1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Tóm lại cho tới nay vòng thành trong của kinh thành Thăng Long thời Lý, hay nói cách khác là vòng thành đắp vào thời Lý, dù đã mất nhiều công sức tìm tòi, vẫn chưa thấy rõ dấu vết. Mọi điều bàn bạc về hình dáng của nó đều vẫn chỉ là ước đoán. Về phần mình, tán thành ý kiến của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán, chúng tôi nghĩ rằng chỉ nên tìm dấu tích của Thăng Long thời Lý ở khu vực kinh thành thời Trần, Lê về sau.
    Cho dù chưa tìm thấy vòng thành trong của kinh thành Thăng Long thời Lý, do đó chưa thể có một bản vẽ mặt bằng có thể chấp nhận được về Thăng Long thời Lý, chúng ta vẫn có thể, bằng những tư liệu đã nói trên, nói được phần nào về cấu trúc của tòa thành này.
    Thành gồm có hai vòng thành bao bọc lấy nhau. Vòng thành ngoài chính là La Thành của Cao Biền. Dấu vết La Thành ngày nay vẫn còn khá rõ. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng La Thành mặt phía đông cũng là đê sông Hồng lên tới Hồ Tây, tiếp là đoạn đường Hoàng Hoa Thám, rồi chạy dọc tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy, qua Giảng Võ đến Ô Chợ Dừa, Kim Liên, đường Đại Cồ Việt và đường Trần Khát Chân cho đến Ô Đống Mác rồi lại gặp đê sông Hồng.
    La Thành là vòng tường thành khép kín, cơ bản là dựa theo địa thế tự nhiên mà xây đắp. Thời Lý, ngay từ đầu dời đô ra Thăng Long đã lợi dụng ngay toàn bộ vòng thành này làm vòng thành ngoài. La Thành được bồi đắp, sửa chữa trong suốt quá trình đóng đô tại đây của triều Lý.
    Vòng thành này đắp bằng đất, phía ngoài có lợi dụng sông Hồng, sông Tô Lịch và nhiều đầm hồ làm hào tự nhiên [16].
    Những cửa thành tuy không còn tư liệu gì nói tới, song có thể nghĩ rằng đó chỉ là những đoạn khuyết của tường thành mà không có xây cửa hay lầu cửa (vọng lâu) như những tòa thành các đời sau. Tất nhiên ở mỗi cửa này phải có nơi đóng quân canh gác.
    Vòng thành trong [17] được xây đắp hoàn toàn mới, kể từ khi Lý Thái Tổ dời đô hồi tháng 7 năm 1010. Vòng thành bao quanh một loạt cung điện mới dựng. Thành đắp bằng đất, có đào hào ngoài, mở bốn cửa Tường Phù, Quảng Phúc, Đại Hưng và Diệu Đức ở bốn mặt đông, tây, nam, bắc. Hiện không còn dấu vết nào để có thể khẳng định rằng bốn cửa thành xây dựng ra sao, song cứ lý mà suy thì vòng thành trong là công sự trực tiếp bảo vệ các cơ quan đầu não của Nhà nước cùng họ hàng nhà vua nên cửa ra vào tất phải có đóng mở nghiêm ngặt, cửa thành chắc phải được xây dựng kiên cố và ít nhất ở cửa chính (cửa Tiền) phải có dựng vọng lâu uy nghi đẹp đẽ.
    Phạm vi của vòng thành thứ hai, cho tới nay vẫn chưa có ý kiến khẳng định, tuy vậy có thể đoán rằng phạm vi tất không nhỏ, bởi vì vòng thành đó phải bao bọc hàng trăm kiến trúc cung điện, lầu gác, chùa tháp xây dựng liên tiếp suốt cả thời Lý [18].
    Hai vòng thành ngoài và trong đã nói trên đây cho dù xây dựng trước sau khác nhau nhưng được các vua nhà Lý tiếp nhận vào đồ án kiến trúc chung của kinh thành triều đại mình.
    Một bình đồ kiến trúc gồm hai vòng thành bao bọc lẫn nhau lần đầu tiên xuất hiện trong kiến trúc thành Việt Nam. Hai vòng thành này, cứ theo sử cũ, mang tên gọi khác nhau. Vòng ngoài gọi là Đại La thành với hàm nghĩa là vòng thành lớn bao xung quanh Cung thành.
    Vòng thành trong được gọi là Cung thành (theo Đại Việt sử ký toàn thư) với ý nghĩa là một tường thành bao quanh cả khu vực các cung điện nhà vua mới xây dựng từ khi dời kinh đô tới. Cung thành ở đây chưa mang ý nghĩa là Hoàng thành hay Tử cấm thành như những thành xuất hiện thời sau nữa. Một chứng cứ sinh động là năm 1012, nhà vua đã "sách phong Hoàng thái tử. Phật Mã làm Khai Thiên Vương, làm cung Long Đức ở ngoài thành cho ở, có ý muốn cho biết việc dân gian" [19].
    Nói tóm lại bình đồ kiến trúc đầu tiên của kinh thành Thăng Long thời Lý có tiến bộ hơn so với thành Hoa Lư. Hai lớp vòng thành bao bọc lẫn nhau tăng cường sức kiên cố và thế hiểm trở cho công trình. Hai lớp vòng thành cũng có ý nghĩa phân biệt rõ ràng thêm một bước trật tự phong kiến giữa các cư dân trong thành, tuy nhiên cũng phải thấy trật tự phong kiến lúc này vẫn chưa thành luật lệ quá phiền phức và hà khắc.
    Đời vua Lý Thái Tông, năm 1029, một sự kiện mới xuất hiện đáng để cho ta chú ý về bình đồ kiến trúc của kinh thành Thăng Long.
    Sử chép: "Tháng 6, rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên. Vua bảo các quan hầu rằng: "Trẫm phá điện ấy [20], san phẳng nền rồi, mà rồng thần còn hiện, hay là chỗ ấy là đất tốt đức lớn dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng?". Bèn sai quan theo quy mô rộng lớn, nhằm lại phương hướng, làm lại mà đổi tên làm điện Thiên An. Bên tả làm điện Tuyên Đức, bên hữu làm điện Diên Phúc thềm trước điện gọi là thềm Rồng (Long Tri); bên đông thềm Rồng đặt điện Văn Minh, bên tây đặt điện Quảng Vũ; hai bên tả hữu thềm Rồng đặt lầu chuông đối nhau để nhân dân ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên; bốn xung quanh thềm Rồng đều có hành lang giải vũ để các quan hội họp và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi giữ giờ khắc; phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi chơi ngắm. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành" [21].
    Long Thành là một vòng tường thành nhỏ chỉ bao bọc quanh một khu vực mới xây gồm điện Thiên An, nơi làm việc chính của nhà vua và triều đình, và mấy điện khác như điện Tuyên Đức, Diên Phúc, Văn Minh, Quảng Vũ, Phụng Thiên và Trường Xuân. Điện Trường Xuân cũng là nơi ở, bên trên có xây gác Long Đồ để nhà vua nghỉ ngơi chơi ngắm. Đây cũng là nơi vua Lý Thái Tông băng vào năm 1054.
    Vòng tường thành này rõ ràng là vòng tường thành trong cùng, vòng tường thành thứ ba lọt trong phạm vi của vòng tường thứ hai đắp năm 1010, và chỉ bảo vệ riêng nơi ở và làm việc của nhà vua. Người ta có thể tin vào lý do đó mà coi vòng tường này là Cấm Thành, là Tử Cấm Thành. Thực ra khái niệm Tử Cấm Thành chưa có vào thời này. Sử đã chép rõ nơi này, theo suy nghĩ của nhà vua "là đất tốt đức lớn dấy nghiệp ở chính giữa trời đất" nên được xây dựng làm trung tâm hành chính quốc gia và được đắp thành bao quanh, phần để bảo vệ, phần để giữ vẻ tôn nghiêm vô thượng. Tên đặt Long Thành cũng phần nào chứng minh điều đó.
    Có thể dự đoán không sai rằng vòng tường Long Thành xây dựng không to cao lắm, không có hào ngoài, cửa thành không có lầu bởi vì công trình chỉ mang tính chất nửa quân sự.
    Nếu tính Long Thành là một vòng tường thành thì kinh thành Thăng Long thời Lý gồm ba vòng tường thành bao bọc lẫn nhau. Như vậy kiểu kiến trúc "tam trùng thành quách" đã xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thời Lý, có sớm hơn cả ở Trung Quốc. Chúng tôi không nghỉ như vậy bởi vì không coi Long Thành là kiến trúc hoàn toàn quân sự. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng Long Thành là tiền đề cho một vòng thành thứ ba mang đầy đủ tính chất quân sự trong bình đồ kiến trúc của các kinh thành những thời sau.
  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    B. Thành Thăng Long thời Trần
    Cuộc thay triều đổi đại từ triều Lý sang triều Trần đã diễn ra ở kinh đô Thăng Long bằng màn kịch nhường ngôi của vị nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) vào năm 1225.
    Cuộc đảo chính êm ả đó làm cho kinh đô của đất nước hầu như không bị xáo động. Ngay cả cái tên kinh đô: Thăng Long, cũng tồn tại nguyên vẹn; cho mãi tới cuối triều Trần, khi mà Hồ Quý Ly cho xây dựng thành Tây Đô để chuẩn bị cướp ngôi nhà Trần, kinh thành Thăng Long mới được gọi thêm tên mới là Đông Đô nhằm phân biệt với Tây Đô.
    Nhà Trần tiếp thu toàn bộ mọi tài sản của kinh đô nhà Lý rồi tiếp tục tu bổ xây dựng theo yêu cầu mới.
    Vòng thành Đại La có lúc mở rộng thêm [22], có hồi dựng thêm rào trại củng cố việc phòng thủ chung cho cả kinh thành [23]. Tuy nhiên về cơ bản vòng thành này vẫn không có gì thay đổi về cả hình dáng, kỹ thuật kiến trúc lẫn chức năng của nó.
    Đáng chú ý có vòng thành trong cùng được đắp từ thời Lý gọi là Long Thành. Ơở thời Lý, Long Thành mới được đắp như một vòng tường bao quanh một số cung điện nơi vua ở và làm việc.
    Tới thời Trần, vòng thành này được đắp thêm kiên cố và có đặt quân canh gác nghiêm mật. Vòng thành đã mang hoàn toàn tính chất quân sự và trở thành vòng tường thứ ba của công trình kiến trúc quân sự Thăng Long.
    Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết "Quý mão (1243)... Tháng 2 đắp thành bên trong gọi là thành Long Phượng" [24]. Thành Long Phượng cũng chính là Long Thành thời Lý. Có chỗ sử chép khác gọi là Phượng Thành, nhưng cũng chỉ là vòng thành trong cùng của ba vòng thành của kinh đô. Quân Tứ Sương canh giữ bốn cửa thành và quản cả số tội đồ vào làm việc dọn ở Phượng Thành.
    Cung điện trong thành được dựng thêm không ít. Ngay từ đời Trần Thái Tông đã xây thêm cung điện mới. Đại Việt sử ký toàn thư chép "Canh dần (1230)... Trong thành dựng cung điện, lầu gác và nhà lang vũ đông tây, bên tả là cung Thánh Từ (nơi Hoàng thượng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi vua ở)". Tiếp tục những đời sau xây thêm khá nhiều. Đường sá phố phường có nhiều đổi thay.
    Những lần chiến tranh, kẻ thù vào cướp phá Thăng Long ví như lần quân Chiêm Thành vào Thăng Long ngày 27 tháng 3 nhuận năm Tân Hợi (1371) đã "đốt phá cung điện cướp lấy con gái, ngọc lụa đem về", "giặc đốt cung điện, đồ thư trụi cả", khiến cho "Trong nước từ đấy sinh ra nhiều chuyện". Bộ mặt Thăng Long đổi thay to lớn, vẻ uy nghiêm, tráng lệ, sầm uất mất hẳn. Song những vòng thành, những dải hào ngoài thì, dù cũng có bị tàn phá phần nào, vẫn giữ được dáng vẻ cũ, vẫn hoàn toàn có thể sử dụng lại được.

    (1) Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán: Bàn thêm về thành Thăng Long đời Lý - Trần. Nghiên cứu Lịch sử, số 85, tháng 4-1966, tr. 35.
    (2) Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán viết: "An Nam La Thành cao 22 thước (x 31cm = 6,82 mét). Thành có 3 cửa, trên có lầu. Cửa Đông và cửa Tây có lầu ba gian, cửa Nam (là cửa chính) có lầu năm gian. Trong thành có 10 cung, hai bên tả hữu đại sảnh dựng lều giáp trượng 40 gian để chứa vũ khí. Đây là cái thành đầu tiên có quy mô tương đối lớn (Xem Nghiên cứu Lịch sử, số 85, tháng 4-1966, tr. 35).
    (3) Sách Tư trị thông giám chép: "La thành của Cao Biền đắp chu vi là 3.000 bộ (6 x 31cm = 5,580km) trong đó đựng 40 vạn gian nhà". Việt sử lược chép: "Biền đắp lại La Thành chu vi 1.980 trượng 5 thước (=6,139km), cao 2 trượng 6 thước (=8,06 mét), chân thành rộng 2 trượng 6 thước (=8,06m), bốn mặt xây nữ tường (tường nhỏ xây trên tường lớn) cao 5 thước 5 tấc (=1,70 mét) 55 lầu vọng dịch (vọng gác) 5 môn lầu (lầu xây trên cửa thành), 6 củng môn (cửa tò vò, cửa nách), đào 3 ngòi nước, đắp 34 con đường, lại đắp đê chu vi 2.125 trượng 8 thước (=6,589 km), cao trượng 5 thước (4 = 4,65 mét), chân đê rộng 3 trượng (=9,30 mét), lại dựng hơn 5.000 gian nhà". Theo Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán, Nghiên cứu Lịch sử: Đã dẫn tr. 37 - 38.
    (4) Trần Huy Bá. Thử bàn về vị trí thành Thăng Long đời Lý. Nghiên cứu Lịch sử, số 6, tháng 8-1959, tr. 77-81.
    (5) Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán: Đã dẫn, Nghiên cứu Lịch sử, số 86, tháng 4-1966, tr. 35-45. Đoạn chép về thời Lê Tháng Tông, năm 1480 "Tháng 11 đắp rộng thêm Phượng thành, nhân theo quy chế của nhà Lý, nhà Trần..." trong Đại Việt sử ký toàn thư, T. III, tr. 307, đã tỏ ra ủng hộ ý kiến này, chứng minh rằng Phượng thành thời Lê là Phượng thành thời Lý - Trần có đắp rộng thêm.
    (6) Trần Huy Bá: Bàn thêm về nội thành Thăng Long ở triều Lý - Trần - Lê. Nghiên cứu Lịch sử, số 51, tháng 10-1966, tr. 63.
    (7) Yý này còn được chép rõ trong đoạn: "Mùa thu, tháng 7 (1010) vua dời kinh đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của Kinh phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế đổi gọi là thành Thăng Long". Đại việt sử ký toàn thư: Đã dẫn, tr. 191.
    (8) (9) (10) (19) (21) (24) Đại Việt sử ký toàn thư: Đã dẫn, tr. 191 - 195 - 198.
    (11) Hiện vật này được bày tại Viện Bảo tàng lịch sử, sổ kiểm kê nhập kho là 61.3512.
    (12) Hiện vật này được bày tại Viện Bảo tàng lịch sử, sổ kiểm kê là D.121-53.
    (13) Trần Huy Bá: Thử ban về vị trí thành Thăng Long đời Lý. Nghiên cứu Lịch sử, số 6-1859, tr. 79.
    (14) Đào Đình Tửu: Giếng thời Trần ở Tức Mặc (Nam Hà). Khảo cổ học, số 5 - 6, 1970, tr. 89 - 92.
    (15) Phạm Quốc Quân: Khảo cổ học Quần Ngựa và vấn đề hoàng thành Thăng Long, Nội san Viện Bảo tàng Lịch sử, số 1, tháng 12-1979, tr. 46.
    (16) Sách Việt sử lược có đoạn chép: "Năm Âất dậu (1165)... Vua xuống chiếu dời Đại La Thành ở cửa Triềi Đông lùi vào 75 thước, xây bằng gạch đá để tránh nước sông vô lở". Chúng tôi không có ý định sử dụng tư liệu trong Việt sử lược, tuy nhiên cũng trích đoạn này để bình luận và chứng minh rằng: dù có đoạn ghi chép này, ta vẫn có thể nghĩ vòng thành Đại La là vòng thành đắp bằng đất. Đoạn tường thành xây bằng gạch đá trên đây được làm với mục đích chống sói lở vì nước sông chứ không hề gia cố chỉ vì mục đích phòng vệ quân sự.
    (17) Trần Huy Bá còn gọi là Nội thành, Cấm thành, Long thành trong bài viết của mình trên Nghiên cứu Lịch sử, số 91, tháng 10 năm 1966, tr. 58.
    (18) Chúng tôi chỉ căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư thống kê sơ lược những kiến trúc cung, điện, lầu, gác, chùa tháp đã thấy có 16 cung, 39 điện 2 lầu, 7 gác, 10 chùa.
    (20) Điện Càn Nguyên xây dựng năm 1010, năm 1017 bị sét đánh hỏng và đã bị san phẳng coi như hủy bỏ.
    (22) Đại Việt sử ký toàn thư, T. II, tr. 11, chép: "Canh dần (1230)... Hoặc có làm ruộng thêm phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành thì quân Tứ Sương thay phiên nhau canh giữ".
    (23) Đại Việt sử ký toàn thư, T. II, tr. 195 - 196 chép: "Quý hợi (1383)... Mùa hạ, tháng 6, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga... đem quân đi bộ, theo chân vua ra trấn Quảng Oai, do đường đền đóng ở sách Khổng Mục, kinh sư kinh động... Nguyễn Đa Phương dốc quân dựng rào trại ở kinh thành, ngày đêm canh giữ"
    .
  3. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Cổng thành xưa - phía đường Nguyễn Tri Phương
    [​IMG]
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 10:53 ngày 19/08/2006
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 08:35 ngày 21/08/2006
  4. likemoon

    likemoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    659
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa nguyên thuỷ có mấy vòng?

    [​IMG]
    Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài. Thế nhưng đâu là thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng? Các nhà sử học vẫn chưa thống nhất ý kiến. Giáo sư Đỗ Văn Ninh cho rằng Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng.
    Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?
    Năm 257 trước Công nguyên, nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Theo cấu trúc còn lại hiện nay, Loa thành gồm có:
    Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành này có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không có hào vì con sông Hoàng chảy qua đây. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.
    Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
    Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có.
    Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.
    Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?
    Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành) lâu nay vẫn bị nhiều người lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành.
    Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
    Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hoả hồi của Kiển thành được dựng theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Quốc. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Đây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.
    Giáo sư Đỗ Văn Ninh nhận định, cách xây dựng theo kiểu tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường để có tòa thành sắc cạnh là của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. "Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành, mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này", giáo sư Ninh nói.
    Bên trong Kiển thành, các nhà khoa học còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Đây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trình lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.
    Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, nhóm nghiên cứu của giáo sư Ninh đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Đế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.
    Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".
    Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm "vỏ kén", đồng thời đắp Kiển thành làm "con nhộng" của mình.
    Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiết, nhất là khi dự án bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa với nhiều hạng mục lớn đã được Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội trình thành phố phê duyệt.
    Theo Thế giới mới)
  5. likemoon

    likemoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    659
    Đã được thích:
    0
    Di tích thành Cổ Loa sắp... biến mất

    Cổng đền Thượng, nơi thờ vua An Dương Vương. (SGGP)
    Đến nay, sau 10 năm được Chính phủ cũng như thành phố Hà Nội chủ trương cải tạo, tu sửa, tòa thành ốc hiếm có trên thế giới với niên đại từ thế kỷ III trước Công nguyên vẫn đã và đang bị xâm hại khủng khiếp.
    Nguy cơ xóa sổ
    Cổ Loa là một trong những khu di tích khảo cổ lớn nhất hội tụ các giai đoạn lịch sử đồ đá, đồ đồng, sắt. Là thủ đô với hệ thống vòng thành hoàn chỉnh và cổ nhất của Việt Nam. Kiến trúc thành hình xoáy ốc duy nhất trên thế giới với hệ thống sông hào là sự phối hợp hài hòa giữa các mô, con trạch đất, đồng lầy tự nhiên và nhân tạo, có hệ thống các công trình kiến trúc và các làng cổ có giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật lớn. Song giờ đây, cảm nhận về Cổ Loa với nhiều người đến thăm chỉ là những vết tích, đình đền lụn vụn, nằm xen giữa những kiến trúc hiện đại.
    Chung tình trạng với rất nhiều khu di tích khác ở nước ta, thành Cổ Loa hôm nay khác xa so với hình hài một Cổ Loa xưa được thể hiện trên bản đồ hay các tư liệu lịch sử. Mấy năm qua, các cơ quan chức năng của TP Hà Nội đã tiến hành trùng tu một số công trình kiến trúc như Đình Ngự Triều Di Quy, Am Mỵ Châu, Đền An Dương Vương... với sự bề thế, vững chãi; song nó vẫn bị chìm nghỉm trong cơn lốc đô thị hóa ở nơi này.
    [​IMG]

    Một ngõ nhỏ đi lại của người dân ngay trong khu vực trung tâm của di tích Cổ Loa. (SGGP)
    Nếu ở thành ngoại, trên một đoạn tường thành dài từng được coi là một trong những dấu vết khá nguyên vẹn còn sót lại thì giờ đây nó đã được ?ocải tạo?, cắm biển ?ovườn cây du lịch?. Và một điểm nhấn nhức nhối là tòa biệt thự rộng hàng trăm mét vuông đã xây xong phần thô chỉ chờ hoàn thiện chiếm toàn bộ phần chân sườn thành. Dẫn khách thực địa, những điểm được coi là nóng nhất trong việc xâm hại di tích, nhân viên của ban quản lý còn phải rất e dè tránh mặt vì ?osợ có kẻ trả thù?. Hào nước ở phần thành trung cũng nhanh chóng được lấp kín và mọc lên hàng chục ngôi nhà kiên cố, hiện đại.
    Song đau xót nhất phải kể tới phần đồi đất nằm ngay gần UBND xã Cổ Loa, được coi là trung tâm của di tích đang bị các hộ kinh doanh dịch vụ cà phê, giải khát lấn đất từng ngày. Mỗi mét đất đồi được bạt đi lại chèn thêm một kiốt mới... Nếu tình trạng này không thay đổi, chắc chỉ độ vài năm nữa, thành Cổ Loa sẽ bị xóa sổ.
    Bảo tồn: Quá chậm
    Nói về tiến độ bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích quốc gia thành Cổ Loa, ông Nguyễn Văn Quang, Phó chủ tịch UBND huyện Đông Anh, thành viên Ban chỉ đạo xây dựng dự án Cổ Loa, nhận xét: "Chậm!". Còn ông Nguyễn Trọng Tuấn, Chánh Văn phòng của Ban Chỉ đạo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, thì sử dụng hai từ ?oquá chậm!?.
    Từ tháng 9/1994, TP Hà Nội đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành khảo sát hiện trạng di tích, lập dự án quy hoạch di tích thành Cổ Loa. Giữa năm 1995, Hà Nội tiếp tục chỉ đạo lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi cho dự án đầu tư bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích thành Cổ Loa. Những tưởng rằng sau đó, sẽ có những động thái quan trọng thúc đẩy tiến độ bảo tồn khu di tích thành Cổ Loa. Nhưng mọi chuyện lại không hẳn vậy.
    [​IMG]
    Đầu năm 2001, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt quy hoạch tổng thể chi tiết khu di tích thành Cổ Loa lên tới hơn 800 ha, trong khi đó, tại văn bản thông qua của Chính phủ lại chỉ có hơn 400 ha. Chính vì thế, khi TP Hà Nội trình lên Chính phủ Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Cổ Loa thì không được chấp nhận. Từ năm 1999, Hà Nội tiếp tục xây dựng dự án chi tiết và xin ý kiến các cơ quan bộ, ngành liên quan xem xét, thẩm định để sau đó trình Chính phủ phê duyệt, nhưng đến nay, công việc chuẩn bị này vẫn chưa hoàn tất.
    Song song, mấy năm qua, Sở Du lịch Hà Nội cũng đầu tư nâng cấp mấy kilômét đường nhựa dẫn vào di tích và hai bãi đỗ xe, song đến nay việc này vẫn dang dở. Vậy là kể từ khi Chính phủ thông qua Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án bảo tồn, phát huy giá trị di tích thành Cổ Loa và kể từ khi Hà Nội có chủ trương bảo tồn, khai thác thành Cổ Loa, đã 10 năm trôi qua, nhưng tất cả vẫn ?ogiậm chân tại chỗ?.
    (Theo Sài Gòn Giải Phóng)
  6. likemoon

    likemoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    659
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa và chuyện tình Mỵ Châu, Trọng Thủy
    Khu di tích Cổ Loa là một thành trì và một đô thị cổ cách đây hơn hai thiên niên kỷ. Di tích nằm về phía đông bắc Thủ đô Hà Nội, từ trung tâm qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ số 1, đến km 11, qua cầu Đuống, rẽ trái, đi tiếp đến km 18 là nơi có khu di tích.

    Đền Cổ Loa

    [​IMG]
    Khu vực Cổ Loa khá rộng, chiều dài cả ba vòng thành tổng cộng hơn 16km. Về niên đại xây dựng hiện có hai thuyết chính: Năm 257 trước CN hoặc 208 trước CN. Nhiều người chấp nhận niên đại 208 trước CN. Dù sao thì thành Cổ Loa cũng là tạo lập vào khoảng nửa sau thế kỷ III trước CN. Thành này gắn liền với câu chuyện Thục Phán đã nối tiếp Hùng Vương lập nước Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, định đô tại đây. Ông cho xây một thành hình ốc nên sử đời sau gọi là Loa Thành.
    Câu chuyện xây thành đã trở thành huyền thoại. Thành cứ ngày xây đêm lại bị đổ, nên chỉ khi vua được thần Kim Quy giúp diệt tinh Bạch kê (gà trắng) thì thành mới xây xong. Rùa Vàng còn cho Vua Thục một cái móng bảo hãy dùng làm lẫy nỏ. Chiếc nỏ ấy bắn ra mỗi mũi tên làm trăm ngàn kẻ chết. Khi đó Triệu Đà sang xâm lược nước ta và luôn bị thua trước nỏ thần. Triệu Đà liền lập mưu cho con là Trọng Thủy xin làm rể vua Thục. Và y đã lừa lấy mất lẫy thần. Triệu Đà liền dẫn quân sang xâm lược tiếp. An Dương Vương đã phải dìu Mỵ Châu lên ngựa chạy về Nam. Nhưng nghe lời chồng dặn, Mỵ Châu ngây thơ vặt lông ngỗng từ chiếc áo mà nàng đem theo để đánh dấu đường đi nên quân Triệu Đà cứ thế đuổi theo. Đến cửa bể vùng Diễn Châu, Rùa Vàng hiện lên bảo vua rằng: "Kẻ thù ngồi sau lưng đó". Vua chợt tỉnh ngộ, chém chết con gái. Rùa Vàng đón vua xuống thủy cung. Máu Mỵ Châu chảy xuống biến hóa thành ngọc trai, còn Trọng Thủy vì hối hận nên đã gieo mình xuống giếng trong Loa Thành. Ngày nay khách tham quan đến Cổ Loa còn thấy cái giếng quen gọi là "giếng Trọng Thủy". Tục truyền lấy nước giếng này rửa ngọc trai thì ngọc sáng ngời. Phải chăng đây là hình tượng minh oan cho Mỵ Châu. Do đó còn có tên là Giếng Ngọc.

    Cây đa ở Am Mỵ Châu

    [​IMG]
    Ở Cổ Loa hiện nay còn vết tích của ba vòng thành. Thời Bắc thuộc quân Hán đã đóng ở đây. Trong buổi đầu của thời độc lập, vua Ngô Quyền (939 - 944) cũng từng đóng đô ở đây một thời gian và đã có một số thay đổi kiến trúc của khu vực. Dù sao, các di tích qua nhiều thời vẫn còn đấy, mang dấu ấn của quá khứ rất xa xưa.
    Đi từ trong ra ngoài, thoạt tiên là vòng thành trong còn gọi là Thành Nội, hình chữ nhật, có chu vi là 1.650m, được xem là nơi ở của vua. Cung điện không còn nữa. Cái còn lại là vết tích của rãnh đào và cống thoát nước. Cổng chính của Thành Nội ở giữa bức tường thành phía Nam. Từ cổng này nhìn vào, trước kia hẳn có cung điện mà nay gọi là điện Ngự triều di quy. Bao quanh thành là hào sâu và rộng.
    Vòng thành giữa còn gọi là "Thành Trung", bao bọc Thành Nội, chu vi 6500m. Từ cửa Nam của tường thành (chợ Sa ngày nay) vòng về phía đông theo Đầm Cả, qua gò Voi ở phía Bắc, vòng lại phía Nam theo bờ sông Hoàng Giang.
    Vòng thành ngoài hay còn gọi là "Thành Ngoại", có chu vi là 8.000m. Một đoạn dài của sông Hoàng Giang chảy từ Tây Nam đến Đông Nam, tạo thành đoạn hào tự nhiên của Thành Ngoại. Hào nhân tạo nối liền với hào tự nhiên, bao quanh thành từ Đông Bắc đến Đông Nam.
    Nhìn bản đồ, có thể thấy thành được bao quanh bằng những con hào. Phía đông Thành Trung là Đầm Cả, thông với sông Hoàng Giang. Từ đầm này được khơi năm con ngòi để cho nước vào hào Thành Trung và Thành Nội, hình thành một thế phối hợp lợi hại giữa thủy binh và bộ binh: tiến lên, hoặc cố thủ đều thuận lợi.
    Trên ba vòng thành, đặc biệt là quanh Thành Ngoại, tương truyền có nhiều điếm canh được dựng trên các ụ đất, mà dân Cổ Loa gọi là "ụ hỏa hồi", được coi là nơi trữ rơm, rạ để khi cần thì đốt lửa báo cho trong thành biết là có giặc. Cả ba vòng thành có 72 ụ hỏa hồi. Ụ cao nhất còn lại gọi là "ụ cột cờ" nằm ở phía nam Thành Ngoại. Quanh thành và rải rác trong thành, nhiều nơi còn mang những địa danh tương truyền có từ thời An Dương Vương như gò Đống Bắn, là nơi Cao Lỗ, một tướng tài của An Dương Vương, dạy quan bắn cung.
    Ngoài ra ngành khảo cổ học đã đào được chiếc trống đồng tại gò Mả Tre vào năm 1982 và bộ sưu tập lưỡi cày đồng nổi tiếng thuộc nền văn hóa Đông Sơn cách ngày nay 20 thế kỷ. Hai kho mũi tên đồng gồm hàng vạn chiếc cũng được phát hiện tại đây vào giữa thế kỷ XX. Như vậy thời đó đã đúc được rất nhiều đồ đồng trong đó có mũi tên đồng, phải chăng đây là cốt lõi của chuyện nỏ thần?
    Trong khu vực Thành Nội, nhân dân đã xây dựng một số công trình tưởng niệm An Dương Vương như đền Thượng và điện Ngự triều di quy.
    Theo quan niệm của địa phương, đền Thượng dựng trên một gò hình đầu rồng. Phía dưới có hai hố tròn là mắt rồng. Trước đền có hồ bán nguyệt là mồm rồng. Phía đông của hồ có mô đất là hòn ngọc (rồng ngậm ngọc). Bên trong hồ có "giếng Trọng Thủy" nơi Trọng Thủy đã gieo mình.
    Chưa rõ đền Thượng được xây dựng từ bao giờ, chỉ biết là được sửa chữa lại vào năm 1687, và đến năm 1893 lại được trùng tu lớn.

    Lễ hội Cổ Loa

    Hiện đền Thượng còn giữ được một số di vật: tượng An Dương Vương bằng đồng, đúc năm 1897, hai con ngựa Hồng, ngựa Bạch, các đồ thờ v.v.... Trước cổng đền có hai con rồng đá, thân và râu uốn lượn, phô ra những nét chạm tinh tế, tài nghệ của những người thợ Việt Nam hồi thế kỷ XVII.
    Còn điện Ngự triều di quy được dựng hồi cuối thế kỷ XVIII trên khu đất tương truyền là nơi vua Thục thiết triều. Giữa đình, còn bức cửa võng chạm khá tinh tế, vàng son rực rỡ. Bên trái đình trước có "cây đa nghìn tuổi" tỏa bóng. Sau gốc đa, là cửa tò vò vào am thờ nàng Mỵ Châu. Am thờ có một hòn đá. Chuyện kể: Mỵ Châu chết oan, nên biến thành hòn đá, trôi dạt về đông vòng Thành Trung, dân Cổ Loa thấy hòn đá kỳ dị, bèn rước về thờ.
    Cổ Loa là di tích thành lũy lớn và là di tích một kinh đô cổ đứng hàng thứ hai (sau Phong Châu của nước Văn Lang). Đây cũng là di tích duy nhất về kiến trúc quân sự thời cổ ở nước ta. Cổ Loa vừa là huyền thoại vừa là lịch sử, vừa là một khúc ca bi tráng! Cổ Loa là thành tựu dăm chục năm xây dựng đô thành của An Dương Vương, đồng thời cũng là bài học cảnh giác lớn: chớ có "Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu".
    Một vấn đề cũng nên biết thêm là trong thực tế khi Thục Phán xây dựng Cổ Loa làm quốc đô thì nơi này từng có người cư trú, không phải chỉ mới dăm chục năm hay dăm trăm năm trước đó mà tới nghìn năm hoặc hơn. Khảo cổ học đã khai quật nhiều điểm trong và ngoài khu thành Cổ Loa, đã có kết quả là ở Đồng Vông (phía nam vòng Thành Ngoại), vào nửa đầu thiên niên kỷ II trước CN, đã có cư dân sinh sống, công cụ chủ yếu là thời đồ đá mới và sơ kỳ đồ đồng, thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, cách nay khoảng 40 thế kỷ, tức trước Cổ Loa chừng mười mấy thế kỷ. Rồi đến Xuân Kiều (nằm ngay dưới chân vòng Thành Ngoại là nơi có dân cư thuộc thời đại đồng thau mở đầu giai đoạn văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (cách nay 3000 năm). Như vậy là có một thời tiền Cổ Loa dài tới hai nghìn năm.
    Theo haufo.org.vn


  7. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Cổ Loa bây giờ mới như thế này đây
    Nhà bia
    [​IMG]
    Cổng đền thờ An Dương Vương.
    [​IMG]
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 12:54 ngày 20/08/2006
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 12:56 ngày 20/08/2006
  8. hamburger

    hamburger Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    585
    Đã được thích:
    0
    Lập tour "thành cổ Việt Nam" cũng hay đấy.
    Xin gợi ý tour đầu tiên: Thành cổ Sơn Tây (Hà Tây) - Hà Nội - Ninh Bình
  9. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Cái cổng đó xây thời Nguyễn, cách đây độ 150 năm thôi. Là lối dẫn vào hành cung thành HN từ phía hữu. Em Kienxanh chú thích sai rồi.
  10. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn nh porthos (?) nhiều nhé.
    Kienxanh đã sửa lại rồi.
    Mong nhận được những đóng góp chia xẻ của tất cả.
    @humburger : mình cũng đang lần mò đi theo dấu tích đó!!! Sơn Tây : mình đã đi một lần với D & D và cũng muốn quay lại, lần này sẽ đi 1 lèo 2 vòng quanh thành!!!
    Có lẽ bắt đầu từ giữa tháng 9 nhé!!! (đầu tháng 9 tụi mình đi Hà Giang rồi)

Chia sẻ trang này