1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tác phẩm Hồ Anh Thái

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 11/01/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội, con thuyền, phù sa - Hồ Anh Thái
    Đôi khi tôi tự hỏi cái ngày Lý Công Uẩn đến vùng bờ bãi phù sa ven sông Hồng, thấy những ráng mây vàng như một con rồng bay vút lên, chính ngày đầu tiên ấy ông đã ngắm con rồng Thăng Long trên mình ngựa hay trên thuyền?
    Hình như một con thuyền có lẽ hợp hơn với người đầu tiên đến chọn đất xây dựng nên Thăng Long. Không loại trừ sự tô vẽ của người đời rằng ông ngồi hùng dũng trên một thớt voi hoặc một con ngựa chiến. Nhưng dải đất phù sa nâu đỏ ven dòng sông cũng đỏ đòi người đến khám phá ra nó phải cưỡi trên một con thuyền đè trên đầu sóng. Những hồ nước khắp trên đất Thăng Long cũng muốn rằng người đầu tiên đến đây phải có một con thuyền. Phải là thuyền cơ. Mãi đến thời Hồ Quý Ly, như nhà văn Nguyễn Xuân Khánh miêu tả, cả vùng Thăng Long vẫn còn mênh mông hồ nước. Phương tiện phổ biến và an toàn vẫn là thuyền. Những con thuyền chập chờn luồn lách trong sương, qua lau sậy, mang chở trên đó bao nhiêu nỗi niềm, cả những mưu đồ bá vương.
    Phải là thuyền. Sông dài bãi rộng. Trên bến dưới thuyền. Chài lưới. Canh tác lúa nước. Buôn bán vùng kẻ chợ. Người ấy cảnh ấy kéo dài ra đến một nghìn năm, đến bây giờ. Người bây giờ ngồi mà hình dung cứ tự đoan chắc với mình rằng Lý Công Uẩn ngày đầu đến đây bằng thuyền.
    Chắc là thế. Bằng thuyền.
    ***
    Có lần tôi ngồi nghe chuyện nhà văn Tô Hoài, cũng là một nhà Hà Nội học trực nghiệm đáng tin cậy. Nhân chuyện người Hà Nội gốc, ông nói rằng hiếm có lắm, Hà Nội gốc họa chăng chỉ có mấy anh chàng đánh cá ven sông Tô Lịch.
    Ừ nhỉ, ngay như nhà văn Tô Hoài đấy thôi. Ông vẫn được coi là một nhà văn hiếm hoi người Hà Nội còn lại với chúng ta từ đầu thế kỷ trước, nhưng mà trước năm 1945 vùng Nghĩa Đô quê ngoại ông hằng đi về vẫn còn thuộc tỉnh Hà Đông. Hà Nội khi ấy chỉ là một mảnh bé xíu của nội thành Hà Nội bây giờ.
    Hà Nội gốc bây giờ tạm chấp nhận tiêu chuẩn có ba đời sinh ra ở Hà Nội. Ông nội tôi sinh ra ở đây, cha tôi sinh ra ở nơi đây, và tôi nữa sinh ra ở nơi đây. Thế thì tôi là người Hà Nội, cho dù những năm chiến tranh ly tán, cha mẹ tôi có phải bỏ Hà Nội dắt dìu nhau đi kháng chiến chống Pháp, cho dù những năm chống Mỹ có phải bồng bế tôi đi sơ tán về miền quê. Cho dù gốc gác tôi ở Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên, hay từ những tỉnh đồng bằng Bắc bộ không xa. Hay từ những nơi thật xa Nam bộ.
    Nghe thế thì hiểu rằng Hà Nội gốc ba đời ở móng chân vẫn còn giắt bùn sông Hồng. Đầu thế kỷ XX vùng phố cổ bây giờ nước sông Hồng vẫn còn mấp mé liếm vào bến đỗ, rồi theo thời gian mới dùng dằng rút dần ra xa. Người Hà Nội gốc khi ấy vẫn phải làm nghề chài lưới. Bà buôn vẫn phi lăn xả xuống bến lội bùn lấy hàng lên. Ông đồ ông ký sao cũng có lúc phải lội nước lên thuyền hoặc lội qua bãi sông ngập nước mà về nhà. Hà Nội gốc mà móng chân vẫn giắt bùn là như vậy. Lá ngọc cành vàng, danh gia vọng tộc thật là một huyễn tưởng mong manh.
    Thế thì người Hà Nội là những ai? Cũng như mọi thủ đô trên thế giới này thôi. Chưa đến London cứ tưởng người London nói tiếng Anh theo "kiểu thủ đô" rất chuẩn. Chưa đến Paris cứ tưởng người Paris chỉ toàn người sinh trưởng ở thủ đô hoa lệ. Những đô thị ở nước Mỹ thì khỏi nói, New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles... Tất cả đều là những tụ điểm tập hợp dân tứ chiếng hay người tứ xứ cũng vậy. Khó mà tìm ra ở họ một mẫu số chung.
    Hà Nội có lẽ cũng vậy thôi. Gốc gác ba đời ít ỏi đã nói ở trên. Đa số người Hà Nội bây giờ là "ngoại kiều". Những Thanh kiều, Nghệ kiều từ miền Trung ra. Từ Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình lên. Từ phưng Nam tập kết đến. Tinh hoa gốc rễ hun đúc ở đây. Tinh hoa từ mọi miền mang tới, giao kết hợp chủng mà tạo nên người Hà Nội. Lâu dần cứ cái gì thanh lịch, hào hoa, cao nhã, tinh tế... thì mặc nhiên đều được coi là của người Hà Nội. Chẳng cần phi rạch ròi phân định "của tôi trả tôi" làm gì.
    Người Hà Nội là người sống trên dải đất ven sông Hồng. Người Hà Nội cũng là người Việt tới tận từng phân vuông vậy.
    ***
    Những nơi đô thị như Paris, London, New York là nơi quần cư của người tứ xứ. Tiếng Anh tiếng Pháp đại trà ở những nơi đó khó mà coi là khuôn vàng thước ngọc. Hà Nội thì sao? Xu hướng đô thị hóa và quản lý đô thị khá lỏng lẻo mấy chục năm qua cũng đang làm tiếng Hà Nội có phần nào hỗn độn. Như giao thông. Như nếp sống bày bừa làng xã đang biến Hà Nội thành một cái làng có đường phố, sự quá ti về số lượng người không điều tiết sớm, một ngày nào đó người ra vào thành phố hàng ngày cũng bị hạn chế như phải đăng ký xe máy hôm nay vậy.
    Còn nhớ đầu những năm 1980 người ta nhận thấy hiện tượng này: những người líu lo "Hà Lội thanh nịch và lên thơ" thuộc hai loại: hoặc là dân ngoại thành, hoặc là dân chợ giời. Các chàng các nàng chíp chíp kiu kiu trong vòng bán kính mười kilômét tính từ Bờ Hồ, ban ngày cấy lúa trồng rau trồng hoa, tối đến huỳnh huỵch đạp xe đến vũ trường, cứ dép lê mũ cối mà đăngxinh. Vừa đăngxinh vừa bô bô một thứ tiếng Hà Nội đố nhau xem đó là nờ cao hay nờ nùn.
    Nhưng tại sao lại là dân chợ giời nữa? Đám thanh niên chúng tôi hồi ấy tự giải thích thế này: đa số dân chợ giời cũng từ các miền quê mới đổ tới. Ngay cả dân gốc gác vài đời định cư ở chợ giời cũng quen dần lời ăn tiếng nói kiểu này. Một người khách mang hàng vào chợ là một con mồi. Cả một toán người ùa tới quây con mồi vào giữa, mồm năm miệng mười, mua tranh bán cướp. Những kẻ trả giá dìm giá ấy chỉ là "chân gỗ", có nhiệm vụ uy hiếp cho con mồi hoang mang nhụt chí. Rốt cục chỉ có một kẻ chủ mưu đứng ra mua giá hời. Đám "chân gỗ" hầu như đều cố tình phạm lỗi phát âm elờ enờ, gây cảm tưởng quê kệch chất phác. Bao nhiêu người đã đứng khóc giữa chợ giời vì cái thứ tiếng "hà lội" quê mùa ngớ ngẩn ấy.
    Nhưng bây giờ, liệu có thể coi là Hà Nội đang tràn ngập cái thứ tiếng mà cách đây vài ba chục năm còn là tiếng ngoại thành, tiếng chợ giời?
    Nói như thế không có nghĩa là ca sĩ ngày nay không còn luyện thanh phát âm nhả chữ theo giọng Hà Nội. Tiếng Hà Nội vẫn còn đó. Hồn Việt tiếng Việt vẫn phi nương vào giọng phát âm Hà Nội để biểu đạt âm thanh ở mức đẹp nhất. Một thứ tiếng trong trẻo, nhẹ nhõm, nhẹ đến mức phạm luật phát âm, người nghe khó phân biệt xờ với sờ, chờ với trờ - "xắt xon chung hiếu", "chương chình xản xuất". Nhưng cái nhẹ nhõm khiếm khuyết vẫn được yêu, như người ta yêu cái dịu dàng có phần yếu đuối của thiếu nữ. Các diễn viên thanh nhạc mọi miền khi hát lên vẫn hát bằng tiếng Hà Nội. Hai tiếng "Hà Nội" phát ra đẹp nhất có lẽ là từ giọng soprano Lê Dung khi chị hát Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương. Sinh thời Lê Dung nói với đồng nghiệp: "Tôi không phải là người Hà Nội, chúng ta đây cũng hiếm có ai gốc Hà Nội, nhưng hai tiếng Hà Nội khi hát lên thì nhất thiết phải sang phải đẹp".
    Đâu phải ai cũng nghĩ được và làm được như vậy. Ca sĩ đằng trong nếu không nỗ lực một cách có ý thức thì phát âm vẫn ngòng ngọng, chơn chớt, như Tây nói tiếng ta, như "Tây Annam nói tiếng Annam". Khán giả không sành thì lấy làm thích thú cái giọng phát âm ngồ ngộ "như Tây". Đến lượt một số ca sĩ sinh trưởng Hà Nội có sẵn giọng nói trời cho, ảo vọng ăn khách xui họ cũng nắn tiếng méo giọng theo kiểu ca sĩ Nam hát giọng Bắc. Nghe họ hát mà có cảm giác bị pha tiếng. Sự báng bổ xúc phạm nhất còn không bằng pha tiếng kia mà.
    Còn nữa, có một vị chức sắc lên tivi nói: "Hôm nay tôi hoan nghênh các i-em làm xanh sạch đi-ẹp chi-o thành phố". Tiếng địa phương mang vào Hà Nội thì tiếng nào cũng nặng, nhưng nghe một nhà quản lý ở Thủ đô "yêu quê hương qua từng âm tiết nhỏ" như thế, lại ưu tư: giá mà điều chỉnh từ cái nho nhỏ như phát âm cho dân dễ nghe hơn? Một chính khách đúng nghĩa còn là một diễn viên, một nhà hùng biện. Nhập gia tùy tục thì đâu có sợ tự làm mất gốc.
    Tiếng Hà Nội không ngừng phát triển, như mọi sinh ngữ, sinh âm khác. Tiếng Hà Nội 1954, tiếng Hà Nội 1975. Hai thứ tiếng ấy vào đến phưng Nam có bảo tồn đến mấy cũng không trụ vững được trước sức xâm nhập của môi trường và sự phát triển của ngôn ngữ. Lạ. Người Nam bộ tập kết ra Bắc hai mươi mốt năm ít thấy pha tiếng, nhưng người Bắc vào Nam dăm bảy năm tiếng đã cưng cứng khê khê như giọng Thanh. Lạ nữa. Tiếng Hà Nội 54 vào Nam rồi du cư sang Tây sang Mỹ, xa cách thế càng quyết tâm bảo lưu bảo tồn bảo thủ. Đi khỏi Hà Nội 1954, rời khỏi Sài Gòn 1975, ngôn ngữ sống trong lòng đôi ba người như một tiêu bản sống chia rẽ chiến tuyến. Một người phiên dịch trong cộng đồng mở miệng nói: Ngôi nhà này hiện đại nhỉ. Bị chấn chỉnh ngay: Đấy là nói giọng Cộng, phải nói là: Tòa Binđinh tân kỳ nhỉ. Nói sông núi đẹp tươi thì bị chỉnh thành ngôn ngữ của nửa thế kỷ trước: Non sông cẩm tú... Cố níu giữ tính chiến tuyến và giai cấp của ngôn ngữ. Còn giọng, nhiều ông bà già Việt Kiều đến bây giờ vẫn còn nói giọng 1954. Nghe lạ. Buồn cười. Quê quê thế nào. Tên cụ là Dư, chắc thế, cứ nhất quyết đòi viết đúng trong văn bản là Rư, phát âm cũng rung bần bật cả lưỡi lên, R-R-R-Ư, ngày xưa nhà cụ ở phố Thợ Ruộm, chứ không phải Thợ Nhuộm. Nhà văn Tô Hoài mỉm cười: Tiếng Hà Nội ngày xưa đấy. Vậy ư? Nhưng tiếng Hà Nội bây giờ khác rồi: tròn, sáng, trong, vang, sang, nhẹ. Lại vẫn nhà văn Tô Hoài: Nhưng hơi điệu.
    ***
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội, con thuyền, phù sa - Hồ Anh Thái (tiếp)
    Điệu. Có lẽ vì véo von ngữ điệu. Lại nhẹ nữa. Ô hay nhỉ, tiếng nói càng phát triển lại càng nhẹ nhõm đi, nhưng thời đại thì ngày càng vạm vỡ, xô bồ. Cái ăn Hà Nội trong văn Vũ Bằng, Thạch Lam thanh cảnh tinh tế là vậy, nhưng bây giờ... Đến cả các nàng nói giọng nhẹ nhàng yểu điệu cũng đã có văn hóa ẩm thực khác.
    Món ăn Hà Nội thời nay có lẽ cũng là sản phẩm của một thứ "hợp chủng thị". Đã dậy mùi sặc sỡ như Trung. Đã nhiều gừng nhiều ớt như Nam. Đã nhiều sả như Thái, ngọt như Tàu, gây gây như Ý... Chuyện ở trên, các ca sĩ Hà Nội cố uốn giọng phát âm như ca sĩ Nam hát giọng Bắc. Chuyện ở đây, ẩm thực mọi miền được tiếp thu dễ dàng. Cả hai chuyện đều cho thấy người Hà Nội thật cởi mở, thật dễ tiếp thu những gì ở bên ngoài mình.
    Miếng ngon Hà Nội vẫn còn đó. Nhưng đời sống đô thị chuyển vần tốc độ chóng mặt, thức ăn khó mà chỉ dành cho thiểu số người ngâm nga nhấm nháp bên lề dòng chảy. Ăn uống cũng nhanh lên, mạnh lên, hùng hục, quần quật. Nhiều sáng kiến ẩm thực cho phù hợp thế sự. Bát phở thời bao cấp không phải ai cũng có tiền mà ăn mỗi tháng một lần, đến độ trí thức không còn nhớ định nghĩa "phở là gì?". Vào quán phở chỉ ăn thuần phở thôi cũng đã là một sự kiện. Đôi ba kẻ phe phẩy, giàu có nhờ buôn bán, gọi thêm vào bát phở quả trứng gà chần, thứ nhất để tăng lượng prôtit bổ béo, thứ hai để chứng minh đẳng cấp có tiền. Bát phở đẳng cấp cứ thế mấy chục năm, giờ thành món quen vị quen miệng. Phở trứng. Người sành ăn thì không sao quen được cái thứ phở giàu xổi tanh tanh ấy. Phở không chịu dừng lại, mấy bà bán phở còn sáng kiến thả những viên thịt vào bát phở gà phở bò thành phở tổng hợp, phở mọc. Phở còn đi xa hơn, sang cộng đồng người Việt ở Âu Mỹ. Món ăn Âu ăn Thái vào Việt Nam phải điều chỉnh thế nào cho vừa miệng dân ta thì phở Việt Nam ở Paris ở Cali cũng phải cải biên như thế. Khối lượng cũng phải tăng lên ngồn ngộn trong những cái bát to như cái chậu. Phở ăn nóng cho đến thìa nước dùng cuối cùng là điều không thể thực hiện được.
    Các chàng các nàng yểu điệu bây giờ ăn rau sống là ăn cả cây húng cây kinh giới um tùm sum suê. Xà lách rau diếp món chính thì ít. Rau thơm ăn hương ăn hoa thì thành món chính rậm rạp. Trong ẩm thực giá trị cũng bị đảo ngược, bị "đánh tráo khái niệm" như cách lập ngôn trong phê bình văn học thời thượng. Ẩm thực thịt vịt thịt ngan cưỡi lên cả đám giỗ đám cưới. Ban đầu nó được các cô Ôsin giúp việc "thế nào cũng được" hồn nhiên mua bán nấu nướng bày lên. Dần dần nó được các ông bà chủ nhà "để yên xem sao" quen mắt quen miệng. Lâu lâu sau nó được người Hà Nội "nhẹ dạ dễ dãi" chính thức cho gia nhập văn hóa ẩm thực thủ đô.
    Nói thế biết thế, nhưng miếng ngon Hà Nội vẫn còn. Trong những người sành, thanh tao. Hiếm lắm. Nhưng hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít. Dường như vậy.
    ***
    Gia phong trong những nhà số ít ấy giờ đây ngẫm lại thực ra lại mang tính toàn cầu. Trọng trung hiếu lễ nghĩa. Biết lắng nghe người đối thoại, biết đàm phán và biết thuyết phục. Không thuyết phục được thì khôn khéo biết để cho đối tượng ra đi trong danh dự. Ăn thanh tao, mặc thanh lịch, bước đi dáng đứng thanh nhã. Chữ thanh thường làm đầu. Bao giờ xử sự cũng tự nhiên, tự nhiên như người Hà Nội. Thoải mái. Tự tin. Không thích kẻ thu mình. Ăn uống không xô bồ hấp tấp nhưng cũng không cảnh vẻ kiểu cách. Bát cơm bát phở phải ăn bằng hết, không được bỏ thừa một chút làm phép. Chúng tôi ngày ấy được giáo dục bằng chữ thanh, vào đời làm ăn là ổn ngay. Ra nước ngoài bỡ ngỡ chưa biết rõ tập quán địa phương, chỉ việc xử sự như cha ông dạy bảo là hòa nhập tự tin được ngay. Không bị sốc văn hóa. Không bị mặc cảm mình vụng về quê mùa.
    Chữ thanh đôi khi hiểu thái quá mà thành ra sáo ra sĩ. Sĩ diện. Thời bao cấp có nhà buôn gian bán lận, cơm gà cá gỏi nhưng rổ rác phải phủ rau lên trên để che xương cá xương gà, sợ hàng xóm dị nghị. Mốt kín đáo. Thời trước nữa thì trái lại, có giai thoại người Hà Nội nghèo, trước khi mang sọt rác ra đổ nơi công cộng lại phải phủ lên trên đôi ba cái vỏ trứng. Ra điều ta không nghèo. Mốt sĩ.
    Người bốn phương tụ về, chỉ mượn cái bãi đất sông Hồng mà làm nên Hà Nội. Người ở đâu về đây lâu rồi cũng dần dần ra người dễ chan hòa, khoáng đạt. Trong cả nếp nghĩ. Trong cả nếp sống. Dễ. Thảng hoặc dễ đến mức không kiên quyết bảo vệ điều mình tin. Nhiều khi dễ, gặp cái gì hơi khó là lảng là chuồn. Thật êm. Dễ thì xơi khó thì lặn một hơi. Nam chuồn Hà lủi Thái thì bay. Hà ở đây là chỉ người Hà Nội.
    Nhưng dễ bên này dao động sang phía bên kia quả lắc thành ra khó. Người khó thì thật là quyết liệt. Thời tiết khí hậu không ôn hòa bình ổn như phương Nam. Nóng đến điên người mà rét có thể chết người. Cư dân chịu tác động khí hậu ấy địa lý ấy nên cũng không sôi nổi ồn ào dễ dãi như người phưng Nam. Cái kiểu tuẫn tiết của người anh hùng miền Trung trong thành Hà Nội là đúng kiểu Hà Nội. Ôm bom ba càng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh dường như cũng là cách chết thật là Hà Nội. Chết vì tình cũng phải là kiểu lá ngọc cành vàng, là kiểu chết tương tư Tố Tâm tiểu thuyết. Trong văn chương cái quyết liệt Hà Nội dễ thấy trong khí phách Nguyễn Trãi. Trong chua xót tận cùng Nguyễn Du. Trong cay chua vẻ ngoài khao khát bên trong Hồ Xuân Hương. Những người nhắc tên dường như chứng minh cho một giả thiết dân gian: người Hà Nội thành danh đều phải là kết tinh văn hóa mọi miền; người tứ xứ, người khu Tư khu Năm muốn thành danh đều phải xa quê mà đến với Hà Nội. Như thời nay người muốn làm ăn đều phải quy về đầu mối Sài Gòn. Hà Nội nữa.
    ***
    Tôi có lần ra giữa sông Hồng dự một đám tang đặc biệt. Của một nhà thơ. Đặc biệt. Vì mong muốn cuối cùng của người quá cố là sau khi hỏa táng, di hài ông được thả xuống sông Hồng. Hình như mong muốn ấy chỉ có ở một con người thật lãng mạn. Tôi chắc là ông cũng đã biết nhiều về Phật giáo, Hindu giáo và văn minh Ấn Độ. Người Ấn từ thượng cổ gắn với những dòng sông lớn. Họ gọi đó là sông thiêng. Sinh ra được rửa tội trong dòng sông thiêng là may mắn lớn. Cả đời người một lần tắm nước sông thiêng là được giải thoát. Chết đi thì tro than nhất thiết phải về với sông. Về với sông tức là về với sông cha đất mẹ.
    Chắc là ông nhà thơ đất Việt kia cũng an nghỉ với giấc mơ lần cuối cùng phiêu du trên dòng sông Cái màu đỏ. Tôi tuổi tứ tuần vương vấn mãi từ chuyến tiễn đưa trên sông Hồng hôm ấy. Không có ai được dự đám tang mình. Nhưng dường như tôi đang tiễn đưa chính mình trong hành trình cuối cùng của mình. Giống như thế. Con cháu tôi sẽ mang cái bình gốm ấy trên tay ra bờ sông Hồng. Nhúm tro ấy sẽ tan hòa trong dòng nước. Cũng có thể là một con thuyền giấy sẽ chở nhúm tro tàn ấy trôi một quãng sông Hồng. Chiếc thuyền giấy sẽ rơi vào một xoáy nước, bị dìm đắm, kết cục tất nhiên cho bất cứ một con thuyền nào hôm nay vẫn còn thong dong trên sông. Chính ở chỗ chiếc thuyền giấy buông mình đầu hàng số phận, tôi sẽ li ti lắng xuống cho một lớp phù sa sẽ tôn lên thành bờ bãi mới. Cũng có thể vào bụng cá, cá thì cũng lại về với sông cha đất mẹ.
    Người mê tín bảo đừng có hỏa táng. Nóng lắm. Gọi hồn không được. Hồn nào về được cũng đều kêu nóng lắm. Chẳng hóa ra niềm tin tâm linh của người Ấn là sai, họ chẳng có một linh hồn nào còn lại từ đống tro tàn hỏa táng hay sao? Chẳng hóa ra những người được mai táng gọi hồn lên không có ai kêu dưới ba thước đất nằm rất lạnh? Bị cả triệu triệu sâu bọ côn trùng quấy quả? Giấc ngủ ngàn thu có cả cá trê bẹp đầu sùng sục xông vào?
    Người Hà Nội bây giờ có mê tín hơn xưa? Tiền cho vàng mã khói hương ngày một ngày rằm đã thành một ngăn dành riêng trong vỏ não? Người Hà Nội ấy khó quen với việc rải tro xương xuống sông Hồng. Thì cũng phải dành lại một phần mộ, một chỗ nho nhỏ cho con cháu tưởng nhớ. Như thể không có một nấm đất con con thì đời sau sẽ không còn ký ức. Thì chẳng lẽ lại đem tro đi rải xuống sông, chết là xóa sạch mọi dấu vết? Như thể còn nhìn thấy một tấm bia thì người chết vẫn còn.
    Không, người có danh lẫn người vô danh khi đến thế giới này đều chỉ là đứa hài nhi vô danh. Vậy khi ra đi cũng nên vô danh như hài nhi của một vòng đầu thai mới. Cái gì còn lại đều là cái khó nhìn thấy. Chẳng phải cứ tượng đài bia đá là còn.
    Tôi lại vẫn nghĩ rằng hành trình cuối cùng của Lý Công Uẩn cũng là trên một con thuyền. Sau đó là dòng sông Hồng. Sau đó là phù sa.
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội, con thuyền, phù sa - Hồ Anh Thái (tiếp)
    Điệu. Có lẽ vì véo von ngữ điệu. Lại nhẹ nữa. Ô hay nhỉ, tiếng nói càng phát triển lại càng nhẹ nhõm đi, nhưng thời đại thì ngày càng vạm vỡ, xô bồ. Cái ăn Hà Nội trong văn Vũ Bằng, Thạch Lam thanh cảnh tinh tế là vậy, nhưng bây giờ... Đến cả các nàng nói giọng nhẹ nhàng yểu điệu cũng đã có văn hóa ẩm thực khác.
    Món ăn Hà Nội thời nay có lẽ cũng là sản phẩm của một thứ "hợp chủng thị". Đã dậy mùi sặc sỡ như Trung. Đã nhiều gừng nhiều ớt như Nam. Đã nhiều sả như Thái, ngọt như Tàu, gây gây như Ý... Chuyện ở trên, các ca sĩ Hà Nội cố uốn giọng phát âm như ca sĩ Nam hát giọng Bắc. Chuyện ở đây, ẩm thực mọi miền được tiếp thu dễ dàng. Cả hai chuyện đều cho thấy người Hà Nội thật cởi mở, thật dễ tiếp thu những gì ở bên ngoài mình.
    Miếng ngon Hà Nội vẫn còn đó. Nhưng đời sống đô thị chuyển vần tốc độ chóng mặt, thức ăn khó mà chỉ dành cho thiểu số người ngâm nga nhấm nháp bên lề dòng chảy. Ăn uống cũng nhanh lên, mạnh lên, hùng hục, quần quật. Nhiều sáng kiến ẩm thực cho phù hợp thế sự. Bát phở thời bao cấp không phải ai cũng có tiền mà ăn mỗi tháng một lần, đến độ trí thức không còn nhớ định nghĩa "phở là gì?". Vào quán phở chỉ ăn thuần phở thôi cũng đã là một sự kiện. Đôi ba kẻ phe phẩy, giàu có nhờ buôn bán, gọi thêm vào bát phở quả trứng gà chần, thứ nhất để tăng lượng prôtit bổ béo, thứ hai để chứng minh đẳng cấp có tiền. Bát phở đẳng cấp cứ thế mấy chục năm, giờ thành món quen vị quen miệng. Phở trứng. Người sành ăn thì không sao quen được cái thứ phở giàu xổi tanh tanh ấy. Phở không chịu dừng lại, mấy bà bán phở còn sáng kiến thả những viên thịt vào bát phở gà phở bò thành phở tổng hợp, phở mọc. Phở còn đi xa hơn, sang cộng đồng người Việt ở Âu Mỹ. Món ăn Âu ăn Thái vào Việt Nam phải điều chỉnh thế nào cho vừa miệng dân ta thì phở Việt Nam ở Paris ở Cali cũng phải cải biên như thế. Khối lượng cũng phải tăng lên ngồn ngộn trong những cái bát to như cái chậu. Phở ăn nóng cho đến thìa nước dùng cuối cùng là điều không thể thực hiện được.
    Các chàng các nàng yểu điệu bây giờ ăn rau sống là ăn cả cây húng cây kinh giới um tùm sum suê. Xà lách rau diếp món chính thì ít. Rau thơm ăn hương ăn hoa thì thành món chính rậm rạp. Trong ẩm thực giá trị cũng bị đảo ngược, bị "đánh tráo khái niệm" như cách lập ngôn trong phê bình văn học thời thượng. Ẩm thực thịt vịt thịt ngan cưỡi lên cả đám giỗ đám cưới. Ban đầu nó được các cô Ôsin giúp việc "thế nào cũng được" hồn nhiên mua bán nấu nướng bày lên. Dần dần nó được các ông bà chủ nhà "để yên xem sao" quen mắt quen miệng. Lâu lâu sau nó được người Hà Nội "nhẹ dạ dễ dãi" chính thức cho gia nhập văn hóa ẩm thực thủ đô.
    Nói thế biết thế, nhưng miếng ngon Hà Nội vẫn còn. Trong những người sành, thanh tao. Hiếm lắm. Nhưng hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít. Dường như vậy.
    ***
    Gia phong trong những nhà số ít ấy giờ đây ngẫm lại thực ra lại mang tính toàn cầu. Trọng trung hiếu lễ nghĩa. Biết lắng nghe người đối thoại, biết đàm phán và biết thuyết phục. Không thuyết phục được thì khôn khéo biết để cho đối tượng ra đi trong danh dự. Ăn thanh tao, mặc thanh lịch, bước đi dáng đứng thanh nhã. Chữ thanh thường làm đầu. Bao giờ xử sự cũng tự nhiên, tự nhiên như người Hà Nội. Thoải mái. Tự tin. Không thích kẻ thu mình. Ăn uống không xô bồ hấp tấp nhưng cũng không cảnh vẻ kiểu cách. Bát cơm bát phở phải ăn bằng hết, không được bỏ thừa một chút làm phép. Chúng tôi ngày ấy được giáo dục bằng chữ thanh, vào đời làm ăn là ổn ngay. Ra nước ngoài bỡ ngỡ chưa biết rõ tập quán địa phương, chỉ việc xử sự như cha ông dạy bảo là hòa nhập tự tin được ngay. Không bị sốc văn hóa. Không bị mặc cảm mình vụng về quê mùa.
    Chữ thanh đôi khi hiểu thái quá mà thành ra sáo ra sĩ. Sĩ diện. Thời bao cấp có nhà buôn gian bán lận, cơm gà cá gỏi nhưng rổ rác phải phủ rau lên trên để che xương cá xương gà, sợ hàng xóm dị nghị. Mốt kín đáo. Thời trước nữa thì trái lại, có giai thoại người Hà Nội nghèo, trước khi mang sọt rác ra đổ nơi công cộng lại phải phủ lên trên đôi ba cái vỏ trứng. Ra điều ta không nghèo. Mốt sĩ.
    Người bốn phương tụ về, chỉ mượn cái bãi đất sông Hồng mà làm nên Hà Nội. Người ở đâu về đây lâu rồi cũng dần dần ra người dễ chan hòa, khoáng đạt. Trong cả nếp nghĩ. Trong cả nếp sống. Dễ. Thảng hoặc dễ đến mức không kiên quyết bảo vệ điều mình tin. Nhiều khi dễ, gặp cái gì hơi khó là lảng là chuồn. Thật êm. Dễ thì xơi khó thì lặn một hơi. Nam chuồn Hà lủi Thái thì bay. Hà ở đây là chỉ người Hà Nội.
    Nhưng dễ bên này dao động sang phía bên kia quả lắc thành ra khó. Người khó thì thật là quyết liệt. Thời tiết khí hậu không ôn hòa bình ổn như phương Nam. Nóng đến điên người mà rét có thể chết người. Cư dân chịu tác động khí hậu ấy địa lý ấy nên cũng không sôi nổi ồn ào dễ dãi như người phưng Nam. Cái kiểu tuẫn tiết của người anh hùng miền Trung trong thành Hà Nội là đúng kiểu Hà Nội. Ôm bom ba càng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh dường như cũng là cách chết thật là Hà Nội. Chết vì tình cũng phải là kiểu lá ngọc cành vàng, là kiểu chết tương tư Tố Tâm tiểu thuyết. Trong văn chương cái quyết liệt Hà Nội dễ thấy trong khí phách Nguyễn Trãi. Trong chua xót tận cùng Nguyễn Du. Trong cay chua vẻ ngoài khao khát bên trong Hồ Xuân Hương. Những người nhắc tên dường như chứng minh cho một giả thiết dân gian: người Hà Nội thành danh đều phải là kết tinh văn hóa mọi miền; người tứ xứ, người khu Tư khu Năm muốn thành danh đều phải xa quê mà đến với Hà Nội. Như thời nay người muốn làm ăn đều phải quy về đầu mối Sài Gòn. Hà Nội nữa.
    ***
    Tôi có lần ra giữa sông Hồng dự một đám tang đặc biệt. Của một nhà thơ. Đặc biệt. Vì mong muốn cuối cùng của người quá cố là sau khi hỏa táng, di hài ông được thả xuống sông Hồng. Hình như mong muốn ấy chỉ có ở một con người thật lãng mạn. Tôi chắc là ông cũng đã biết nhiều về Phật giáo, Hindu giáo và văn minh Ấn Độ. Người Ấn từ thượng cổ gắn với những dòng sông lớn. Họ gọi đó là sông thiêng. Sinh ra được rửa tội trong dòng sông thiêng là may mắn lớn. Cả đời người một lần tắm nước sông thiêng là được giải thoát. Chết đi thì tro than nhất thiết phải về với sông. Về với sông tức là về với sông cha đất mẹ.
    Chắc là ông nhà thơ đất Việt kia cũng an nghỉ với giấc mơ lần cuối cùng phiêu du trên dòng sông Cái màu đỏ. Tôi tuổi tứ tuần vương vấn mãi từ chuyến tiễn đưa trên sông Hồng hôm ấy. Không có ai được dự đám tang mình. Nhưng dường như tôi đang tiễn đưa chính mình trong hành trình cuối cùng của mình. Giống như thế. Con cháu tôi sẽ mang cái bình gốm ấy trên tay ra bờ sông Hồng. Nhúm tro ấy sẽ tan hòa trong dòng nước. Cũng có thể là một con thuyền giấy sẽ chở nhúm tro tàn ấy trôi một quãng sông Hồng. Chiếc thuyền giấy sẽ rơi vào một xoáy nước, bị dìm đắm, kết cục tất nhiên cho bất cứ một con thuyền nào hôm nay vẫn còn thong dong trên sông. Chính ở chỗ chiếc thuyền giấy buông mình đầu hàng số phận, tôi sẽ li ti lắng xuống cho một lớp phù sa sẽ tôn lên thành bờ bãi mới. Cũng có thể vào bụng cá, cá thì cũng lại về với sông cha đất mẹ.
    Người mê tín bảo đừng có hỏa táng. Nóng lắm. Gọi hồn không được. Hồn nào về được cũng đều kêu nóng lắm. Chẳng hóa ra niềm tin tâm linh của người Ấn là sai, họ chẳng có một linh hồn nào còn lại từ đống tro tàn hỏa táng hay sao? Chẳng hóa ra những người được mai táng gọi hồn lên không có ai kêu dưới ba thước đất nằm rất lạnh? Bị cả triệu triệu sâu bọ côn trùng quấy quả? Giấc ngủ ngàn thu có cả cá trê bẹp đầu sùng sục xông vào?
    Người Hà Nội bây giờ có mê tín hơn xưa? Tiền cho vàng mã khói hương ngày một ngày rằm đã thành một ngăn dành riêng trong vỏ não? Người Hà Nội ấy khó quen với việc rải tro xương xuống sông Hồng. Thì cũng phải dành lại một phần mộ, một chỗ nho nhỏ cho con cháu tưởng nhớ. Như thể không có một nấm đất con con thì đời sau sẽ không còn ký ức. Thì chẳng lẽ lại đem tro đi rải xuống sông, chết là xóa sạch mọi dấu vết? Như thể còn nhìn thấy một tấm bia thì người chết vẫn còn.
    Không, người có danh lẫn người vô danh khi đến thế giới này đều chỉ là đứa hài nhi vô danh. Vậy khi ra đi cũng nên vô danh như hài nhi của một vòng đầu thai mới. Cái gì còn lại đều là cái khó nhìn thấy. Chẳng phải cứ tượng đài bia đá là còn.
    Tôi lại vẫn nghĩ rằng hành trình cuối cùng của Lý Công Uẩn cũng là trên một con thuyền. Sau đó là dòng sông Hồng. Sau đó là phù sa.
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Cõi người rung chuông tận thế có thể đọc tại đây:
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nnnnnqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Cõi người rung chuông tận thế có thể đọc tại đây:
    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nnnnnqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    "Love after war" có thể sánh được với những gì hay nhất của văn chương thế giới?
    45 truyện ngắn của những tác giả đương đại Việt Nam, từ người "lớn" nhất là nhà văn Tô Hoài đến nữ tác giả "trẻ" nhất Nguyễn Ngọc Tư, với chủ đề chính là tình yêu thời hậu chiến, do nhà văn Wayner Karlin và Hồ Anh Thái tuyển dịch, ấn hành tại NXB Curbstone, đã thu hút sự chú ý của báo giới Mỹ cũng như Việt Nam trong thời gian qua, thậm chí tờ Biên niên sử Sanfransico còn bình chọn đây là một trong 100 cuốn sách hay nhất năm.
    Thưa nhà văn, vừa qua báo chí trong nước và quốc tế đã có nhiều bài viết khác nhau về tuyển tập truyện ngắn "Love after war" do anh và nhà văn Mỹ Wayne Karlin tuyển chọn, dịch ra tiếng Anh. Anh có thể nói rõ tuyển tập này được chọn theo tiêu chí nào?
    Nhà xuất bản và nhóm chủ biên chúng tôi nhất trí ngay từ đầu: chỉ chọn tác phẩm hay, và phần lớn tuyển tập đã đạt được yêu cầu này. Tôi cố gắng đưa vào truyện ngắn tiêu biểu nhất của mỗi tác giả, nhưng đôi khi đã NXB đã chọn truyện thứ hai hoặc thứ ba của tác giả đó. Lý do là truyện độc giả Việt Nam cho là hay chưa hẳn đã hợp gu độc giả Mỹ.
    Có vẻ như những người chủ biên có tham vọng thực hiện một tuyển tập đương đại thật đầy đủ. Nhưng đó cũng chỉ là một sự lựa chọn theo quan điểm cá nhân? Một số độc giả Việt Nam lại cho rằng tập sách chưa được như mong muốn của những người tuyển dịch?
    Chắc chắn một tuyển tập phải mang dấu ấn chủ quan của người chủ biên. Người khác đứng ra làm thì họ sẽ chọn tác giả khác, truyện khác, cách bố cục và giới thiệu cũng khác. Nhưng tôi tin rằng bất kỳ ai làm chủ biên một tuyển tập nghiêm túc và chọn ra một Top 45 truyện ngắn thì khó mà bỏ sót những truyện tôi đã chọn.
    Tại sao anh và Wayne Karlin quyết định lựa chọn 45 tác giả, mà không phải nhiều hơn hoặc ít hơn? Anh có chắc mình không bỏ sót tác phẩm hay và nó thực sự xứng đáng "không còn từ nào khác ngoài chữ hoành tráng để nói về cuốn sách này" như nhận xét của báo chí Mỹ?
    Tôi đã tóm tắt truyện ngắn của hơn 80 tác giả để NXB lựa chọn và họ đã dừng lại con số 45. Thực sự là tôi không hài lòng, giá mà giới thiệu được ít nhất 100 tác giả thì tuyệt vời. Nhưng nhà xuất bản là người quyết định cuối cùng. Và dù có giới thiệu 100 tác giả cũng vẫn thiếu hụt, trong khi ở ta có hàng ngàn người viết truyện ngắn như thế này.
    Còn ở Việt Nam, gần đây nhất, có bài viết về cuốn tuyển tập: thực ra "Love after war" chỉ là một cuốn sách dựa trên quan hệ cá nhân, được một NXB nhỏ ở Boston tổ chức, quy mô phát hành sách không lớn?...
    Có nhiều thời gian ở Mỹ, cũng có nghiên cứu công nghiệp xuất bản và làm việc với nhiều NXB Mỹ, tôi xin cung cấp một số thông tin: hàng ngàn NXB Mỹ đều rất ngại in sách dịch - người Mỹ hầu như thờ ơ với sách dịch và phim nước ngoài có phụ đề. Curbstone là một NXB nhỏ, nhưng thuộc loại có uy tín ở Mỹ, sách của họ thường được chú ý và đánh giá cao trên các tờ báo lớn như Thời báo New York, Thời báo Los Angeles, Biên niên sử San Francisco, Địa cầu Boston... Sách của Curbstone được phát hành trong mạng lưới phát hành toàn nước Mỹ và bán trên mạng amazon.com. Ai cũng có thể vào Internet để hiểu thêm về NXB này.
    Sau khi sách được xếp vào hàng 100 cuốn sách hay ở Mỹ năm 2003, các nhà văn có tác phẩm được chọn đã hưởng chế độ sách và nhuận bút như thế nào? Hay đối với họ, được giới thiệu rộng rãi ra nước ngoài, được khen ngợi... đã là một may mắn?
    Độc giả Mỹ hầu như chưa biết gì về văn học Việt Nam, những cố gắng ban đầu hình như giống việc ra tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi. Nhuận bút cho mỗi truyện trong tuyển tập này là 50 USD. Curbstone là NXB không lợi nhuận (non-profit) tức là hầu như không có lợi nhuận lớn cho NXB và tác giả. Không lợi nhuận khiến NXB không phải đóng thuế thu nhập nhưng để đáp lại, NXB phải làm nghĩa vụ văn hóa với đất nước: lợi nhuận của 5.000 bản tuyển tập phải được dùng để in nối bản cuốn sách đó hàng năm, đem tặng cho các thư viện, trường học, các cơ sở văn hóa toàn quốc... Người phiên dịch cho một đoàn nhà văn, nhà báo VN thăm Mỹ gần đây đã dịch sai số lượng ấn bản là 1.000. Thực ra các NXB đều thăm dò sức mua rất lâu trước khi in và nếu chỉ đạt số lượng dưới 5.000 bản thì họ sẽ từ chối bản thảo. Chỉ có NXB của các trường đại học mới "dám" in chỉ 1.000 bản mà thôi.
    Anh nói gì khi có ý kiến: những bài viết về cuốn sách chỉ là lời "tung hô" của các nhà văn, nhà báo Mỹ mà những nhà văn VN chưa từng nghe thấy tên?...
    Nhà văn ta có thông tin gì về văn học đương đại Mỹ, châu Âu và nhiều nước khác trong vài chục năm qua? Nhiều tên tuổi lừng lẫy bên ấy chỉ khiến độc giả ta tưởng là cây bút mới xuất hiện mà thôi. Những người khen tuyển tập này như Robert Olen Butler, Gloria Emerson đều là nhà văn kỳ cựu hàng đầu, đều đoạt Giải thưởng Sách Quốc gia Mỹ. Những tờ báo in bài của họ là Thời báo New York, Biên niên sử San Francisco... Có thể lời lẽ của họ quá nồng nhiệt, nhưng liệu có thể nghĩ rằng họ nhận định sai về văn học ta?
    "Tuyển tập có thể dễ dàng sánh với những bậc thầy truyện ngắn được khuếch trương nhiều của Mỹ", "tuyển tập văn xuôi sinh động của những tác giả mà tác phẩm sánh với những gì hay nhất của văn chương thế giới"... Với những nhận xét của hai tờ báo Mỹ, các nhà văn ta có thể tự hào vì mình cũng đứng ngang hàng "top" của thế giới? Và anh nghĩ gì khi nhà văn Ngô Tự Lập khẳng định "truyện ngắn VN không thể sánh ngang hàng thế giới", hay nhà thơ Hoàng Hưng thì thẳng thắn "chúng ta chưa có gì để có thể nói là ngang hàng"...?
    Văn xuôi ta có thành tựu nhất định về truyện ngắn và tiểu thuyết ngắn, chủ yếu là ở phương pháp sáng tác cổ điển. Hai tác giả trên cũng có lý, họ đã chỉ nghĩ đến phần non yếu của văn học ta mà nhận định như vậy. Chắc là nếu có đọc tuyển này, họ vẫn sẽ chưa thỏa mãn với những truyện mang màu sắc chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng tôi đã chủ ý đưa những truyện ấy vào để sơ bộ giới thiệu sự tìm tòi với độc giả Mỹ.
    Dự định tiếp theo của anh trong việc tuyển dịch và giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài?
    Tôi là người sáng tác. Làm tuyển tập chỉ vì được mời và sẽ thấy tiếc nếu bỏ mất cơ hội hiếm hoi. Bây giờ tôi phải trở về với trang viết của mình. Mong mỗi nhà văn nếu có cơ hội, xin hãy góp thêm một cố gắng mang tính cá nhân như vậy cho văn học ta.
    Lê Mỹ Ý

    Nguồn: NetNam
    Ngày đăng: 19/01/2005
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    "Love after war" có thể sánh được với những gì hay nhất của văn chương thế giới?
    45 truyện ngắn của những tác giả đương đại Việt Nam, từ người "lớn" nhất là nhà văn Tô Hoài đến nữ tác giả "trẻ" nhất Nguyễn Ngọc Tư, với chủ đề chính là tình yêu thời hậu chiến, do nhà văn Wayner Karlin và Hồ Anh Thái tuyển dịch, ấn hành tại NXB Curbstone, đã thu hút sự chú ý của báo giới Mỹ cũng như Việt Nam trong thời gian qua, thậm chí tờ Biên niên sử Sanfransico còn bình chọn đây là một trong 100 cuốn sách hay nhất năm.
    Thưa nhà văn, vừa qua báo chí trong nước và quốc tế đã có nhiều bài viết khác nhau về tuyển tập truyện ngắn "Love after war" do anh và nhà văn Mỹ Wayne Karlin tuyển chọn, dịch ra tiếng Anh. Anh có thể nói rõ tuyển tập này được chọn theo tiêu chí nào?
    Nhà xuất bản và nhóm chủ biên chúng tôi nhất trí ngay từ đầu: chỉ chọn tác phẩm hay, và phần lớn tuyển tập đã đạt được yêu cầu này. Tôi cố gắng đưa vào truyện ngắn tiêu biểu nhất của mỗi tác giả, nhưng đôi khi đã NXB đã chọn truyện thứ hai hoặc thứ ba của tác giả đó. Lý do là truyện độc giả Việt Nam cho là hay chưa hẳn đã hợp gu độc giả Mỹ.
    Có vẻ như những người chủ biên có tham vọng thực hiện một tuyển tập đương đại thật đầy đủ. Nhưng đó cũng chỉ là một sự lựa chọn theo quan điểm cá nhân? Một số độc giả Việt Nam lại cho rằng tập sách chưa được như mong muốn của những người tuyển dịch?
    Chắc chắn một tuyển tập phải mang dấu ấn chủ quan của người chủ biên. Người khác đứng ra làm thì họ sẽ chọn tác giả khác, truyện khác, cách bố cục và giới thiệu cũng khác. Nhưng tôi tin rằng bất kỳ ai làm chủ biên một tuyển tập nghiêm túc và chọn ra một Top 45 truyện ngắn thì khó mà bỏ sót những truyện tôi đã chọn.
    Tại sao anh và Wayne Karlin quyết định lựa chọn 45 tác giả, mà không phải nhiều hơn hoặc ít hơn? Anh có chắc mình không bỏ sót tác phẩm hay và nó thực sự xứng đáng "không còn từ nào khác ngoài chữ hoành tráng để nói về cuốn sách này" như nhận xét của báo chí Mỹ?
    Tôi đã tóm tắt truyện ngắn của hơn 80 tác giả để NXB lựa chọn và họ đã dừng lại con số 45. Thực sự là tôi không hài lòng, giá mà giới thiệu được ít nhất 100 tác giả thì tuyệt vời. Nhưng nhà xuất bản là người quyết định cuối cùng. Và dù có giới thiệu 100 tác giả cũng vẫn thiếu hụt, trong khi ở ta có hàng ngàn người viết truyện ngắn như thế này.
    Còn ở Việt Nam, gần đây nhất, có bài viết về cuốn tuyển tập: thực ra "Love after war" chỉ là một cuốn sách dựa trên quan hệ cá nhân, được một NXB nhỏ ở Boston tổ chức, quy mô phát hành sách không lớn?...
    Có nhiều thời gian ở Mỹ, cũng có nghiên cứu công nghiệp xuất bản và làm việc với nhiều NXB Mỹ, tôi xin cung cấp một số thông tin: hàng ngàn NXB Mỹ đều rất ngại in sách dịch - người Mỹ hầu như thờ ơ với sách dịch và phim nước ngoài có phụ đề. Curbstone là một NXB nhỏ, nhưng thuộc loại có uy tín ở Mỹ, sách của họ thường được chú ý và đánh giá cao trên các tờ báo lớn như Thời báo New York, Thời báo Los Angeles, Biên niên sử San Francisco, Địa cầu Boston... Sách của Curbstone được phát hành trong mạng lưới phát hành toàn nước Mỹ và bán trên mạng amazon.com. Ai cũng có thể vào Internet để hiểu thêm về NXB này.
    Sau khi sách được xếp vào hàng 100 cuốn sách hay ở Mỹ năm 2003, các nhà văn có tác phẩm được chọn đã hưởng chế độ sách và nhuận bút như thế nào? Hay đối với họ, được giới thiệu rộng rãi ra nước ngoài, được khen ngợi... đã là một may mắn?
    Độc giả Mỹ hầu như chưa biết gì về văn học Việt Nam, những cố gắng ban đầu hình như giống việc ra tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi. Nhuận bút cho mỗi truyện trong tuyển tập này là 50 USD. Curbstone là NXB không lợi nhuận (non-profit) tức là hầu như không có lợi nhuận lớn cho NXB và tác giả. Không lợi nhuận khiến NXB không phải đóng thuế thu nhập nhưng để đáp lại, NXB phải làm nghĩa vụ văn hóa với đất nước: lợi nhuận của 5.000 bản tuyển tập phải được dùng để in nối bản cuốn sách đó hàng năm, đem tặng cho các thư viện, trường học, các cơ sở văn hóa toàn quốc... Người phiên dịch cho một đoàn nhà văn, nhà báo VN thăm Mỹ gần đây đã dịch sai số lượng ấn bản là 1.000. Thực ra các NXB đều thăm dò sức mua rất lâu trước khi in và nếu chỉ đạt số lượng dưới 5.000 bản thì họ sẽ từ chối bản thảo. Chỉ có NXB của các trường đại học mới "dám" in chỉ 1.000 bản mà thôi.
    Anh nói gì khi có ý kiến: những bài viết về cuốn sách chỉ là lời "tung hô" của các nhà văn, nhà báo Mỹ mà những nhà văn VN chưa từng nghe thấy tên?...
    Nhà văn ta có thông tin gì về văn học đương đại Mỹ, châu Âu và nhiều nước khác trong vài chục năm qua? Nhiều tên tuổi lừng lẫy bên ấy chỉ khiến độc giả ta tưởng là cây bút mới xuất hiện mà thôi. Những người khen tuyển tập này như Robert Olen Butler, Gloria Emerson đều là nhà văn kỳ cựu hàng đầu, đều đoạt Giải thưởng Sách Quốc gia Mỹ. Những tờ báo in bài của họ là Thời báo New York, Biên niên sử San Francisco... Có thể lời lẽ của họ quá nồng nhiệt, nhưng liệu có thể nghĩ rằng họ nhận định sai về văn học ta?
    "Tuyển tập có thể dễ dàng sánh với những bậc thầy truyện ngắn được khuếch trương nhiều của Mỹ", "tuyển tập văn xuôi sinh động của những tác giả mà tác phẩm sánh với những gì hay nhất của văn chương thế giới"... Với những nhận xét của hai tờ báo Mỹ, các nhà văn ta có thể tự hào vì mình cũng đứng ngang hàng "top" của thế giới? Và anh nghĩ gì khi nhà văn Ngô Tự Lập khẳng định "truyện ngắn VN không thể sánh ngang hàng thế giới", hay nhà thơ Hoàng Hưng thì thẳng thắn "chúng ta chưa có gì để có thể nói là ngang hàng"...?
    Văn xuôi ta có thành tựu nhất định về truyện ngắn và tiểu thuyết ngắn, chủ yếu là ở phương pháp sáng tác cổ điển. Hai tác giả trên cũng có lý, họ đã chỉ nghĩ đến phần non yếu của văn học ta mà nhận định như vậy. Chắc là nếu có đọc tuyển này, họ vẫn sẽ chưa thỏa mãn với những truyện mang màu sắc chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng tôi đã chủ ý đưa những truyện ấy vào để sơ bộ giới thiệu sự tìm tòi với độc giả Mỹ.
    Dự định tiếp theo của anh trong việc tuyển dịch và giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài?
    Tôi là người sáng tác. Làm tuyển tập chỉ vì được mời và sẽ thấy tiếc nếu bỏ mất cơ hội hiếm hoi. Bây giờ tôi phải trở về với trang viết của mình. Mong mỗi nhà văn nếu có cơ hội, xin hãy góp thêm một cố gắng mang tính cá nhân như vậy cho văn học ta.
    Lê Mỹ Ý

    Nguồn: NetNam
    Ngày đăng: 19/01/2005
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Mong đợi gì hơn?
    Cuối năm 2002, Hồ Anh Thái làm cả thiên hạ bất ngờ, khi từ chối nhận tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam dành cho cuốn Tự sự 265 ngày của anh (Nxb Hội Nhà văn 2001). Trả lời phỏng vấn của tôi trên báo An ninh Thủ đô hồi đầu năm 2003, Hồ Anh Thái đã nói huỵch toẹt theo cách Nam Bộ rằng, anh không muốn miếng bánh giữa làng, dù các cụ xưa từng nói: một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Hồ Anh Thái còn nói rõ: Tôi không từ chối giải thưởng của Hội Nhà văn, tôi chỉ từ chối cách làm việc của Hội đối với các giải thưởng hàng năm. Anh hoàn toàn không tán đồng cách đánh giá của Hội thông qua việc xếp loại A, B, C cho tác phẩm văn chương hàng năm, và cho đó là một lỗi văn hóa, bởi quyền xếp loại và phân ngôi thứ là của người đọc và thời gian, chứ không thuộc quyền hành chính của Hội Nhà văn.
    Mới đây, cũng chính Hồ Anh Thái là người đầu tiên lên tiếng trên báo Lao Ðộng (28.12.2003) và cũng gây sốc thiên hạ, khi được hỏi: Cuốn nào trong năm nay theo anh xứng đáng được nhận giải Hội Nhà văn Việt nam hơn cả, thì chính Hồ Anh Thái đã trả lời rất Hồ Anh Thái rằng: Ngoài mấy cuốn vừa nhắc ở trên (với tư cách tổng thư kí Hội Nhà văn Hà Nội, anh khen giải thưởng văn xuôi của Hội NVHN năm nay đẹp, với tập Cây bút đời người của Vương Trí Nhàn, với hai tập sách dịch bề thế và công phu của Dương Tường (Cái trống thiếc) và Trần Ðình Hiến (Ðàn hương hình), tôi thích Cơn giông của Lê Văn Thảo, và nếu không buộc phải khiêm tốn giả dối thì xin nói thẳng: đó là Cõi người rung chuông tận thế.
    Ngay sau đó, trong cuộc bàn tròn Văn học 2003 nhìn lại của báo Thể thao-Văn hóa số 3, ngày 9.1.2004, Nguyễn Quang Lập lên tiếng ủng hộ: Giải thưởng Hội Nhà văn vừa công bố có cái trao đúng nhưng lại có cái để sót, như cuốn tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái đặt trong tương quan chung và trong đời sống văn học là đáng được giải lắm chứ.
    Nhà văn Ðà Linh, tức Nguyễn Ðức Hùng, Tổng biên tập NXB Ðà Nẵng (nơi xuất bản Cõi người rung chuông tận thế cuối 2002, và ngay sau đó in lần thứ hai vào đầu năm 2003), đã lí giải việc NXB nhất định in cuốn tiểu thuyết này vì hai lẽ: văn viết lạ và viết về công cuộc chống cái ác rất hay. Có lẽ không chỉ ở sự tinh tế ở văn phong, lối biểu đạt độc đáo, nhuần nhuyễn trong cấu tứ; mà chính ở chỗ anh đã cho thấy những giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể và nhân loại
    Ðặc biệt, trong lần tái bản ấy, NXB Ðà Nẵng đã có sáng kiến in thêm phần "Dư luận" vào cuối cuốn sách, gồm những bài viết của các nhà văn, nhà báo về Cõi người rung chuông tận thế.
    Tất cả những thông tin vừa đưa ở trên chứng tỏ rằng, nhà viết tiểu thuyết Hồ Anh Thái đã rất ý thức được cái viết của mình, biểu lộ trong việc tìm tòi thi pháp mới trong cuốn tiểu thuyết này, và thậm chí có thể tiên liệu được giá trị văn chương của nó đối với bạn đọc. Chỉ những cây bút có ý thức nghề nghiệp rất cao mới có thể như vậy. Và trong cuộc tiếp xúc với cuốn tiểu thuyết, quả là người đọc Việt Nam hiện đại đã bị hấp dẫn bởi Cõi người rung chuông tận thế.
    Vì thế, Hồ Anh Thái có quyền tự đề cử cuốn tiểu thuyết của mình. Tại sao không? Khi có một sự tương phản đặc biệt và nổi bật đến thế trong Cõi người rung chuông tận thế? Tương phản giữa một bên là sự không dày dặn gì về số trang với một bên là sự đa thanh đáng ngạc nhiên trong giọng điệu tiểu thuyết của một nhà văn từng trải, bắt đầu dày dạn, phong phú đầy biến điệu trong cách viết.
    Cuộc gây hấn của Hồ Anh Thái trong Cõi người rung chuông tận thế thực sự đã đạt kết quả hơn nhà văn mong đợi. Gióng lên một hồi chuông đa thanh trầm bổng, nhặt khoan, nhà văn cảnh tỉnh người đọc về cái ác và có lẽ còn muốn nhắn nhủ thêm rằng, tránh xa cái ác, chỉ còn cách neo tựa vào cái Ðẹp.
    Và với một cuốn tiểu thuyết như thế, dù Hội Nhà văn có bỏ qua, không trao giải thưởng năm 2003, nhưng tôi thiết nghĩ, thời gian và bạn đọc đã bỏ phiếu thuận, Hồ Anh Thái lại tự biết thế nào là được, là đủ, là phẩm giá riêng trong chính văn chương tiểu thuyết của mình thì đó chẳng phải là hạnh phúc cao nhất của cái viết đấy sao? Vậy còn có thể mong đợi gì hơn?
    Nguyễn Thị Minh Thái

  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Mong đợi gì hơn?
    Cuối năm 2002, Hồ Anh Thái làm cả thiên hạ bất ngờ, khi từ chối nhận tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam dành cho cuốn Tự sự 265 ngày của anh (Nxb Hội Nhà văn 2001). Trả lời phỏng vấn của tôi trên báo An ninh Thủ đô hồi đầu năm 2003, Hồ Anh Thái đã nói huỵch toẹt theo cách Nam Bộ rằng, anh không muốn miếng bánh giữa làng, dù các cụ xưa từng nói: một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Hồ Anh Thái còn nói rõ: Tôi không từ chối giải thưởng của Hội Nhà văn, tôi chỉ từ chối cách làm việc của Hội đối với các giải thưởng hàng năm. Anh hoàn toàn không tán đồng cách đánh giá của Hội thông qua việc xếp loại A, B, C cho tác phẩm văn chương hàng năm, và cho đó là một lỗi văn hóa, bởi quyền xếp loại và phân ngôi thứ là của người đọc và thời gian, chứ không thuộc quyền hành chính của Hội Nhà văn.
    Mới đây, cũng chính Hồ Anh Thái là người đầu tiên lên tiếng trên báo Lao Ðộng (28.12.2003) và cũng gây sốc thiên hạ, khi được hỏi: Cuốn nào trong năm nay theo anh xứng đáng được nhận giải Hội Nhà văn Việt nam hơn cả, thì chính Hồ Anh Thái đã trả lời rất Hồ Anh Thái rằng: Ngoài mấy cuốn vừa nhắc ở trên (với tư cách tổng thư kí Hội Nhà văn Hà Nội, anh khen giải thưởng văn xuôi của Hội NVHN năm nay đẹp, với tập Cây bút đời người của Vương Trí Nhàn, với hai tập sách dịch bề thế và công phu của Dương Tường (Cái trống thiếc) và Trần Ðình Hiến (Ðàn hương hình), tôi thích Cơn giông của Lê Văn Thảo, và nếu không buộc phải khiêm tốn giả dối thì xin nói thẳng: đó là Cõi người rung chuông tận thế.
    Ngay sau đó, trong cuộc bàn tròn Văn học 2003 nhìn lại của báo Thể thao-Văn hóa số 3, ngày 9.1.2004, Nguyễn Quang Lập lên tiếng ủng hộ: Giải thưởng Hội Nhà văn vừa công bố có cái trao đúng nhưng lại có cái để sót, như cuốn tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái đặt trong tương quan chung và trong đời sống văn học là đáng được giải lắm chứ.
    Nhà văn Ðà Linh, tức Nguyễn Ðức Hùng, Tổng biên tập NXB Ðà Nẵng (nơi xuất bản Cõi người rung chuông tận thế cuối 2002, và ngay sau đó in lần thứ hai vào đầu năm 2003), đã lí giải việc NXB nhất định in cuốn tiểu thuyết này vì hai lẽ: văn viết lạ và viết về công cuộc chống cái ác rất hay. Có lẽ không chỉ ở sự tinh tế ở văn phong, lối biểu đạt độc đáo, nhuần nhuyễn trong cấu tứ; mà chính ở chỗ anh đã cho thấy những giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể và nhân loại
    Ðặc biệt, trong lần tái bản ấy, NXB Ðà Nẵng đã có sáng kiến in thêm phần "Dư luận" vào cuối cuốn sách, gồm những bài viết của các nhà văn, nhà báo về Cõi người rung chuông tận thế.
    Tất cả những thông tin vừa đưa ở trên chứng tỏ rằng, nhà viết tiểu thuyết Hồ Anh Thái đã rất ý thức được cái viết của mình, biểu lộ trong việc tìm tòi thi pháp mới trong cuốn tiểu thuyết này, và thậm chí có thể tiên liệu được giá trị văn chương của nó đối với bạn đọc. Chỉ những cây bút có ý thức nghề nghiệp rất cao mới có thể như vậy. Và trong cuộc tiếp xúc với cuốn tiểu thuyết, quả là người đọc Việt Nam hiện đại đã bị hấp dẫn bởi Cõi người rung chuông tận thế.
    Vì thế, Hồ Anh Thái có quyền tự đề cử cuốn tiểu thuyết của mình. Tại sao không? Khi có một sự tương phản đặc biệt và nổi bật đến thế trong Cõi người rung chuông tận thế? Tương phản giữa một bên là sự không dày dặn gì về số trang với một bên là sự đa thanh đáng ngạc nhiên trong giọng điệu tiểu thuyết của một nhà văn từng trải, bắt đầu dày dạn, phong phú đầy biến điệu trong cách viết.
    Cuộc gây hấn của Hồ Anh Thái trong Cõi người rung chuông tận thế thực sự đã đạt kết quả hơn nhà văn mong đợi. Gióng lên một hồi chuông đa thanh trầm bổng, nhặt khoan, nhà văn cảnh tỉnh người đọc về cái ác và có lẽ còn muốn nhắn nhủ thêm rằng, tránh xa cái ác, chỉ còn cách neo tựa vào cái Ðẹp.
    Và với một cuốn tiểu thuyết như thế, dù Hội Nhà văn có bỏ qua, không trao giải thưởng năm 2003, nhưng tôi thiết nghĩ, thời gian và bạn đọc đã bỏ phiếu thuận, Hồ Anh Thái lại tự biết thế nào là được, là đủ, là phẩm giá riêng trong chính văn chương tiểu thuyết của mình thì đó chẳng phải là hạnh phúc cao nhất của cái viết đấy sao? Vậy còn có thể mong đợi gì hơn?
    Nguyễn Thị Minh Thái

  10. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Lâu lâu lôi cái topic này lên 1 cái. HAT đúng là 1 nhà văn đàn anh nhưng luôn là người nâng đỡ các tài năng văn học trẻ. Tớ khá tín nhiệm ý kiến đánh giá của HAT khi tìm đọc các nhà văn trẻ mới xuất hiện.
    Gõ cửa văn học trẻ-Văn học hôm nay: Trẻ trung đâu cần mỹ phẩm
    HỒ ANH THÁI
    (Tổng thư ký Hội Nhà văn TP Hà Nội)
    Bản thân tuổi trẻ đã là cái đẹp. Không có người trẻ xấu, chỉ có người trẻ vô duyên thành ra xấu mà thôi. Đôi khi chỉ vì không tự ý thức được, không tự tin mà ?ochấm phá? vào đôi ba nét mỹ viện, ?oquệt? vào mấy lớp son phấn. Mỹ viện và son phấn cũng không làm người đẹp xấu đi. Chỉ bị giảm sút dung nhan tự nhiên, chỉ tại vì không tự ý thức, không tự tin.
    Ta đang nói chuyện dung nhan và tâm hồn của văn học. Trẻ là tài sản tự có, là ưu điểm bậc nhất, nhưng lúc nào cũng hô lên là mình trẻ, lúc nào cũng giơ cái thẻ trẻ ra, hỏi có cần thiết? Đấy: nhạc trẻ. Xin hãy lắng cho kỹ hai âm tiết này, chữ "trẻ" nghe thật sến, dường như chỉ để dán nhãn cho cái một thời gọi là nhạc nhẹ, nhạc pop bình dân. Rồi... thơ trẻ. Rồi... văn trẻ. Mọi ưu điểm được hét to lên, được nống lên, được cường điệu, dễ trở thành nhược điểm ngay lập tức.
    Ỷ mình trẻ, xưng xưng ra miệng, kiêu căng ngạo mạn, có phải ngầm ý có văn trẻ tức là có văn già? Trẻ là ưu điểm tự nhiên thì phải hiểu già cũng là nhược điểm tự nhiên? Một nhà văn cao tuổi tâm sự: ?oMỗi lần buộc phải xuất hiện trên diễn đàn, tôi lại thấy tuổi già của mình là nhược điểm không thể sửa chữa được?. Nghĩ như vậy có phải là cực đoan trước những giá trị và kinh nghiệm của người cao tuổi? Nhưng nghĩ như vậy cũng có điều chia sẻ được: trong văn chương, sự trẻ trung là nét đẹp không cần thêm mỹ phẩm.
    Thế mà nhiều cây bút trẻ hôm nay vẫn lạm dụng mỹ phẩm. Tự dán tem trẻ cho mình, ồn ào tự đóng dấu trẻ bằng những tuyên bố về già - trẻ, mới - cũ, cấp tiến - bảo thủ... Có khi cái lá cờ ?osến? kia là do một người không còn trẻ thêu dệt lên, hô hào tập hợp một đội ngũ để mình có dịp cầm cờ đi đầu? Một thiếu nữ đi đến đâu cũng xưng rằng mình trẻ, mình mới, mình cấp tiến, mình cách tân. Không có gì đáng trách. Chỉ hơi thừa. Mấy năm nữa ngồi nghĩ lại, thiếu nữ ấy sẽ hơi xấu hổ vì những gì đã tuyên ngôn, có điều xấu hổ vào cái tuổi đã sồn sồn ấy lại cũng hơi... thừa.
    Vậy nên có lẽ cũng phải học cách tự tin rằng bất kể ta viết về cái gì, ta viết như thế nào thì độc giả sành vẫn nhận ra những trang viết của người trẻ. Theo lập luận này thì Nguyễn Ngọc Thuần và Nguyễn Ngọc Tư tự tin bậc nhất.
    Một người mê mải với những vấn đề của người già, nhân vật hầu hết là người già, những mối tình già đến tận hơi thở cuối... Nhưng sự cảm thông chia sẻ của Nguyễn Ngọc Tư rõ ràng là của lớp người đương đại. Cách dẫn chuyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác, một tay nghề chững chạc và linh hoạt kiểu ấy chỉ có thể là của một cây bút đang tuổi thanh niên.
    Còn Nguyễn Ngọc Thuần lại viết nhiều về thiếu nhi, mở ra một thế giới của Hoàng tử Bé mà lâu nay ít người viết dụng công, cũng ít ai làm được. Nguyễn Ngọc Thuần giỏi tạo ra một không khí văn chương, một văn cảnh mà người đọc tin là hồn nhiên trong trẻo, có như thế người ta mới tin mà theo anh vào hẳn trong cái thế giới của tưởng tượng.
    Nguyễn Ngọc Tư không sợ bị coi là già cỗi khi viết về người già. Nguyễn Ngọc Thuần không sợ bị coi là trẻ con. Đấy là những nhà văn trẻ tự tin và ý thức được thế mạnh của mình.
    Thế hệ đương đại đang có nhiều người viết hay. Điều đó hàm ý số người viết dở còn nhiều hơn nữa. Một ít cái hay-dở có thể thẩm định được ngay, còn phần nhiều phải (nói một cách công thức) chờ thời gian và bạn đọc.
    Vấn đề là thời gian nào và bạn đọc nào? Thời gian ấy không hẳn là thời gian lịch sử mà là thời gian của sự phát triển văn học. Bạn đọc ấy cũng không phải là số đông đại trà mà là bạn đọc sành văn chương, đồng hành với văn chương, có đóng góp vào tiến trình sáng tạo văn chương.
    Với bạn đọc này, Phan Huyền Thư và Vi Thùy Linh là những gương mặt đáng kể của thơ hôm nay, ví dụ thế. Phan Huyền Thư kiệm lời, dồn nén, chắt lắng. Vi Thùy Linh bung ra hết cỡ, ồn ào, nhiều khi trút hết, quá thật thà.
    Với một loại độc giả ngập ngừng hơn, Phan Huyền Thư hơi khô cằn và "cụ non", trong khi Vi Thùy Linh nhiều lời và ?otrẻ con?. Với một loại độc giả hoài nghi thì cả hai nhà thơ này đều mới vỡ giọng, đang bi bô những câu ngộ nghĩnh với mình mà loài người đã nói sõi từ lâu, thơ ca Âu - Mỹ đã làm từ lâu và nhan nhản đến tận bây giờ...
    Nhưng họ là những nhà thơ có cá tính, có cả tay nghề, hẹp hòi gì ta không để cho họ lên tiếng? Xin cứ cho nó hiện diện, đừng chủ quan rằng anh không thích thì mọi người cũng không thích. Văn chương nào cũng có bạn đọc riêng của nó. Mà giả sử không có ai cắm bình thứ hoa ấy thì chúng vẫn là hoa dại trên đồng nội, có chỗ đứng của mình giữa trời đất.
    Nếu mai đây nhiều cây bút trẻ sa sút, thậm chí không viết được nữa, thì ít ra hôm nay họ đã cắm được ngọn cờ của mình trên một đỉnh dốc. Còn nhiều đỉnh cao khác cần chinh phục sẽ có lớp người khác cầm cờ tiếp nối xông lên. Hành trình văn chương thời nào cũng để lại bên đường nhiều di hài tuẫn nạn. Không vì họ một mai không tới được đỉnh Phanxipăng, đỉnh Everest mà hôm nay mắng mỏ thị phi để rồi hả hê: ?oĐã bảo mà!?.
    Tôi không thấy văn chương của họ loanh quanh vụn vặt như một số người đọc lướt. Những gì tưởng như là quẩn quanh, đơn giản, bình thường của họ hàm chứa không khí một thời đại, tâm thế tâm trạng một thời đại. Thời đại họ đang sống. Biết đâu nửa thế kỷ nữa người ta sẽ đọc họ và hình dung ra thời đại ta đang sống hôm nay? Phải là thứ văn nào mới mang đến được sự hình dung ấy. Sao lại coi là nhỏ bé được? (Nếu được nhiều chữ hơn, tôi sẵn sàng chép lại nhiều trang chỉ những cái tên tác giả tôi yêu mến và trân trọng).
    Ở trên trót nói người trẻ không cần mỹ phẩm, nghe quyết liệt quá, vậy mỹ phẩm dùng để làm gì? Trong văn chương, sự tự tô son điểm phấn, sự đi giày cao gót kiễng chân cho bằng người lớn theo kiểu già non chín ép, sự không dám đứng cùng thiếu nhi sợ bị đánh đồng với trẻ con... vẫn được dùng nhiều, chẳng lo gì mỹ phẩm bị ế. Chỉ rất ít người bứt hẳn ra vượt hẳn lên mới chẳng cần đến nó mà thôi.

Chia sẻ trang này