1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    3. Thành Cẩm Phả
    a) ở quãng cây số 4 đường quốc lộ số 18 từ thị xã Cẩm Phả đi về Hồng Gai, có một di tích thành cổ mà lâu nay nhân dân quen gọi là "Thành nhà Mạc". Để phân biệt với những tòa thành nhà Mạc khác, người ta gọi cụ thể hơn là "Thành nhà Mạc Cẩm Phả". Từ tên này người ta gọi tắt là "Thành Cẩm Phả".
    Hồi thuộc Pháp, thành này là bãi rác của thị xã Cẩm Phả. Cây cối mọc um tùm che lấp hết tường thành. Cỏ tranh mọc rậm rạp phủ kín khắp lòng thành. Năm 1964, Nhà máy cơ khí Cẩm Phả chọn khu vực này để xây dựng. Nhà máy đã san gạt mặt bằng dựng một số nhà cửa tạm thời để ở và làm kho. Một phần lớn tường thành mặt bắc và mặt tây đã bị san bằng. Mặt tường phía nam bị cắt đứt nhiều đoạn làm đường đi ra biển. Ngày 15-1-1967, một số công nhân thu dọn quanh nhà kho đã đào chạm phải một số hiện vật bằng vàng, đá quý, bạc, trang sức, tiền v.v... Đáng lưu ý là hiện vật bằng vàng hình tròn, nặng 5 lạng 5 đồng cân 2, có đúc bốn chữ "Đoan Khánh bảo giám", khoảng năm 1505 - 1509.
    Những hiện vật sành sứ trong lòng thành như bát cao chân tráng men trắng đục, trang trí văn cánh sen xoáy ruột ốc màu chàm đen, những lon sành, hũ sành các cỡ, gạch vồ v.v... chỉ định một niên đại rõ ràng thời Lê - Mạc về sau.
    Tư liệu thư tịch cũng có những điều ghi chép về di tích này.
    Sách Đại Nam nhất thống chí có hai đoạn chép:
    1. "Thành cổ... một ở núi Thủ Cung, xã Cẩm Phả, châu Tiên Yên. Xây bằng đá, bốn mặt đều 50 trượng, cao 1 thước, không có hào. Có thuyết nói... do nhà Mạc đắp".
    2. "Bảo Cẩm Phả: ở cách châu Tiên Yên 61 dặm về phía tây nam, bảo này sát núi, liền biển, có 30 lính, 1 suất đội". Điều ghi chép "sát núi, liền biển" phù hợp với vị trí của di tích giới thiệu ở đây song thật quá giản đơn.

    Tóm lại, về thư tịch, hiện vật cũng như vị trí di tích đều thống nhất cho phép ta yên tâm rằng thành cổ Cẩm Phả đúng là một sản phẩm của quân đội nhà Mạc.
    Thành Cẩm Phả là một tòa thành khá lớn, hình chữ nhật. Chiều dài đo được 366 mét, chiều rộng 260 mét. Thành xây dựng rất vuông vức, đúng hướng bắc nam (tường dài theo hướng tây đông, tường ngắn theo hướng bắc nam). Tường thành phía bắc sát núi và phía nam liền biển.
    Đường quốc lộ số 18 chạy xuyên suốt giữa thành theo chiều dài. Tòa thành xây dựng trên một mặt phẳng, hơi dốc nghiêng về phía biển. ở vị trí này thành đã án ngữ con đường ven biển đi từ Quảng Yên lên phía bắc. Con đường cổ có thể chính là con đường số 18 hiện nay, nếu không thì cũng chạy song song với đường số 18 gần đó, vì xa một chút về phía bắc đã là núi cao và xa một chút về phía nam lại đã là biển sâu.
    b) Cả bốn mặt tường thành đều đắp bằng đất. Tường thành có từng chỗ rộng hẹp hơn nhau chút ít nhưng nói chung có kích thước như sau: mặt thành rộng 3 mét, chân thành rộng 10 mét, tường thành cao 2,5 mét. Khắp bốn mặt tường không có hỏa hồi, cũng không có chòi canh gác.
    Riêng phía nam, ở chính giữa, tường thành có mở một cửa rộng 4 mét. Cửa làm rất giản đơn, chỉ là một rãnh cắt ngang từ mặt thành tới chân thành. Hai bên vách dùng gạch vồ xây ốp chống lở. Lối đi lát đá cuội. Điều đáng chú ý là lối đi lại thấp hơn đường chân thành. Từ cửa thành, một con đường thẳng đi xuyên qua hào ngoài, ở quãng hào ngoài không làm cống thông nước. Tường mặt đông và mặt tây không mở cửa.
    Tường mặt bắc đã bị san bằng hết, không thể quan sát được, song căn cứ vào hình dáng và quy mô cửa thành, có thể nghĩ thành mở hai cửa Nam và Bắc (đều ở chính giữa tường thành). Cửa Nam (nhìn xuống biển) là cửa Tiền, bởi vì địa thế phía nam rộng rãi và còn là hướng ra biển và từ biển vào.
    Địa thế phía bắc chật hẹp sát núi cao. Cửa Bắc nên là cửa Hậu.
    Cả bốn phía ngoài tường thành đều có hào ngoài bao quanh. Căn cứ dấu vết còn lại thì đường chân thành rộng hẹp khác nhau, chiều rộng và chiều sâu của hào ngoài cũng không cùng kích thước. Ơở điểm 1 nơi nhà máy cắt ngang, đường chân thành rộng 19 mét, hào rộng 7 mét và sâu 1 mét. Ơở điểm 2 quãng góc đông nam, đường chân thành rộng 16 mét, hào rộng 4 mét, sâu 2,5 mét. Ơở điểm 3 đường chân thành chỉ rộng 4 mét, hào rộng tới 10 mét và sâu 1 mét. Suốt mặt phía tây, đường chân thành rộng 16 mét, hào rộng 7 mét, sâu 0,5 mét. Rất khó giải thích hiện tượng không thống nhất về kích thước hào ngoài, bởi vì địa thế xung quanh còn dư thừa để có thể đào theo một hình vuông vắn.
    Nhìn chung về mặt cấu trúc, thành Cẩm Phả chỉ là một công trình quân sự bình thường, không hiểm trở và kiên cố lắm, dù rằng có quy mô tương đối rộng.
    Xét chung địa thế toàn vùng, nếu có một lực lượng quân đội mạnh ở công trình này có thể chặn được đường tiến của địch từ phía nam lên, cũng tức là từ nội địa ra. Công trình trở thành một tiền đồn bảo vệ cho cả vùng Đông Bắc rộng lớn của đất nước

    (Sưu tầm)
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 12:28 ngày 18/09/2006
  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Về thành nhà Mạc, mình thấy báo chí nói rất nhiều rằng ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao bằng, Hải Phòng... còn lưu dấu:
    Thành nhà Mạc ở Tuyên Quang thì còn thế này :
    Thành nhà Mạc có nguy cơ bị ?oxoá sổ?
    Thành nhà Mạc nằm ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Theo sử sách ghi lại thành được xây vào năm 1592 đời nhà Mạc, va? được sư?a chưfa va?o thơ?i đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19).
    Thành được xây theo kiểu hình vuông, mỗi cạnh dài 275m, cao 3,5m và dày 0,8m; mỗi mặt thành có một cửa hình bán nguyệt với kiến trúc theo lối phòng thủ quân sự.
    Tòa thành tồn tại khá nguyên dạng cho đến cuối thế kỷ 20 và đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Tuy nhiên, gần đây, thành bị hư hỏng nặng nề và có nguy cơ bị ?oxóa sổ?.
    Hiện nay chỉ còn 2 cổng thành phía Bắc và phía Tây là khá nguyện vẹn, 2 cổng kia đã mất. Đoạn thành còn lại duy nhất nằm trên góc đường Bình Thuận và đường Cống Lấp với một bề còn chưa đến 100m.
    Còn lại đã bị đổ nát hoặc bị người dân phá hết. Mỗi đoạn thành đổ xuống, ngay lập tức người dân dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ để làm nhà hay là dựng quán bán hàng hóa, trông rất tạm bợ, nhếch nhác.
    Cổng thành phía Bắc nằm chơ vơ, trở thành tâm điểm của vòng xoay giao thông. Cổng thành phía Tây lại trơ trụi giữa khu trung tâm của cái chợ nhỏ có tên Tam Cờ. Vì vậy, dù đã có biển ?oCấm họp chợ?, nhiều người vẫn tụ tập ngay sát cổng này để buôn bán.
    Trong lòng chiếc cổng thành đó, dù đã có biển ?oCấm xâm phạm di tích? nhưng đã trở thành nơi để xe đạp, đồ đạc của những người buôn bán và trở thành một ?ocửa hàng? sửa xe đạp?
    Không hiểu thành nhà Mạc sẽ tồn tại được bao lâu nữa?
  3. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Ở Hải Phòng có vẻ triển vọng hơn???
    Phát hiện kinh đô cổ bị chôn vùi 500 năm!
    Tháng 10 vừa qua, trong đợt khai quật 450m2 đất thuộc địa phận thôn Cổ Trai (xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng), các chuyên gia Viện Bảo tàng Lịch sử VN và Sở VH-TT Hải Phòng đã lần đầu tiên tìm thấy dấu tích nền móng và gia cố trụ của cung điện Dương Kinh, kinh đô thứ hai (sau Thăng Long) thời nhà Mạc - từng tồn tại cách đây khoảng 500 năm!
    Còn một kinh đô thực sự thời Mạc
    Làng Cổ Trai xưa (thế kỷ XV, XVI) có vị trí khá bằng phẳng, gần biển, gần sông nên rất thuận tiện giao thương đường thủy. Trước mặt làng có sông Đa Độ bắt nguồn từ cửa sông Văn Úc, xuôi về Thăng Long.
    Tương truyền, tại bến đò của làng này có quán hàng nước của thân mẫu Mạc Đăng Dung (vị vua mở đầu triều Mạc). Bà sống hiền lành, cơ chỉ và không ham của cải, nên một thầy địa lý giỏi đã trả ơn bằng cách đặt mộ cha Mạc Đăng Dung ở Gò Gạo, là đất đế nghiệp... Đến khi Mạc Đăng Dung lên cầm quyền đã xây dựng Dương Kinh, kinh đô thứ hai, tại quê nhà Cổ Trai.
    Các nguồn thư tịch và văn bia cổ đều miêu tả về một Dương Kinh khá sầm uất.
    Sách Đại Việt thông sử đã ghi tên một số cung điện ở Dương Kinh như điện Hưng Quốc, Phúc Huy, Tường Quang...
    Và, không chỉ đơn thuần là nơi ở của một dòng họ, quê hương của một vương triều, nhà Mạc còn mở trường Quốc học song song với Quốc Tử Giám ở Thăng Long, xây dựng một số thương cảng trên bến, dưới thuyền, làm nơi giao lưu hàng hóa như phố Lỗ Minh Thị, An Quý, Do Nha.
    Điều này khác với cung điện Tức Mặc (Nam Định) thời Trần hay Lam Kinh (Thanh Hóa) thời Lê sơ. Khu Tức Mặc cũng bao gồm khá nhiều cung điện, chùa chiền nhưng chủ yếu là nơi để các vị vương tôn nhà Trần nghỉ ngơi. Còn Lam Kinh thì hoàn toàn là nơi đặt lăng tẩm, điện miếu thờ tự. Trong khi đó, Dương Kinh vừa có cả cung điện, lăng tẩm lẫn chùa chiền... lại vừa mang tính chất là "đô thị ven biển xứ Đông" đầu tiên trong lịch sử VN! Tuy nhiên, năm 1592, sau khi đánh bại nhà Mạc, Trịnh Tùng đã đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai, phá hủy bia đá ở mộ, chặt hết cây trồng trong lăng.
    Khá nhiều điểm tương đồng với khu Hoàng thành!
    Các nguồn thư tịch và văn bia cổ đều miêu tả về một Dương Kinh khá sầm uất với một số cung điện ở Dương Kinh như điện Hưng Quốc, Phúc Huy, Tường Quang... Nhà Mạc còn mở trường Quốc học ở đây song song với Quốc Tử Giám ở Thăng Long.
    Trên thực địa, tuy mới chỉ là đợt "đào" đầu tiên và diện khai quật không lớn, thế nhưng chín hố khai quật tại các địa điểm Gò Chữ Công, Gò Gạo, Gò Thiệu (địa phận thôn Cổ Trai), đã xuất lộ dấu vết trụ, nền móng kiến trúc các điện Tường Quang, Hưng Quốc cùng nhiều thanh đá khổng lồ với diện tích 200m2 (từng được dùng làm vật liệu xây dựng) và một khối lượng hiện vật hết sức phong phú, rộng lớn, bao gồm: gạch vồ, ngói, đồ gốm trang trí phượng, rồng, sóng nước, hoa cúc...
    Theo đoán định của ông Nguyễn Ngọc Chất (phụ trách đoàn khai quật), dấu vết gia cố móng trụ ở đây có khá nhiều điểm tương đồng với kiến trúc khu Hoàng thành! Có nhiều khả năng các cung điện Dương Kinh được xây hình chữ Công(I).
    Theo tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Văn Sơn, Dương Kinh chắc chắn đã có một quần thể kiến trúc rộng lớn mà vết tích trải dài trên một diện tích rộng hàng vạn mét vuông. Các kiến trúc đó hẳn là rất to lớn và trang trí đẹp. Ngoài một số vật liệu đá, các cung điện ở Dương Kinh đều thống nhất một loại gạch duy nhất là gạch vồ.
    Điểm độc đáo của kiến trúc kinh đô này là hoàn toàn không có dấu vết thành quách, rào lũy hay hào nước. Mà thay vì đắp thành, nhà Mạc đã... đắp đê! Vết tích phòng thủ duy nhất là đồn binh ở Gò Chữ Công, quy mô rất đơn sơ.
    Hiểu rõ hơn về thời Mạc - "thời đại loạn"!
    Khu vực Dương Kinh và vùng phụ cận còn lưu lại được dấu vết của kiến trúc thời Mạc. Các chùa Mạc được biết đến trước đây phần lớn đều không còn nguyên vẹn, trái lại, ở Dương Kinh, chùa Phúc Linh vẫn giữ được những thành bậc đá kích thước lớn, trang trí cầu kỳ, bố cục tương tự các thành bậc ở điện Lam Kinh và điện Kính Thiên thời Lê sơ: giữa chạm rồng, hai bên chạm mây lá... Điêu khắc đá thời Mạc ở Dương Kinh có nhiều đề tài chưa tìm thấy ở các nơi khác cùng thời như tượng nghê đồng, tượng Quan âm tọa sơn, Quan Âm Nam Hải và Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, bộ tượng Tam Thế. Nhiều pho tượng, nhiều tấm bia còn ghi rõ tên của các nghệ nhân tạo tác!
    Thời của Mạc Đăng Dung (thế kỷ XV, XVI) được coi là "thời đại loạn". Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn: "Từ khối hiện vật khảo cổ ở Dương Kinh, có thể thấy thời Mạc đã có một nền kinh tế khá ổn định, buôn bán phát triển, tư tưởng phóng khoáng và có những tiến bộ so với thời Lê sơ. Do vậy, quần thể di tích này cần phải được bảo tồn".
    Tuy nhiên, ngoại trừ khu vực 450m2 khảo cổ, Cổ Trai ngày nay đã xóa mờ vết tích về một kinh đô trước biển. Tất cả đã bị bao phủ bởi làng mạc và đồng lúa trải mênh mông. Khu vực Gò Gạo, nơi phát hiện dấu vết điện Hưng Quốc - địa điểm thiết triều của Mạc Đăng Dung, hiện đã bị che lấp một phần bởi trường tiểu học xã Ngũ Đoan.
    Theo Thể thao và Văn hóa
  4. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Chương trình tháng 10 / 2006
    Phương tiện: xe máy
    07 Oct 2006 : Hanoi - Hoa Lu
    06h : xuất phát.
    07h15 : ăn sáng ở Phủ Lý (bánh cuốn)
    09h : Cố đô Hoa Lư (Tràng An + Lăng vua Đinh, Vua Lê)
    12h30 : ăn trưa ở Văn Lâm (Tam Cốc)
    14h00 : tham quan quanh đó
    (chi tiết - bí mật )
    ngủ tại Ninh Bình.
    08 Oct 2006 : Ninh bình - Thanh Hóa - Hà Nội
    06h : khởi hành.
    08h : đến thành phố Thanh Hoá - ăn sáng.
    09h khởi hành đi Thành nhà Hồ
    11h : rời thành nhà Hồ đi Suối cá thần. (bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ ).
    12h15 : tới nơi, ăn trưa và chơi tại đó.
    15h00 : rời Thanh Hoá về Hà Nội
    19h00 : về đến HN
    Kết thúc chương trình.
    Welcome bà con tham gia nào!!!!!!!!
    Chi tiết hơn nữa xin xem l ại Topic của Nhà MOI theo đường link sau:
    http://www2.ttvnol.com/forum/f_233/779823/trang-31.ttvn
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 11:19 ngày 22/09/2006
  5. casauvn

    casauvn Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/08/2005
    Bài viết:
    754
    Đã được thích:
    0
    Chương trình hấp dẫn quá chị ạ. Tiếc là em chẳng biết gì để đóng góp ý kiến gì cả Đành đi theo bám càng chương trình của chị vậy, chị cho em đăng kí 1 suất đi nhé, mỗi tội chưa chắc lắm vì em ko chắc có rủ được bạn đi cùng để ngồi sau ko , mà tự đi xe máy thì ko đủ khả năng rồi
  6. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Chương trình cuối tháng của nhóm mình đã chuyển sang tháng 10 rồi (07- 08/10). Bạn vẫn tham gia chứ??? nếu có thì có thể pm cho mình số tel & email được ko?
    Vào nhà MOI bàn chuyện về chuyến đi này nhé:
    http://www2.ttvnol.com/forum/f_233/779823/trang-32.ttvn
    MÀ cho hỏi nhỏ 1 chút: cái chữ "mình" (trong ngoặc kép nó có ý nghĩa gì vậy???)
  7. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Trong chuyến đi tới, chúng ta sẽ đến cả Lam Kinh nữa.
    Một chút thông tin nhé:

    LAM KINH
    Lam Kinh ngày xưa
    Từ thành phố Thanh Hóa, theo tỉnh lộ 15A đi về hướng Tây 51km, ta sẽ gặp chiếc "nôi vàng". Ðó là Lam Kinh, nơi bắt đầu của thời kỳ hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, nốt nhạc đầu tiên của bản anh hùng ca đánh đuổi giặc Minh, thu giang sơn về một mối.
    Lam Kinh nằm trên đất huyện Thọ Xuân, một huyện đã sinh cho dân tộc hai đời Lê (Tiền Lê, Hậu Lê) - vùng đất mà cách đây gần một ngàn năm cụ tổ của Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi thấy chim bay về đậu quây quần thành bầy, quyết định san đất dựng nhà.
    Bạn đã được thưởng thức hương vị cay cay ngọt ngọt của chè lam Phủ Quảng, một loại bánh làm bằng bột gạo nếp, mật mía, trộn lẫn lạc và gừng? Bạn đã được nếm cái dẻo quạnh, đen nhanh nhánh của bánh gai Tứ Trụ, cái béo ngậy, giòn thơm của cá rô Ðầm Sét rán vàng? Những sản phẩm nổi tiếng đó bạn sẽ gặp khi về Lam Kinh.
    Sử tích về Lam Kinh
    Ở xứ Thanh người ta không nói "đến" Lam Kinh mà thường nói "về" Lam Kinh. Về nhà, về với khu di tích lịch sử, về với nơi khởi nguồn của những chiến tích hào hùng. Khác hẳn với những danh thắng khác, chuyến du lịch của ta chộn rộn nhịp điệu cuộc sống đương đại. Về Lam Kinh, ta bỗng thấy tĩnh tâm, thư thái. Năm tháng như lùi lại. Hiện lên trong ta khung cảnh Hội thề Lũng Nhai. Một đêm năm Bính Thân (1416) 18 người con của đất nước hừng hực ý chí đứng trước đống lửa ngùn ngụt cháy, thề đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Cái màu xanh vô tận của núi rừng, xanh ngắt của sông Chu, xanh âm u của rêu phong thềm gạch đưa ta ngược dòng thời gian. Lam Kinh là đây: Chiếc "nôi vàng" của những sự tích ngọc. Chuyện về một nhà sư già mách Lê Lợi táng linh xa vào mảnh đất hình quốc ấn. Thế đất xoáy ốc, trước mặt có núi Chiêu làm hương án, tả có núi Rồng chầu về, hữu có núi Hồ chầu lại, tay phải Hồ Thuỷ, tay trái Long Sơn liên kết như chuỗi hạt châu phát ngôi Thiên tử. Chuyện về cây gươm thần do Lê Thận, người dân chài lưới trên sông dâng tặng, 10 năm theo Lê Lợi tung hoành trận mạc, để rồi sau khi đất nước thanh bình trả lại Rùa vàng làm nên sự tích Hồ Hoàn Kiếm giữa lòng thủ đô. Chuyện về lá rau cải in hình quả Quốc ấn, người vợ Lê Lợi làm vườn bắt được quả ấn vàng có chữ Lê Lợi đề trên lưng ấn. Chuyện về cô gái áo trắng chết nằm bên sông hóa hồ ly đánh lạc hướng kéo đàn chó ngao cùng lũ giặc Minh chạy ra khỏi nơi Lê Lợi đang ẩn nấp, cứu nhà vua một phen thoát hiểm. Chuyện về Lê Lai, lãnh tụ thứ hai của nghĩa quân, một trong số mười tám người ở Hội thề Lũng Nhai, đổi áo bào, nhận cái chết về mình, liều mình cứu chúa. Ðây là bia Vĩnh Lăng. Nhà bia vút cong mái ngói. Những cột gỗ thẳng tắp, nghiêm trang như những người chiến binh cổ đứng gác để dòng văn do ngôi sao Khuê - Nguyễn Trãi biên soạn chảy mãi vào hậu thế. Cây đa già phơ phất chòm râu và đồi Lim xào xạc kia cứ rủ bóng thời gian xuống những lăng tẩm, đền miếu, cứ điểm rơi kiên nhẫn từng chiếc lá tạo nên cung đàn trong chiều u tịch. Hàng tượng đá, voi đá, ngựa đá đứng đó trầm mặc với thế cuộc, trầm mặc với tuế nguyệt, khắc hoạ lại cho ta những mùa xuân thanh bình từ Ðông Ðô vua quan xe lọng tưng bừng trở về Lam Kinh bái yết lăng miếu.
    Lam Kinh với những biến cố thăng trầm
    Ðược xây dựng từ năm 1433, Lam Kinh trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Bị hỏa hoạn, bị đập phá. Những thềm gạch rêu phong lặng lẽ, những chân cột đá trắng mòn mưa nắng gợi cho ta man mác nổi niềm "Tạo hóa gây chi cuộc hí trường". Nơi đây có Vĩnh Lăng, Hựu Lăng, Mục Lăng cất giữ hình hài xương thịt của Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Nơi yên tĩnh vĩnh hằng của cha con, ông cháu Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi. Ðâu rồi "Lối xưa xe ngựa"? Ðâu rồi những văn bia chứa đựng dòng văn cổ lóng lánh của các sĩ phu nổi tiếng? Về Lam Kinh, sự nghiệp hưng đế 360 năm của thời hậu Lê như được thời gian chầm chậm quay lại. Ta từng biết Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghĩa dựng nên cơ đồ 300 năm nhà Hán (Trung Quốc). Về đây giữa chiếc "nôi vàng" ta tự hào có Lê Lợi vung gươm khởi nghĩa quét sạch giặc Minh ra khỏi non sông gấm vóc, dựng nên một triều đại cường thịnh nhất trong lịch sử dân tộc. Từ trận ra quân đầu tiên đánh "Mã Kỳ" đến trận hãm thành Ðông Quan. Từ Lạc Thủy (Thanh Hóa) tới núi Mã Yên (Lạng Sơn), từ mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) đến mùa xuân năm Mậu Thân (1428) là bản hùng ca bất tử. Gió từ sông Chu vẫn thổi về khúc ca ấy. Cây cối Lam Kinh vẫn ngày đêm rì rầm hát về khúc ca ấy.
    Lam Kinh ngày nay
    Hàng năm vào dịp tháng 8 âm lịch, lễ hội Lam Kinh lại bắt đầu. Ngày giỗ của Lê Lợi (22/8/1433) được cử hành trọng thể. Tiếng cồng chiêng âm vang rừng núi. Các điệu múa dân gian: Múa Xéc bùa, múa đèn Ðông Anh, múa rồng uyển chuyển bay lượn. Các trò chơi: Ném còn, dựng cây nêu, hát trò Xuân Phả náo nức lòng người.
    Còn hôm nay Lam Kinh vẫn xanh ngắt, hòa xanh với các bãi bồi theo dọc sông Chu. Dòng sông vẫn cuồn cuộn ngày đêm đem nước nguồn xuôi về phía biển. Chiều trung du xứ Thanh vẫn ráng đỏ Lam Kinh. Ta ra về mà tiếng cồng chiêng, tiếng quân reo trận mạc vẫn chưa dứt. Son sắt bài văn thề Lũng Nhai. Sang sảng một Bình Ngô Ðại Cáo. Có điều gì xao xuyến trong ta. Có cái gì níu lại chân ta khiến ta cứ phải quay lại ngắm nhìn. Ðó là Lam Kinh chiếc "nôi vàng" của tất cả chúng ta.
    (TCDL)
  8. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0

    Chào cả nhà,
    Hôm qua, nhà MOI đã off và có chút thay đổi về chương trình:
    07/10/2006 : Hànội - Cẩm Thuỷ (suối Cá Thần) - Vĩnh Lộc (Thành Nhà Hồ) - Lam Sơn (khu di tích Lam Kinh) - Sầm Sơn
    06h00 : Khởi hành theo đuờng mòn Hồ Chí Minh.
    07h30 - 08h00 : sẽ dừng lại ăn sáng.
    10h: tới Suối Cá Thần
    ăn và chơi ở đó.
    13h00 : lên đường đi Thành Nhà Hồ.
    14h00 - 14h30 : tới nơi + tham quan.
    14h30 : tiếp tục đi Lam Kinh.
    16h00 - 17h00 : tham quan Lam Kinh.
    17h00 : về Sầm Sơn.
    ăn - ngủ - nghỉ tại đây nhá.
    08/10/2006 : Sầm Sơn - Phát Diệm (Nhà thờ Đá) - Hoa Lư (Thung Nắng + Tràng An) - Hà Nội
    06h30 : khởi hành đi Phát Diệm qua đường Nga Sơn
    08h30 - 09h30 : tới nơi + tham quan nhà thờ đá Phát Diệm.
    10h00 - 13h00 : về Văn Lâm, tham quan Thung Nắng + khu du lịch sinh thái + ăn trưa.
    13h30 : sang Tràng An.
    16h30 : về Hà Nội nhé.
    Bạn nào muốn tham gia với nhóm mình, nhóm mình xin được đón chào. Mong các bạn nhiệt tình và qua bên link của nhà MOI nhé.
    http://www2.ttvnol.com/forum/f_233/779823/trang-34.ttvn[/b]
  9. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Dear all,
    Như các bạn đã biết và có thể chưa biết , ngày 07 -08/10/2006 (Thứ bảy và chủ nhật tới) nhóm tụi mình sẽ tổ chức chuyến đi đầu tiên trong chủ đề tour về "Các Thành Trì và Kinh Thành ở Việt Nam". Chuyến đi đầu tiên này chúng mình sẽ đến 3 nơi chủ yếu là : Thành Nhà Hồ , Lam Kinh và Cố đô Hoa Lư.
    Vậy nếu cácc bạn có quan tâm hoặc muốn tham gia thì đến OFFLINE với nhóm mình nhé (Hiện tại đã có 14 thành viên rồi).
    Thời gian : 19h00 ngày 05/10/2006 (Thứ Năm chăm hơn thứ Sáu)
    Địa điểm: Quán cafe Trung Nguyên - 59 Trần Hưng Đạo.
    Thân mến,
  10. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0

    Hội cờ lau
    Trường Yên hay Hoa Lư là tên gọi để chỉ khu vực có kinh đô của hai triều đình: Đại Đinh (968-979) và Tiền Lê (980-1009) nay là xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Khu di tích nằm cách Hà Nội gần 100km về phía Nam, tại đây còn có hai ngôi đền lớn thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành cùng nhiều kiến trúc, di vật văn hóa thuộc về hai triều đại đó. Trước đây, các triều đại phong kiến Việt Nam, hàng năm có tổ chức đại lễ tại hai ngôi đền thờ Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Nhân dân trong vùng mở hội Xuân tại khu vực từ ngày 9 đến 11 tháng 3 Âm lịch. Hội tổ chức nhiều trò vui như: thổi cơm thi, leo núi viếng cảnh, thi bơi chải... Nhưng truyền thống và hấp dẫn nhất là diễn lại tích "Cờ lau tập trận" và vì vậy hội Trường Yên trước đây được gọi là hội Cờ Lau.
    Truyền thuyết kể lại rằng, Đinh Bộ Lĩnh sinh ra ở làng Đại Hoàng, tên cũ là sách Đào Uúc. Từ nhỏ, cậu bé đã phải đi ở chăn trân cho ông chú ruột là Đinh Thúc Dự ở làng Uy Viễn - nay thuộc xã Gia Hưng, huyện Hoàng Long tức là sách Bông thuở xa xưa. Ngay trong những ngày chăn trâu này, Đinh Bộ Lĩnh tụ tập trẻ mục đồng bẻ bông lau làm cờ tập trận. Cậu bé nhanh chóng chiếm lĩnh được lòng tin của chúng bạn. Khi được bạn bè tôn làm "chủ tướng", cậu liền tổ chức một lễ khao quân mà vật hiến lễ chính là con trâu của ông Thúc Dự do Đinh Bộ Lĩnh chăn dắt hàng ngày. Cuộc lễ khá long trọng, độc đáo và cậu bé đã dựng nên được một "triều đình" ngay tại khu vực có hang Cát Đùn, mô phỏng theo triều đình của Ngô Quyền ở Cổ Loa, cũng áo mão và cờ xí toàn bằng... bông lau và cây cỏ hoa rừng.
    Câu chuyện giết trâu bị lộ. Ông chú tức giận vác đao đuổi đánh Đinh Bộ Lĩnh, cậu bé đành phải tìm vào núi Trường Yên trốn tránh, nhưng bị dòng sông chắn ngang, không qua sông được, cậu bé bèn gọi anh Rồng, là người chèo đò ngay bến ấy. Anh chèo đò không ra, kịp lúc Thúc Dự đuổi đến, cậu bé hoảng sợ, nhưng đúng lúc sóng cuộn dâng, một con rồng nổi lên đưa Đinh Bộ Lĩnh sang sông. Thấy vậy, Thúc Dự kinh hoàng, cắm dao xuống, lạy như tế sao. Con sông ngày ấy sau được gọi là sông Hoàng Long.
    Hội Cờ Lau Trường Yên hàng năm tổ chức theo sự tích cờ lau tập trận như nêu trên. Tham gia cuộc rước trong hội cờ lau gồm toàn những em trai từ 14 đến 16 tuổi, mạnh khỏe, trong đó chọn một em đóng làm Đinh Bộ Lĩnh. Tất cả ăn mặc như mục đồng: đầu chít khăn đỏ, ngang lưng thắt lụa xanh, chân quấn xà cạp nâu, tay cầm cờ lau. Thoạt đầu, tất cả tập trung tại Trường Yên, rước Đinh Bộ Lĩnh bằng kiệu tay qua sông Hoàng Long đến làng Uy Viễn. Hội tại làng Uy Viễn khá nhộn nhịp. Theo nhịp trống và điệu cờ, đoàn quân cờ lau múa quanh kiệu của Đinh Bộ Lĩnh, những động tác đội ngũ dân quân tập trận, khi tiến, khi lui, khi sang ngang, khi dừng lại...
    Tương truyền: đây đều là những động tác mà Đinh Bộ Lĩnh đã chỉ huy đạo quân cờ lau thuở ấy. Sau một buổi sáng ở làng Uy Viễn, cuộc rước đưa Đinh Bộ Lĩnh trở về Trường Yên. Tại đây trình diễn những trò chơi truyền thống của hội. Cuộc diễn cờ lau tập trận trong hội Trường Yên, mấy năm gần đây được cấu trúc lại khác hơn, chừng 100 em trai chia làm hai phe, Đinh Bộ Lĩnh mặc hoàng bào (áo vua), có 3 con trâu đan bằng tre, dán giấy màu, to bằng trâu thật... trình diễn lại với nhiều chi tiết trong truyền thuyết.
    Một trong những đặc điểm tiến bộ của hội lễ là không có lễ bái và các hoạt động mê tín khác. Các trò vui văn hóa của hội có trò thổi cơm thi. Cơm được thổi bằng thân cây lau; người dự thi được cấp cho nồi gạo, nhưng phải tìm thấy cây lau tươi làm củi, không được dùng hoa lau khô để mồi lửa mà tiện thân lau thành từng khẩu như khẩu mía, nhai lấy bã thổi cơm.
    Ngoài hai ngôi đền lịch sử thờ Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành được giới thiệu kỹ lưỡng, du khách còn được hướng dẫn thăm nhiều di tích có giá trị như: chùa Nhất Trụ - ngôi chùa tạo dựng từ triều đại Đinh, nơi còn lưu giữ lại cột Kinh Phật khắc bằng chữ Phạn (chữ nhà Phật); dấu vết kinh thành Hoa Lư có bóng dáng của hai vòng thành, các cửa thành với những địa danh quen thuộc như: cầu Dền, cầu Muống, cầu Đông... như ở Thăng Long và khu lăng Đinh Tiên Hoàng, lăng Lê Đại Hành.
    (Phạm Vĩnh)

Chia sẻ trang này