1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    @casauvn ơi: Nhà MOI tụi mình còn đang say sưa chiến thắng đi Hà giang về nên chưa ai nhớ ra đi Hoa lư .
    Lặng lẽ mình Kienxanh chuẩn bị thôi.
    Khi nào có tin thì sẽ thông báo nhé!
    @ all : bà con đóng góp thông tin cho chúgn tôi với!!! thanks
  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Tiếp tục Kinh thành nhé (Hoa lư chưa kịp đi đâu nhưng có kế hoạc cả rồi. Thông tin cho ngay nay, cho ngày mai và cho muôn đời sau!)
    Thành Đông Kinh

    "Canh Tuất [1430], tháng 6, Đổi Đông Đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh" [1].
    Tên Thăng Long được giữ gần suốt thời Trần tới khi Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô ở Thanh Hóa, Thăng Long được gọi là Đông Đô và suốt gần 20 năm thuộc Minh, Đông Đô được đổi gọi là Đông Quan. Cho tới năm 1430, Lê Thái Tổ chính thức cho đổi gọi là Đông Kinh.
    Đông Kinh là tên gọi chính thức do triều đình ban bố, song cái tên quen thuộc Thăng Long đã đi vào lịch sử vẫn cứ tồn tại suốt thời Lê, nhiều khi còn được sử dụng ngay cả trong các sắc chỉ của triều đình hoặc trong ghi chép của sử quan [2].
    Cũng phải nói thêm rằng thời Lê, ngoài những tên Đông Kinh, Đông Đô, Thăng Long, còn có tên là Trung Đô [3]. Tất cả những tên Đông Kinh, Đông Đô, Trung Đô được đặt ra đều cốt phân biệt với tòa thành Tây Đô mà triều Lê liệt vào hàng đô thành, xây dựng ở Thanh Hóa.
    Cũng như thành Thăng Long thời Lý - Trần, thành Đông Kinh thời Lê chưa được khai quật hoặc thám sát để có thể định rõ vị trí của tường thành. Tuy nhiên, tư liệu về Đông Kinh còn lại nhiều hơn, di tích về Đông Kinh tìm thấy cũng nhiều hơn. Đặc biệt là tấm bản đồ vẽ thời Hồng Đức, nm 1490, trong tập Hồng Đức bản đồ, dù không đảm bảo tỷ lệ, cách vẽ còn thô thiển ước lệ, đã cho biết khá rõ về Đông Kinh thời Lê. Có thề từ tấm bản đồ suy ra rất nhiều điều bổ ích về vị trí, về cấu trúc kinh thành và nhiều cung điện, chùa miếu đương thời [4].
    Khác với Thăng Long thời Lý - Trần, thành Đông Kinh trong quá trình tồn tại đã có nhiều đổi thay vì chiến tranh. Tuy nhiên, về cơ bản vẫn không thay đổi bình đồ kiến trúc, do vậy trong cái phức tạp của lịch sử xây dựng vẫn nổi rõ một nguyên tắc chung của cấu trúc thành Đông Kinh.
    A. La Thành
    Triều Lê vẫn sử dụng, bồi đắp, mở mang vòng tường thành ngoài cùng xây dựng từ thời Bắc thuộc - Đại La Thành -, coi như một bộ phận hữu cơ của cả tòa thành Đông Kinh.
    Sử chép "Đinh Dậu (1477)... Tháng 2 nhuận. Xây thành Đại La" [5]. Thư tịch không cho biết rõ ràng lần xây này có sử dụng gạch đá hay không, phạm vi xây dựng ra sao, nhưng có thể biết rằng đây là công việc gia cố bình thường trong hoàn cảnh đất nước thái bình.
    Bên ngoài vòng thành Đại La, trong thời Lê còn xuất hiện thêm những lần hào lũy khác vào những thời chiến sự xảy ra tại Đông Kinh.
    Năm 1427, hồi tháng 9, Lê Thái Tổ đã "sai các tướng đắp đê Vạn Xuân (tức là đê Thanh Trì) làm lũy. Trước đây người Minh đào cừ nhỏ ở cạnh sông lơứn ngoài thành để chứa thuyền chiến và khí giới, đắp thành phụ để cố giữ, mà đê Vạn Xuân là nơi quân kỵ do thám và người chăn ngựa tất cả đi qua, ở trên cao nhòm xuống tiện lợi, quân giặc cho là kế tốt. Khi quan quân tiến đánh, quân Minh thường đặt mai phục ở đấy để tranh hơn. Vua sai các tướng sang sông, lừa lúc không ngờ, cướp lấy đê đắp làm lũy, chỉ một đêm là xong, chiếm lấy hết" [6]. Như vậy ở mạn Thanh Trì, ngoài thành Đại La đã xuất hiện đoạn thành phụ do quân Minh đắp thêm và đoạn đất lũy trên đê Thanh Trì do quân ta đắp.
    Trogn thời gian vây đánh thành Đông Quan, quân ta đắp thêm nhiều đoạn lũy khác bên ngoài thành để chuẩn bị tấn công. Năm 1427, tháng 11 "Vương Thông tuy xin giảng hòa nhưng vẫn do dự chưa quyết. Các quân ta đắp lũy, Vương Thông sợ, đem hết quân ra đánh. Quan quân đặt mai phục, giả cách chạy. người minh đuổi theo. Quân phục ra sức đánh, phá tan quân giặc. Thông ngã ngựa, suýt nữa bị bắt. Đuổi theo đến cửa Nam Thành, đắp lũy ngoài cửa thành để chặn. Vua lại thân đem các tướng đắp lũy từ phường An Hoa thẩng đến cửa Bắc Thành, chỉ một đêm là xong" [7].
    Hồi chiến tranh Lê - Mạc năm 1588, vào tháng 2, "họ Mạc thấy quan quân một ngày một mạnh, bèn bàn định kế đánh giữ. Hạ lệnh cho binh dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm ba lần lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật Chiêu, vượt qua Tây Hồ, qua Cầu Dừa (Cương mục cho là phường Thịnh Quang) đến Cầu Giền, thấu đến Thanh Trì, giáp phía tây - bắc sông Nhị, cao hơn thành Thăng Long vài trượng, rộng 25 trượng, đào ba lần hào, đều trồng tre dài mấy mươi dặm để bọc lấy thành ngoài" [8].
    Đoạn hào lũy ba lần lớp, lớp có trồng thêm cả tre gai này, vào ngày 15 tháng 6 năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh phá thành Thăng Long, đã "hạ lệnh cho các quân san bằng lũy đất ngoài của thành Đại La dài đến vài nghìn trượng, đẵn hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào hố, hết thảy thành đất bằng, không mấy ngày là xong" [9].
    Những phần công sự làm thêm ngoài thành Đại La kể trên nếu như được điểm thêm vào bình đồ Đông Kinh sẽ làm tăng thêm mức độ phức tạp cho cấu trúc kinh thành, song không làm thay đổi nguyên tắc chung của kỹ thuật xây thành. Thật vậy, tất cả đều là những bộ phận phụ và tạm thời, xây dựng với mục đích ứng phó với tình hình trước mắt. Có bộ phận đã bị thủ tiêu ngay sau một trận đánh. Không thể gọi những đoạn công sự này là vòng thành thứ tư, thứ năm, thứ sáu...của thành Đông Kinh. Cũng như ở Thăng Long thời Lý - Trần, La Thành là vòng thành thứ ba và là vòng thành ngoài cùng của Đông Kinh.
    B. Hoàng Thành
    Vòng thành thứ hai của Đông Kinh được gọi bằng tên Hoàng thành. Tên Hoàng thành cho tới nay mới xuất hiện [10].
    Có đoạn sử chép chung chung "Giáp Ngọ (1434), tháng 10... Sửa chữa tường phía tây kinh thành" [11], hoặc "Canh Thân (1500), tháng 10... Xây tường phía đông" [12].
    Những đoạn ghi chép ngắn ngủi này đều chỉ vòng thành thứ hai của Đông Kinh.
    Lại có đoạn sử chép về thành Thăng Long với hàm ý là những bộ phận của tòa thành xây dựng từ thời Lý, mà vòng Hoàng thành được gọi là "tầng ngoài thành Thăng Long" [13].
    So với Đại La Thành, vòng Hoàng thành của Đông Kinh có nhiều đổi thay hơn do tu bổ, mở rộng, xây thêm thành cao...v.v
    Căn cứ bản vẽ, ta biết Hoàng thành bốn mặt đều được xây bằng đá, duy có đoạn tường từ cửa Đông tới góc đông bắc là xây bằng gạch. Cũng trừ đoạn xây gạch ra thì cả bốn phía tường thành đều có xây tường bắn (chữ Hán gọi là nữ tường) cao lên trên mặt thành. Trên tường bắn còn xây ụ bắn (chữ Hán gọi là nữ đầu). Tường và ụ bắn là bộ phận công sự che đỡ cho quân canh đi lại trên mặt thành khi canh gác cũng như để nấp bắn khi có giặc công thành.
    Riêng mặt bắc là mặt xung yếu, Hoàng thành được xây hai lớp tường song song chạy men theo sông Tô Lịch. Lớp tường trong không có hào ngoài, lớp tường ngoài lấy ngay sông Tô Lịch làm hào ngoài. Sông Tô Lịch còn là hào ngoài của cả mặt tường thành phía tây. Phía nam, thành xây men bờ những hồ nước lớn nên hồ nước cũng giữ luôn vai trò của hào ngoài. Góc đông nam thành không có hào ngoài sát ngay tường thành. Như trên đã nói, mặt này thành xây bằng gạch không có tường bắn và ụ bắn. Cứ theo hình thức mà xét thì mặt này thành xây kém kiên cố nhất. Chắc rằng đây cũng là mặt an toàn hơn. Thật vậy, lỵ sở phủ Phụng Thiên và huyện Thọ Xương được đặt ngay ở phía này không xa Hoàng thành là mấy. Hai lỵ sở này cũng có thể được coi như hai tiền đồn bảo vệ cho mặt đông nam của Hoàng thành.
    Hoàng thành mở ba cửa, cửa Đông, cửa Nam và cửa Bảo Khánh. Cửa Đông và cửa Nam có xây lầu cửa bên trên. Riêng cửa Bảo Khánh thì không.
    Theo phương án phòng thủ thời Lê, Hoàng thành là tuyến phòng thủ chính yếu của Đông Kinh nên đã được bỏ công sức xây dựng kiên cố nhất. Vật liệu kiến trúc là loại bền chắc như gạch, đá. Việc tu bổ cũng tiến hành thường xuyên và kịp thời. Có lần việc gia công tu bổ tiến hành rất qui mô. Năm 1585 "Tháng 4, họ Mạc muốn lại về ở thành Thăng Long, bèn bàn sửa dần thành trì, làm nhiều công việc xây dựng, nung ngói gạch hàng năm mới xong" [14].
    Có khi chỉ vì mục đích bảo vệ an toàn cho sự ăn chơi xa xỉ, vua Lê Trương Dực đã chi phí nhiều sức người sức của để mở rộng Hoàng Thành, đó là năm Giáp Tuất (1514), hồi tháng 5 "Vua đã làm nhiều việc thổ mộc, đắp thành rộng to mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Võ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây bắc chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp Hoàng thành, dưới làm cửa cống, lấy ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến, gạch vuông xây lên, lấy sắt xâu ngang. Lại làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử cởi truồng chèo ở Hồ Tây, vua cùng chơi lấy làm vui thích lắm" [15]. Đoạn thành bao này vì đắp ngang sông, phải chừa lỗ cống thoát nước vì vậy phải tốn thêm động tác rào cống bằng sắt ngăn ngừa kẻ ngoài đột nhập. Công việc đã tốn bao của cải nhưng không hề làm tăng thêm mức độ kiên cố cho vòng Hoàng thành.
    Việc canh gác Hoàng thành cũng được tiến hành rất nghiêm mật. Việc ra vào Hoàng thành và cung cấm từ đại thần, tổng quản, hành khiển cho tới cung nhân đều phải do người canh cửa chuyển tâu, được phép mới được vào. Người vào mà mang theo đồ sắt từ một cái kim trở lên đều phải được phép.
    Việc tuần phòng trong ngoài giao cho chức quan tin cẩn là Nhập Nội tư đồ bình chương sự và Nhập Nội đô đốc bình chương sự [16].
    Các điếm canh không những xây dựng trên mặt thành mà còn ở ngoài các "cửa Hoàng thành". "Viện nhận các huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì), Thượng Phúc, Thanh Oai, Từ Liêm mà trấn giữ cũng là thay phiên nhau giữ các điếm ngoài Hoàng thành, người nào đã có quan chức thì được tha không phải tuyển lính theo như lệ đòi bắt cũ, thay nhau 20 phiên mà giữ điếm ngoài Hoàng thành. Các nho sinh, sinh đồ thì thưởng 5 tư" [17].
    Tóm lại, về các mặt kiến trúc cũng như bố trí phòng vệ, vòng Hoàng thành tỏ ra tường trực tiếp và quan trọng nhất trong hệ thống công sự của kinh thành thời Lê.
    (còn nữa)
  3. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo)
    C. Cung Thành
    Vòng thành trong cùng của thành Đông Kinh được gọi là Cung thành. Sử cũ cho biết năm 1447 đã "có sắc hoãn việc xây dựng Cung thành, vì lẽ nhiều lần có tin mất mùa, giá gạo cao vọt" [18].
    Chúng ta không tìm thấy những ghi chép cụ thể khác nữa về vòng thành này trong sữ cũ. Tư liệu rõ ràng nhất vẫn là tấm bản đồ vẽ thời Hồng Đức năm 1490.
    Cung thành là vòng tường thành nằm lọt giữa vòng Hoàng thành. Cung thành xây theo hình chữ nhật. Bốn mặt đều xây bằng gạch. Nếu kể cả phần hình thướỏc thợ được chú là Đông Cung thì Cung thành có một phần tường phía đông chung với tường Hoàng thành.
    Tường Cung thành xây bằng gạch, trên mặt tường không có tường bắn và ụ bắn.
    Cung thành chỉ mở hai cửa. Đoan Môn là cửa Nam và cũng là cửa Tiền. Đoan Môn xây cao đẹp và có lầu cửa bên trên. Cửa Tây xây ở góc tây bắc trên mặt tường phía tây. Cũng có thể gọi cửa này là cửa Hậu. Cửa này cũng được xây to, đẹp, trên có lầu cửa.
    Ơở hai góc đông nam và tây nam, nói cách khác là ở hai góc của mặt trước cung thành, có xây hai lầu canh trên mặt thành.
    Vòng Cung thành bao bọc những kiến trúc chủ yếu của triều đình như tòa Thị Triều, điện Chí Kính, điện Vạn Thọ... Điện Chí Kính và điện Vạn Thọ còn được xây xây tường bao riêng xung quanh.
    Cung thành không có hào ngoài.
    Dù không có những kích thước cụ thể về tường Cung thành, ta cũng có thể đoán biết được rằng Cung thành thấp hơn, mỏng hơn và kém vững chắc hơn Hoàng thành.
    Cung thành thời Lê cũng chính là Phượng thành thời Trần. Cung thành có thời đã được mở rộng thêm hơn thời trước. Năm 1480 thời Lê Thánh Tông, "tháng 11, đắp rộng thêm Phượng thành, nhân theo quy chế của nhà Lý, nhà Trần. Vua lấy làm răn về việc Nhân Tông bị giết, nên sai quân đắp rộng thêm ra ngoài trường đấu võ, dài rộng 8 dặm, trong 8 tháng mới làm xong. Bèn dựng điện Thạch Thất (Toàn Thư chép là Danh Bảo viện). Lại lập vườn Thượng Uyển. Trong vườn có nuôi hươu và thú vật " [19].
    Về cấu trúc Đông Kinh có thể rút ra được mấy kết luận như sau :
    - Loại bình đồ kiến trúc "tam trùng thành quách", với đầy đủ tính chất của nó phải tới đời Lê, ở nước ta mới xây dựng và điển hình cho loại hình này là Đông Kinh.
    Về tên gọi của ba vòng tường thành của Đông Kinh được đặt (từ ngoài vào trong) là Đại La thành, Hoàng thành, Cung thành (hay Phượng thành). Có thể nói cách gọi tên ba vòng ngoài thành là Kinh thành, Hoàng thành. Từ Cấm thành vẫn còn xa lạ đối với Kinh thành thời Lê.
    - Nếu chỉ xét đơn thuần về mặt công trình kiến trúc quân sự, Đông Kinh dù có ba vòng tường phòng thủ thì cũng còn kém xa Hoa Lư về mức độ hiểm yếu, kiên cố. Tuy nhiên, cấu trúc ba vòng tường bao bọc lẫn nhau trong một tòa thành rõ ràng vẫn là một tiến bộ lớn. Kiểu kiến trúc của Hoa Lư chỉ có thể thi công được ở những vùng núi cao hẻo lánh lại không thể nào đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn cho kinh đô một nước mà nền kinh tế đã phát triển cao. Hoa Lư là một công sự phòng thủ tuyệt đẹp nhưng cũng không thể là một trung tâm quân sự của cả nước chứ chưa nói gì tới trung tâm kinh tế, văn hóa.
    Kinh đô một nước như Việt Nam từ thế kỷ XI không thể không chọn ở một nơi có đủ điều kiện trung tâm kinh tế, văn hóa như địa bàn Thăng Long. Trên đất Thăng Long bằng phẳng giữa vùng châu thổ trù phú đông vui, bình đồ kiến trúc kiểu Hoa Lư sẽ trở thành một công trình quá giản đơn, mong manh, yếu kém; kiểu bình đồ "tam trùng thành quách", kèm thêm với việc lợi dụng sông ngòi tại chỗ để làm hào thiên nhiên, giảm bớt sức thi công, là một đồ án kiến trúc tối ưu.
    Hoàn cảnh địa hình này cho phép người xây dựng có thể dựng những bình đồ vuông vức ở ba vòng tường thành, ít nhất là ở vòng thành trong cùng để đảm bảo tính mỹ thuật của kiến trúc.
    Ơở Đông Kinh chúng ta cũng gặp một vòng Cung thành vuông vức. Ơở đây người xây dựng không hề gặp gì trở ngại cho việc xếp đặt các cửa thành, các cung điện, các đường đi lại... cân đối theo quan niệm thẩm mỹ phương Đông.
    Nhưng phải thấy rằng ở hai vòng Hoàng thành và Đại La thành chúng ta vẫn còn gặp nguyên vẹn cách tận dụng địa hình tự nhiêntrong xây dựng. Không kể Đại La thành vốn là tòa thành được đắp từ trước để lại, vòng Hoàng thành gần như quá nửa do con sông Tô Lịch và mấy chiếc hồ quyết định dáng hình. Người xây dựng đã bám rất sát dòng sông Tô Lịch để xây đắp tường thành.
    Ba cửa thành mở ở mặt đông, đông nam và tây nam cũng nói rõ ý đồ tận dụng thế đất tự nhiên, mở cửa ở ba nơi này đã đảm bảo nguyên vẹn tác dụng bảo vệ của sông Tô Lịch, không một chiếc cầu, dù nhỏ, qua sông để phá vỡ tính hiểm trở của hào ngoài.
    Không một cửa Hoàng thành nào mở thẳng tới Đoan Môn của Cung thành. Địa thế cho phép làm như vậy nhưng người xưa đã không làm. Phần đăng đối, bề thế, quan niệm đối xứng trong kiến trúc có phần nào bị hy sinh, song tác dụng bảo vệ, tính kín đáo và hiểm trở của công trình lại tăng thêm gấp bội. Tính thực dụng của kiến trúc đã bộc lộ rõ nét.
    - Đông Kinh là một kinh thành rất đẹp đương thời. Có thể trích dẫn lời của một nhà buôn người Anh tên là Samiuơn Bêrơn (Samuel Baron) viết vào thế kỷ XVII sau khi đã tới Đông Kinh : "Khi đứng trước ba lớp thành cổ, người ta phải lấy làm ngạc nhiên với những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy xây vững vàng, có những cửa lớn và đẹp lát bằng một thứ cẩm thạch. Cung điện có chu vi độ 6-7 dặm. Cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại cũng đủ biết lâu đài đó trước kia rất đẹp và lộng lẫy". Cũng cần phải nói rằng Samiuơn Bêrơn viết như vậy khi Đông Kinh trước mắt ông ta đã bị tàn phá rất nặng nề.

    (1) Đại Việt sử ký toàn thư, T.III, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 74.
    (2) Đại Việt sử ký toàn thư, T.IV, còn ghi : "Tháng 6 [1586], họ Mạc sắp đặt xa giá dời vào thành Thăng Long ở tại chính điện" (tr. 176); "Tháng giêng [1587], họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long và sửa sang đường phố" (tr. 177).
    (3) Bản đồ vẽ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ gọi Kinh Đô là Trugn Bản đồ vẽ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ gọi Kinh Đô là Trung Đô. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, T.IV chép : "Canh Tý [1600]... Tháng 6, tiễn quân ra phủ Trường Yên. Bắt được mẹ Mậu Hợp ở thành Trung Đô"(Trung Đô tức là Thăng Long. Đ.V.N)
    (4) Về tập Hồng Đức bản đồ đã có người chứng minh rằng không phải là bản chính thời Lê Thánh Tông, từ đó không tin và thậm chí không dùng. Chúng tôi cũng nghĩ rằng đây đúng không phải bản dựng vào thời Lê Thánh Tông mà chỉ là bản sao có thêm thắt của thời sau. Song riêng hình vẽ, dù có thêm thắt chút ít thì về cơ bản vẫn phản ánh đúng tình hình kinh thành thời đó. Hơn nữa, chúng tôi nghiên cứu chung về Đông Kinh thời Lê chứ không chỉ riêng thời Hồng Đức, do vậy, tư liệu này vẫn là một tư liệu quí giá.
    (5) f (19) Đại Việt sử ký toàn thư,

    (sưu tầm)
  4. hamburger

    hamburger Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    23/05/2002
    Bài viết:
    585
    Đã được thích:
    0
    OK cuối tháng này đẹp đấy, tôi đăng kí 1 "mình" nhé
  5. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    @hamburger & all: Dân tình nhà MOI đòi đi = xe 2 bánh bạn ơi! Và nữa, lịch sẽ chuyển vào đầu tháng 10 (07 - 08/10) - đúng vào sau Tết Trung Thu 01 ngày.
  6. smkt

    smkt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2004
    Bài viết:
    6.586
    Đã được thích:
    1
    Hihihi, tại mới hoành tráng HG về mà nên bi giờ bảo đi cái gì quá 2 bánh là bọn chúng kéo cái môi dài lắm, hihihi. Được đấy, sau trung thu mình đi nhá. Mình đi trước khi khu Tràng An hoàn thành thì có lẽ đẹp hơn.
  7. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Hy vọng ngày càng có nhiều cá nhân, tổ chức có những việc làm thiết thực vì một Hà Nội ngàn năm văn hiến như các nhân vật trong bài viết dưới đây
    Hồi sinh thành Thăng Long bằng công nghệ thực tại ảo
    Trên chiếc máy tính, chỉ cần nhấn chuột vài lần là người xem có thể zoom sát lại để ngắm các chi tiết của đền Ngọc Sơn - một di tích lịch sử quan trọng ở Hà Nội, xem các bức tranh khảm trên tường, đồng thời cũng có thể lùi ra xa để quan sát toàn bộ khuôn viên đền.
    Đây chỉ là một ví dụ trong dự án hồi sinh thành Thăng Long bằng công nghệ thực tại ảo, do nhóm chuyên gia công nghệ thông tin ở Hà Nội với 12 thanh niên còn rất trẻ thực hiện. Kỹ sư Nguyễn Văn Trường, thuộc Trung tâm Công nghệ mô phỏng, Học viện Kỹ thuật quân sự, 1 trong 4 ?ohạt nhân? của nhóm cho biết: ?oChúng tôi đã bước đầu xây dựng được Chương trình sử dụng công nghệ thực tại ảo để tái hiện lại hình ảnh của các di tích lịch sử tại Hà Nội. Công nghệ thực tại ảo hiện đang phát triển trên thế giới và đã được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau?.
    Từng chi tiết nhỏ như đồ nội thất, màu sắc và kết cấu của các công trình đều được tạo hình trung thực với lịch sử. Khung cảnh, ánh sáng và âm thanh cũng thay đổi theo vị trí quan sát...
    ?oChương trình mà nhóm nghiên cứu đang nỗ lực xây dựng sẽ giúp cho người xem tương tác với di tích với cảm giác hết sức sống động. Họ không chỉ được cung cấp thông tin về di tích, mà còn có được rất nhiều cảm xúc ?osống thực trong không gian ảo?. Đó là hiệu ứng của công nghệ số, là điều hết sức thú vị cho khách tham quan?, kỹ sư Trường cho biết.
    Tại nhiều nước trong khu vực như Nhật Bản, Thái Lan..., công nghệ thực tại ảo đã đem lại hiệu quả rất lớn trong công tác bảo tồn và phục chế các di sản kiến trúc. Tuy nhiên, với nhóm nghiên cứu trẻ này của VN, hiện tại, do nhiều hạn chế về kiến thức lịch sử, nhân lực, kinh phí... nên nhóm mới chỉ thu thập được những thông tin về hiện trạng chứ chưa có được những thông tin đầy đủ về lịch sử hình thành và tồn tại của các di tích.
    Nguyễn Minh Đức - một thành viên khác của nhóm - kể rằng, để được phép vào khu vực Hoàng Thành Thăng Long đo đạc, chụp ảnh, tập hợp dữ liệu... cho chương trình, họ đã rất vất vả thuyết phục Ban quản lý di tích. Với khu Thành cổ Hà Nội, có lúc cả nhóm đã phải ?ođánh du kích?, ví dụ như giấu một chiếc thang lớn ở quán bia cạnh đó, và phải chờ ?othời điểm thích hợp? để ra tay thì mới có thể đo đạc và nghiên cứu chiếc cổng vòm...
    ?oRất khó cho chúng tôi là còn thiếu hiểu biết sâu sắc về lịch sử. Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác của các nhà sử học?, Đức nói. Ngoài ra, chi phí để làm chương trình cũng khá tốn kém, hiện đã lên tới hàng chục triệu đồng, đó là chưa kể những thiết bị máy móc chuyên dụng rất đắt tiền mà các thành viên của nhóm vẫn đang... sử dụng "ké? ở nơi làm việc.
    Phạm Minh Ngọc, một thành viên nhóm tâm sự: ?oChúng tôi rất mong muốn được tham gia vào việc xây dựng ?obảo tàng số? về các di tích lịch sử cho Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Trước mắt, nếu được ủng hộ, từ nay đến 2010, chắc chắn chúng tôi sẽ xây dựng được kho tư liệu về các di tích lịch sử Hà Nội bằng công nghệ thực tại ảo. Điều này là mong muốn lớn của chúng tôi, cũng để có một đóng góp nhỏ hướng tới dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010".
    Nhóm nghiên cứu hiện rất mong được các cơ quan chức năng của các ngành ở Trung ương và Hà Nội quan tâm xem xét, thẩm định dự án, để giúp họ chính thức ?okhai sinh? cho đứa con tinh thần mà họ đã ấp ủ nhiều tháng nay, cũng là để ?osố hoá? các di tích lịch sử văn hoá quan trọng vào bậc nhất của thủ đô và cả nước.
    Theo Sài Gòn giải phóng
  8. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Và hạn chế những việc như thế này
    Thành cổ Thăng Long trước nguy cơ bị san bằng
    Sau khi một tờ báo ra ngày 31-7 báo động về một đoạn thành Đại La sắp bị "xoá sổ", các nhà khoa học đầu ngành đã lên tiếng. Nếu như những gì mà bản quy hoạch mở rộng đường Hoàng Hoa Thám - Hồ Tây được thực hiện nay mai thì lại thêm một di tích Thăng Long bị xâm hại nghiêm trọng.
    Dấu xưa thành cổ
    Bản đồ cổ nhất nước ta được vẽ vào năm 1490 lưu lại hình ảnh một số công trình kiến trúc Thăng Long nổi tiếng bấy giờ. Qua hơn 500 năm, nhiều di tích đã bị mai một như tháp Báo Thiên, Vương phủ của chúa Trịnh. May mắn thay, một ít di tích vẫn còn cho đến tận ngày nay, trong đó có một đoạn thành ngoài, còn gọi là thành Đại La che chắn phía bắc cho kinh đô Thăng Long và lại là di tích cổ nhất trong nhóm di tích thể hiện trên bản đồ.
    Khi đó, kể cả khu phố cũ mà chúng ta đang ra sức bảo tồn cũng còn chưa có mặt. Riêng chuyện đoạn thành lưu dấu trong bản đồ cổ cũng đã xứng đáng được bảo tồn vĩnh viễn. Đoạn thành đó được các nhà sử học xác định chính là đoạn phố Hoàng Hoa Thám hiện nay. Vẫn có được độ cao so với mặt đất hai bên, mặt thành thì nay đã được trải nhựa thành phố xá. Dáng con phố cũng tựa hình cánh chim bay như dáng thành ngày xưa vẽ trên bản đồ.
    Thực ra lịch sử đoạn thành này còn có trước thời Hồng Đức nhà Lê khá lâu. Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, thành có tên là thành Đại La. Đến thời Trần và Lê, vai trò đoạn thành này ngoài bảo vệ Thăng Long còn mang thêm một chức năng là con đê ngăn lũ cho kinh đô. Dưới chế độ mới, thành được đổi tên là phố Hoàng Hoa Thám. Vậy là, thành có một bề dày lịch sử liên tục, ít ra hơn 1.200 năm.
    Chính nằm gọn dưới nền đường phố Hoàng Hoa Thám nên dường như cốt thành không bị phá hoại, hứa hẹn nhiều khám phá khảo cổ học trong lòng thành. Theo như sử sách ghi lại thì đây là thành đất, nhiều đoạn lại được gia cố thêm gạch ngói, khảo cứu trong tương lai có thể biết được nhiều biến động lịch sử, kỹ thuật đắp thành thời xưa...
    Chính vì thành là một di tích gắn liền với lịch sử ngàn năm Thăng Long nên trong quy hoạch tổng thể thành Thăng Long, các nhà khoa học đều đánh giá cao vai trò bảo tồn của vòng thành ngoài này, nhất là trong dịp kỷ niệm Thăng Long chẵn một ngàn năm sắp đến gần và cụm di tích các vòng thành Thăng Long trên mặt đất và vừa được khai quật dưới lòng đất đang được UNESCO xem xét để xếp hạng di sản thế giới.
    Nguy cơ thành bị san phẳng

    Theo thông báo của Ban quản lý Dự án giao thông đô thị thuộc Sở Giao thông Công chính Hà Nội số 796 BQL ký ngày 24 tháng 6 năm 2006 kèm theo bản vẽ quy hoạch thì khi xây dựng tuyến đường Hoàng Hoa Thám - Hồ Tây, một đoạn khá dài phố Hoàng Hoa Thám - tức thành cổ sẽ bị san phẳng không còn dấu vết, trùm lên đó là một phố mới có chiều rộng khoảng hơn 50 mét.
    Liệu có nên "hy sinh" thành cổ trong lúc vẫn còn có thể có những cách mở rộng đường giao thông khang trang hơn mà vẫn không chạm đến di tích, như xây một con đường mới song song chẳng hạn? Hài hoà giữa lợi ích của ngành giao thông và bảo vệ di tích không phải là việc không thể làm được.
    May mà bản quy hoạch chưa triển khai và vẫn còn nằm trên giấy, còn cơ may điều chỉnh. Đừng bao giờ để lịch sử lặp lại chuyện phá thành, nếu như chúng ta nhớ lại vào cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp đã phá đi cả một toà thành Thăng Long, chỉ còn giữ lại một đoạn Cửa Bắc lỗ chỗ vết đạn đại bác. Kinh nghiệm của Trung Quốc, một lý do nào đó mà thành cổ ở thủ đô Bắc Kinh bị huỷ hoại, gần đây nước bạn lại phải tốn tiền xây dựng phục chế 24km tường thành, chứng tỏ họ quý giá từng đoạn thành cổ.
    Đoạn thành cổ - phố Hoàng Hoa Thám nên được bảo tồn vĩnh viễn. Thật tiếc là các nhà làm quy hoạch chưa tham khảo ý kiến của các nhà khoa học và văn hoá trước khi bắt tay xây dựng quy hoạch. Sự lãng phí thời gian và cả tiền của qua chuyện xây dựng quy hoạch một tuyến đường cụ thể này âu cũng cần được rút kinh nghiệm.
    Theo Lao Động
  9. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Thành Nhà Mạc

    1. Tình hình chiến tranh thời mạc và việc xây dựng thành của quân Mạc
    Năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu thắng thế, phế truất triều Lê, lập ra triều Mạc. Tuy thắng thế nhưng họ Mạc cũng chỉ là một tập đoàn phong kiến quân phiệt, vì lợi ích của dòng họ mà cướp quyền trị nước. Chính vì vậy họ Mạc vừa mới nắm quyền, các phe phái phong kiến đối lập đã nổi lên khắp nơi. Cuối cùng Nguyễn Kim tập hợp được lực lượng, chiếm lĩnh vùng Thanh - Nghệ; mang danh nghĩa "triều Lê Trung hưng", lập chính quyền chống lại nhà Mạc.
    Nhà Mạc nắm quyền vùng Bắc Bộ, đóng đô tại Đông Kinh gọi là Bắc triều. Họ Trịnh nắm quyền từ Thanh Hóa trở vào gọi là Nam triều.
    Trong những năm Bắc triều đóng đô tại Đông Kinh, quân Mạc đã phải chống đỡ với những thế lực chống đối khắp nơi. Từ khi mất Đông Kinh năm 1592, thế lực tuy yếu nhiều, họ Mạc vẫn chiếm cứ nhiều nơi, tiếp tục chống lại họ Trịnh trong một thời gian. Thời gian này quân Mạc cùng xây dựng nhiều thành lũy tại các tỉnh phía bắc.
    Cuối cùng họ Mạc rút lên cố thủ ở Cao Bằng, cũng vẫn xây thành đắp lũy, thiết lập triều đình, và xưng niên hiệu.
    Từ ngày bắt đầu cho tới khi mất hẳn, họ Mạc đã có 10 đời vua với 150 năm thống trị. Do chính sách đối nội *********, chính sách đối ngoại đầu hàng (dâng một phần đất nước cho nhà Minh để mong được kẻ thù che chở) đã làm cho nhân dân oán ghét. Sự sống còn của triều đình Mạc phải dựa vào quân đội và quân đội trong chiến đấu lại phải dựa vào sự che chở của công sự.
    Những lẽ trên xui nên việc xây dựng rầt nhiều công sự phòng thủ, và nhiều đến nỗi tên gọi "Thành nhà Mạc" được nhân dân các địa phương gán cho hầu hết những di tích thành cổ trong vùng.
    Về kỹ thuật xây dựng, những tòa thành nhà Mạc không có gì đặc biệt so với những tòa thành khác đương thời. Một điểm nổi bật là hầu như tất cả mọi tòa thành đều nhỏ, giản đơn và đơn thuần mang tính chất một công trình quân sự.

  10. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    2. Thành Xích Thổ
    a. Vị trí địa lý
    Thôn Một, xã Xích Thổ, huyện Hoành Bồ (Quảng Ninh) ngày nay, vốn có tên nôm là làng Thành. Không ai còn hiểu "Làng Thành" là gì, nếu không biết tới một di tích thành cổ khá lớn, xây dựng vững chắc ngay trên đất làng này.
    Vịnh Cửa Lục mênh mông nhưng kín đáo, có dáng như một cái túi lớn mà miệng túi chính là Cửa Lục. Bên này Bãi Cháy, bên kia Hồng Gai khép miệng túi lại, chắn sóng gió bên ngoài làm cho vịnh yên lặng, an toàn trong bất cứ hoàn cảnh sóng xô biển động nào.
    Đứng ở Cửa Lục nhìn qua vịnh về phía bên kia bờ là đồi núi chập chùng, thuộc đất huyện Hoành Bồ. vịnh không những là cứ điểm an toàn của binh thuyền, mà còn là nơi án ngữ cho cả vùng căn cứ địa Hoành Bồ hiểm trở.
    Thành cổ Xích Thổ được xây dựng ngay sát bên bờ vịnh phía Hoành Bồ, đối diện với Cửa Lục.
    Sách Đại Nam nhất thống chí chép : "Thành cổ ... ở xã Xích Thổ, huyện Hoành Bồ, đắp bằng đất, bốn mặt đều 25 trượng, cao 1 trượng 1 thước, sâu 2 trượng ... Có thuyết nói do nhà Mạc đắp"
    Nhân dân địa phương cũng kể rằng đây là thành nhà Mạc với nhiều điều thêu dệt hấp dẫn.
    Những hiện vật khảo cổ tìm thấy trong thành như gạch vồ kích thước 27x28x14cm, gạch in hoa nổi hình vuông mỗi cạnh 60cm, những mảnh bát đĩa sứ trang trí men màu xanh chàm và vô số những mảnh lon sành, hũ sành các cỡ, đều mang đặc điểm của các di vật thời Lê - Mạc, chứng minh rằng niên đại và chủ nhân của tòa thành đúng như điều sách đã chép và nhân dân truyền tụng.
    b. Cấu trúc
    Về cơ bản, thành hình tứ diện, song do phải thuận với địa hình tự nhiên nên mặt đông bắc và tây nam phải làm đôi đoạn gấp khúc, làm cho bình đồ có dạng không quy chỉnh. Tường thành bốn mặt nói chung được đắp bằng đất cao từ 3 đến 4 mét. Mặt tường thành rộng từ 4 đến 5 mét. Chân thành rộng từ 10 đến 12 mét.
    Mặt ngoài tường thành đều được xây kè đá, có dùng vôi vữa làm chất kết dính. Đá xây kè là đá tảng đánh từ các núi đá vôi gần đó, hoặc là những hòn cuội có sẵn, khá nhiều ở ven vịnh. Đá cuội thường to bằng cái mũ hoặc lớn hơn. Nhiều hòn hãy còn giữ được từng mảng vỏ hà bám chắc bên ngoài, chứng tỏ đá được lấy từ bờ vịnh nước mặc ngay gần đó. Nhìn chung toàn bộ tòa thành có thế dốc ra từ phía bờ vịnh. Tường thành góc đông là đoạn cao nhất, ở nơi định gò. Từ đây tường thành theo dốc núi xuống thấp dần cho tới góc nam thì được đắp ngay trên mặt bãi cát biển. Tường thành mặt tây nam hoàn toàn đắp trên bãi cát ven vịnh.
    Tương tự như mặt đối diện đông nam, tường thành mặt tây bắc cũng chạy từ góc tây lên góc bắc theo thế dốc của sườn đồi. Từ góc bắc tường thành chạy lên đỉnh cao nhất của gò. Nơi đây có một vòng thành nhỏ đắp làm chuồng nhốt voi. Đoạn tường đông bắc từ chuồng voi tới góc đông võng từ hai đầu xuống giữa, đoạn này là đoạn nối ngang hai ngọn đồi cao.
    Toàn bộ vòng tường có chu vi khá rộng là 1.220 mét, trung bình mỗi mặt tường dài khoảng 300 mét (kích thước chép trong Đại Nam nhất thống chí không đúng : 25 trượng = 100 mét).
    Thành mở năm cửa : cửa Nam, cửa Đông, cửa Chuồng Voi, cửa Bắc và cửa Tây.
    Cửa Nam là cửa chính (cửa Tiền) của thành. Từ cửa này nhìn thẳng ra vịnh chiếu đúng tới Cửa Lục phía xa. Cửa được xây dựng theo kiểu thành bao (chữ Hán gọi là ủng thành), nhưng ở đây ta gặp một cửa thành bao khác. Đoạn thành bao vốn thường được xây vòng ra ngoài thì ở đây, ngược lại, lại xây lùi vào phía trong. Tường của thành không lệ thuộc vào hướng của tường thành mặt tây nam này, mà đắp theo đúng hướng nam. Chính vì vậy tường thành chỗ này, trong tổng thể của cả tòa thành, nom tựa như một bộ phận không quy cách, tùy tiện. Đoạn tường cửa vào trong thành là đoạn đắp dày nhất. Thực chất đây là hai nền đất vuông, mội cạnh 15 mét. Trên đó xưa kia có làm hai lầu cửa (cũng có thể chỉ là một lầu vắt ngang qua cả hai bên). Cửa vào chỉ mở rộng 1,5 mét. Cửa ra ngoài không mở thẳng với cửa vào mà mở ở nách bên phải, rộng 2 mét. Làm theo cách này cửa thành như được che chắn bằng một bình phong kín đáo. Khi có sự, quân địch không thể xông thẳng được vào trong thành.
    Tường thành ở khu vực cửa Nam được xây kè đá rất vững chắc, có thể nói là vững chắc nhất trong toàn bộ vòng thành.
    Cửa Đông mở đúng vào chỗ vòng thấp nhất của mặt tường đông bắc. Đây là khe giữa hai quả đồi. Cửa rộng 2,5 mét. Từ cửa này ra, theo đường khe núi đi vào làng Xích Thổ. Đường vào làng Xích Thổ chắc chắn vẫn là con đường đi cũ từ trước khi xây thành. Cũng có thể nói đây là con đường rút lui của căn cứ quân sự này. Vậy có thể coi cửa Đông như cửa Hậu của tòa thành.
    Chuồng Voi có cửa vào thành và cửa ra ngoài. Chỗ này tường đắp thành một vòng lồi hẳn ra ngoài và hơi lồi vào phía trong, tạo nên một vòng tường gần tròn. Lòng của vòng tường là một hình bán nguyệt, đáy thẳng đo được 15 mét. Chính giữa đường đáy mở một cửa thành rộng 2 mét. Chếch về phía đông của vòng ngoài, mở một cửa ra, rộng 3,5 mét. Có thể nghĩ rằng cửa vào nhỏ chỉ vì để người đi, còn cửa ra mở rộng vì để cho voi có thể ra vào dễ dàng. Tất cả vòng tường Chuồng voi đều được làm rất kiên cố, tường dày hơn nơi khác và kè đá cả trong ngoài.
    Cửa Bắc ở ngay cạnh góc bắc rộng 1,5 mét. Ra khỏi cửa, không có lối qua hào mà phải men đường chân thành đi tới tận góc bắc mới có một chỗ không đào hào để làm lối qua. Xây dựng theo cách này làm tăng thêm mức độ hiểm trở cho công sự, và có thể coi như một hình thức sáng tạo của kỹ thuật kiến trúc.
    Cửa Tây cũng vậy, ở góc tây của tường thành. Không có lối qua hào để vào thẳng mà phải men theo chân thành từ góc tây, đi một quãng mới vào được cửa. Cửa rộng 2 mét được làm qui mô hơn các cửa Đông và cửa Bắc, lối đi lát đá phiến, bậc lên xuống cũng lát bằng đá tảng lớn.
    Cả một vùng bên ngoài thành từ góc nam vòng qua góc tây tới góc bắc, bãi cát bằng phẳng, sườn núi thoai thoải là mặt yếu của địa thế. Chính bởi lẽ đó mà cửa Nam, cửa Tây và cửa Bắc đều được bố trí hiểm trở hơn.
    Chỉ có hai lần canh đặt ở góc tây và góc bắc của tường thành. ở những góc này người ta đã đắp tường thành dày thêm vào phíc trong, tạo thành nền đất vuông, cao ngang với mặt tường thành, có kè đá trong ngoài vững chắc. Trên nền đất này xưa kia chắc có làm lầu canh bằng nguyên vật liệu nhẹ như tre, gỗ, lợp tranh hoặc cũng có thể lợp ngói.
    Như đã nói ở phần cửa thành, mặt bắc, tây và nam là mặt yếu và cũng là mặt trước của tòa thành, người xây dựng đã đặc biệt chú ý gia cố cho những nơi này. Ngoài việc xây dựng các cửa ra vào vừa vững chắc, vừa hiểm trở còn được bố trí tăng cường hai chòi canh để bảo đảm sự an toàn cho căn cứ.
    Bốn mặt ngoài đều có hào, đào cách chân thành khoảng từ 10 mét trở lên, rộng khoảng 9 mét. Nơi sâu nhất hiện nay còn đo được 2,5 mét. Bốn mặt không đào thông nhau hoàn toàn. Ơở cửa Đông chừa một lối đi qua hào để vào làng, rộng tương đương với cửa thành, hai bên kè đá chống lở.
    Quanh tường Chuồng Voi, hào ngoài chỉ đào cách chân thành 3 mét và cũng chừa một lối đi rộng 3,5 mét, hai bên kè đá. Ơở góc bắc cũng chừa một lối ra cho cửa Bắc.
    Mặt tây nam rộng nhất, đào cách chân thành 12 mét, rộng 12 mét. Hiện nay chỉ còn sâu chừng 3,3 mét. Đoạn này có tên gọi là "Tấm Chạy Tàu" xưa kia rất sâu ăn thông với vịnh. Thuyền bè có thể ra vào tới cửa Nam. Từ đoạn hào này có thể nghĩ rằng tòa thành Xích Thổ có quan hệ mật thiết với vịnh Cửa Lục, với bộ phận binh thuyền đóng trong vịnh, là vị trí tiền tiêu bảo vệ vùng hậu phương Hoành Bồ rộng lớn.
    c) Giá trị kiến trúc của tòa thành
    Trên một địa hình đồi núi gồ ghề, người xưa đã khéo lựa theo thế đất tự nhiên nối các đỉnh gò cao làm tường thành, lợi dụng khe núi để mở cửa, đào ngòi thông với vịnh để vừa làm hào ngoài vừa làm đường giao thông. Việc tận dụng và uốn nắn địa hình tự nhiên như vậy quả thật là tài giỏi.
    Do lợi dụng tốt địa hình nên tòa thành có thể đẹp và vững chãi phía ngoài tường cao hào sâu nhưng phía trong nhiều chỗ gần như đất bằng. Như vậy quân sĩ trong thành đi lại trên mặt thành thuận lợi, đã tạo được một "thế nhà" cho quân sĩ.
    Xây dựng tòa thành, người xưa đã tính toán chu đáo, phân biệt mặt mạnh mặt yếu. Ơở mặt yếu có tăng cường công sự, gia cố thân tường, tạo thêm mức độ quanh co hiểm trở.
    Vị trí tòa thành được cắm tại đây lại là điều đáng nghiên cứu. Vịnh Cửa Lục là địa bàn rất tốt của thủy quân. Giữ được vịnh cũng tức là giữ được cả một vùng Yên Quảng mênh mông phía sau. Thành Xích Thổ chính là một công sự tiền tiêu quan trọng. Thành Xích Thổ là một căn cứ lớn. Diện tích thành rộng chứng tỏ quân đóng ở đây đông. Di tích Chuồng Voi cũng chứng minh đơn vị đóng quân ở đây lớn. Một đơn vị có được trang bị voi chiến tất phải là đơn vị nhỏ, bình thường. Những di tích gạch hoa chứng minh sự có mặt của một kiến trúc sang trọng trong thành. Cũng có thể từ đây mà đoán rằng người chỉ huy đơn vị đóng trong thành tất có quan tước không thấp.
    Thành nhà Mạc dễ gặp ở nhiều nơi, song tòa thành nhà Mạc xây dựng được như thành Xích Thổ không nhiều. Có thể coi thành Xích Thổ như một tòa thành điển hình về mặt kỹ thuật kiến trúc của quân đội nhà Mạc.
    Có ai quê ở đây hay biết về Thành Xích Thổ cho mình hỏi thăm hiện nay di tích nay thực tế còn những gì??? Mình cảm ơn nhiều
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 10:53 ngày 20/09/2006

Chia sẻ trang này