1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Cố đô Hoa Lư

    Cố đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam có cách đây gần 10 thế kỷ, thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam.
    Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8 - 10 mét.
    Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành, xã Trường Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê là trung tâm và cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ dựng nước. Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh đã lấy nơi này làm án.
    Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư nhi xã, nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình.
    Thành Nam (thành ở phía Nam, nằm đối diện và nối liền với khu Thành Ngoại) xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ phía Nam kinh thành, bảo vệ mặt sau, từ đây có thể nhanh chóng rút ra ngoài bằng đường thủy.
    Phía Ðông kinh thành có núi Cột cờ - nơi có lá quốc kỳ Ðại Cồ Việt, có ghềnh tháp - nơi vua Ðinh duyệt thủy quân, hang Tiền nơi lưu giữ tài sản quốc gia, động Thiên Tôn - tiền đồn của Hoa Lư và hang nhốt hổ, báo để xử kẻ có tội.
    Ðến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện Bách Thảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu ở phía Ðông, điện Vinh Hoa ở phía Tây, điện Bồng Lai bên tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu Hỏa Vân và điện Trường Xuân, điện Long Lộc được lợp ngói làm bằng bạc.
    Trải qua mưa nắng hơn 10 thế kỷ, các di tích lịch sử ở cố đô Hoa Lư hầu như bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay chỉ còn lại đền vua Ðinh và đền vua Lê được xây dựng vào thế kỷ XVII.
    Ðền vua Ðinh được xây theo kiểu "Nội công ngoại quốc" trên nền cung điện chính thuở xưa, uy nghi với ngọ môn quan, hồ sen, núi Giả, vườn hoa, nghi môn ngoại, nghi môn nội cùng ba toà bái đường, Thiêu hương và hậu cung. Tại bái đường có "Long Sàng" làm bằng đá nguyên khối với đôi nghê đá rất sống động. Tiếp đó là nhà thiêu hương thờ các vị khai quốc công thần. Trong cùng là hậu cung đặt tượng vua Ðinh Tiên Hoàng cùng các con trai ông. Các hình chạm khắc trên đá, trên gỗ với các đề tài rồng, mây, tiên nữ, hoa lá... trang trí tại đền đều khá tinh xảo.
    Ðền vua Lê nằm cách đền vua Ðinh chừng 500 mét thờ vua Lê Ðại Hành. Ðền vua Lê có quy mô nhỏ hơn nhưng có có ba toà: Bái đường, Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng, người đã có công giúp Lê Hoàn lên ngôi; Chính cung - thờ vua Lê Ðại Hành (tức Lê Hoàn) ở giữa, bên phải là Lê Ngoạ Triều (con trai vua Lê), bên trái là Hoàng hậu Dương Vân Nga. Ðền vua Lê còn giữ nhiều dấu tích kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện. Tại đây người ta đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số gốm sứ cổ. Những hiện vật quý này được lưu giữ tại phòng bảo tàng phía trái khu đền.
    Khu di tích Hoa Lư còn có một số ngôi chùa khá đẹp như: chùa Ngân Xuyên (gần chân núi Mã Yên), chùa Nhất Trụ (cách đền vua Lê khoảng 200 mét) thu hút được nhiều du khách đến dâng hương, vãn cảnh.
    Ngoài ra, điều khiến du khách tâm đắc khi thăm khu di tích cố đô Hoa Lư là được gặp những người hướng dẫn rất thú vị. Câu chuyện về triều đại vua Ðinh, vua Lê được họ kể một cách giản dị mà vẫn sâu sắc, đặc biệt trong đó chứa đầy niềm tự hào, thành kính của những người con cố đô với tổ tiên.
    (sưu tầm)
  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Sau khi đi Hà Giang về nhứt định kienxanh sẽ đưa nhà Moi đi Hoa Lư, khám phá khu Tràng An - Trường Yên mới toanh!.
    Ai muốn tham gia thì theo dõi trong topic của nhà MOI nhé! Đường link là đây này:
    http://www4.ttvnol.com/f_233/779823/trang-18.ttvn
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 13:55 ngày 22/08/2006
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 14:05 ngày 22/08/2006
  3. embuon2811

    embuon2811 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2006
    Bài viết:
    1.946
    Đã được thích:
    1
    Chị ơi topic của nhà Moi là topic nào hả chị có phải topic này ko để em theo dõi.
  4. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Thành Nhà Hồ

    Những khối đá xanh khổng lồ đẽo vuông thành sắc cạnh xây khắp bốn mặt tường thành - một hiện tượng chưa hề gặp ở bất cứ một công trình kiến trúc quân sự cổ nào trên đất nước ta - cùng với thời gian hoàn thành công việc xây dựng quá nhanh chóng trong ba tháng trời - đã làm cho tòa thành Nhà Hồ trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với giới nghiên cứu cũng như đối với khách tham quan.
    A. Vị trí địa lý
    Thành được xây dựng trên địa phận động An Tôn thời Trần nên thành mang tên gọi thành An Tôn. Ngày nay, thành nằm trên khu đất giữa bốn thôn Tây Giai, Xuân Giai, Thượng Giai và Đông Môn; trong đó thôn Tây Giai ở ngay cạnh thành, vì vậy thành cũng còn tên gọi là thành Tây Giai.
    Đương thời, để phân biệt với Kinh thành Thăng Long, thành đã được gọi là Tây Đô, Thăng Long được gọi là Đông Đô.
    Tên gọi nôm na nhưng phổ biến trong cả nước là thành Nhà Hồ.
    Hiện nay thành Nhà Hồ thuộc địa phận hai xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) [1].
    Bản thân tòa thành được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, nhưng cảnh quan toàn khu vực thì lại là miền trung du, lắm sông nhiều núi, thế "đất chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non" [2]. Phía bắc có núi Thổ Tượng, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía tây có núi Ngưu Ngọa, phía nam có núi Đốn Sơn.
    Phía nam còn là nơi hội tụ của sông Mã từ phía tây chảy về và sông Bưởng từ phía đông chảy tới.
    Nhìn chung địa thế toàn vùng rất hiểm trở và được bình là "Nên với loạn mà không nên với trị" [3].
  5. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    B. Cấu trúc
    Đời vua Trần Thuận Tông (1396), Hồ Quý Ly với chức Nhập nội phụ chính thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc đại vương, đã thao túng toàn bộ công việc triều đình. Phàm có ra lệnh gì Quý Ly đều xưng là Phụ chính cai giáo hoàng đế. Yý đồ cướp ngôi nhà Trần ngày càng rõ.
    Tháng Giêng năm sau (1397), Quý Ly sai Thượng Thư Bộ Lại kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh đi xem xét đo đạc động An Tôn, Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà miếu, nền xã, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đấy. Ba tháng sau, tòa thành xây dựng xong.
    Tháng tư, Quý Ly đổi trấn Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô. Mưu toan dời đô về Thanh Hóa, cụ thể là về tòa thành mới xây dựng, được tiến thêm một bước.
    Tháng 11, Quý Ly bức vua dời đô đến Thanh Đô.
    Mục đích việc dời đô cốt để cướp ngôi vua, cho nên Hồ Quý Ly không dừng lại ở hành động bức vua bỏ Thăng Long [4].
    Ngày 15 tháng 3, năm Mậu Dần (1398) Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử Âấn, khi đó mới lên 3 tuổi, để đi tu ở cung Bảo Thanh cũng mới xây dựng ở phía tây nam núi Đại Lại.
    Thái tử Âấn lên ngôi ở cung Bảo Thanh và cũng ngày đó lên ngự điện ở kinh đô mới. Thành Nhà Hồ chính thức được coi là kinh đô của đất nước và được gọi là Tây Đô.
    Vì xây dựng với ý đồ thiết lập kinh đô nên thành Tây Đô đã được xây dựng với quy mô to lớn và hết sức kiên cố.
    1. Thành Tây Đô xây dựng một bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt nam và bắc dài hơn 900 mét, hai mặt đông và tây hơn 700 mét [5].
    Bốn mặt tường thành hiện nay đều còn tương đối đủ, phần xây bằng đá xanh bên ngoài và phần tường đất ốp bên trong. Độ cao trung bình từ 5 đến 6 mét. Có nơi coi như ở cửa Nam cao tới 10 mét. Nhìn phía ngoài, ta thấy tường thành như được xây dựng toàn bằng đá nhưng thực ra phần xây đá chỉ là một lớp ốp ngoài, còn thân tường thành chủ yếu vẫn là đất đấp.
    Những khối đá ốp bên ngoài đều là đá xanh, đẽo công phu vuông vức, kích thước phổ biến là dài 1,4 mét, rộng 0,7 mét và dày (cao) 1 mét. Ơở cửa Tây có những khối rất to, có khối dài tới 5,1 mét, có khối dài 4 mét, cao 1,2 mét và rộng 1,2 mét [6].
    Việc sử dụng đá khối để ốp tường này cho phép tạo nên được độ dốc thẳng đứng phía bên ngoài, gây trở ngại đến mức tối đa cho kẻ địch vượt tường tấn công. Những khối đá quá lớn và quá nặng này lại chỉ cần đặt chồng lên nhau không cần tới chất kết dính đã đủ đảm bảo độ vững chắc cao. Thực tế qua gần 600 năm thử thách, về cơ bản, phần đá ốp vẫn còn nguyên vẹn. Đó đây có đôi chỗ sụt lở, nguyên nhân chính lại là do móng lún và do sự phá hoại của con người.
    Tính ưu việt của phần đá ốp còn ở chỗ chồng được mọi sức bắn phá, kể cả súng thần công.
    Cách xây dựng này đã khiến L. Bơdaxiê phải đánh giá rằng: "Chúng tôi thấy cần phải nói rõ rằng ngôi thành này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình".
    Tường thành không phải chỉ được xây dựng bằng đá như đã nói. Việc sử dụng đá khối quá nặng không thể không nảy sinh hiện tượng sụt lở khi làm quá cao. Sự sụt lở thực tế đã xảy ra không ít lần. Do vậy năm Tân tỵ (1401) Hồ Hán Thương đã "hạ lệnh cho các lò nung gạch để dùng vào việc xây thành". Thành Tây Đô đến đây mới xây trên thân bằng gạch, dưới móng bằng đá" [7].
    Phần tường gạch ngày nay gần như đã mất hết. Từ những viên gạch ở các gia đình quanh thành có in chữ có thể biết rằng việc nung gạch cung cấp cho công cuộc xây thành đó rất nhiều nơi đảm nhiệm như "Vinh Ninh", "Hương Nhị xã", "An Tôn Hạ xã" và có cả những viên mang địa danh vùng Hải Hưng và Nghệ An.
    Phần gạch xây bên trên nơi đây có thể có tác dụng ốp ngoài tường đất như phần tường đá bên dưới nhưng cũng có thể là tường bắn xây cao vượt lên trên mặt tường đất để che đỡ cho lính canh đi lại trên tường thành trong khi làm phận sự. Hiện nay không còn biết được rằng trên tường bắn có xây ụ bắn hay không, song cứ theo lẽ chung thì, vào thời Trần, ụ bắn chưa xuất hiện trong kỹ thuật xây thành.
    Công trường đá cung cấp nguyên vật liệu cho thành Tây Đô là ở một dãy núi đá cách phía nam thành chừng vài cây số. Đá được khai thác và đẽo gọt hoàn chỉnh tại đây rồi mới chở về thành.
    Việc chuyên chở những khối đá nặng hàng chục tấn đi xa mấy cây số, trong hoàn cảnh chưa có xe cơ giới hạng nặng, đã là một đề tài được bàn bạc trong nhiều năm của giới nghiên cứu.
    Nhân dân địa phương cho hay "đá có thể chở đi bằng những chiếc "cộ" (loại xe lớn 4 bánh gỗ có sàn xếp hàng hóa) do người hay súc vật kéo. Người ta còn có thể dùng những hòn bi đá cho những khối đá trượt bên trên, người chuyên chở chỉ cần dùng đòn tre hay gỗ bẩy cho đá trượt. Khi đã trượt qua một số hòn, người ta lại đem bi đặt đón lên phía trước cho khối đá tiếp tục trượt qua. Cứ như vậy khối đá nhích dần tới nơi xây dựng. Những hòn bi đá còn tìm thấy quanh thành ngày nay chứng minh sự có thật của phương pháp vận chuyển này.
    Việc xếp những khối đá thành tường đòi hỏi một phương pháp thật tài giỏi, khi mà người thợ chỉ có những phương tiện thô sơ như thừng chão, gậy gộc.
    Người xưa đã kết hợp việc xếp lần đá ốp ngoài với việc đắp tường đất bên trong. Phần tường đất bên trong được đắp thành những con đường có độ dốc thấp. Những khối đá vẫn được chở đi trên cộ hoặc bẩy đi trên bi qua con đường hơi dốc để lên cao, đưa khối đá sau đặt nằm chồng lên lớp đá trước.
    Việc làm tuy giản đơn về mặt lý thuyết như vậy, nhưng thực đã là một công việc nặng nhọc và luôn luôn gây ra tai nạn lao động. Hiện tường dập gãy ngón chân, ngón tay hoặc cả ống chân, cánh tay tất là những hiện tượng xảy ra hàng ngày. Ngay cả tai nạn chết người cũng không ít. Ơở một chỗ tường đá lở, người ta đã chứng kiến một bộ xương người bị đè nát giữa hai khối đá. Người xấu số đã bị đè khi xếp khối đá chồng lên nhau. Đồng đội dù có muốn cứu cũng đành bó tay vì khối đá quá nặng không thể đẩy ra được đành bỏ mặc cho bạn chết bẹp nằm vĩnh viễn giữa những khối đá khổng lồ đáng nguyền rủa đó [8].
    Nếu phía ngoài tường thành là một vách đá thẳng đứng thì phía trong, ngược lại, tường đất đều đắp thoải chân để quân lính lên xuống dễ dàng. Đây cũng chỉ là nguyên tắc đắp tường của bất cứ tòa thành nào.
    Ngoài bốn bức tường thành đá, thành Tây Đô còn có một vòng La thành đặc biệt.
    Tháng 9 năm Ký mão (1359), Quý Ly còn "sai Trần Ninh đốc xuất người phủ Thanh Hóa trồng tre gai ở phía tây thành, phía nam từ Đốn Sơn, phía bắc từ An Tôn thẳng đến cửa Bảo Đàm, phía tây từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang, vây bọc làm La thành; nhân dân ai lấy trộm măng thì xử tử [9].
    Một vòng thành bằng lũy tre gai quả thật rất độc đáo, rất Việt Nam.
    Phía sau (tức phía bắc) tòa thành và cách thành chừng vài cây số, một dãy đồi chạy dài hình thành tuyến phòng ngự thiên nhiên rất tốt. Phía nam và phía đông là cánh đồng. Mặt này trống trải cho nên Hồ Quý Ly đã cho đắp ở phía trước hào độ một cây số, một lũy đất khá lớn chạy suốt cả hai phía mặt thành nối với con sông ở phía nam và hệ thống đổi thiên nhiên phía bắc tạo nên tuyến phòng ngự tiền duyên.
    2. Thành Tây Đô có bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc (cũng có thể gọi là cửa Nam là cửa Tiền, cửa Bắc là cửa Hậu, cửa Đông là cửa Hữu, cửa Tây là cửa Tả). Mỗi cửa đều mở ở chính giữa các mặt thành và đều được xây thành vòm cuốn bằng đá khối, kích thước rất lớn.
    Cả ba cửa Bắc, Đông và Tây đều một vòm cuốn, riêng cửa Nam là cửa chính (cửa Tiền) được xây ba vòm cuốn, vòm giữa to cao, hai vòm bên nhỏ thấp hơn. Ơở các cửa, người xưa đã dùng vôi vữa để xây ghép các khối đá đảm bảo sự vững chắc tuyệt đối.
    Hai cửa Đông và Tây đều xây rộng 5,80 mét, sâu 13,40 mét. Những khối đá rất lớn xây làm vòm cuốn ở hai cổng này chỉ được đẽo gọt phẳng phiu ở ba mặt: mặt dưới tạo vòm cửa, hai mặt bên là những mặt tiếp giáp để ghép vòm. Riêng mặt trên thì không có gia công cho nên trèo lên vòm cửa ta sẽ thấy một khoảng đá ghép nhấp nhô không thành hình dáng gì. Vì mặt trên của vòm cửa Đông và Tây không có xây chòi canh, không phải là đường đi lại như mặt tường thành nên không cần thiết phải tốn sức gia công các khối đá và cũng không gây tổn hại gì cho vẻ mỹ quan của kiến trúc.
    Cửa Bắc rộng 5,80 mét, cao 5,40 mét, sâu 13,70 mét. Cửa này có xây lầu cửa phía trên, do vậy phía trên được lát đá thành một nền phẳng dài 20 mét, rộng 12,70 mét. Những lỗ cột tròn đục sâu xuống nền đá cao hay lầu cửa làm ba gian có hiên bao quanh, phía trong có hàng lan can chạy suốt chiều dài của nền.
    Toàn bộ cửa Bắc (đo phía ngoài) dài 20,20 mét, cao 7,50 mét. Lầu cửa không còn nữa nhưng có thể biết là một kiến trúc gỗ lợp mái ngói. Đáng chú ý là cột lầu không kê trên chân tảng mà được cắm xuống nền đá với độ sâu 0,45 mét. Cách xây dựng này là để chống chọi với gió bão.
    Lầu cửa Bắc tuy là cửa Hậu nhưng cũng là bộ mặt phụ của một quốc đô. Chắc chắn phải được sơn thếp lộng lẫy, trang trí công phu chứ không phải chỉ là một lầu cửa làm đơn giản cốt phục vụ cho việc canh gác trên thành.
    Quy mô lớn hơn cả là cửa Nam. Cửa này rộng 38 mét, cao hơn 10 mét, xây nhô ra ngoài tường thành 4 mét; có 3 vòm cuốn, đều rộng 5,8 mét, hai vòm bên cao 7,80 mét.
    Phía trên cửa Nam cũng là một nền lát đá bằng phẳng vốn là nền cửa lầu cửa. Lầu cửa Nam được xây dựng bằng gỗ lợp ngói như lầu cửa Bắc nhưng to lớn hơn và lộng lẫy hơn.
    Là một lầu cửa chính, không chỉ mang chức năng một lều canh, mà còn là nơi mà nhà vua thường ngự duyệt quân nhưng khi xuất chinh, nơi nhà vua chủ trì nhiều nghi lễ, lầu cửa Nam chắc chắn được xây dựng to, đẹp cho xứng với một kiến trúc bộ mặt của quốc đô. Có thể đoán rằng lầu này phải được xây hai lớp mái trồng diêm, bờ nóc phải có trang trí rồng phượng công phu.
    Về cách xây dựng những vòm cửa có thể giải thích như sau: trước hết người ta đắp đất thành hình vòm cửa, rồi sau đó dùng đá ghép lên trên. Đá ghép vòm được đẽo theo hình múi bưởi. Như vậy đá càng lún càng nêm chặt, dù chỉ xếp mà không cần chất kết dính. Ơở vòm cửa thành Tây Đô, người ta còn cẩn thận hơn là dùng thêm chất kết dính để miết mọi chỗ hở của mạch.
    Phần vòm cuốn lại được xây trên những tường trụ xây hơi nghiêng theo sức nén của vòm, do đó tường trụ cũng rất vững vàng không sợ sụt đổ vì sức nặng của vòm.
    Khi xây xong, người ta moi lõi đất ra, vòm cuốn đồ sộ hình thành.
    Cửa nào cũng được đóng bằng hai cánh gỗ dày nặng, chắc chắn. Dấu vết những lỗ đục vào đá, những lỗ cối lắp ngưỡng cửa mách bảo rằng cửa đã được ghép một khuôn gỗ nặng nề to lớn, ghép bằng những tấm ván rất dày tạo nên một khung cửa hình vuông. Hai cánh cửa khi đóng sẽ áp sát và che kín khung cửa hình vuông đó. Một cửa thành như vậy, có lính gác thường xuyên, thật không dễ dàng đột nhập.
    3. Một con hào vừa rộng, vừa sâu bao quanh cả bốn mặt tường thành phía ngoài. Ngày nay nhiều chỗ đã bị lấp, song đứng trên mặt tường thành còn thấy rất rõ dấu vết của hào ngoài khi trước. Đường qua hào vào thẳng bốn cửa thành đều được xây cống gạch. Hình dáng cống nay còn thấy ở cửa Tây.
    Nếu đo theo dấu vết còn lại hiện nay thì hào rộng tới 50 mét. Đây là một cự ly đáng sợ cho quân địch từ ngoài muốn vượt để tấn công vào thành.
    Nói tới hào ngoài, ta không thể quên hai con sông Mã và sông Bưởi chảy ôm suốt mặt nam, tạo nên một lớp hào thiên nhiên khó vượt.
    4. Những kiến trúc khác trong thành trước hết phải nói tới đường đi lối lại trong và ngoài thành.
    Tháng 3 năm 1042, Hồ Hán Thương "sai sửa chữa đường sá từ thành Tây Đô đến châu Hóa, dọn đường, đặt phố sá và trạm chạy giấy, gọi là đường thiên lý" [10]. Con đường này ngày nay vẫn dùng và trở thành đường ô tô rộng rãi. Đường thiên lý và con đường mà thời bình dùng để vươn tới quản lý cả miền tây rộng lớn, thời chiến nếu nguy nan có thể theo đó mà rút vào cố thủ ở vùng rừng núi hiểm trở.
    Tháng 8 cùng năm, Hán Thương "sai đắp đàn Giao ở Đốn Sơn để làm lễ tế Giao" [11]. Con đường từ cửa Nam ra Đốn Sơn được lát đá phiến to, ngày nay vẫn còn lác đác trên đường. Bên trong thành "đường đi lối ngang, lối dọc đều lát đát hoa" [12].
    Theo sách cũ ta có thể biết được rằng: kiến trúc chính của Tây Đô, nơi nhà vua ngự triều là điện Hoàng Nguyên, nơi Hồ Quý Ly ở là cung Nhân Thọ, Hồ Hán Thương ở một cung bên hữu điện Hoàng Nguyên, vợ Hán Thương ở cung Phù Cực (vốn gọi là Phù Tang). Còn có Đông cung, một kiến trúc bị sét đánh hai lần vào tháng 3 năm 1401 và tháng 6 năm 1403, không rõ là cho ai ở (phải chăng cũng chính là nơi ở của Hán Thương?).
    Năm 1403, Hán Thương cho dựng Đông Thái Miếu để thờ cúng tông phải họ Hồ và Tây Thái Miếu để thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông.
    Ngoài những kiến trúc chính đã ghi vào sử nói trên, tất nhiên trong thành còn phải có những nhà ngục, nhà kho, nhà binh lính v.v...
    Mọi kiến trúc ngày nay đều không còn, nhưng nếu đứng từ cao nhìn xuống thì thấy những bờ ruộng nổi lên rất cân đối. Những bờ ruộng này đều nằm chồng lên những móng tường cũ của các kiến trúc. Dựa vào hình các bờ ruộng cũng có thể hình dung ra phần nào sự phân bố các cung điện, đền miếu thời Tây Đô còn đang thịnh.
    Việc xác định rõ ràng các cung điện trong Tây Đô phải dựa vào khai quật khảo cổ học. Hy vọng rằng trong tương lai khảo cổ học sẽ có thể cung cấp cho ta một bản đồ chính xác và đầy đủ về nội thành Tây Đô hồi thế kỷ XV.
  6. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    C. Giá trị kiến trúc
    Thành Tây Đô đã đóng vai trò quốc đô của nước Đại Ngu trong một thời gian là 7 năm (1400 - 1407).
    Là quốc đô nhưng Tây Đô chỉ nổi rõ vai trò một trung tâm quân sự.
    Từ bỏ Thăng Long, xây dựng vội vàng kinh thành này, Hồ Quý Ly mong đạt mưu đồ lớn nhất là cướp ngôi nhà Trần, lập nghiệp trên một địa bàn mới, tách khỏi vùng ảnh hưởng sâu xa của họ Trần.
    Khi xây dựng kinh đô ở đây, triều thần đã có nhiều người can gián. Nguyễn Nhữ Thuyết đã nói rất đúng: "An Tôn là đất chật hẹp hẻo lánh; cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi".
    Địa thế vùng An Tôn đã hiểm, công trình xây dựng thành Tây Đô lại vững chắc, nào tuyến phòng ngự tiền duyên, nào La Thành, nào hào thiên nhiên, nào hào nhân tạo, nào tường thành xây đá, lớp lớp trùng trùng, có thể nói Tây Đô đáng được coi là một công trình quân sự có giá trị lớn.
    Họ Hồ đã chọn đất hiểm, biết lợi dụng núi sông nơi đó, biết dựng hàng rào La thành nhưng cũng rất kiên cố, biết sử dụng loại vật liệu xây dựng bền vững nhất đương thời là đá xanh.
    Họ Hồ đã kén được những hiệp thợ giỏi, biết đẽo đá khối hình múi bưởi để ghép vòm vừa khít khao, vừa vững chắc, biết chuyên chở những khối đá nặng nề bằng phương pháp "cộ" và "bi", biết kết hợp đắp tường đất bên trong thoai thoải thành đường đưa đá khối lên cao để ghép tường v.v...
    Không bàn gì về những lan can chạm rồng bằng đá, những viên gạch hoa nhiều vẻ lát nền hoặc trang trí v.v... nghĩa là đã lược bỏ phần mỹ thuật trang trí của các kiến trúc trong thành, ta vẫn thấy công trình Tây Đô đã đạt tới đỉnh cao của một công trình kiến trúc quân sự.
    Thời gian thi công được sử chép là ba tháng. Không ai không kinh ngạc trước thời hạn xây dựng quá ngắn ngủi đó đối với một công trình rõ ràng là vô cùng to lớn.
    L. Bơdaxiê đã ước tính rằng số đất đắp tường thành là 80.000 m3 và viết: "Người ta biết rằng người An Nam là những người khổng lồ đào đất" và kết luận: "Chúng tôi kết thúc bằng cách nhất mạnh rằng công trình này là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc An Nam".
    Công trình kiến trúc này đáng được xếp vào một vị trí trang trọng trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.

    (1) Theo địa danh mà L. Bơdaxiê viết vào năm 195 thì: thành thuộc địa phận thôn An Tôn, làng Tây Giai, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
    (2) (3) Đại Việt sử ký toàn thư. T. II, tr. 219.
    (4) Hồ Hữu Phước trên Nghiên cứu Lịch sử, số 3-1961, tr. 43 - 45, đã tỏ ý bênh vực việc Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô: "Vì tính chất chiến lược nên giữ lấy Thanh - Nghệ là một điều hoàn toàn đúng của những nhà quân sự có tài. Dùng Thanh Hóa làm bàn đạp, tiến ra có thể lấy được Thăng Long, lui về có thể giữ được cái thế cầm cự và có đủ thì giờ để chuẩn bị nuôi dưỡng lực lượng. Ơở đây ta cũng thấy rõ cái lỗi lạc của viên tướng Hồ Quý Ly...".
    Hồ Hữu Phước còn so sánh: "Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc của chúng ta cũng đã bỏ Thăng Long mà dời đô về Nghệ An".
    Thực ra thì Hồ Quý Ly xây dựng Tây Đô với suy nghĩ khác. Chủ yếu họ Hồ chỉ muốn đạt mục đích thoán đoạt, rồi để tránh nơi ảnh hưởng của nhà Trần, bảo vệ sự an toàn cho dòng họ mình mà dời kinh đô về nơi "nên với loạn mà không nên trị".
    Hồ Hữu Phước thừa nhận việc dời đô "đứng về mặt nhân tâm mà xét thì quả là một sai lầm lớn". Chính sai lầm mất nhân tâm mà Tây Đô không bảo vệ được triều Hồ. Cha con Hồ Quý Ly cũng không bao giờ làm được việc nuôi dưỡng lực lượng để "tiến ra có thể lấy được Thăng Long nữa".
    (5) Theo L. Bơdaxiê thì thành xây hình vuông, mỗi cạnh 500m, phù hợp với điều ghi trong sách Đại Nam nhất thống chí là 120 trượng (480 mét).
    Chúng tôi sử dụng số liệu điền dã của Chu Quang Trứ, trong Khảo cổ học, số 20 - 1976, tr. 66.
    (6) Theo L. Bơdaxiê thì có khối dài tới 7 mét, cao từ 1 đến 1,5 mét, trọng lượng khoảng 16 tấn.
    (7) (9) (10) (11) Đại Việt sử ký toàn thư, T. II, tr. 232.
    (8) Chẳng phải chỉ có phu phen phải lao động cực nhọc mà ngay cả các quan lại chỉ huy xây dựng cũng bị hành hạ nghiệt ngã. Trên cửa Tây có một vết lõm sâu vào vách đá. Nhân dân truyền tụng rằng có một ông Cống sinh phụ trách nhân công xây cửa thành, vì không chịu thúc ép nhân công xây dựng cho nhanh, đã bị Hồ Quý Ly chôn sống. Vợ ông, nàng Bình Khương không kêu xin cho chồng được tha tội đã uất ức đập đầu vào vách đá mà chết và để lại dấu vết oan nghiệt ấy.
    (12) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1960, T. I, tr. 40.

    (sưu tầm)
  7. kattyko172

    kattyko172 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2005
    Bài viết:
    252
    Đã được thích:
    0
    thấy topic hay, up lên cái.
    viết tiếp đi bạn
  8. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Mình không viết được đâu. Chỉ có thể sưu tầm được gì và muốn chia xẻ với cả nhà thì update lên thôi.
    Cùng chia xẻ nhé
  9. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Độc đáo thành Nhà Hồ
    Thuộc địa phận hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, từ thành phố Thanh Hóa, theo Quốc lộ 45 ngược lên phía Bắc, ngược con đường Thiên Lý xưa kia khoảng 2km là chúng ta đến thành Nhà Hồ. Được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397, đời vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398), thành Nhà Hồ còn có tên gọi khác là thành Tây Đô, hay còn gọi là thành An Tôn và chính thức được coi là kinh đô của đất nước ta thời đó.
    Để đối phó với âm mưu xâm lược đang đe dọa, với cách nhìn của một nhà quân sự, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn - một nơi địa hình vùng núi, thế đất chật hẹp, hẻo lánh để xây thành. Thành được xây dựng ở khoảng giữa hai con sông - sông Mã và sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam còn là nơi hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây về và sông Bưởi chảy tới.
    Thành Nhà Hồ được xây dựng hết sức độc đáo - bên ngoài xây đá, còn bên trong chủ yếu là đắp đất. Được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt Nam và Bắc của thành Nhà Hồ dài hơn 900m, Đông và Tây dài hơn 700m và tường thành bao quanh. Độ cao trung bình của thành Nhà Hồ từ 7 - 8m, có nơi như ở cửa Nam cao tới 10m - một bằng chứng về sức lao động và tài năng khéo léo của nhân dân ta lúc bấy giờ.
    Thành Nhà Hồ được tạo lên bởi những tảng đá xanh đẽo vuông vức, công phu, ít nhất cũng tạo được từ 4 đến 5 mặt phẳng, có tấm rất to ở cửa Tây dài tới 5,1m; rộng 1,59m; cao 1,30m, được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công. Những phiến đá to và nặng như thế được xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ bền vững. Qua 600 năm thử thách, cơ bản phần ốp đá bên ngoài hầu như vẫn còn nguyên vẹn.
    Thành Nhà Hồ có 4 cửa: Đông, Tây , Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài chốt ngang. Ba mặt Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn, vòm giữa xây to và cao hơn hai vòm bên. Thành Nhà Hồ - một công trình kiến trúc vững chắc, thể hiện rõ vai trò một trung tâm quân sự. Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà chỉ được xây trong vòng có 3 tháng.
    Thành Nhà Hồ đã từng được coi là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nước ta. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi 7 năm (1400-1407) dưới triều Hồ, nhưng đây là một kiến trúc độc đáo và thực sự là một di sản quý báu, một biểu hiện kiệt xuất của những công trình thành cổ, đồng thời di tích thành Nhà Hồ còn là một danh lam thắng cảnh, một tụ điểm du lịch đẹp mắt, hấp dẫn khách du lịch tới tham quan.
    (Sưu tầm)
    @all: các bạn có ai rành về nơi này cho mình biết xem nếu đi từ Hà Nội đến thành nhà Hồ thì đi như thế nào? Nếu đi 1 ngày có đủ thờii gian không? Đi 2 ngày thì có thể kết hợp thăm nơi nào ở xứ Thanh nữa. Cho mình biết nhé, mình muốn tổ chức cho Nhóm mình.
    Chân thành cảm ơn
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 11:43 ngày 28/08/2006
  10. smkt

    smkt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2004
    Bài viết:
    6.586
    Đã được thích:
    1
    Em thấy mọi người nói về mặt xếp đá kiến trúc này thực sự đáng khâm phục. Tuy về quy mô của thành nhà Hồ không lớn nhưng việc xếp đá tại các cổng thành hình vòm mà không phải dùng chất liệu kết dính thì rất đáng kinh ngạc vì đến Kim tự tháp thì việc chồng đá cũng chỉ theo phương thẳng đứng, tỳ vai lên nhau....
    Em cũng muốn được đi chị kiến ạ, mà chít dở, cứ chưa hết kế hoạch này đến kế hoạch kia, Bản Giốc chưa khởi hành đã có Hà Giang lên sẵn, HÀ Giang chưa xuất phát đã có Thành nhà Hồ rậm rịch, chít nhá, bẩu sao em cứ vừa cày kéo gom góp được tí nào là hết nhẵn tí ấy, chít dở, chị là ....hông có được nhá
    Được smkt sửa chữa / chuyển vào 11:58 ngày 28/08/2006

Chia sẻ trang này