh Thái không nhìn cuộc sống theo lối "chưng cất", ở đó chỉ hiện lên những khuôn mặt đẹp đẽ, những tính cách "vô trùng" mà tạo nên những tác phẩm nghệ thuật mang dáng dấp của một một tổng phổ nhiều bè, đầy nghịch âm.Trước một hiện thực đa dạng như thế, giữ nguyên một chất giọng sẽ có cơ làm mòn cảm hứng và thu hẹp khả năng bay lượn của trí tưởng tượng. Trên vốn văn hóa đã được tích lũy, nhà văn phải luôn thay đổi giọng điệu. Ðây là tính "động" của phong cách và giọng điệu nhà văn. L. Tolstoi cũng từng nói rằng, cái khó nhất khi bắt tay vào một tác phẩm mới không phải là chuyện đề tài, tư liệu mà là phải chọn cho được cái giọng điệu thích hợp. Trong văn học, giọng điệu không tự nhiên mà có. Nó phải là một hiện tượng nghệ thuật được tổ chức công phu, chặt chẽ. Bản thân giọng điệu là một tổ hợp trong một tổ hợp hoàn chỉnh lớn hơn là tác phẩm. Việc tạo nên giọng điệu trong tác phẩm vì thế cũng phải tuân theo cách tổ chức cấu trúc nghệ thuật của nhà văn. Sự thay đổi giọng điệu trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái cho thấy anh là người không muốn lặp lại mình. Mỗi một tác phẩm, mỗi một chặng sáng tác là một tone khác nhau. Sự khác biệt ấy, dĩ nhiên phải gắn liền với cách tổ chức cấu trúc tác phẩm. Muốn tìm hiểu cái mới trong giọng điệu văn chương Hồ Anh Thái phải đặt các tác phẩm của anh vào thời điểm mà nó xuất hiện. Nếu như văn học giai đoạn 1945-1975 chủ yếu mang giọng điệu sử thi thì vào thời điểm những năm 1980 của thế kỷ XX đã bắt đầu xuất hiện hiện tượng "vỡ giọng". Cùng với một số cây bút khác như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài? Hồ Anh Thái đã có ý thức tạo nên những giọng điệu mới. Bên cạnh màu sắc trữ tình, người đọc khi tiếp xúc với những tác phẩm đầu tay của Hồ Anh Thái có thể bắt gặp những màu giọng khác: trẻ trung, tinh nghịch, nhưng cũng rất hóm hỉnh. Những tác phẩm viết về miền đất ấn Ðộ lại được tác giả thể hiện bằng một hình thức giọng điệu hoàn toàn khác. Chất giọng trữ tình đã nhường chỗ cho một giọng văn sắc lạnh. Không né tránh nỗi đau, trái lại, nhà văn có ý thức xoáy sâu vào các vết thương nhức nhối trong đời sống và thể hiện chiều sâu những tiếng thở dài nén ghìm sau những bi kịch nhân sinh. Thực ra, ở giai đoạn này, Hồ Anh Thái cố gắng tạo ra sự hòa trộn của nhiều sắc thái giọng điệu. Có giọng xót xa trong Tiếng thở dài của rừng kim tước, có sự hài hước trong Người đứng một chân. Trong truyện ngắn Hồ Anh Thái thời kỳ này, màu sắc triết luận khá đậm. Dường như sau mỗi tác phẩm là một câu hỏi, một băn khoăn về cõi thế, về bi kịch của những "kiếp người đi qua". Như vậy, màu sắc trữ tình không mất đi mà chìm xuống mạch ngầm ngôn bản. Ðây là lý do nhiều người thích đọc Hồ Anh Thái. Từng trải hơn, chiêm nghiệm hơn, cùng với thời gian, Hồ Anh Thái nhận ra cái bi hài có mặt khắp nơi, thậm chí cả những nơi sang trọng, cái hài vẫn xuất hiện dưới trạng thái che giấu, nhưng càng giấu thì chất hài lại càng rõ (Phòng khách). Chất giọng giễu nhại trong sáng tác Hồ Anh Thái trở nên nổi bật trong Tự sự 265 này. Trong Bãi tắm, Hồ Anh Thái miêu tả chân dung một nữ viên chức: "Khi cô vắng mặt trong phòng, nghiên cứu viên Hai gật gù, đúng là nhìn rất rõ, đùi đĩa tươm ra phết. Nghiên cứu viên Một vẫn cảm thán: Nhưng mà hôi lách cực kỳ. Nghiên cứu viên Ba lúc này mới nhảy vào giữa cuộc hội thảo: Ngày trước tớ cũng hôi lách, may mà tìm đúng thuốc. Cả phòng mười bốn người thì tám người buột miệng đồng thanh: Thuốc gì? Chỉ một câu mà những tám người phải tự thú trước bình minh.
    Kết thúc hội thảo người ta đi đến nghị quyết, từ nay mùi hành tây ủng ủ trong đống rác nhiệt đới trước những cổng chợ được mã hóa thành thỏ lon (thỏ lon = hôi lách). Chữ thỏ lon hợp với một cô gái hồn nhiên hơn". Quan sát văn chương Hồ Anh Thái và một số cây bút khác như Lê Minh Khuê trong Bi kịch nhỏ, Phạm Thị Hoài trong Thực đơn chủ nhật chẳng hạn ta sẽ thấy khá rõ sự thay đổi mô hình giọng điệu tự sự trong các thời kỳ khác nhau. Trước 1975, văn học trôi trong hai kênh giọng chủ đạo: hào hùng ngợi ca và chất trữ tình lãng mạn; sau 1975, nhất là sau thập kỷ 1980, giọng điệu giễu nhại trở thành yếu tố thẩm mĩ nổi bật. Tự sự 265 ngày được viết bằng chất giọng này. Hai trăm sáu mươi lăm ngày ở công sở, một trăm ngày là của mình nhưng dường như ở đâu, cái máu công chức vẫn hiện hữu. Ðây là tác phẩm có cấu trúc lạ. Mỗi một truyện như một phiến đoạn trong một tiểu thuyết. Các trạng thái đời sống được Hồ Anh Thái xây dựng theo nguyên tắc hài hước và lật tẩy. Nhà văn đặc biệt chú ý thay đổi các điểm nhìn nghệ thuật, người kể chuyện không đơn giản kể chuyện theo kiểu liệt kê những điều đã được chứng kiến một cách đơn giản theo kiểu "Tôi thấy?" Cách thay đổi cấu trúc kể như đã nói khiến cho câu chuyện trở nên khách quan hơn, mạch chuyện trở nên biến hóa hơn. Quá khứ đã qua không phải lúc nào cũng trong veo. Con đường đi học không phải lúc nào cũng thơ mộng rợp **** vàng bay. Ðiều này có thể thấy rất rõ qua Chạy quanh công viên mất một tháng. Với cái nhìn suồng sã, lật tẩy, Hồ Anh Thái phơi bày cái trần tục của đời sống công chức qua Bãi tắm. Toàn lòng vả cũng như lòng sung nhưng lại cố giấu sau các loại mặt nạ khác nhau. Tôi nhớ, gặp Hồ Anh Thái ngoài đời, đôi mắt của anh toát lên sự cả tin trẻ thơ nhưng miệng thì lúc nào cũng kêu chán. Hai chữ "chán lắm" của anh có lẽ xuất phát từ cái nhìn lật tẩy, nhưng đôi mắt cả tin kia thì vẫn nhiều hy vọng về cõi người lắm. Nói theo Nguyễn Huy Thiệp thì sự nhốn nháo trong văn Hồ Anh Thái cũng là một kiểu Ðời thế mà vui. Trở lại chuyện Bãi tắm sẽ thấy rõ điều này: "Cô Thỏ Lon nôn ra một đống túi ni lông. Mắt lờ đờ, mí mắt sưng húp, tóc tai rũ rượi, cô lả lướt nghoẹo đầu nhắm mắt cho quên đi nỗi đường còn dài. Mấy đứa trẻ con bây giờ quay sang mời cô nước vuốt tóc cho cô, bị mẹ chúng lườm nguýt. Thằng bé con nhà Nghiên cứu viên Hai nhìn ngực áo xộc xệch của cô Thỏ Lon rồi ngang nhiên tuyên bố: Con đã sờ vào ti cô Thỏ Lon rồi. Thằng anh hét lên: Mày im đi. Thằng em cáu kỉnh: Hai lần cơ. Cô ấy cho mà. Củ tam thất giật thằng bé ngã ngửa sang ghế mình, phát vào đít nó mấy cái, hấm hứ lườm sang chồng: Con với cái, rõ rau nào sâu ấy". Có lẽ Hồ Anh Thái có chủ định đặt tên nhân vật: cô Thỏ Lon, Nghiên cứu viên Một, Hai, Ba, Bạch Cốt Tinh ? Cách đặt tên như vậy vừa gây sự hài hước, vừa cho thấy sự tha hóa trong đời sống đang là một hiện tượng phổ biến. Thảo nào câu cửa miệng của Thái ngoài đời là Chán lắm. Chán vì sự nhố nhăng, chán vì sự đơn điệu, vì cách sống mặt nạ, vì sự cũ mèm, chán với sự văn minh nửa vời? Ðến Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái sử dụng nhịp mạnh để gây ấn tượng. Những chương đầu tiết tấu rất nhanh, giọng điệu đầy chất trinh thám. Những cái chết bí ẩn nối nhau. Ai là thủ phạm? Sao những kẻ chuyên gây ác lại phải chết một cách kỳ lạ thế? Hồ Anh Thái chọn cách trần thuật từ ngôi thứ nhất. Tôi là một kẻ tay đã từng trót nhúng chàm.Tính chất phóng sự điều tra tạo nên sự gấp gáp trong giọng điệu thực ra ra là cách tạo lực hút của nhà văn. ống kính của nhà văn vừa quay lướt vừa biết dừng ở những điểm nhấn cần thiết nhằm tạo ra một thế giới nhiêu khê, bất trắc, hỗn tạp. Phần cuối truyện nhịp điệu chậm hơn, màu sắc trữ tình xuất hiện như một phép cân đối "ngón chơi cấu trúc" của nhà văn.
    Khảo sát hành trình văn chương Hồ Anh Thái có thể nhận ra một kiểu đối thoại mang tính văn hóa thấm trong từng văn bản: văn xuôi Việt không có truyền thống lâu đời như thơ ca. Ðây là một khó khăn cho các nhà văn trong quá trình thiết lập hệ ngôn từ tự sự. Khi sáng tạo, không ít nhà thơ bị rơi vào tình trạng thơ hóa. Bởi thế, để tránh những lực cản truyền thống, nhà văn phải biết vượt ra khỏi sự du dương của ngôn ngữ thơ ca. Từ quan niệm ấy, cấu trúc ngôn ngữ của Hồ Anh Thái không bằng phẳng mà "lổn nhổn" một cách cố ý. Ðiều này khiến cho hình ảnh đời sống trong tác phẩm của anh gần gũi với hơi thở của đời. Nó không phải là cuộc sống ở trạng thái chưng cất giống như rượu cồn pha tinh dầu lúa nếp. Chai rượu ngon, theo Hồ Anh Thái phải có nguyên liệu là lúa nếp chứ không phải bằng cách thêm vào rượu sắn một chút tinh dầu công nghiệp. Cũng phải, nửa cái bánh mỳ không phải là tất cả cái bánh. Tôi nghĩ, cùng với những cây bút khác như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ?, Hồ Anh Thái đã đã góp phần tạo nên một động hình ngôn ngữ mới và giọng điệu văn xuôi khác hẳn so với văn xuôi 1945-1975. Tuy nhiên, sự đổi mới này cần cảnh giác với mặt trái của nó: có sự giống nhau giữa ngôn từ của các nhà văn. Ðọc một số tác phẩm của một số cây bút gần đây không ít khi tôi thấy mình rơi vào tình trạng không phân biệt được mình đang đọc văn ai. Rất có thể cảm giác ấy là do người đọc nhầm lẫn và thiếu tinh tế chăng? Nhưng tôi tin không ít người đọc sẽ chia sẻ cùng mình cảm giác ấy. Sự ảnh hưởng này có lúc Hồ Anh Thái vượt qua (và anh có đủ điều kiện để vượt qua), nhưng cũng có lúc anh bị "dính đòn". Trong ngôn ngữ của Hồ Anh Thái có những lúc ta bắt gặp bóng dáng của vài người gần gũi về phong cách. Rất may điều đó không nhiều. Vả chăng, trong văn học, đây cũng là chuyện thường. Ngay cả những tài năng lớn cũng từng rơi vào trường hợp này như M. Solokhov chịu ảnh hưởng của L. Tolstoi. Là một cây bút sung sức, có phông văn hóa dày dặn, tôi nghĩ Hồ Anh Thái, một khi hãy còn nuôi giữ được ngọn lửa đam mê, anh còn đi xa trên con đường mà có lần anh tự nhận là quá đỗi chông gai. Không còn cách nào khác, nhà văn phải chịu mình thánh trước vẻ đẹp chữ và chỉ qua chữ, anh ta mới thực sự chứng minh được giá trị đích thực của mình.
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    3. Tính luận đề và màu sắc tượng trưng siêu thực
    Nhìn đường văn mà Hồ Anh Thái đã trải và những "ngón chơi'' đầy biến hóa của anh, ta vẫn có thể nhận thấy nằm sâu trong các cấu trúc đa dạng ấy là sự có mặt của hai yếu tố: tính luận đề và màu sắc tượng trưng, siêu thực. Ðiều đáng nói là nhà văn đã tạo nên sự bện kết hài hòa giữa hai yếu tố này. Ðây là một phương diện đòi hỏi sự cao tay của người cầm bút trong quá trình bắt ấn.
    Với những cây bút non tay, khi viết các tác phẩm mang tính luận đề, nếu xử lý không khéo thì rất dễ rơi vào hai tình trạng: a-Sự khô cứng trong ngôn ngữ; b-Biến nhân vật trở thành "cái loa phát ngôn" cho tư tưởng của nhà văn một cách lộ liễu. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, màu sắc luận đề khá rõ. Cái lượng ý trong văn anh khá mạnh. Nhà văn thường trăn trở về cuộc sống bằng cái nhìn phân tích sắc sảo. Khi mà cái mặt nạ đời sống bị bóc trần thì lập tức cái hài xuất hiện. Khi sự thật đau lòng được mổ xẻ thì sẽ tạo nỗi xót đau. Tôi không tin Hồ Anh Thái viết về tội lỗi của cõi người như một niềm thích thú. Nhà văn có ý thức trình bày sự thực trần trụi như một lời cảnh báo: có sự vô lý như món hồi môn 60 000 rupi trong Tiếng thở dài qua rừng kim tước, có sự bi kịch vì ảo tưởng trong Người đứng một chân, có sự cợt giễu sâu sắc trong Tự sự 265 ngày? Tính luận đề cũng là một yếu tố nổi bật trong Cõi người rung chuông tận thế. Nhưng Hồ Anh Thái không nêu lên một luận đề có sẵn và tác phẩm chỉ là phần "xác" minh họa cho luận đề ấy. Cách viết này rất chông chênh. Nó thường tạo nên hiện tượng lời nhiều hơn ý. Trong khi đó, bản chất văn học phải là ý ở ngoài lời. Tôi cứ nghĩ, văn Hồ Anh Thái hấp dẫn được người đọc bởi lẽ anh đã nhúng tư tưởng vào một thế giới đầy biểu tượng. Hay nói một cách đơn giản hơn, nhà văn đã trộn hòa cái thực và cái ảo một cách khá nhuần nhuyễn khiến cho ý tưởng ẩn chìm vào mê trận ngôn từ. Tôi thích cách kết thúc Tiếng thở dài qua rừng kim tước khi mà hình ảnh trận cuồng phong và những tiếng thở phào của những người đàn bà như lẫn vào nhau. Hư đấy mà cũng là thực đấy. Hồ anh Thái đã giấu "thực chiêu" trong "hư chiêu" khiến người đọc phải lần đến đầu mút của vấn đề bằng cách tái dựng lại cấu trúc tác phẩm theo cách tiếp nhận của mình. Cõi người rung chuông tận thế lại đặt ra vấn đề đấu tranh thiện - ác. Câu chuyện ấy không diễn ra thoáng chốc mà là là cái vòng luẩn quẩn nối nhau không dứt. Hận thù không thể hóa giải bằng hận thù. Nó chỉ có thể được hóa giải bằng tình yêu thương, sự khoan dung, lòng nhân hậu của con người. Cuốn tiểu thuyết này mặc dù ra mắt người đọc gần đây nhưng thực ra được viết vào năm 1996. Sự chậm trễ của nó nằm ở chỗ ai kia lo sợ đây là tác phẩm "có vấn đề''. Thiết nghĩ, cách nhìn văn học của nhiều người ở ta thật ấu trĩ. Người ta không mấy quan tâm đến giá trị nghệ thuật mà chỉ nhăm nhắm tác phẩm ấy có định bôi xấu cái gì hay không. Tôi hoàn toàn không thiện cảm với những tác phẩm nhân danh nghệ thuật để thực hiện những mục đích phi nghệ thuật. Nhưng những nhà văn chân chính không ai có ý định hạ thấp con người. Nếu có ý định bôi xấu cuộc sống thì có lẽ chọn cách vẽ biếm họa lên tường là nhanh nhất, hà cớ gì cứu phải lụi hụi bên trang giấy. Cái hay của Cõi người rung chuông tận thế là tác giả nhìn cái ác từ bên trong, qua lời một nhân vật từng đồng lõa với cái ác. Ðiểm nhìn trần thuật này giúp tác giả phanh phui cái ác, sự vô cảm của con người một cách rõ nét hơn. Nhưng nhân vật chính là người có can đảm từ bỏ cái ác để hướng thiện, dù đó là quá trình đầy gian nan vất vả. Tác phẩm này nêu lên một vấn đề triết học mà Hồ Anh Thái đã dày công suy ngẫm và tìm cách thể hiện: cái ác phải bị trừng phạt. Nhưng ở đây, Hồ Anh Thái đã lý giải số phận con người bằng cái nhìn Phật giáo: kẻ gây ra cái ác không bị đẩy đến đường cùng. Họ vẫn còn cơ hội giác ngộ nếu trong họ vẫn còn sót lại chút thiên lương trong trẻo. Trong tác phẩm này, Mai Trừng giống như một loại "thiên sứ". Nhưng đó không phải là thiên sứ toàn bích. Cô bị ràng buộc bởi lời nguyền. Mai Trừng trừng phạt kẻ ác, đó là lẽ thường. Nhưng ngay cả người yêu cô cũng không thể tới gần. Mai Trừng chỉ còn một cách, cô tìm cách xin trở lại làm người bình thường. Phút giải nguyền giúp cho câu chuyện trở nên sáng rõ, ai cũng hiểu được. Nhưng với tư cách là người thích tạng văn của Hồ Anh Thái , tôi lại tiếc cho điều này. Giá như anh để câu chuyện mờ hơn, ảo hơn thì sức hấp dẫn tác phẩm cao hơn nhiều. Có lẽ anh e người đọc không hiểu mình chăng? Màu sắc siêu thực phủ lên thiên truyện như một yếu tố đắc dụng đã không được tận dụng trong trường hợp này. Nhưng, xét kỹ ra, phải thừa nhận Cõi người rung chuông tận thế là một tác phẩm thành công của nhà văn trên hành trình làm mới văn chương..
    Ðọc Hồ Anh Thái, tôi thường băn khoăn: đâu là yếu tố giúp cây bút này sung sức đến thế. Hầu như tác phẩm nào của anh xuất hiện cũng được tìm đọc. Nhà văn Tô Hoài cũng cho rằng trong số ít cây bút đọc được hiện nay có Hồ Anh Thái. Ðiều này có giá của nó. Hồ Anh Thái đã lao động cật lực trên từng con chữ như một nhà văn chuyên nghiệp, và, với một vốn văn hóa dày dặn, anh không rơi vào tình trạng tự thỏa mãn mà luôn tìm cách bứt phá trên cơ sở kiến tạo những kiến trúc mới mẻ, táo bạo. Người văn ấy, vì nỗi đắm đuối văn chương, cứ thấp thoáng đâu đó rồi lại nhanh chóng trở về với nỗi cô đơn của mình trước trang giấy. Mà nếu có ngồi nhấm nháp một cốc bia, thoạt đầu hào hứng, lát sau lại buột miệng kêu chán. Ðó không phải là tiếng thở than của một kẻ ghét đời. Nó là tiếng buột miệng của con người lắm nỗi đa mang. Khốn nỗi đời đâu có phải lúc nào cũng như mình mong muốn. Thôi, đành mơ trên từng dòng chữ, đành viết ra những cái xấu xa, giễu cợt nó, bỉ bác nó để mà hy vọng?Thi thoảng, vào lúc đêm muộn, tôi gọi điện cho Hồ Anh Thái. Nhưng đáp lại, tôi chỉ nghe Tút? tút?tút? Thôi, cứ để Thái đi vào những giấc mơ*. Biết đâu mấy ngày sau, anh lại gọi điện: Sắp xong một cái nữa rồi đấy. Lúc nào đọc nhé. Trong mường tượng của tôi, khi thông báo cho bạn bè, đôi mắt của anh lại mở to, tin cậy. Ðó là đôi mắt luôn tin rằng Cõi người cũng bao dung lắm!
    Hà Nội, 12.2002
  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    3. Tính luận đề và màu sắc tượng trưng siêu thực
    Nhìn đường văn mà Hồ Anh Thái đã trải và những "ngón chơi'' đầy biến hóa của anh, ta vẫn có thể nhận thấy nằm sâu trong các cấu trúc đa dạng ấy là sự có mặt của hai yếu tố: tính luận đề và màu sắc tượng trưng, siêu thực. Ðiều đáng nói là nhà văn đã tạo nên sự bện kết hài hòa giữa hai yếu tố này. Ðây là một phương diện đòi hỏi sự cao tay của người cầm bút trong quá trình bắt ấn.
    Với những cây bút non tay, khi viết các tác phẩm mang tính luận đề, nếu xử lý không khéo thì rất dễ rơi vào hai tình trạng: a-Sự khô cứng trong ngôn ngữ; b-Biến nhân vật trở thành "cái loa phát ngôn" cho tư tưởng của nhà văn một cách lộ liễu. Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, màu sắc luận đề khá rõ. Cái lượng ý trong văn anh khá mạnh. Nhà văn thường trăn trở về cuộc sống bằng cái nhìn phân tích sắc sảo. Khi mà cái mặt nạ đời sống bị bóc trần thì lập tức cái hài xuất hiện. Khi sự thật đau lòng được mổ xẻ thì sẽ tạo nỗi xót đau. Tôi không tin Hồ Anh Thái viết về tội lỗi của cõi người như một niềm thích thú. Nhà văn có ý thức trình bày sự thực trần trụi như một lời cảnh báo: có sự vô lý như món hồi môn 60 000 rupi trong Tiếng thở dài qua rừng kim tước, có sự bi kịch vì ảo tưởng trong Người đứng một chân, có sự cợt giễu sâu sắc trong Tự sự 265 ngày? Tính luận đề cũng là một yếu tố nổi bật trong Cõi người rung chuông tận thế. Nhưng Hồ Anh Thái không nêu lên một luận đề có sẵn và tác phẩm chỉ là phần "xác" minh họa cho luận đề ấy. Cách viết này rất chông chênh. Nó thường tạo nên hiện tượng lời nhiều hơn ý. Trong khi đó, bản chất văn học phải là ý ở ngoài lời. Tôi cứ nghĩ, văn Hồ Anh Thái hấp dẫn được người đọc bởi lẽ anh đã nhúng tư tưởng vào một thế giới đầy biểu tượng. Hay nói một cách đơn giản hơn, nhà văn đã trộn hòa cái thực và cái ảo một cách khá nhuần nhuyễn khiến cho ý tưởng ẩn chìm vào mê trận ngôn từ. Tôi thích cách kết thúc Tiếng thở dài qua rừng kim tước khi mà hình ảnh trận cuồng phong và những tiếng thở phào của những người đàn bà như lẫn vào nhau. Hư đấy mà cũng là thực đấy. Hồ anh Thái đã giấu "thực chiêu" trong "hư chiêu" khiến người đọc phải lần đến đầu mút của vấn đề bằng cách tái dựng lại cấu trúc tác phẩm theo cách tiếp nhận của mình. Cõi người rung chuông tận thế lại đặt ra vấn đề đấu tranh thiện - ác. Câu chuyện ấy không diễn ra thoáng chốc mà là là cái vòng luẩn quẩn nối nhau không dứt. Hận thù không thể hóa giải bằng hận thù. Nó chỉ có thể được hóa giải bằng tình yêu thương, sự khoan dung, lòng nhân hậu của con người. Cuốn tiểu thuyết này mặc dù ra mắt người đọc gần đây nhưng thực ra được viết vào năm 1996. Sự chậm trễ của nó nằm ở chỗ ai kia lo sợ đây là tác phẩm "có vấn đề''. Thiết nghĩ, cách nhìn văn học của nhiều người ở ta thật ấu trĩ. Người ta không mấy quan tâm đến giá trị nghệ thuật mà chỉ nhăm nhắm tác phẩm ấy có định bôi xấu cái gì hay không. Tôi hoàn toàn không thiện cảm với những tác phẩm nhân danh nghệ thuật để thực hiện những mục đích phi nghệ thuật. Nhưng những nhà văn chân chính không ai có ý định hạ thấp con người. Nếu có ý định bôi xấu cuộc sống thì có lẽ chọn cách vẽ biếm họa lên tường là nhanh nhất, hà cớ gì cứu phải lụi hụi bên trang giấy. Cái hay của Cõi người rung chuông tận thế là tác giả nhìn cái ác từ bên trong, qua lời một nhân vật từng đồng lõa với cái ác. Ðiểm nhìn trần thuật này giúp tác giả phanh phui cái ác, sự vô cảm của con người một cách rõ nét hơn. Nhưng nhân vật chính là người có can đảm từ bỏ cái ác để hướng thiện, dù đó là quá trình đầy gian nan vất vả. Tác phẩm này nêu lên một vấn đề triết học mà Hồ Anh Thái đã dày công suy ngẫm và tìm cách thể hiện: cái ác phải bị trừng phạt. Nhưng ở đây, Hồ Anh Thái đã lý giải số phận con người bằng cái nhìn Phật giáo: kẻ gây ra cái ác không bị đẩy đến đường cùng. Họ vẫn còn cơ hội giác ngộ nếu trong họ vẫn còn sót lại chút thiên lương trong trẻo. Trong tác phẩm này, Mai Trừng giống như một loại "thiên sứ". Nhưng đó không phải là thiên sứ toàn bích. Cô bị ràng buộc bởi lời nguyền. Mai Trừng trừng phạt kẻ ác, đó là lẽ thường. Nhưng ngay cả người yêu cô cũng không thể tới gần. Mai Trừng chỉ còn một cách, cô tìm cách xin trở lại làm người bình thường. Phút giải nguyền giúp cho câu chuyện trở nên sáng rõ, ai cũng hiểu được. Nhưng với tư cách là người thích tạng văn của Hồ Anh Thái , tôi lại tiếc cho điều này. Giá như anh để câu chuyện mờ hơn, ảo hơn thì sức hấp dẫn tác phẩm cao hơn nhiều. Có lẽ anh e người đọc không hiểu mình chăng? Màu sắc siêu thực phủ lên thiên truyện như một yếu tố đắc dụng đã không được tận dụng trong trường hợp này. Nhưng, xét kỹ ra, phải thừa nhận Cõi người rung chuông tận thế là một tác phẩm thành công của nhà văn trên hành trình làm mới văn chương..
    Ðọc Hồ Anh Thái, tôi thường băn khoăn: đâu là yếu tố giúp cây bút này sung sức đến thế. Hầu như tác phẩm nào của anh xuất hiện cũng được tìm đọc. Nhà văn Tô Hoài cũng cho rằng trong số ít cây bút đọc được hiện nay có Hồ Anh Thái. Ðiều này có giá của nó. Hồ Anh Thái đã lao động cật lực trên từng con chữ như một nhà văn chuyên nghiệp, và, với một vốn văn hóa dày dặn, anh không rơi vào tình trạng tự thỏa mãn mà luôn tìm cách bứt phá trên cơ sở kiến tạo những kiến trúc mới mẻ, táo bạo. Người văn ấy, vì nỗi đắm đuối văn chương, cứ thấp thoáng đâu đó rồi lại nhanh chóng trở về với nỗi cô đơn của mình trước trang giấy. Mà nếu có ngồi nhấm nháp một cốc bia, thoạt đầu hào hứng, lát sau lại buột miệng kêu chán. Ðó không phải là tiếng thở than của một kẻ ghét đời. Nó là tiếng buột miệng của con người lắm nỗi đa mang. Khốn nỗi đời đâu có phải lúc nào cũng như mình mong muốn. Thôi, đành mơ trên từng dòng chữ, đành viết ra những cái xấu xa, giễu cợt nó, bỉ bác nó để mà hy vọng?Thi thoảng, vào lúc đêm muộn, tôi gọi điện cho Hồ Anh Thái. Nhưng đáp lại, tôi chỉ nghe Tút? tút?tút? Thôi, cứ để Thái đi vào những giấc mơ*. Biết đâu mấy ngày sau, anh lại gọi điện: Sắp xong một cái nữa rồi đấy. Lúc nào đọc nhé. Trong mường tượng của tôi, khi thông báo cho bạn bè, đôi mắt của anh lại mở to, tin cậy. Ðó là đôi mắt luôn tin rằng Cõi người cũng bao dung lắm!
    Hà Nội, 12.2002
  10. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Bãi tắm- Ho Anh Thai
    Cô ngồi giữa. Xung quanh cô là lũ trẻ con cái những người cùng cơ quan. Một lát sau thì lâu đài bằng cát ở giữa. Xung quanh là cô và lũ trẻ. Hì hục xây đắp bằng cát ẩm. Trên cát ẩm. Sóng biển ngấp nghé đe dọa xóa sạch thành quả của đám người ngây thơ. Cả cháu và cô sắp được bài triết học sơ khai đầu đời về lâu đài trên cát.
    Cô đầu đời thật. Hai mươi tuổi vừa tốt nghiệp, cháu của một người quen của vợ của thủ trưởng của cơ quan, thủ trưởng cơ quan ở cái thế nhất thiết nên nhận. Con gái ngày nay không ai dạy nữ công gia chánh. Mỗi ngày một người trực phòng, chỉ việc đến sớm đun nước, pha trà cho cả phòng uống. Hôm nào phiên cô thì đến muộn, hồn nhiên: Cháu ngủ quên. Hồn nhiên khác: Cháu bị tắc đường. Hồn nhiên nữa, có đến sớm cũng không rửa chén đun nước: Cháu không uống chè, báo người ta viết uống chè hại tim đấy các anh các chị các chú các bác ạ.
    Đầu giờ buổi sáng, cô huỳnh huỵch đôi giầy bánh mì xách túi đến rồi ra đứng chắn trước lối ra vào cửa mở toang, tận dụng làn gió trời thổi vào qua hành lang và luồng gió điều hòa nhiệt độ thốc từ trong ra. Nghiên cứu viên Một cảm thán: Chao ôi cơn gió cái. Nghiên cứu viên Hai bẻ vần: Cô kia mặc lụa Hà Đông, đứng ra trước gió tôi trông rõ ... rồi. Đến thế vẫn đứng nguyên trước cửa không hiểu gì. Hồn nhiên.
    Khi cô vắng mặt trong phòng, nghiên cứu viên Hai gật gù, đúng là nhìn rất rõ, đùi đĩa tươm ra phết. Nghiên cứu viên Một vẫn cảm thán: Nhưng mà hôi lách cực kỳ. Nghiên cứu viên Ba lúc này mới nhảy vào giữa cuộc hội thảo: Ngày trước tớ cũng hôi lách, may mà tìm đúng thuốc. Cả phòng mười bốn người thì tám người buột miệng đồng thanh: Thuốc gì? Chỉ một câu mà làm những tám người phải tự thú lúc bình minh.
    Kết thúc hội thảo người ta đi đến nghị quyết, từ này mùi hành tây ủng ủ trong đống rác nhiệt đới trước những cổng chợ được mã hóa thành thỏ lon (thỏ lon = hôi lách). Chữ thỏ lon hợp với một cô gái hồn nhiên hơn.
    Rồi cô Thỏ Lon được bầu vào công đoàn. Ở cơ quan nào khác được bầu vào công đoàn là niềm vinh quang. Cô Thỏ Lon được bầu ở đây là để rèn luyện lao động và rèn luyện tính hồn nhiên. Cô rèn luyện bằng cách cửu vạn cho ông chánh và chị phó công đoàn. Đi công tác đường xa với thủ trưởng, cô nôn ọe rũ rượi trong xe hơi. Đến nơi thì anh lái xe đẹp giai phải nhảy vội đi thay quần áo vì bị cô nôn vào. Thủ trưởng thì phải mở cửa xe cho cô nhân viên, thủ trưởng phải đỡ cho nhân viên ra khỏi xe, thủ trưởng phải xách cặp xách dép cho nhân viên.
    Thế rồi công đoàn tổ chức đi biển bốn ngày, đặc biệt khuyến khích đám mầm non trước khi vào năm học mới. Cô Thỏ Lon phải đối đi xe, nhưng không ai ủng hộ phương án của cô đi tàu hỏa. Đổi lại với hai mươi bốn con người trên xe phải chịu thua mình cô chịu hít bụi đường xa vì cô đòi mở cửa sổ tắt điều hòa.
    Đến bãi tắm cô Thỏ Lon mới lấy lại được sinh khí công đoàn. Cô giật bằng được hai đứa con của Nghiên cứu viên Hai khỏi tay mẹ và bà ngoại của chúng. Bà già mặc áo tắm hoa cúc, tóc bạc phơ như ma nữ đầu bạc đành thả hai đứa trẻ ra, chuyển sang dắt tay bà con gái như một củ tam thất lùn chạy xuống giỡn sóng. Cô Thỏ Lon rồng rắn toàn bộ sáu đứa trẻ đi xây lâu đài trên cát, vẫn chưa thôi lẩm bẩm ra đến đây mà vẫn nhà nào riêng nhà ây thì tan cả công đoàn.
    Nghiên cứu viên Hai nhìn theo vợ và mẹ vợ tâng tâng nhảy sóng, lại nhìn hai đứa con trong nhóm xây cát. Nháy mắt: Cô đúng, ra biển mà cứ mỗi nhà một cụm thì ở nhà mà cụm cho xong, còn gì là tập thể. Anh ta nói vậy nhưng không xuống tắm, vẩn vơ trên bãi tắm đầy người. Quần soóc cây dừa.
    Quần soóc cây dừa ở bãi tắm là tiện nhất. Muốn tắm thì cứ thế mà nhúng, cần gì phải quần bơi. Không tắm thì cứ khô quần lang thang trên bãi biển. Rộng rãi mát mẻ, lại là quần chun dễ tụt. Chả khó khăn như quần soóc có cạp luồn dây lưng được.
    Cũng vẫn quần soóc cây dừa, Nghiên cứu viên Hai quay về nhà nghỉ nhập vào nhóm tá lả. Nhóm này ra biển chỉ để tá lả, tá lả thay cho tắm biển, tá lả đến mức cứ một tiếng lại đi đổ gạt tàn một lần. Văn hóa may rủi có tá lả là đỉnh cao của một chặng tiếp sức từ chắn, tiến lên, ba cây, cho đến bây giờ là tá lả. Văn hóa bình dân bây giờ có tá lả là hình thức giải trí khắp nơi nơi. Mấy ngày ở biển, đám công chức tá lả suốt ngày tá lả thâu đêm. Mười hai giờ đêm còn bị vợ mò sang gọi về đi ngủ, Nghiên cứu viên Hai mắt vẫn không rời quân bài: Tạm ứng lúc trưa rồi, còn đòi gì nữa, về cho con nó ngủ đi. Vợ ngồi ám được hơn một tiếng không chịu nổi phải ngúng nguẩy bỏ về mách mẹ. Tất nhiên bà ma nữ đầu bạc, hay như ông con rể thường gọi là bà Bạch Cốt Tinh, cũng chỉ an ủi con gái đôi câu. Rồi bà lại chìm tiếp vào cơn mơ đang chụp ảnh trên bãi biển, chiếc áo tắm đã đổi sang màu hoa đào.
    Mỗi ngày tắm biển hai lần, hai ngày là bốn lần, cộng thêm hai lần của ngày đầu và ngày cuối, tổng cộng là sáu lần. Sáu lần bà Bạch Cốt Tinh thay sáu cái áo, sáu màu sáu đi-dai khác nhau. Gã thợ ảnh bám theo bà ăn theo vào sáu lần áo tắm mười lăm kiểu ảnh. Gã cũng quần soóc cây dừa, áo phông Kiss Me đeo huy hiệu thương binh tróc sơn, gặp khách nào cũng bảo mình thuộc diện chính sách. Mấy bà bán quán thì bảo chính sách gì nó, nó có tiền sử động kinh, cả đời nó chẳng đi ra khỏi hiệu ảnh tầm nhìn xa trên mười ki lô mét, ảnh viện của nó ngay đằng sau cây dừa cụt ngọn kia kìa. Ảnh viện của gã có hai cái phông. Một là đứng che nón nghiêng nghiêng bên cây liễu Bờ Hồ, xa xa có Tháp Rùa đền Ngọc Sơn cầu Thê Húc. Một nữa ngồi ghế xích đu trước tòa lâu đài cột đá trắng Hy Lạp. Bao giờ giơ máy lên gã cũng hét như đại đội trưởng thúc quân xông lên quyết tử. Bà Bạch Cốt Tinh cũng bị gã thúc như thế. Hân hoan đi. Mơ màng đi. Âm u đi. Rồi gã cũng chẳng thèm đếm xỉa đến tuổi tác của bà, gã hét như thể với những cặp tình nhân vừa là tình cuối vừa là tình đầu. Đằm thắm đi. Lả lơi đi. Lãng mạn đi. Bà con gái thấy mẹ rộn ràng quá cầm lòng không được cũng chạy tới đòi chụp. Chụp riêng hẳn hoi một mình củ tam thất. Chỉ có một kiểu chụp chung cho mẹ khỏi phật lòng. Mọi rắc rối bắt đầu từ mấy kiểu ảnh này.
    Cô Thỏ Lon và sáu đứa trẻ vẫn mải mê xây lâu đài trên cát. Trò chơi này cũng như đánh bạc, càng thua càng ham. Hôm sau ra bãi biển, thấy thành quả của mình đã bị sóng xóa sạch không còn một dấu vết, cô cháu lại hùng hục lao vào xây mới. Cô Thỏ Lon bắt đầu linh cảm rằng muốn được lòng công đoàn viên thì phải yêu con cái họ. Chuyến đi này của công đoàn mà tốt thì mới gây dựng được uy tín ban đầu cho cô.
    Thằng con bé của Nghiên cứu viên Hai đang cắm những vỏ ốc trang trí cho lâu đài, bất chợt dừng tay. Nó mổ mổ con ốc giáo dài như một cái tẩu thuốc về phía ngực cô, thản nhiên đòi cho cháu sờ ti cô một cái. Thằng anh ngượng, mắng át, mày im đi. Thế là thằng bé sáu tuổi gào lên đòi sờ ti. Thằng anh đạp cho thằng em một cái, thanh minh, ngày nào cũng thế đấy, cứ năm giờ chiều là nó đòi sờ ti. Có hôm mẹ cháu bận, bà cháu đi đón thay, giữa đường nó cứ gào lên đòi, bà cháu cố đạp xe về nhà cho nhanh mà cũng chẳng được. Cuối cùng bà cháu đành phải xuống xe, che nón cho nó sờ ti mới thôi khóc. Thằng anh mới mười tuổi mà đã biết kể chuyện cho cô Thỏ Lon đỡ ngượng, khôn thế. Nhưng cô đỡ ngượng không có nghĩa là thằng em đỡ đòi. Nó dọa không chơi với cô nữa, nó sẽ bỏ đi tìm bà tìm mẹ để sờ. Nó không dọa, nó bỏ đi thật, chạy lao vào đám người chen chúc trên bãi. Cô Thỏ Lon phải chạy theo. Một lát sau hai cô cháu tung tăng trở lại. Cô Thỏ Lon thật khéo dỗ trẻ. Không tìm được bà và mẹ, nhưng thằng bé vui vẻ lắm.
    Đến buổi chiều thứ ba thì hội xây nhà có nguy cơ tan rã. Củ tam thất băm bổ chay tới lôi xềnh xệch hai thằng con về. Chị ta nước mắt ngắn nước mắt dài đòi đi xe khách về Hà Nội ngay. Bà Bạch Cốt Tinh mới thay được năm cái áo tắm trong tổng số sáu áo, bà còn tiếc rẻ, bà tỉ tê mãi bà con gái mới nằm vật ra không dọa về nữa. Nhưng không cho hai đứa trẻ đi xây nhà ban ngày hát hò thiếu nhi buổi tối. Giờ ăn thì không ăn với cả đoàn. Không khéo chỉ một tay con mụ này mà công của công đoàn thành công cốc. Chánh phó công đoàn họp với cô Thỏ Lon, sau rốt cả ba người đến gặp củ tam thất. Người lớn giận dỗi gì nhau chúng tôi không cần biết, nhưng nên nhớ trong đoàn còn có trẻ con, chuyến đi này chủ yếu là cho trẻ con.
    Bấy giờ củ tam thất mới sụt sùi kể chuyện. Chiều nay ở bãi tắm, gã thợ ảnh đem ảnh gã chụp buổi sách ra trả. Bà Bạch Cốt Tinh mừng rú, ảnh nào bà cũng đẹp hơn trẻ hơn. Củ tam thất thì càng xem ảnh càng tím tái cả người, chả còn chỗ nào mà tím tái hơn được nữa. Ảnh nào của chị ta cũng bị chụp hầu như ngược sáng, chỉ thấy một cái rễ cây bụ bẫm đen đen trên nền biển xanh lơ. Chị ta uất quá, dứt khoát không lấy ảnh, dứt khoát không trả tiền, mồm cứ nhai nhải ảnh xấu quá, xấu quá. Gã thợ ảnh uất hơn, ở thế cố cùng, gã quàng quạc. Mặt như mặt chó mà còn đòi ảnh đẹp. Câu này gã đã thành công rất nhiều lần với những cô gái trẻ dễ ngượng. Nhưng lần này không may cho gã. Nghiên cứu viên Hai không tắm nhưng đang loanh quanh gần đó, chen qua đám đông hiếu kỳ để xem thì hóa ra vợ mình. Một dịp tốt cho anh ta chứng tỏ tinh thần hiệp sĩ thấy sự bất bằng chẳng tha. Anh ta túm cổ áo gã thợ ảnh, chỉ dọa thôi, nhưng gã cứ leo lẻo, tao thuộc diện chính sách, tao bao nhiêu năm hy sinh xương máu, đừng động vào tao, tao mà lên cơn thì mày bỏ mẹ. Gã làm luôn. Gã trợn mắt lăn đùng ra cát, giẫy giẫy mấy cái, nhưng mồm khô khốc không sao sùi được tí bọt mép. Thấy không lên cơn động kinh được, gã lồm cồm bò dậy, đánh một đòn khác hẳn. Đừng tưởng tao đi chụp ảnh tao không biết gì, chúng mày xua vợ con ra biển, giả vờ lảng vảng ở gần rồi biến mất, chúng mày đi thuê phòng với mấy con mắt xanh mỏ đỏ một vài tiếng rồi quay lại. Cứ quần soóc cây dừa mà dễ tụt.
    Phút chốc người ta quên bẵng gã thợ ảnh. Người ta tính ra có đến sáu mươi phần trăm đàn ông trên bãi tắm mặc quần soóc cây dừa hoặc kiểu dây chun như cây dừa. Củ tam thất rú lên khóc khi nhìn thấy rành rành hình vẽ trên cái quần chồng đang mặc. Lại nhớ anh ta hầu như bỏ mặc vợ đi tắm với mẹ vợ. Ba chị khác trong đoàn có chồng mặc cùng một loại quần soóc thì điềm đạm hơn, không khóc nấc lên, không giằng con về, không bỏ cơm chung với cả đoàn, nhưng sáng hôm sau ra tắm gỡ lần cuối thì cứ bắt chồng kè kè cầm tay cùng nhảy giỡn sóng. Nhảy tưng tưng mà mặt cứ nặng như đeo đá cho đến buổi chiều lên xe về Hà Nội.
    Trên xe trở về chả ai nói gì với ai. Sáu lần tắm đã lấy hết sinh lực hào hứng. Bốn ngày tắm chung chơi chung ăn chung đã chán phè. Hiểu nhau hơn là nhờ những chuyến đi. Ngán nhau hơn cũng là vì những chuyến đi.
    Các bà các chị dứt khoát đòi đóng cửa sổ bật điều hòa, không nhượng bộ như lượt đi nữa. Họ hiểu chỉ một mình cô Thỏ Lon chịu trận. Như thể bằng cách ấy họ đã trả đũa công đoàn bày ra chuyến đi này. Làm như công đoàn chỉ là cô Thỏ Lon. Làm như mọi chuyện rắc rối là từ cô Thỏ Lon mà ra cả.
    Cô Thỏ Lon nôn ra một đống túi ni lông. Mắt lờ đờ, mí mắt sưng húp, tóc tai rũ rượi, cô lả lướt ngoẹo đầu nhắm mắt cho quên nỗi đường còn dài. Mấy đứa trẻ con bây giờ mới quay sang mời cô nước, vuốt tóc cho cô, bị mẹ chúng lườm nguýt. Thằng bé con nhà Nghiên cứu viên Hai nhìn ngực áo xộc xệch của cô Thỏ Lon rồi ngang nhiên tuyên bố: Con đã sờ ti cô Thỏ Lon rồi. Thằng anh hét lên: Mày im đi. Thằng em cáu kỉnh: Hai lần cơ. Em nói điêu em chết. Cô ấy cho mà. Củ tam thất giật thằng bé ngã ngửa sang ghế mình, phát vào đít nó mấy cái, hấm hứ lườm sang chồng: Con với cái, rõ rau nào sâu ấy.
    Cả cháu cả cô đều khóc. Cháu khóc ré lên. Cô khóc âm thầm trong cơn say xe.
    Bỗng rầm một cái. Chiếc xe đâm phải cái gì đó. Một vật cứng quật xuống nền đường, còn chiếc xe lạng sang bên phải, cắt xiên qua mép đường rồi mất thăng bằng. Rất từ từ nó nghiêng mình đặt sườn bên phải xuống bờ ruộng, lại đang đà lăn thêm cho nóc xe áp hẳn lên mặt ruộng, bốn bánh chổng lên trời.
    Hai mươi bốn con người bị lắc xúc xắc trong xe. Sây sát nhẹ. Sưng phồng rất nhẹ. Đập vỡ cửa kính chui ra được hết. Chỉ có mỗi củ tam thất bị khung ghế đè lên chân cứ nằm kẹt trong xe mà gào. Chết tôi rồi. Cứu tôi với. Anh ơi anh đừng lấy vợ mới, anh nuôi lấy hai con. Nghiên cứu viên Hai mặt tái mét, chạy quẩn chạy quanh bên ngoài khung xe. Cứu vợ tôi. Xăng đang chảy kia kìa. Xe sắp nổ rồi.
    Kêu lên thùng xăng sắp nổ thì rõ ràng anh ta thường xuyên nghiên cứu phim Mỹ. Số hành khách vừa chui ra cộng với đám thanh niên bên đường nhảy xuống ruộng, nâng cái khung xe lên từng chút một. Củ tam thất rút được cái chân ra, tưởng mất hóa ra chỉ bị kẹt phần mềm. Chị ta vồ lấy chồng, ôm chặt lấy chồng mà khóc, nhất định không bỏ ra nữa. Trong lúc ấy bà Bạch Cốt Tinh đã như một nữ tướng sắp xếp đám hành khách đứng thành một dây chuyển hết số hành lý từ trong xe lên mặt đường. Cô Thỏ Lon thì cứ ra khỏi xe là tỉnh, cô dẫn hết lũ trẻ con vào ngồi nhờ một căn nhà ven đường, cô cháu vạch áo nhau tìm xem có thương tích gì không.
    Gần hai giờ sau cả đoàn đã ngồi trên một chiếc xe khách chạy tiếp về Hà Nội. Ông chủ tịch thị trấn đã xuống tận hiện trường, ông điều ngay chiếc xe khách đường dài này đưa đoàn về. Xe của đoàn vẫn nằm dưới ruộng chờ cẩu lên. Lái xe còn phải làm việc với cảnh sát giao thông. Ông lái mới mặt mũi hằm hằm, vừa lái vừa oang oang độc thoại: Cáu nắm rồi đây. Hận đời nắm rồi đây. Vừa mới ở Đà Nẵng ra tưởng được ngủ ngon một giấc thì cái não cha căng chú kiết dựng ngay dậy.
    Ông ta vừa chạy đường dài về. Lại đang buồn ngủ. Cả xe thế là im re. Nhưng chỉ im được một lúc. Hóa ra xe mình đâm phải một thằng xe ôm. Nó từ đằng sau vượt lên, cứ nhùng nhằng mãi trước mũi xe mình, không chịu nhường đường. Rồi đáng lẽ tạt vào bên phải để nhường thì bất đồ nó tạt sang trái để sang đường. Xe mình đâm phải đít xe nó, ông lái tạt vào trong để cứu mạng nó nên mới lăn xuống ruộng đấy. Nghe đâu thằng ấy cũng là người thị trấn, vợ nó mới chết bệnh, thấy cái xe mấy chục người xuống ruộng, nó càng hoảng loạn, bỏ cả xe máy đấy chạy trốn. Mà tay xế cũng lạ, đổi hai mươi tư nhân mạng trên xe lấy một thằng xe ôm.
    Chuyện trò cứ thế râm ran cả lên. Cứ như có phép thần, chẳng ai bị mất cái chân cái tay. Bấy giờ một chị mới nghĩ ra. Có cái Đền Cô thiêng lắm, hôm đi cả xe mình đều ngủ mê mệt lúc đi qua đền, không ai vào trình Cô, chắc cô phạt. Củ tam thất vội vàng mô phật rồi bảo chồng, thôi đúng rồi, lát nữa tới Đền Cô, chúng mình mua hương hoa rồi anh lên với em, chúng mình xin cô tha cho, cô giơ cao đánh sẽ. Thảo nào.

Chia sẻ trang này